Ảnh hưởng của lối sống dân cư thuộc lưu vực tới sông Đồng Nai và việc đảm bảo phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm phía Nam

Kết luận Sông Ðồng Nai có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn sống của hơn 17 triệu dân, trong đó có vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhưng hiện đã và đang bị hủy hoại nghiêm trọng. Việc bảo vệ an toàn, lành mạnh cho sông ồng Nai là hết sức quan trọng và cấp bách. ể thực hiện tốt việc đảm bảo an toàn dòng ồng Nai cần sớm thống nhất được một cơ chế phối hợp giữa các tỉnh, thành phố trên toàn lưu vực, khắc phục ngay tình trạng vì lợi ích cục bộ của mỗi địa phương, bất chấp thiệt hại về lợi ích của các địa phương khác. Tiếp cận vấn đề từ góc độ lối sống dân cư thuộc lưu vực sông sẽ cho ta thấy rõ cơ sở khoa học của vấn đề đặt ra. Bởi lẽ, lối sống lành mạnh của dân cư, được thực hành bởi dân cư, là tiền đề cho phát triển bền vững. Cũng chính lối sống của dân cư làm xuất hiện thư ng xuyên sự thiếu lành mạnh, cần được nghiên cứu và điều chỉnh mới đảm bảo phát triển bền vững. Với sông ồng Nai, giải pháp có tính cơ bản, bền vững nhất hiện nay chính là cần tập trung giữ vững và từng bước gia tăng diện tích rừng phòng hộ ở lưu vực thượng nguồn. ây là những vấn đề rất khó tìm được tiếng nói chung, nhất là với cư dân các tỉnh lưu vực thượng nguồn. Nhưng để đảm bảo phát triển bền vững toàn vùng, thì nhất thiết phải làm và càng làm sớm sẽ càng giảm bớt được những hậu quả, cả trước mắt và lâu dài./.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 222 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của lối sống dân cư thuộc lưu vực tới sông Đồng Nai và việc đảm bảo phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 24 (49) - Thaùng 01/2017 13 Ảnh hưởng của lối sống dân cư thuộc lưu vực tới sông Đồng Nai và việc đảm bảo phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Impact of human living in headwater basin to the Dong Nai River and the sustainable development of the Southern key economic zone PGS.TS. Bùi Trung Hưng Trư ng ại học Thủ Dầu Một Bui Trung Hung, Assoc.Prof., Ph.D. Thu Dau Mot University Tóm tắt Sông ồng Nai có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng rất đáng kể đến đ i sống, các hoạt động sống và sự phát triển của cả vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Hiện trạng việc quản lý, khai thác lưu vực sông này đang đặt ra nhiều vấn đề rất cấp bách, rất cần nghiên cứu và điều chỉnh kịp th i. Những tác động của con ngư i vào lưu lượng, chất lượng nước, những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trư ng sinh thái của dòng sông. v.v., là những vấn đề lớn cần bàn đến. Việc nghiên cứu lối sống và đ i sống của dân cư thuộc thượng nguồn lưu vực sông ồng Nai là một hướng giúp ta có một góc nhìn cơ bản, từ đó tìm ra các giải pháp khắc phục những tác động xấu, đảm bảo sức sống lành mạnh và bền vững của bản thân dòng sông, qua đó góp phần tích cực vào việc đảm bảo tăng trưởng xanh và bền vững cho khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam trong tương lai. Từ khóa: sông Đồng Nai, lối sống, tăng trưởng xanh, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Abstract The Dong Nai River strongly affects living activities of people who inhabit its basin, and plays an important role in the development of the Southern key economic zone. Many problems related to the management and exploitation of the river basin have emerged and requires timely solutions. We should focus on discussing human’s impact on the water flow, water quality and the ecosystem of the river. This article studies the lifestyle and living of people who inhabit the headwater basin of the Dong Nai River, which enables us to basically understand the river and find out measures to remedy adverse effects on its healthy and sustainable development, contributing to the green growth and sustainable development of the Southern Key Economic Zone in the future. Keywords: Dong Nai River, green growth, sustainable development, Southern key economic zone. 1. Mở dầu Sông ồng Nai là con sông nằm trọn trong nội địa dài nhất Việt Nam, lớn thứ nhì Nam Bộ về lưu vực, chỉ sau sông Cửu long. Dòng sông là nguồn cung cấp nước ngọt chủ yếu cho đ i sống cư dân của 9 tỉnh Nam Tây nguyên và ông-Nam bộ, với khoảng 19 triệu ngư i, trong đó có vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một vùng kinh tế năng động và có quy mô lớn nhất cả nước hiện nay. Vì vậy, sông ồng Nai có một vai trò vô cùng quan trọng 14 trong sự tồn tại và phát triển của cả vùng. Tuy nhiên, sau một th i gian khai thác, nhất là sau th i kì phát triển mạnh các khu công nghiệp, ở phía hạ nguồn, sông ồng Nai đang phải gánh chịu nhiều tác động rất xấu bởi các hoạt động sống của con ngư i. Mức độ ô nhiễm, suy thái nguồn nước, sự biến đổi dòng chảy của sông ồng Nai là rất nguy cấp và cần được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau để đánh giá đúng hiện trạng, sớm tìm ra những giải pháp nhằm cứu vãn tình thế, cứu cả dòng sông. Sẽ có nhiều góc nhìn, nhiều cách tiếp cận để xem xét về thực trạng, nguyên nhân suy thoái dòng sông ồng Nai. Trên thực tế, những tác động tiêu cực của con ngư i tới dòng sông ồng Nai, nếu càng dễ nhận dạng, dễ đo đếm, thì càng dễ khắc phục, cho dù đó có là những vần đề nổi cộm nhất, gay cấn nhất (ví như lấn-lấp sông chẳng hạn). Song để trả lại sự trong lành tự nhiên và bền vững của dòng sông, để dòng sông sẽ mãi là “mạch nguồn” cho sự sống xanh và phát triển bền vững cho cư dân thuộc lưu vực, chúng tôi cho rằng rất cần tiếp cận vấn đề từ lối sống của chính dân cư lưu vực sông này. Trong hướng tiếp cận ấy, xin đi sâu bàn về “Ảnh hưởng của lối sống dân cư thuộc lưu vực tác động tới sông Đồng Nai và việc đảm bảo phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm phía Nam”. 2. Nội dung 2.1. Vài nét về dân cư lưu vực sông Đồng Nai và vai trò của dòng sông trong toàn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam + Mấy đặc điểm về địa chất, thuỷ văn và lưu vực sông Đồng Nai: Sông ồng Nai chảy qua các tỉnh Lâm ồng, ăk Nông, Bình Thuận, Bình Phước, ồng Nai, Bình Dương, Tp. Hồ Chí Minh với chiều dài 586 km và có lưu vực rộng chừng 38.600 km². Nguồn sông chính của dòng ồng Nai xuất phát từ cao nguyên Lâm Viên, tỉnh Lâm ồng, còn có tên gọi là sông a Dâng. Sông uốn khúc chảy theo hướng ông Bắc - Tây Nam vượt khỏi miền núi ra đến bình nguyên ở Tà Lài, tỉnh ồng Nai. Sông a Nhim góp nước vào sông a Dâng ở ại Ninh. Ở khoảng hợp lưu với sồng Bé thì có đập chắn dòng sông, tạo nên hồ nước nhân tạo lớn nhất miền Nam, tức hồ Tri An cung cấp nước cho nhà máy thuỷ điện Trị An. Hồ Trị An cũng là nơi sông La Ngà từ triền núi phía nam cao nguyên Di Linh dồn nước về. Có thể coi đây là vùng thượng nguồn, với hàng trăm con suối dẫn nước từ các cánh rừng, các dãy núi đổ vào làm nên dòng nước chính của sông ồng Nai. Chiều dài đoạn sông thượng nguồn này vào khoảng 400 km. Phần hạ nguồn, tính từ sau hồ Trị An trở ra biển, đến Phư ng Uyên Hưng thị xã Tân Uyên tỉnh Bình Dương thì sông ồng Nai chảy theo hướng Bắc - Nam ôm lấy cù lao Tân Uyên và Cù Lao Phố. Sông chảy qua thành phố Biên Hòa và đến Nhà Bè thì có thêm chi lưu là sông Sài Gòn. Nhánh có tên Gia ịnh là rẽ theo sông Sài Gòn lên phía Tây Ninh, còn nhánh ồng Nai là theo dòng sông lên Biên Hòa. Nhánh chính sông ồng Nai ở khúc hạ lưu thư ng gọi là sông Nhà Bè. Sông ồng Nai hòa với nước của sông Vàm Cỏ từ Long An đổ về trước khi chảy ra biển ông. + Dân cư đang sinh sống trong lưu vực dòng sông (chủ yếu ở thượng nguồn): Lưu vực thượng nguồn sông ồng Nai có địa hình cao nguyên, nhiều núi cao, với các cánh rừng già che phủ lâu đ i. Vì thế, trước năm 1975 cư dân bản địa chủ yếu là các dân tộc thiểu số, như: K’ho, Mạ, Churu, M’Nông, Châu ro, với một số lượng chỉ khoảng hơn một trăm ngàn ngư i. Sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, cùng với chính sách di dân, phát 15 triển vùng kinh tế mới, hàng triệu ngư i Kinh thuộc các vùng khác trong cả nước đã đến đây khai hoang, lập nghiệp, tạo ra nhiều làng xã phủ khắp các phần đất thuận lợi, màu mỡ thuộc lưu vực sông. ồng th i, ngư i thuộc một số dân tộc thiểu số như ngư i Tày, Dao và nhiều nhất là H’ Mông từ các tỉnh miền núi phía Bắc di cư tới lập làng sinh sống. Do sức hấp dẫn từ các cánh rừng già, với vùng đất bazan màu mỡ, khí hậu ôn hoà thuận lợi, thích hợp với các loại hình trồng trọt và chăn nuôi quy mô lớn, năng xuất cao, từ khoảng 25 năm trở lại đây đã hình thành một “làn sóng” di cư tự do ồ ạt tới Tây Nguyên nói chung, vùng lưu vực thượng nguồn sông ồng Nai nói riêng. Số dân di cư tự do là ngư i các dân tộc thiểu số phía Bắc chủ yếu lấn sâu vào các cánh rừng già, vốn là vùng rừng đặc dụng, phòng hộ đầu nguồn của sông ồng Nai. Tất cả những nguồn trên đã góp phần làm gia tăng một cách đáng báo động số dân hiện sinh sống tại lưu vực đầu nguồn dòng sông. Sau 40 năm, dân số toàn lưu vực thượng nguồn sông ồng Nai ước tính đã vào khoảng hơn hai triệu ngư i. Dân cư đã lấn sâu vào các vùng núi cao, các cánh rừng già vốn rất hiểm trở, trước kia hầu như chưa có ngư i khai phá. Nhiều khu dân cư mọc lên, nhiều con đư ng được mở ra đồng nghĩa với việc nhiều con suối, sông bị lấp, chặn, nhiều cánh rừng bị mất, làm mất đi những nguồn cung cấp nước thư ng xuyên cho dòng sông chính ồng Nai. + Vai trò của dòng sông trong toàn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Dòng sông ồng Nai không chỉ đóng vai trò cung cấp nước ngọt, nguồn lợi thuỷ sản cho đ i sống cư dân toàn lưu vực, nó còn như một “huyết mạch” trọng yếu trong giao thông, tiêu thoát lũ, thau chua, rửa mặn, bồi đắp phù xa, góp phần cân bằng khí hậu, hệ sinh thái cho toàn lưu vực, trong đó có vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, năng động nhất cả nước hiện nay. Hiện nay trên lưu vực sông có nhiều bến cảng nội địa, hàng năm có vai trò tập kết, trung chuyển hàng trăm triệu tấn hàng hóa liên thông ra các cảng biển cho 3 địa phương có hoạt động kinh tế lớn nhất vùng là Tp. Hồ Chí Minh, Bình Dương và ồng Nai. Dòng sông còn đảm nhận việc giao thương với các tỉnh thuộc Tây Nguyên và Tây Nam bộ. Chính nó đã góp phần làm nên tính đặc thù của những tiểu vùng văn hoá thuộc lưu vực trong lịch sử. Và dòng ồng Nai cũng sẽ góp phần quan trọng làm nên những nét riêng trong sự phát triển bền vững của toàn vùng trong th i gian tới. 2.2. Hiện trạng quản lý, khai thác dòng chảy và ảnh hưởng của lối sống dân cư thuộc lưu vực tới môi trường sinh thái của sông Đồng Nai + Các tác động từ quản lý, khai thác dòng chảy thuộc lưu vực sông: Thượng nguồn đang dần suy kiệt. Lưu vực thượng nguồn sông ồng Nai bao gồm toàn bộ tỉnh Lâm ồng (diện tích 9897km 2 ), với một phần của tỉnh ăk Nông, ăk Lăk và 2 huyện của tỉnh ồng Nai. Hiện nay, ở thượng nguồn, sông ồng Nai không còn là dòng sông nguyên thủy nữa, mà đã bị chặt khúc thành nhiều hồ nước, những đoạn sông “chết” bởi các bậc thang thủy điện khá dày trên dòng chính lẫn các chi lưu. Việc xây dựng quá nhiều công trình thủy điện như a Nhim, Hàm Thuận- a Mi, ại Ninh, ồng Nai 2, 3, 4, 5 trên cùng một lưu vực sông sẽ làm mất đi dòng chảy tự nhiên, ảnh hưởng đến hệ động - thực vật lưu vực thượng và hạ lưu. Các thủy điện cũng gây xói lở, rửa trôi đất, thay đổi chế độ thủy văn, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước Mặt khác, gần như toàn bộ lượng phù sa đều tích tụ lại 16 lòng hồ, làm giảm độ màu mỡ vùng hạ du. Một số công trình thủy điện chuyển nước sang lưu vực khác, hoặc công trình có kênh dẫn đã làm mất cân bằng lượng nước phía sau đập và vùng hạ du, tác động xấu tới môi trư ng, gây ra nhiều đoạn sông “chết”. Cát Tiên, ạ Tẻh từng là hai huyện trọng điểm lúa của Lâm ồng vì có đồng ruộng rất rộng, phì nhiêu nh vào phù sa của sông ồng Nai. Nhưng, hiện nay nhiều nông dân cho biết làm ruộng không có lãi, phí tổn nhiều hơn mà năng suất thấp. Gần chục năm nay lũ không về nữa, cho nên đồng ruộng không còn được tôi rửa, không được sông ồng Nai bồi đắp phù sa, chuột và sâu hại sinh sôi rất nhiều và tha hồ cắn phá. Cứ thế đồng ruộng dần cằn cỗi, phát sinh nhiều dịch bệnh, năng suất rất thấp, không ổn định Ngược lên lòng hồ thủy điện ồng Nai 3, những ốc đảo phủ xanh cây rừng là dấu tích còn lại của 2.600ha rừng đặc dụng của Khu Bảo tồn thiên nhiên Tà ùng thuộc huyện ắk G’long (tỉnh ắk Nông) bị chìm trong lòng hồ, trong khi phía Lâm ồng cũng mất hơn 2.000ha rừng do hồ thủy điện này. Tiếp tục ngược dòng ồng Nai, đến Nhà máy thủy điện ồng Nai 4, sẽ thấy cảnh tượng một đoạn sông gần 1km từ thân đập xuống nhà máy khô kiệt hoàn toàn, trơ đá, hai bên là mảng rừng lơ thơ còn sót lại.v.v. Sự ô nhiễm, suy thoái môi trường tự nhiên ở hạ nguồn dòng Đồng Nai: Từ năm 2008, tình trạng ô nhiễm môi trư ng sông ồng Nai do xả thải từ vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gây ra đã được dư luận rất quan tâm, đòi hỏi phải đầu tư khắc phục. Các nhà khoa học đã nêu cảnh báo: “Theo đà phát triển như quy hoạch, thì đến năm 2010, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam sẽ có 74 KCN-KCX đi vào hoạt động. Nếu như tất cả các khu công nghiệp này được lấp đầy diện tích thì mỗi ngày hệ thống sông ồng Nai sẽ phải tiếp nhận khoảng 1,54 triệu m3 nước thải công nghiệp, trong đó có khoảng 278 tấn cặn lơ lửng, 231 tấn BOD5, 493 tấn COD, 89 tấn Nitơ tổng, 12 tấn Phospho và nhiều kim loại nặng cùng với các tác nhân ô nhiễm độc hại khác. ồng th i, mỗi ngày còn có khoảng 1,73 triệu m3 nước thải sinh hoạt, trong đó có khoảng 702 tấn cặn lơ lửng, 421 tấn BOD5, 756 tấn COD, 59 tấn Nitơ tổng, 15 tấn Phospho tổng, 243 tấn dầu mỡ phi khoáng và nhiều vi trùng gây bệnh khác cũng sẽ được xả thẳng ra hệ thống sông ồng Nai. Nếu không có biện pháp bảo vệ hữu hiệu, trong tương lai không xa, hàng chục triệu ngư i sống quanh lưu vực sông ồng Nai sẽ có nguy cơ thiếu nguồn nước sinh hoạt do nước sông bị ô nhiễm. Môi trư ng lưu vực sông Ðồng Nai đã bị hủy hoại nghiêm trọng. Sông Thị Vải gần như đã “chết”, sông Sài Gòn bị ô nhiễm nặng. Nhiều kênh rạch trong vùng nước chuyển mầu đen, không khí, tiếng ồn... đều ô nhiễm quá giới hạn cho phép”(1). Thực tế hiện nay cho thấy có rất nhiều chỉ số đã vượt xa hơn so với những cảnh báo nói trên nhiều lần và ngày càng xuất hiện thêm những dấu hiệu suy thoái mới. + Hiện trạng lối sống của cư dân thuộc lưu vực sông tác động tới dòng sông và những hậu quả xấu từ những hoạt động sản xuất, sinh hoạt gây ra cho dòng sông - Ở khu vực thượng nguồn lưu vực sông: Trên địa bàn tỉnh Lâm ồng, trong những năm qua, sự phát triển kinh tế đã tạo ra nhiều sức ép đối với môi trư ng nước ở thượng nguồn lưu vực hệ thống sông ồng Nai. ặc biệt là các hoạt động khai thác khoáng sản, phát triển đô thị, du lịch, công nghiệp, nông nghiệp... gây ra suy kiệt rừng, ô nhiễm cục bộ tại nhiều nơi. Theo các điều tra, khảo sát, nhiều doanh nghiệp sản xuất có phát sinh nước thải ra sông ồng 17 Nai chủ yếu thuộc địa bàn tỉnh Lâm ồng như, TP. Bảo Lộc, huyện Bảo Lâm (khai thác Bô-xuýt, các nhà máy dệt, nhuộm, phân bón); huyện ức Trọng, Lâm Hà (chế biến cà phê); huyện ạ Tẻh và Cát Tiên (khai thác cát, sỏi) đang âm thầm “giết” sông ồng Nai từng ngày. Hoạt động sản xuất nông-lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản cũng có những vi phạm phổ biến. Chỉ trong vòng 60 năm lại đây, diện tích rừng ở Lâm ồng đã mất tới gần 40%, thay vào đó là những vùng chuyên canh cây cà phê, trà, dâu tằm, rau, là những cây trồng có chiều cao không quá 4m, cùng với khoảng 90.000 ha đất trống, đồi núi trọc, thực chất đã là một diện tích tiền sa mạc hóa. Ngư i dân ở Lâm ồng, ăk Nông phát triển cây cà phê, cây dâu bằng mọi cách, đặc biệt họ đã triệt hạ nhiều nghìn ha rừng, kể cả rừng trồng của lâm trư ng để trồng cà phê. Tất cả những việc đó đã dẫn tới tốc độ rửa trôi diễn ra rất nhanh. Sông, suối bị bồi lấp, nước không có lối thoát nên tràn xuống rất nhanh gây ra lũ quét nguy hiểm. Nước trôi nhanh gây thiếu hụt nước về mùa khô, ảnh hưởng tới đ i sống của nhiều triệu dân ở thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh ồng Nai và tỉnh Bình Dương. Bên cạnh việc rửa trôi làm cạn kiệt và nhiễm bẩn nguồn nước, phải kể đến sự ô nhiễm do dư lượng thuốc trừ sâu, vốn được sử dụng với số lượng rất lớn và khá tuỳ tiện của các vùng chuyên canh rau tại thành phố à Lạt, các huyện ức Trọng, ơn Dương và các huyện trồng cây công nghiệp khác trong thượng nguồn lưu vực. Do canh tác theo lối cổ truyền trên đất gần với các thảm thực vật của rừng nên khả năng nhiễm sâu bệnh ở rau, hoa, cà phê là rất lớn. Cho đến nay, biện pháp ngăn chặn chủ yếu vẫn chỉ là phun thuốc hóa học trừ sâu. Ngoài ra, để cho cây trồng, vật nuôi tăng trưởng nhanh, mau thu lợi, ngư i dân còn dùng các loại thuốc kích thích có nguồn gốc hoá học gây độc hại cho ngư i. Tất cả dư lượng của chúng được các cơn mưa rửa trôi và dồn về các hồ chứa là nơi cung cấp nước ăn và tưới tiêu cho cây trồng. Sở Tài nguyên và Môi trư ng tỉnh Lâm ồng cho biết hằng năm địa phương này sử dụng hơn 500.000 tấn phân bón vô cơ, 3.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật... Toàn bộ dư lượng các hóa chất này đều đổ vào các hồ chứa, sông suối và theo dòng chảy sẽ đổ ra sông ồng Nai. - Hiện trạng ô nhiễm tính chung cho hoạt động sống của dân cư toàn lưu vực sông: Trong phiên họp sáng 6/11/2015 tại TP. Biên Hòa ( ồng Nai), Ủy ban bảo vệ môi trư ng lưu vực hệ thống sông ồng Nai cho biết, đổ vào con sông này có khoảng 4.500 điểm xả thải từ hơn 10.174 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, 400 làng nghề, cùng các loại hình sản xuất nông nghiệp có phát thải độc hại. Bình quân một ngày lưu vực sông tiếp nhận trên 480.000 m 3 nước thải từ các khu công nghiệp và các cơ sở sản xuất công nghiệp phân tán trên lưu vực. Nhiều doanh nghiệp không xây dựng hệ thống xử lý chất thải hoặc đã có hệ thống xử lý chất thải nhưng không vận hành, vận hành không thư ng xuyên để đối phó với cơ quan chức năng khi kiểm tra. Hoặc dùng thủ đoạn xây dựng hệ thống xả thải bí mật ngoài thiết kế đã được phê duyệt, thẩm định để xả nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn ra sông, kênh, rạch. Toàn lưu vực hiện có rất nhiều trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô lớn, nhưng thiếu hệ thống xử lý phân rác, phế thải, gây ô nhiễm sinh-hóa rất nghiêm trọng. Nước thải từ hoạt động của các làng nghề và các trại chăn nuôi, cùng với lượng lớn nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý đã được xả trực tiếp ra các dòng suối, sông phụ lưu, 18 rồi đổ vào sông ồng Nai hàng ngày gây ô nhiễm rất nghiêm trọng. Tính từ đầu năm 2013 đến giữa năm 2015, lực lượng cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trư ng trên 11 tỉnh, thành phố thuộc lưu vực sông ồng Nai đã phát hiện 2.116 vụ vi phạm và xử phạt hơn 100 tỉ đồng, khởi tố 15 vụ. ây mới chỉ là một phần nhỏ trong tổng số các vụ vi phạm thư ng xuyên. + Nguyên nhân của những tác động tiêu cực của dân cư thuộc lưu vực dẫn tới sự suy thoái sông Đồng nai hiện nay: Ngoài những nguyên nhân khách quan như sự buông lỏng, yếu kém trong quản lý nhà nước của các địa phương; sự gia tăng lợi ích nhóm của một số tập đoàn kinh tế; sự yếu kém trong phối hợp giữa các địa phương .v.v, từ góc độ dân cư có hai nhóm nguyên nhân chủ yếu, đó là: - Thứ nhất, từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Sản xuất của ngư i dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, còn ở trình độ rất thấp, còn mang nặng tính tự phát và chạy theo phong trào, nhất là trong sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, các nương rẫy của đồng bào các tộc ít ngư i hoàn toàn được canh tác dựa vào tự nhiên. Họ phát đốt những cánh rừng trên triền dốc, có khi dốc tới 300 - 350 và cứ thế là trồng tỉa. Các cách làm đó, cùng với việc đào đãi vàng, thiếc, bô xuýt theo kiểu thủ công, công nghệ thấp đã phá vỡ sự liên kết tự nhiên trên bề mặt của đất, dẫn tới việc rửa trôi rất mạnh, làm sói mòn lớp đất mặt, gây bồi lắng nghiêm trọng các sông suối đầu nguồn. Trình độ công nghệ và trình độ chuyên môn của ngư i lao động rất thấp. Do trình độ sản xuất thấp nên quy mô của sản xuất thư ng nhỏ, lẻ, phân tán và rất dễ gây ô nhiễm. Với 1/5 dân số thượng nguồn thuộc các tộc ít ngư i còn làm theo kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, đa số họ chưa có kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh hiện đại, nên thư ng gây ô nhiễm khó quản lý. Cùng với đó là con số hơn 50% dân số và lao động mới chuyển đến từ các tỉnh đồng bằng, chưa kịp có được những kinh nghiệm và sự tôn trọng cần thiết với rừng. Do vậy, họ đã tàn phá rừng, đất rừng một cách rất tàn nhẫn. Ở khu vực hạ nguồn đang tập trung nhiều loại hình sản xuất công nghiệp nhỏ với công nghệ thấp, gây ô nhiễm cao; nhiều hộ chăn nuôi cá thể không đảm bảo tiêu chuẩn môi trư ng, xả thải chưa qua xử lý vào dòng sông .v.v. ây là những nhân tố làm gia tăng những tác động xấu tới sinh thái toàn lưu vực sông ồng Nai. - Thứ hai, từ các tập quán sinh hoạt, cách thoả mãn các nhu cầu sống của dân cư lưu vực thượng nguồn sông ồng Nai: Những tập quán lạc hậu trong sinh hoạt, sản xuất và ý thức pháp luật kém của ngư i dân cũng gây hại đáng kể cho môi trư ng. Tập quán chăn thả tự nhiên với các đàn gia súc dễ gây ra dịch bệnh và ô nhiễm sinh hoá cho nguồn nước các sông suối. Tập quán đốt rừng làm rẫy, cùng với nhu cầu dùng củi và than củi của đồng bào dân tộc thiểu số ở lưu vực thượng nguồn, hàng năm lên đến hàng trăm nghìn Ster, cũng là một nguyên nhân làm cho rừng bị mất, thải ra nhiều khí thải độc hại. Có nhiều trư ng hợp bà con các dân tộc thiểu số bị xúi dục đã phát, đốt nương rẫy rồi bán cho ngư i Kinh kiếm ít tiền, ăn tiêu hết sau đó lại đi đốt, phát tiếp, rồi lại bán... Cứ như vậy vì trục lợi ngư i ta đã làm sống lại tập quán du canh du cư vốn rất lạc hậu, mà trước kia đã được đẩy lùi đáng kể. Và rừng cứ tiếp tục mất. 2.3. Các giải pháp xây dựng lối sống lành mạnh cho dân cư, góp phần bảo vệ, khai thác hợp lý sông Đồng Nai, đảm bảo phát triển bền vững cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Trong chiến lược phát triển đất nước 19 đến năm 2020 được ại hội lần thứ XI thông qua, ảng ta lần đầu tiên nêu lên quan điểm phát triển. Theo đó, ảng ta cũng đã xác định rõ: “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội”(2). Việc xác định các giải pháp bảo vệ, quản lý, khai thác bền vững sông ồng Nai, phục vụ tăng trưởng bền vững vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cần quán triệt quan điểm phát triển nêu trên. Theo tinh thần đó, chúng tôi xin đề xuất mấy nhóm giải pháp lớn như sau: + Giải pháp về quản lý Nhà nước đảm bảo phát triển hài hoà, an toàn và bền vững toàn lưu vực sông Đồng Nai Với vai trò quản lý nhà nước, cần phải quan tâm giám sát chặt chẽ việc bảo vệ môi trư ng song hành cùng sự phát triển của doanh nghiệp và nguồn nước, môi trư ng sống của ngư i dân. Cần tăng cư ng vai trò và trách nhiệm của Ủy ban sông ồng Nai trong việc giải quyết các vấn đề môi trư ng liên vùng, liên tỉnh; thực thi tốt vai trò giám sát của Ủy ban đối với các dự án tác động đến môi trư ng, như các dự án nạo vét khai thông luồng lạch... Trong đó, nhiệm vụ thống kê, xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn thải và đề xuất kế hoạch quản lý, xử lý sẽ là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn 2014- 2020. Cần tiếp tục hoàn thiện và thực thi nghiêm túc hệ thống pháp luật trong quản lý toàn diện lưu vực sông ồng Nai hướng tới phát triển bền vững toàn lưu vực. + Giải pháp phối hợp bảo vệ, tái tạo và phát triển môi trường tự nhiên giữa các tỉnh trong toàn lưu vực sông Đồng Nai Ô nhiễm môi trư ng trên lưu vực sông ồng Nai chỉ có thể được giải quyết khi có sự phối hợp hữu cơ giữa các tỉnh thuộc lưu vực, đồng th i từng địa phương phải thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của mình. Các địa phương cần coi công tác bảo vệ môi trư ng lưu vực sông ồng Nai là hoạt động quan trọng, không thể tách r i trong thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, các địa phương cần thống nhất xây dựng một kế hoạch theo dõi, quan trắc và cơ chế chia sẻ thông tin về các nguồn thải để phục vụ kịp th i và có hiệu quả cho công tác quản lý nhà nước về môi trư ng; đẩy nhanh tiến độ giải quyết các điểm nóng ô nhiễm môi trư ng nước liên tỉnh ở hạ nguồn. Các tỉnh, thành phố trong lưu vực nên lồng ghép các mục tiêu, nội dung của ề án sông ồng Nai vào Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW và một số chương trình mục tiêu quốc gia có liên quan như: Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó biến đổi khí hậu; Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trư ng, tranh thủ nguồn ngân sách nhà nước và các nguồn kinh phí khác để triển khai các dự án, nhiệm vụ bảo vệ môi trư ng trên lưu vực sông. Giải pháp có tính căn cơ, bền vững nhất chính là cần tập trung giữ vững và từng bước gia tăng diện tích rừng đặc dụng phòng hộ đầu nguồn ở lưu vực thượng nguồn dòng ồng Nai. Cần tiếp tục triển khai tốt Quyết định số: 380/QĐ-TTg, ngày 10 tháng 04 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc đóng góp, chi trả tái tạo môi trư ng rừng. Các tỉnh thuộc lưu vực hạ nguồn cần thực hiện thu, đóng góp đủ, phối hợp với các tỉnh lưu vực thượng nguồn đảm bảo việc giữ và gia tăng diện tích che phủ rừng. Các tỉnh thuộc lưu vực thượng nguồn cần coi việc gia tăng diện tích rừng phòng hộ đầu nguồn là ưu tiên số một trong phát triển kinh tế-xã hội. Bởi lẽ, đây là thế mạnh chủ yếu của các tỉnh lưu 20 vực thượng nguồn, nếu làm tốt sẽ vừa đảm bảo phát triển cho chính họ, đồng th i còn ảnh hưởng tốt nhất tới dòng ồng Nai và sẽ tác động tích cực tới đ i sống dân cư các tỉnh hạ nguồn. Muốn vậy, phải đảm bảo cho dân cư lưu vực thượng nguồn, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, chủ động phát triển rừng và sống tốt được nh rừng. Cần sớm thống nhất được một cơ chế phối hợp giữa các tỉnh, thành phố trên toàn lưu vực, khắc phục ngay các xung đột lợi ích cục bộ, tuyệt đối tránh tình trạng vì lợi ích của địa phương mình mà bất chấp thiệt hại về lợi ích của các địa phương khác trên lưu vực, đặc biệt là các địa phương hạ nguồn. + Các giải pháp phát huy vai trò của Khoa học Xã hội-nhân văn (KHXH-NV) xây dựng lối sống lành mạnh, tiến bộ trong dân cư toàn lưu vực sông Đồng Nai. Trên thực tế, th i gian qua, việc xem xét, giải quyết các vấn đề ô nhiễm sông ồng Nai thư ng được tiến hành bởi các nhà khoa học tự nhiên, chủ yếu là khoa học môi trư ng. Tuy nhiên, muốn đảm bảo sự lành mạnh, bền vững của các dòng sông, trong đó có dòng ồng Nai, rất cần tác động vào dân cư-chủ thể của sản xuất và tiêu dùng, những ngư i thụ hưởng các lợi ích từ dòng sông sạch, cũng đồng th i là chủ thể quyết định sức sống lành mạnh của chính các dòng sông. Và, để có thể xây dựng lối sống lành mạnh, tiến bộ trong dân cư toàn lưu vực sông ồng Nai, góp phần khắc phục sự suy thoái, đưa dòng sông trở lại trong sạch, an toàn bền vững, chắc chắn chúng ta phải phát huy mạnh mẽ vai trò của KHXH-NV. Theo chúng tôi, những hướng mà KHXH-NV cần tập trung chủ yếu gồm: - Một là, các nhà KHXH-NV cần tập trung tìm đúng những nguyên nhân dẫn đến sự thiếu lành mạnh, gây nguy hại trong sự tác động của dân cư tới dòng sông ồng Nai th i gian qua. Tăng cư ng sự liên kết chặt chẽ giữa KHXH-NV với Khoa học Tự nhiên-công nghệ và các nhà quản lý để phát huy vai trò của bản thân KHXH-NV khi hoạch định chính sách phát triển kinh tế-xã hội của từng địa phương, cả vùng ở từng giai đoạn, th i kì trong việc khai thác, tác động vào dòng sông ồng Nai phục vụ dân sinh và sự nghiệp Công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Tập trung nghiên cứu, làm rõ các nội dung, điều kiện và cách thức thực thi lối sống lành mạnh trong dân cư như là phương thức để phát triển bền vững trong hoàn cảnh nước ta hiện nay nói chung, toàn lưu vực sông ồng Nai nói riêng. - Hai là, tăng cư ng sự can dự của các nhà KHXH-NV vào quá trình quy hoạch, vận hành các loại hình sản xuất, hợp tác đầu tư, theo vị trí đặc thù của từng địa phương. Các nhà KHXH-NV cần được tham gia ngay từ khâu lập các dự án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu nông nghiệp công nghệ cao để nêu ra các yêu cầu về phát triển lành mạnh, phát hiện và ngăn chặn những biểu hiện chạy theo lợi nhuận thuần tuý kinh tế, cố tình vi phạm các quy chuẩn về lành mạnh ở mọi khía cạnh của nhà đầu tư. Họ cũng sẽ tư vấn cho nhà quản lý, cho đội ngũ những ngư i lao động về giá trị, nội dung của sự lành mạnh; giáo dục tinh thần yêu nước, nhân bản thông qua việc thực hiện lối sống lành mạnh trong sản xuất, kinh doanh; khơi dậy ý thức tự giác và quyết tâm vươn tới sự lành mạnh hoá trong đ i sống, sản xuất ở những cộng đồng doanh nghiệp và dân cư. - Ba là, tăng cư ng vai trò và sức mạnh của các chế tài Pháp luật trong quản lý sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và ngư i dân thuộc lưu vực sông ồng Nai. Với ngư i sản xuất: cần có quy chế chặt chẽ từ khâu đăng kí sản xuất kinh doanh, giám sát thư ng xuyên và phạt thật nặng, cấm vĩnh viễn, thậm chí phạt tù với những 21 ai không tuân thủ nghiêm các quy trình an toàn trong sản xuất, gây ô nhiễm cho dòng sông. Cũng cần có những khuyến thưởng thích đáng cho những ai phát hiện, tố giác các hành vi sản xuất, kinh doanh mất an toàn, xả thải gây ô nhiễm cho dòng sông. - Bốn là, tăng cư ng giáo dục để nâng cao nhận thức về bảo vệ và phát triển rừng, bảo vệ an toàn dòng sông, định hướng cho các nhu cầu lành mạnh, nhất là với dân cư lưu vực thượng nguồn. Giáo dục đạo đức cho ngư i sản xuất; đề cao quyền tự vệ của ngư i tiêu dùng, ý thức trách nhiệm với tương lai của mình và cộng đồng để chống lại việc gây ô nhiễm, độc hại. Dựa vào pháp luật và các cơ quan chức năng để đấu tranh với sự lừa dối, những sản phẩm bẩn, độc hại; các hành vi xả thải độc hại cho dòng sông; kiên quyết từ chối tiếp nhận sản phẩm, tẩy chay các cơ sở sản xuất gian dối, gây ô nhiễm đó trong toàn thể cộng đồng. 3. Kết luận Sông Ðồng Nai có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn sống của hơn 17 triệu dân, trong đó có vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhưng hiện đã và đang bị hủy hoại nghiêm trọng. Việc bảo vệ an toàn, lành mạnh cho sông ồng Nai là hết sức quan trọng và cấp bách. ể thực hiện tốt việc đảm bảo an toàn dòng ồng Nai cần sớm thống nhất được một cơ chế phối hợp giữa các tỉnh, thành phố trên toàn lưu vực, khắc phục ngay tình trạng vì lợi ích cục bộ của mỗi địa phương, bất chấp thiệt hại về lợi ích của các địa phương khác. Tiếp cận vấn đề từ góc độ lối sống dân cư thuộc lưu vực sông sẽ cho ta thấy rõ cơ sở khoa học của vấn đề đặt ra. Bởi lẽ, lối sống lành mạnh của dân cư, được thực hành bởi dân cư, là tiền đề cho phát triển bền vững. Cũng chính lối sống của dân cư làm xuất hiện thư ng xuyên sự thiếu lành mạnh, cần được nghiên cứu và điều chỉnh mới đảm bảo phát triển bền vững. Với sông ồng Nai, giải pháp có tính cơ bản, bền vững nhất hiện nay chính là cần tập trung giữ vững và từng bước gia tăng diện tích rừng phòng hộ ở lưu vực thượng nguồn. ây là những vấn đề rất khó tìm được tiếng nói chung, nhất là với cư dân các tỉnh lưu vực thượng nguồn. Nhưng để đảm bảo phát triển bền vững toàn vùng, thì nhất thiết phải làm và càng làm sớm sẽ càng giảm bớt được những hậu quả, cả trước mắt và lâu dài./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trang thông tin điện tử Chính phủ. Khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (13:17 27/04/2008); và Cảnh báo về thảm họa môi trường tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (08:10 04/04/2007). 2. ảng cộng sản Việt Nam. Năm 2011, Nxb CTQG. Hà Nội, Chiến lược kinh tế-xã hội 2011-2020, Văn kiện H B toàn quốc lần thứ XI, tr 98-101. 3. Thủ tướng CP, Quyết định chính sách thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng. Số: 380/Q - TTg; ngày 10 tháng 04 năm 2008 và Quyết định số 1788/Q -TTg ngày 01/10/2013; 4. Địa chí địa phương, UBND các tỉnh: Lâm ồng, ăk Nông, ồng Nai, Bình Dương, Bình Phước chịu trách nhiệm xuất bản. 5. Minh Hải, Cao Nguyên, “Sông ồng Nai kêu cứu: Mối họa nguồn nước”, Báo Lao động, T 31/03/2015 22:48. 6. Bùi Trung Hưng (2002), “Dân cư trong tồn tại xã hội ở tỉnh Lâm ồng và sự vận động của nó hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội. 7. Bùi Trung Hưng, “Lành mạnh để phát triển bền vững ở tỉnh Bình Dương, khu vực ông-Nam bộ: tiếp cận từ góc độ dân cư và vai trò của KHXH-NV”, Kỉ yếu Hội thảo KH Phát triển bền vững vùng Đông Nam Bộ, ngày 12/7/2012, do Viện phát triển bền vững vùng Nam Bộ và UBND ồng Nai tổ chức tại Biên Hòa. 8. Ủy ban sông ồng Nai, Biên bản các cuộc họp lần thứ 7 và thứ 9 (2014-2015). Ngày nhận bài: 16/8/2016 Biên tập xong: 15/01/2017 Duyệt đăng: 20/01/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfanh_huong_cua_loi_song_dan_cu_thuoc_luu_vuc_toi_song_dong_na.pdf
Tài liệu liên quan