Ảnh hưởng của tẩy trắng răng và tác dụng của CPP-ACFP lên độ cứng bề mặt men răng: Nghiên cứu in vitro

KẾT LUẬN Qua các kết quả thu được từ nghiên cứu in vitro về sự thay đổi độ cứng bề mặt men răng sau khi tẩy trắng và sau khi bôi Tooth Mousse Plus hay ngâm trong nước bọt nhân tạo, cho phép rút ra một số kết luận sau : - Tẩy trắng răng làm thay đổi lý tính của bề mặt men răng: độ cứng bề mặt men răng giảm đi. Vì vậy, bệnh nhân cần được thông báo về những tác dụng phụ có thể có trước khi tiến hành điều trị. - Ảnh hưởng của các chất tẩy trắng có nồng độ khác nhau lên độ cứng bề mặt men răng khác biệt không có ý nghĩa. Tuy nhiên, việc lựa chọn nồng độ và kĩ thuật tẩy trắng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ nhiễm sắc, tình trạng nhạy cảm răng, thời gian, khả năng tài chính của bệnh nhân Bác sĩ nên cân nhắc những nguy cơ so với lợi ích mà từng kĩ thuật có thể đem đến cho bệnh nhân, từ đó có được kế hoạch điều trị đúng đắn nhất. - Sau tẩy trắng, có thể cho bệnh nhân sử dụng Tooth Mousse Plus để trung hòa các tác dụng bất lợi gây ra bởi quá trình tẩy trắng lên độ cứng bề mặt men răng.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 92 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của tẩy trắng răng và tác dụng của CPP-ACFP lên độ cứng bề mặt men răng: Nghiên cứu in vitro, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 140 ẢNH HƯỞNG CỦA TẨY TRẮNG RĂNG VÀ TÁC DỤNG CỦA CPP-ACFP LÊN ĐỘ CỨNG BỀ MẶT MEN RĂNG: NGHIÊN CỨU IN VITRO Nguyễn Thị Diễm Hà*, Nguyễn Thị Thư*, Hoàng Tử Hùng* TÓM TẮT Tẩy trắng răng ngày càng phổ biến trong thực hành nha khoa để điều trị những trường hợp răng nhiễm sắc. Tuy nhiên, ảnh hưởng của tẩy trắng răng lên độ cứng của men răng vẫn còn nhiều tranh cãi. Mục tiêu của nghiên cứu in vitro này nhằm xác định và so sánh độ cứng bề mặt men răng dưới tác dụng của chất tẩy trắng có nồng độ khác nhau: 15%CP, 20%CP, 45%CP, đồng thời xác định độ cứng bề mặt men răng (đã tẩy trắng) sau khi xử lý tái khoáng với CPP-ACFP hoặc với nước bọt nhân tạo. Phương pháp: Nghiên cứu thực hiện trên 30 mẫu men răng người thu thập từ 30 răng cối lớn thứ ba hàm trên. Sau quá trình chuẩn bị mẫu, các mẫu được đo độ cứng Vickers lần đầu và chia ngẫu nhiên thành ba nhóm (n=10): Nhóm 1: tẩy trắng với Opalescence PF 15%CP 4 giờ /ngày trong 14 ngày. Nhóm 2: tẩy trắng với Opalescence PF 20%CP 4 giờ /ngày trong 14 ngày. Nhóm 3: tẩy trắng với Opalescence Quick 45%CP trong 30 phút. Giữa những lần tẩy trắng, mẫu được ngâm trong nước bọt nhân tạo và ủ ở 37C. Sau khi kết thúc quá trình tẩy trắng, các mẫu được đo độ cứng lần 2. Sau đó, chia mỗi nhóm thành 2 nhóm nhỏ (a và b) (n=5): Nhóm 1a, 2a, 3a: các mẫu được bôi một lớp kem Tooth Mousse Plus 10 phút/lần x 2 lần/ngày. Giữa những lần bôi kem, các mẫu được ngâm trong nước bọt nhân tạo và ủ ở 37C. Nhóm 1b, 2b, 3b: các mẫu được ngâm trong nước bọt nhân tạo và ủ ở 37C. Nước bọt được thay mới mỗi ngày. Sau 7 ngày, các mẫu được đo độ cứng lần 3. Kết quả nghiên cứu cho thấy các chất tẩy trắng có nồng độ 15%CP, 20%CP, 45%CP đều làm giảm độ cứng bề mặt men răng có ý nghĩa (p<0,05). Độ cứng bề mặt men răng sau khi tẩy trắng khác biệt không có ý nghĩa giữa các nồng độ chất tẩy trắng khác nhau (p>0,05). CPP-ACFP làm tăng có ý nghĩa độ cứng bề mặt men răng đã được tẩy trắng (p<0,05) trong khi đó nước bọt nhân tạo làm tăng không có ý nghĩa độ cứng bề mặt men răng đã được tẩy trắng (p>0,05). Kết luận. Tẩy trắng răng làm giảm độ cứng bề mặt men răng. CPP-ACFP có thể giúp phục hồi độ cứng bề mặt men răng đã bị “mềm” đi do tẩy trắng. Từ khóa: Carbamide peroxide, hydrogen peroxide, độ cứng men, CPP-ACFP, tái khoáng. ABSTRACT INFLUENCE OF TOOTH WHITENING AND CPP-ACFP ON ENAMEL MICROHARNESS: IN VITRO STUDY Nguyen Thi Diem Ha, Nguyen Thi Thu, Hoang Tu Hung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 140 - 145 Objective: Tooth whitening is nowadays an efficient and simple procedure for removing intrinsic and extrinsic stains. However, its adverse effects on enamel microhardness are still controversial. This in vitro study was to evaluate the influence of tooth whitening agents (15% carbamide peroxide, 20% carbamide peroxide and 45% carbamide peroxide) on enamel microhardness and the effect of CPP-ACFP on bleached enamel. Materials and method: Thirty enamel specimens were obtained from human third molars and baseline Vickers’s hardness was recorded under 100g load during 10 seconds. The specimens were then divided into three *: Khoa RHM - Đại học Y Dược TP HCM Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Thư ĐT: 0907982880, Email: nththu81@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 141 groups. The frist two groups were treated with 15% or 20% carbamide peroxide. The bleaching regimen was 4hours/day for 14 consecutive days. The third group was treated with 45% carbamide peroxide for 30 minutes. In between bleaching courses, the specimens were stored in artificial saliva. Microhardness were measured after 14 days. After bleaching regimen, each group was divided into two subgroups. Tooth Mousse Plus was applied in first subgroups for 10 minutes 2 times a day and then immersed in artificial saliva. The second subgroups were only immersed in artificial saliva. After 7 days, microhardness was measured. Results: Tooth whitening with 15%, 20% or 45% carbamide peroxide reduced enamel microhardness significantly (p0.05). CPP-ACFP could restore effectively the microhardness of bleached enamel (p0.05). Conclusion: Different concentrations of bleaching agents decreased enamel microhardness. Application of CPP-ACFP after tooth whitening increased microhardness of bleached enamel. Key words: Carbamide peroxide, hydrogen peroxide, enamel microhardness, CPP-ACFP, remineralisation. ĐẶT VẤN ĐỀ Màu sắc răng là một trong những yếu tố tác động nhiều đến nụ cười, ảnh hưởng nhiều đến sự tự tin của bệnh nhân. Trong số các biện pháp điều trị răng đổi màu, tẩy trắng răng được chú ý hơn cả do tính đơn giản và bảo tồn nhưng vẫn đạt được hiệu quả mong muốn. Tuy nhiên, ảnh hưởng của tẩy trắng răng lên độ cứng bề mặt men răng hiện nay vẫn chưa thống nhất. Casein Phosphopeptide-Amorphous Calcium Phosphate (CPP-ACP), một sản phẩm có nguồn gốc từ sữa bò, được báo cáo có khả năng sữa chữa các sang thương men răng mất khoáng(10). Ngoài ra, CPP-ACP còn có khả năng kết hợp với fluor tạo thành phức hợp Casein Phosphopeptide- Amorphous Calcium Fluoride Phosphate (CPP- ACFP). CPP-ACFP là tác nhân tái khoáng đã được nhắc đến trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nghiên cứu về tác dụng của CPP-ACFP đối với bề mặt men răng sau tẩy trắng. Đề tài nghiên cứu này được tiến hành với các mục tiêu sau: - Xác định và so sánh độ cứng bề mặt men răng dưới tác dụng của chất tẩy trắng có nồng độ khác nhau: 15%CP, 20%CP, 45%CP. - Xác định độ cứng bề mặt men răng (đã tẩy trắng) sau khi xử lý tái khoáng với CPP-ACFP hoặc với nước bọt nhân tạo. VẬT LIỆU - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Chuẩn bị mẫu Mẫu nghiên cứu gồm 30 răng cối lớn thứ ba hàm trên của người đã được nhổ. Các răng được ngâm trong dung dịch thymol 0,1% trong thời gian tối đa 1 tháng trước thời điểm nghiên cứu. Các răng được làm sạch bằng cạo vôi siêu âm, và cắt bỏ chân răng cách đường nối men-cement khoảng 2-3mm về phía chóp bằng đĩa cắt kim cương có phun nước. Mặt ngoài thân răng được mài phẳng bằng giấy nhám ướt có độ mịn tăng dần 600, 800, 1000, 1200 grit để tạo cửa sổ thử nghiệm khoảng 3mmx3mm. Các thân răng được nhấn vào khuôn nhựa polyester hình trụ tròn sao cho cửa sổ thử nghiệm hướng lên trên và song song với mặt phẳng sàn nhà. Bảng 1: Các vật liệu sử dụng trong nghiên cứu Vật liệu Thành phần Độ pH Opalescence PF 15% 15% carbamide peroxide, carbopol, glycerin, 3% kali nitrate, 0.11% fluor 6,7 Opalescence PF 20% 20% carbamide peroxide, carbopol, glycerin, 3% kali nitrate, 0.11% fluor 6,7 Opalescence Quick 45% 45% carbamide peroxide, carbopol, glycerin, 3% kali nitrate, 6,5 Tooth mousse Plus (Recaldent) CPP-ACP, sodium fluoride, glycerol, silicon dioxide, zinc oxide, D sorbitol, xylitol, nước 7,0 Nước bọt nhân tạo Calcium chloride 0.22g/l, sodium phosphate 1.07g/l, sodium bicarbonate 1.68g/l, sodium azide 2g/l, nước cất 7,0 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 142 Quy trình nghiên cứu 30 mẫu được đo độ cứng ban đầu với máy đo độ cứng chuyên dụng (microhardness tester HWMMT-X3, HIGHWOOD, Japan). Trên mỗi bề mặt, đo tại ba vị trí với lực đo 100g trong thời gian 10 giây, mỗi vị trí đo cách đều nhau một khoảng 100 micrometer. Kết quả đo được quan sát dưới kính hiển vi co độ phóng đại x 40 lần. Giai đoạn 1 : Tẩy trắng răng 30 mẫu được chia ngẫu nhiên thành 3 nhóm (n=10). Nhóm 1 được tẩy trắng với Opalescence PF 15, nhóm 2 với Opalescence PF 20. Thời gian tẩy trắng là 4h/ngày trong 14 ngày. Nhóm 3 được tẩy trắng với Opalescence Quick. Thời gian tẩy trắng là 30 phút. Giữa các lần tẩy trắng, các mẫu được ngâm trong nước bọt nhân tạo và ủ ở 37C. Sau 14 ngày, các mẫu được đo độ cứng lần 2. Giai đoạn 2: Xử lý tái khoáng Mỗi nhóm được chia làm 2 nhóm nhỏ (nhóm a và nhóm b). Mỗi nhóm nhỏ được xử lý tái khoáng với Tooth Mousse Plus (TMP) hay nước bọt nhân tạo. Nhóm a được bôi TMP mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10 phút. Giữa các lần bôi TMP, các mẫu được ngâm trong nước bọt nhân tạo và ủ ở 37C. Nhóm b chỉ được ngâm trong nước bọt nhân tạo và ủ ở 37C. Sau 7 ngày, các mẫu được đo độ cứng lần 3. KẾT QUẢ Trước tẩy trắng, độ cứng bề mặt men răng của các nhóm 1, 2, 3 lần lượt là 347,515,2VHN; 347,912,2VHN; 345,016,4VHN. Độ cứng bề mặt men răng của ba nhóm trước thử nghiệm khác biệt không có ý nghĩa (p=0,803). Sau khi tẩy trắng, độ cứng bề mặt men răng của các nhóm đều giảm có ý nghĩa (p<0,05). Độ cứng VHN của ba nhóm lần lượt là 319,012,7; 318,213,7; 313,411,9. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về độ cứng bề mặt men răng giữa ba nhóm sau tẩy trắng (p=0,455) (Bảng 2). Bảng 2: Độ cứng bề mặt men răng trước và sau tẩy trắng của các nhóm Nhóm Trước tẩy trắng Sau tẩy trắng p(1) TB±ĐLC KTC 95% TB±ĐLC KTC 95% Nhóm 1 347,5  15,2 336,6 - 358,3 319,0  12,7 309,9 – 328,1 0,005 Nhóm 2 347,9  12,2 339,2 - 356,7 318,2  13,7 308,3 - 328 0,005 Nhóm 3 345,0  16,4 333,3 – 356,7 313,4  11,9 304,9 – 321,9 0,005 p(2) 0,803 0,455 p(1): so sánh trước và sau tẩy trắng, kiểm định Wilcoxon p(2):so sánh giữa ba nhóm ở thời điểm trước và sau tẩy trắng, kiểm định Kruskal-Wallis Sau khi xử lý với Tooth Mousse Plus, độ cứng bề mặt men răng của các nhóm đều tăng có ý nghĩa so với sau khi tẩy trắng (p<0,05). Độ cứng VHN của ba nhóm lần lượt là 347,3±12,4; 353,6±15,6; 351,2±7,8. Sau khi xử lý với Tooth Mousse Plus, độ cứng bề mặt men răng của các nhóm 1a, 2a tăng không có ý nghĩa so với trước tẩy trắng (p>0,05); độ cứng của nhóm 3a tăng có ý nghĩa so với trước tẩy trắng (p=0,043) (Bảng 3). Bảng 3: Độ cứng bề mặt men răng trước tẩy trắng, sau tẩy trắng và sau xử lý với Tooth Mousse Plus của các nhóm thử nghiệm Nhóm Trước tẩy trắng Sau tẩy trắng Sau xử lý TMP p(1) p(2) TB±ĐLC TB±ĐLC TB±ĐLC Nhóm 1a 346,4±12,3 318,8±12,5 347,3±12,4 0,043 0,686 Nhóm 2a 341,7±8,4 316,8±17,2 353,6±15,6 0,043 0,08 Nhóm 3a 336,9±10,5 313,5±13,7 351,2±7,8 0,043 0,043 p(1):so sánh trước tẩy trắng, sau tẩy trắng, kiểm định Wilcoxon p(2): so sánh trước tẩy trắng và sau xử lý với Tooth Mousse Plus, kiểm định Wilcoxon Sau khi xử lý với nước bọt nhân tạo, độ cứng bề mặt men răng của các nhóm đều tăng không có ý nghĩa so với sau khi tẩy trắng (p>0,05). Độ cứng VHN của ba nhóm lần lượt là 326,4±36,6; 333,9±31,5; 334,9±20,8 (Bảng 4). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 143 Bảng 4: Độ cứng bề mặt men răng trước tẩy trắng, sau tẩy trắng và sau xử lý với nước bọt nhân tạo của các nhóm thử nghiệm Nhóm Trước tẩy trắng Sau tẩy trắng Sau xử lý với NB TB±ĐLC TB±ĐLC TB±ĐLC p(1) p(2) Nhóm 1b 348,5±19,1 319,1±14,4 326,4±36,6 0,043 0,5 Nhóm 2b 354,2±13,0 319,5±11,0 333,9±31,5 0,043 0,5 Nhóm 3b 353,1±18,1 313,2±11,3 334,9±20,8 0,043 0,08 p(1): so sánh trước và sau tẩy trắng, kiểm định Wilcoxon p(2): so sánh sau khi tẩy trắng và sau khi xử lý với nước bọt nhân tạo, kiểm định Wilcoxon BÀN LUẬN Hiện nay trên thị trường cũng xuất hiện rất nhiều sản phẩm tẩy trắng với nhiều nồng độ khác nhau. Tuy nhiên, sự ra đời của các sản phẩm tẩy trắng có nồng độ cao dẫn đến những mối lo ngại cho các nhà chuyên môn về ảnh hưởng của chúng lên bề mặt men răng. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của tác nhân tẩy trắng có nồng độ cao chứa 15%CP và 20%CP (dùng để tẩy trắng tại nhà) và 45%CP (dùng để tẩy trắng tại phòng nha) lên độ cứng bề mặt men răng. Trước khi tẩy trắng, độ cứng bề mặt men răng của ba nhóm khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05). Kết quả cho thấy sau khi tẩy trắng răng với Opalescence 15%, 20% và 45% CP, độ cứng bề mặt men răng lần lượt là 319,012,7 VHN; 318,213,7 VHN; 313,411,9 VHN so với 347,515,2 VHN; 347,912,2 VHN; 345,016,4 VHN ở thời điểm ban đầu (trước khi tẩy trắng). Độ cứng bề mặt men răng ở cả ba nhóm sau tẩy trắng đều giảm có ý nghĩa (p<0,05). Kết quả này đã ủng hộ cho quan điểm tẩy trắng răng làm giảm độ cứng bề mặt men răng và phù hợp với kết quả của một số các tác giả. Lewinstein I và cs 2004, Basting RT và cs 2003 kết luận Opalescence PF 15%CP và Opalescence PF 20%CP đều làm giảm độ cứng bề mặt men răng(0,5). Tương tự, Rodrigues và cs 2005 cho rằng tẩy trắng tại phòng nha với 37%CP, tẩy trắng răng tại nhà với 10%CP hoặc kết hợp cả hai kĩ thuật này cũng đều làm giảm độ cứng men răng(8). Trái ngược với kết quả của nghiên cứu này và một số các nghiên cứu của các tác giả khác trên thế giới, một nhóm các tác giả khác như Delfino CS và cs 2009, Ren YF và cs 2009, Mielczarek A và cs 2008 đều cho rằng tẩy trắng không làm giảm độ cứng bề mặt men răng(2,4,8). Sự khác biệt kết quả giữa các tác giả này này với nghiên cứu của chúng tôi có thể do các nghiên cứu này (nghiên cứu cho kết quả độ cứng bề mặt men răng không giảm sau tẩy trắng) thực hiện trong thời gian ngắn hơn (thường từ 5 đến 7 ngày), sử dụng răng động vật hay sử dụng dung dịch ngâm mẫu khác nhau (nước cất, nước bọt nhân tạo hay nước bọt tự nhiên). Cơ chế gây mất khoáng và giảm độ cứng của tẩy trắng răng hiện nay chưa được hiểu đầy đủ. Độ pH của chất tẩy trắng có thể là một yếu tố góp phần hòa tan thành phần khoáng của men răng trong và sau quá trình tẩy trắng nên làm giảm độ cứng men răng(2). Trong nghiên cứu của chúng tôi, các sản phẩm tẩy trắng đều có độ pH lớn hơn 5,5 nhưng bề mặt men răng sau tẩy trắng vẫn bị giảm độ cứng. Như vậy, có thể độ pH không phải là yếu tố duy nhất gây mất khoáng men răng, làm giảm độ cứng của men răng. Một giả thuyết khác cho rằng phản ứng giữa peroxide và thành phần hữu cơ của men răng ảnh hưởng đến độ cứng của men răng(9). Sự phân hủy khuôn hữu cơ của men răng này có thể làm mất đáng kể các protein của men răng và đồng thời mất cả các tinh thể khoáng trên khuôn men nếu quá trình tẩy trắng kéo dài. Kết quả là bề mặt men răng bị lỗ rỗ và trở nên mềm hơn. Giả thuyết thứ ba cho rằng urea, sản phẩm từ sự phân hủy carbamide peroxide, làm thay đổi hình thái bề mặt men răng, từ đó làm thay đổi độ cứng men răng. Ngoài ra, còn có carbopol, thành phần bổ trợ thường được thêm vào chất tẩy trắng để kéo dài thời gian hoạt động, có thể là yếu tố góp phần làm giảm độ cứng bề mặt men răng(3). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 144 Kết quả nghiên cứu cho thấy độ cứng bề mặt men răng sau khi sử dụng sản phẩm tẩy trắng tại nhà (15%CP, 20%CP) hay tại phòng nha (45%CP) đều khác biệt không có ý nghĩa. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Basting RT và cs 2003 khi các tác giả so sánh các sản phẩm tẩy trắng tại nhà chứa 10%, 15%, 16%, 22% CP(3). Đồng thời khi khảo sát về ảnh hưởng lên độ cứng bề mặt men răng giữa các kĩ thuật tẩy trắng tại nhà và tẩy trắng tại phòng nha, Rodrigues và cs 2005 cũng nhận thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa(8). Như vậy, mặc dù tẩy trắng tại nhà với nồng độ thấp nhưng thời gian tẩy trắng lâu cũng ảnh hưởng không tốt lên men răng tương đương với tẩy trắng tại phòng nha trong thời gian ngắn nhưng với nồng độ cao. Trong các nghiên cứu in vitro về khả năng tái khoáng hóa của nước bọt, người ta cố gắng mô phỏng lại môi trường miệng bằng cách sử dụng nước bọt nhân tạo có các thành phần vô cơ giống với nước bọt tự nhiên. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng nước bọt nhân tạo làm dung dịch ngâm mẫu sau khi tẩy trắng đối với các nhóm 1b, 2b, 3b. Kết quả cho thấy các mẫu sau khi xử lý tái khoáng với nước bọt nhân tạo độ cứng bề mặt men răng tăng lên lần lượt là 326,436,6 VHN; 333,931,5 VHN; 334,920,8 VHN so với 319,1±14,4 VHN; 319,5±11,0 VHN; 313,2±11,3 VHN ở thời điểm trước khi xử lý với nước bọt nhân tạo (sau khi tẩy trắng). Tuy nhiên, sự gia tăng này không có ý nghĩa (p>0,05). Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của Panich M và cs 2009, Tantbirojn D và cs 2008 (7,10). Như vậy nước bọt nhân tạo không làm tăng có ý nghĩa độ cứng bề mặt men răng sau khi tẩy trắng. Nghiên cứu này cũng như một số các nghiên cứu cho thấy quá trình tẩy trắng làm giảm độ cứng bề mặt men răng(3,8). Hiện nay, có nhiều phương pháp được sử dụng để trung hòa những ảnh hưởng có hại này của tẩy trắng răng lên men răng như APF, fluor, CPP-ACP Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng Tooth Mousse Plus có thành phần chính là CPP-ACFP gồm CPP-ACP và 900ppm fluor. Sự kết hợp này giúp Tooth Mousse Plus có tác dụng tái khoáng cộng hợp giữa CPP-ACP và fluor. CPP-ACFP sẽ cung cấp hàm lượng vô cơ bị mất đi do quá trình tẩy trắng, từ đó thúc đẩy nhanh quá trình tái khoáng hóa và làm gia tăng độ cứng bề mặt men răng. CPP-ACFP giải phóng một lượng lớn ACFP trên bề mặt bề mặt răng. Trong môi trường khử khoáng, ACFP tại chỗ sẽ đệm các ion canxi, phospho và fluor làm gia tăng số lượng các ion này trong mảng bám, giúp duy trì trạng thái quá bão hòa trên bề mặt răng. CPP- ACFP là nguồn nguyên liệu cung cấp các ion canxi, phospho, fluor để hình thành mới các tinh thể hydroxyapatite, hydroxyfluorapatite hay fluorapatite. Các tinh thể này có độ cứng tăng dần từ hydroxyapatite, hydroxyfluorapatite, fluorapatite; do đó làm bề mặt men răng trở nên cứng chắc hơn. Kết quả cho thấy sau khi xử lý tái khoáng với Tooth Mousse Plus độ cứng bề mặt men răng tăng lên lần lượt là 347,312,4 VHN; 353,615,6 VHN; 351,27,8 VHN so với 318,8±12,5VHN; 316,8±17,2 VHN; 313,5±13,7 VHN ở thời điểm trước khi xử lý với Tooth Mousse Plus (sau khi tẩy trắng). Sự gia tăng này có ý nghĩa (p<0,05). Kết quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả của các nghiên cứu của Nguyễn Thị Thư và cs 2009, Tantbirojn D và cs 2008 khi so sánh khả năng tái khoáng của CPP-ACP hoặc CPP-ACFP trên bề mặt men răng đã được khử khoáng(1,10). Mặt khác, sau khi xử lý với Tooth Mousse Plus, độ cứng của nhóm 3a (nhóm được tẩy trắng với 45%CP) không chỉ tăng lên so với độ cứng sau tẩy trắng mà nó còn tăng lên cao hơn giá trị độ cứng ban đầu (trước khi tẩy trắng). Sự gia tăng này có ý nghĩa (p<0.05). Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Panich M và cs 2009(7). Như vậy, Tooth Mousse Plus có thể được sử dụng sau tẩy trắng nhằm trung hòa ảnh hưởng có hại của tẩy trắng lên độ cứng men răng. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 145 KẾT LUẬN Qua các kết quả thu được từ nghiên cứu in vitro về sự thay đổi độ cứng bề mặt men răng sau khi tẩy trắng và sau khi bôi Tooth Mousse Plus hay ngâm trong nước bọt nhân tạo, cho phép rút ra một số kết luận sau : - Tẩy trắng răng làm thay đổi lý tính của bề mặt men răng: độ cứng bề mặt men răng giảm đi. Vì vậy, bệnh nhân cần được thông báo về những tác dụng phụ có thể có trước khi tiến hành điều trị. - Ảnh hưởng của các chất tẩy trắng có nồng độ khác nhau lên độ cứng bề mặt men răng khác biệt không có ý nghĩa. Tuy nhiên, việc lựa chọn nồng độ và kĩ thuật tẩy trắng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ nhiễm sắc, tình trạng nhạy cảm răng, thời gian, khả năng tài chính của bệnh nhân Bác sĩ nên cân nhắc những nguy cơ so với lợi ích mà từng kĩ thuật có thể đem đến cho bệnh nhân, từ đó có được kế hoạch điều trị đúng đắn nhất. - Sau tẩy trắng, có thể cho bệnh nhân sử dụng Tooth Mousse Plus để trung hòa các tác dụng bất lợi gây ra bởi quá trình tẩy trắng lên độ cứng bề mặt men răng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Attin T, Schmidlin PR, Wegehaupt F, Wiegand A (2009), “Influence of study design on the impact of bleaching agents on dental enamel microhardness: a review”, Dent Mater, vol. 25, pp. 143-57. 2. Delfino CS, Chinelatti MA, Carrasco-Guerisoli LD, Batista AR, Froner IC, Palma-DIBB RG (2009), “Effectiveness of home bleaching agents in discolored teeth and influence on enamel microhardness”, J Appl Oral Sci, vol. 17(4), pp. 284-8. 3. Hegedus C, Bistley T, Flora-Nagy E, Keszthelyi G, Jenei A (1999), “An atomic force microscopy study on the effect of bleaching agents on enamel surface”, J Dent, vol. 27, pp. 509 – 15. 4. Lewinstein I, Fuhrer N, Churaru N, Cardash H (2004), “Effect of different peroxide bleaching regimens and subsequent fluoridation on the hardness of human enamel and dentin”, J Pros Dent, vol. 92, pp. 337-42. 5. Mielczarek A, Klukowska M, Ganowicz M, Kwiatkowska A, Kwasny M (2008), “The effect of strip, tray and office peroxide bleaching systems on enamel surfaces in vitro”, Dent Mater, vol. 14, pp. 1495-500. 6. Nguyễn Thị Thư (2009), Tác dụng của ACFP và vécni có fluor trên men răng trong khử khoáng thực nghiệm, Luận văn bác sĩ nội trú, ĐHYD, TPHCM. 7. Panich M, Poolthong S (2009), “The effect of casein phosphopeptide-amorphous calcium phosphate and Cola soft drink on in vitro enamel hardness”, J Am Dent Assoc, vol. 140, pp. 455-460. 8. Ren YF, Amin A, Malmstrom H (2009), “Effects of tooth whitening and orange juice on surface properties of dental enamel”, J Dent, vol. 37, pp. 424-31. 9. Rodrigues J.A, Marchi GM, Ambrosano GMB, Heymann HO, Pimenta LA (2005). “Microhardness evaluation of in situ vital bleaching on human dental enamel using a novel study design”, Dent Mater, vol. 21, pp. 1059-67. 10. Tantbirojn D, Huang A, Ericson MD, Poolthong S (2008), “Change in surface hardness of enamel by cola drink and a CPP-ACP paste”, J Dent, vol. 36, pp. 74-79

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfanh_huong_cua_tay_trang_rang_va_tac_dung_cua_cpp_acfp_len_do.pdf
Tài liệu liên quan