Ảnh hưởng của thuế nhập khẩu đối với mặt hàng dược phẩm nhập khẩu, lấy ví dụ tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU Y TẾ VIỆT NAM 3 1.1 GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU Y TẾ VIỆT NAM. 3 1.1.1. Quá trình thành lập và phát triển của công ty. 3 1.1.2.chức năng, nhiệm vụ của công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam. 4 1.1.3. Mô hình tổ chức bộ máy quản trị của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam. 5 1.1.4 Kết quả hoạt động sản xuất-kinh doanh của công ty thời gian gần đây 11 1.2.CÁC THÀNH CÔNG ĐẠT ĐƯỢC CỦA CÔNG TY. 16 CHƯƠNG 2 MẶT HÀNG DƯỢC PHẨM NHẬP KHẨU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA THUẾ NHẬP KHẨU ĐẾN MẶT HÀNG NÀY 19 2.1 ĐẶC ĐIỂM MẶT HÀNG DƯỢC PHẨM 19 2.1.1 Khái niệm 19 2.1.2. Dược phẩm là hàng hóa đặc biệt, khó bảo quản 19 2.1.3.Giá cả cao không đồng nghĩa với chất lượng tốt 20 2.1.4.Dược phẩm liên quan trực tiếp đến sức khỏe của con người 20 2.2. ĐẶC ĐIỂM KINH DOANH MẶT HÀNG DƯỢC PHẨM 21 2.2.1. Sức cầu về mặt hàng dược phẩm phụ thuộc phần lớn vào bác sĩ kê đơn 21 2.2.2. Sức cầu hiện nay chủ yếu đối với các mặt hàng ngoại 21 2.2.3. Doanh nghiệp Dược chịu sự quản lý chặt chẽ của Bộ Y Tế 22 2.3. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẢU CỦA THỊ TRƯỜNG DƯỢC PHẨM TRONG NƯỚC THỜI GIAN GẦN ĐÂY 22 2.4.1. Nhóm các nước cạnh tranh về giá cả 22 2.4.2. Nhóm các nước cạnh tranh chủ yếu về chất lượng. 23 2.4.3. Về số lượng 25 2.4.4.Tình hình thị trường dược phẩm trong nước những năm gần đây 26 2.5. THỰC TRẠNG KINH DOANH NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY CP XUẤT NHẬP KHẨU Y TẾ VIỆT NAM 29 2.6. ẢNH HƯỞNG CỦA THUẾ QUAN NHẬP KHẨU ĐẾN MẶT HÀNG DƯỢC PHẨM NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM, LẤY VD TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU Y TẾ VIỆT NAM 34 2.6.1 Ảnh hưởng của thuế suất nhập khẩu mặt hàng dược phẩm đối với thị trường dược phẩm. 34 2.6.2. Ảnh hưởng của cam kết về thuế nhập khẩu trong tổ chức WTO đến thị trường dược phẩm 37 2.6.3. các tác động khác ảnh hưởng đến thị trường dược phẩm nhập khẩu Việt Nam 40 CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ CÁC ẢNH HƯỞNG XẤU CỦA THUẾ QUAN ĐẾN MẶT HÀNG DƯỢC PHẨM 43 3.1. DỰ BÁO THỊ TRƯỜNG DƯỢC PHẨM 43 3.1.1. Thị trường dược phẩm thế giới 43 3.1.2. Thị trường dược phẩm trong nước 44 3.2. CÁC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU Y TẾ VIỆT NAM. 46 3.2.1. Cơ hội 46 3.2.2. Thách thức 47 3.3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU Y TẾ VIỆT NAM 48 3.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG CỦA THUẾ NHẬP KHẨU ĐẾN MẶT HÀNG DƯỢC PHẨM, NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU 49 3.4.1. Một số giải pháp từ công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam (đại diện cho các doanh nghiệp nhập khẩu dược phẩm ở Việt Nam) 49 3.4.2.Một số giải pháp từ bộ y tế 54 3.4.3. Một số giải pháp từ cơ quan Hải Quan. 55 KẾT LUẬN 58

doc62 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2663 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ảnh hưởng của thuế nhập khẩu đối với mặt hàng dược phẩm nhập khẩu, lấy ví dụ tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất dược phẩm trong nước. Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều chuyên gia liên quan trực tiếp đến lĩnh vực dược phẩm thì trên thực tế, thuốc ngoại nhập thường xuyên chiếm từ 60-70% thị phần tại Việt Nam và có khuynh hướng tăng mạnh. Tại rất nhiều nhà thuốc, các loại thuốc mang mác ngoại được "ưu tiên" hơn hẳn thuốc sản xuất trong nước. Mặc dù thuốc sản xuất trong nước chiếm khoảng 50% nhưng lại không được sử dụng đồng đều mà chỉ tập trung ở các tuyến bệnh viện cấp dưới. Bệnh viên tuyến trên sử dụng thuốc ngoại nhiều hơn. Theo thống kê của Cục Quản lý Dược, trong tổng giá trị thuốc đấu thầu của các bệnh viện, thuốc nhập khẩu đắt tiền chiếm tới 90%. Đơn cử như Viện bỏng chiếm 92%, Viện Da liễu quốc gia chiếm 96%, Bệnh viện phụ sản Trung ương chiếm 86%, Bệnh viện Bạch Mai chiếm 95%...      Một số năm gần đây, khi các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm trong nước rơi vào tình trạng khốn đốn, Bộ Y tế đã phải áp dụng một số biện pháp "chữa cháy" để tiết giảm bớt "cơn lũ" thuốc ngoại tràn vào Việt nam. Nhờ đó, khối bệnh viện trong nước mới hạn chế được phần nào cơ số thuốc nhập khẩu. Thế nhưng, chính sách"ưu tiên" này có lúc vẫn phải "chào thua" cơ chế hoa hồng của các hãng dược phẩm nước ngoài. Theo thông lệ, tỷ lệ hoa hồng đối với hợp đồng nhập khẩu thuốc thường từ 0.5-2%, đặc biệt có những trường hợp lên đến 3-5% nếu hợp đồng thực hiện với số lượng nhiều và lâu dài.      Theo cam kết gia nhập Tổ chức thương mại thế giới(WTO) của Việt Nam, từ 1/9/2009, các công ty dược phẩm nước ngoài có quyền mở chi nhánh tại Việt Nam và được tham gia nhập khẩu trực tiếp dược phẩm. Thêm vào đó, Việt Nam đang tiếp tục phải giảm thuế cho sản phẩm y tế là 5% và 2,5% cho thuốc nhập khẩu trong vòng 5 năm sau khi gia nhập WTO. Như vậy, thị trường dược đang mở rộng cửa cho các công ty nước ngoài, đặc biệt là trong lĩch vực nhập khẩu và hậu cần(logistic). Trước đây các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) trong lĩnh vực dược vào Việt Nam đầu tư nhà máy sản xuất thì nay có khoảng 70%-80% doanh nghiệp FDI này chuyển dần sang lĩnh vực lưu thông phân phối dược phẩm.      Theo dự báo của BMI, vào năm 2013, kim ngạch nhập khẩu thuốc sẽ vượt 1,37 tỷ USD trong khi xuất khẩu dược phẩm chỉ đạt 216 triệu USD. Thị trường thuốc nội      Đến nay, cả nước có trên 170 xí nghiệp dược phẩm tham gia sản xuất thuốc, trong đó gần 80 xí nghiệp đã được cấp chứng chỉ GMP theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới, với kinh phí xây dựng hàng trăm tỷ đồng.      Trong sản xuất, nhiều công nghệ mới đã được đưa vào áp dụng, chất lượng, độ ổn định của chế phẩm ngày càng được nâng cao.      Tuy nhiên, sản xuất thuốc trong nước hiện cũng còn gặp nhiều khó khăn như kinh phí đầu tư cho nghiên cứu phát triển còn hạn chế, đội ngũ cán bộ kỹ thuật và trang thiết bị chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu. Về chất lượng, thuốc mới được đánh giá chủ yếu về các tiêu chí lý hoá, chứ chưa có điều kiện để đánh gia tương đương sinh học khi cần. Chưa hết, tình trạng khá phổ biến là có loại thuốc đã lạc hậu trên thế giới nhưng các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm trong nước vẫn đưa vào kế hoạch sản xuất dài hạn và coi là mặt hàng thuốc chủ lực.      Ngoài ra, sản xuất thuốc trong nước còn có những khó khăn đặc thù như tác động của nóng ẩm nhiệt đới đến độ ổn định và tuổi thọ của thuốc, hay quy định phải hạn chế tăng giá đầu ra trong khi giá đầu vào luôn biến động. Do đó, xét về tính khả dụng hoặc với những dạng thuốc ứng dụng công nghệ cao thì chất lượng thuốc sản xuất trong nước có thể chưa tương đương với thuốc nhập khẩu. Những hạn chế trên làm các doanh nghiệp dược phẩm của Việt Nam khó mà nhấc mình lên được, dù chỉ trong hoàn cảnh cạnh tranh bình thường, và dĩ nhiên càng khó hơn gấp bội trong một cơ chế cạnh tranh mạnh được, yếu thua.      Cho tới nay, bài toán mà các doanh nghiệp dược phẩm quốc doanh phải tìm cách giải đáp chung quy vẫn chỉ xoay quanh các ẩn số: vốn đầu tư, trang thiết bị, giá cả. Với đà tung hoành của dược phẩm nước ngoài như đã đề cập, thật khó có thể xác định bao lâu nữa các mặt hàng thuốc trong nước mới chiếm lĩnh 2.5. THỰC TRẠNG KINH DOANH NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY CP XUẤT NHẬP KHẨU Y TẾ VIỆT NAM Các mặt hàng nhập khẩu của công ty. Doanh mục hàng nhập khẩu của công ty khá đa dạng tuỳ thuộc vào nhu cầu của trong nước. So với mặt hàng xuất khẩu thì hàng nhập khẩu có chủng loại khá phong phú phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Trong các chủng loại hàng hoá nhập được phân làm ba loại chính, đó là các mặt hàng thuốc tân dược, các máy móc thiết bị y tế và hàng hoá khác như: thuốc bắc, cao đơn, hạt nhựa các loại, bột PVC, dầu Siangpure và hoá chất thí nghiệm. Trong đó mặt hàng thuốc tân dược nhập khẩu chiếm vị trí chủ đạo trong hoạt động nhập khẩu cuẩ công ty. Mặt hàng 2005 2006 2007 2008 Giá trị (USD) Tỷ lệ (%) Giá trị (USD) Tỷ lệ (%) Giá trị (USD) Tỷ lệ (%) Giá trị (USD) Tỷ lệ (%) Tân dược 2.614.395 37,71 1.665.875 15,32 2.090.509 21,76 2.348.283 32,81 Máy móc y tế 2.868.906 41,38 4.182.219 38,48 2.213.338 23,04 2.728.063 38,12 Hàng hoá khác 1.448.697 20,91 5.019.331 46,2 5.299.202 55,2 2.079.681 29,07 Tổng cộng 6.931.998 100 10.867.425 100 9.603.049 100 7.156.027 100 Bảng 2.3: Kết quả nhập khẩu theo mặt hàng của công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam (2005-2008) Nguồn:phòng tổng hợp Phải nói rằng hoạt động nhập khẩu là hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty hiện nay. Kim ngạch nhập khẩu của công ty chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty .Năm 2005 nhu cầu về nhập khẩu thuốc tân dược và máy móc dụng cụ y tế khá lớn, nguyên nhân là do những mặt hàng này trong nước chưa sản xuất được và một số loại thuốc tân dược, máy móc dụng cụ y tế trong nước sản xuất ra chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước nên tỷ trọng nhập khẩu các mặt hàng này tương đối lớn chiếm 80% tổng kim ngạch nhập khẩu với giá trị 5.483.301 USD. Năm 2006 tỷ trọng nhập khẩu thuốc tân dược giảm đáng kể, chỉ chiếm 15,32% kim ngạch nhập khẩu và giảm 948520 USD so với năm 2005. Nhưng về mặt hàng máy móc và dụng cụ y tế lại tăng đáng kể so với năm 2005 là 1.313.313USD. Điều này cho thấy nhu cầu sử dụng máy móc và dụng cụ y tế ngày càng tăng lên, mà những mặt hàng này đòi hỏi phải có trình độ công nghệ cao nên trong nước chưa sản xuất ra được do đó đòi hỏi nhu cầu nhập khẩu ngày càng lớn hơn. nhưng nếu xét về tỷ trọng nhập khẩu thì tỷ trọng nhấp khẩu máy móc và dụng cụ y tế lại có sự giảm sút so với năm 2005. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu về nhập khẩu các hàng hoá khác, giá trị nhập khẩu các loại hàng hoá khác đạt 5.019.331 USD tỷ trọng 46,2% tổng giá trị nhập khẩu. Trong đó các mặt hàng nhập chủ yếu là thuốc bắc, cao đơn và dầu gió xanh con ó, giá trị đạt 4.762.426 USD và các mặt hàng khác như bột PVC, DOP, dầu Siangpure các loại và Cao Siangpure... Năm 2007 kim ngạch nhập khẩu của công ty giảm nhẹ so với năm 2006, giá trị nhập khẩu đạt 9.603.049 USD bằng 88,36% so với năm 2006. Trong đó giá trị nhập khẩu thuốc tân dược và máy móc dụng cụ y tế ở mức ổn định hơn 2 triệu USD nhưng giá trị nhập khẩu các mặt hàng khác lại có phần tăng hơn mà mặt hàng chủ yếu vẫn là thuốc bắc Cao đơn, dầu gió xanh Con ó, và hàng chương trình PMU, điều này cho thấy nhu cầu về sử dụng thuốc tân dược và máy móc dụng cụ y tế đã ổn định và một số mặt hàng trong nước đã sản xuất đủ phục vụ nhu cầu trong nước. Sang năm 2008 do thực hiện chính sách của nhà nước là hạn chế nhập khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu nhằm khuyến khích sản xuất trong nước phát triển do vậy kim ngạch nhập khẩu của năm 2008 giảm xuống rất đáng kể, thấp hơn so vớia kim ngạch nhập khẩu của năm 2006 và năm 2007. Nhu cầu về nhập khẩu thuốc và máy móc dụng cụ y tế vẫn ở mức ổn định đạt giá trị là 2.348.238 USD và 2.728.063 USD chiếm tỷ trọng tương ứng là 32,81% và 38,12% tổng giá trị nhập khẩu. Điều này là do giá trị nhập khẩu hàng hoá kháng giảm một cách đáng kể một phần là do sản xuất trong nước đã đáp ứng một phần nhu cầu tiêu thụ sản phẩm. Đây là sự linh hoạt năng động cảu công ty trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Thị trường nhập khẩu của công ty Thị trường 2005 2006 2007 2008 Giá trị (USD) Tỷ lệ Giá trị (USD) Tỷ lệ Giá trị (USD) Tỷ lệ Giá trị (USD) Tỷ lệ Trung Quốc 1.037.926 2.852.754 968.772 2.135.426 Hồng Công 156.506 188.124 110.238 120.324 Đài Loan 65.714 64.755 54.780 47.875 ấn độ 132.751 128.321 243.690 256.972 Nhật Bản 629.438 1.916.320 1.502.698 983.216 Thái Lan 729.153 618.531 603.497 470.513 Singapore 154.686 729.432 184.498 158.802 Malaysia 59.729 88.017 9.705 17.670 Hàn Quốc 427.802 171.750 474.824 375.435 Anh 264.000 511.360 303.633 215.000 Pháp 616.318 956.990 613.026 730.250 Đức 1.204.805 1.305.747 1.246.382 960.342 Áo 10.000 1.649.748 57.621 Thuỵ sĩ 266.295 432.921 19.000 38.750 Hungari 189.933 223.034 5.717 23.180 Hà lan 46.140 2.555 Ba lan 250.000 130.000 240.530 Italia 12.673 54.490 NTT 112.257 221.500 125.949 275.239 Ship 6254 Canada 102.132 Mỹ 146.202 10.171 266.084 327.565 úc 616.219 349.384 705.400 650.123 Tiệp khắc 35.000 500.000 Philippin 41.124 Tổng cộng 6.931.998 10.867.497 9.603.049 7.156.027 Bảng 2.4: Kết quả nhập khẩu theo thị trường năm 2005-2008. Nguồn: phòng thống kê Nguồn cung cấp hàng nhập khẩu của công ty có nhiều thị trường khác nhau trên thế giới nhưng tập trung chủ yếu tại một số nước Châu á. Nguyên nhân chủ yếu là do vị trí địa lý thuận tiện cho việc vận chuyển giao dịch, mặt khác những hàng hoá nhập về từ thị trường này là một số loại thuốc đông dược cao hơn và một số loại thuốc phù hợp với tiêu dùng trong nước và một số máy móc dụng cụ y tế hiện đại với giá cả rẻ hơn ở các thị trường khác trong khi đó chất lượng cũng đáp ứng được nhu cầu trong nước. Một số thị trường cung cấp hàng hoá chính cho công ty là các thị trường Trung Quốc, Nhật Bnả, Hàn Quốc, Đài Loan, ấn Độ, Pháp, Đức, Mỹ, úc... các thị trường này cung cấp cho công ty một số lượng hàng hoá lớn và ổn định, đáp ứng được một số yêu cầu tiêu thụ trong nước... Bên cạnh các thị trường cung cấp hàng hoá chính của công ty là một số thị trường nhỏ cung cấp cho công ty một số loại hàng hoá đặc biệt mà thị trường lớn khong có như một số loại thuốc biệt dược, tuy khối lượng và giá trị hàng hoá từ các thị trường này không lớn nhưngnó cũng góp phần làm đa dạng và phong phú dang mục hàng hoá nhập khẩu của công ty. Hiện nay công ty vẫn đang nỗ lực tìm kiếm và mở rộng thị trường mới, nhằm tìm kiếm và mở rộng các nguồn hàng mới để đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu ở trong nước và nó cũng làm tăng mối quan hệ kinh tế của công ty với các bạn hàng quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh và thương mại quốc tế 2.6. ẢNH HƯỞNG CỦA THUẾ QUAN NHẬP KHẨU ĐẾN MẶT HÀNG DƯỢC PHẨM NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM, LẤY VD TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU Y TẾ VIỆT NAM 2.6.1 Ảnh hưởng của thuế suất nhập khẩu mặt hàng dược phẩm đối với thị trường dược phẩm. Tác động đến giá cả Việc áp thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm nhập khẩu sẻ làm cho giá cả của các mặt hàng nhập khẩu tăng lên. Chính sách thuế nhập khẩu dược phẩm, Việt Nam chỉ có ba mức thuế: 0% với thuốc hiếm, 5% với thuốc đặc trị, 10% với thuốc thông thường (trên giá CIF). Việc áp thuế nhập khẩu làm tăng giá cả hàng nhập khẩu là một hình thức làm tăng ngân sách nhà nước và vừa là bảo hộ nền sản xuất trong nước. Hiên nay, Việt Nam là thành viên của WTO nên theo cam kết sẻ cắt giảm thuế quan đối với các nước trong khu vực, vì thế ảnh hưởng của thuế quan đến giá cả hàng nhập khẩu không còn cao như trước. Nhưng dù sao việc áp thuế suất nhập khẩu cũng góp phần làm tăng giá cả hàng nhập khẩu trong nước. Tác động đến thị trường nhập khẩu Việt Nam là một thành viên chính thức của WTO, ASEAN… điều này đã mở ra các quan hệ song phương giửa Việt Nam và các nước trong khu vực. chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đối với các nước trong khu vực này thấp hơn so với các nước ngoài khu vực nên thị trường nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam chủ yếu là các nước thành viên trong các tổ chức như WTO, ASEAN…… Tác động đến loại hàng nhập khẩu. Về thuế nhập khẩu dược phẩm, Việt Nam chỉ có ba mức thuế: 0% với thuốc hiếm, 5% với thuốc đặc trị, 10% với thuốc thông thường (trên giá CIF). Thuốc thông thường là chủng loại thước được sử dụng thường xuyên nhất và cũng là chủng loại thuốc chủ yếu mà nên công nghiệp dược nước ta sản xuất được. Nguyên nhân của viếc áp thuế cao đối với nhóm thuốc thông thường là bảo hộ và khuyến khích nền sản xuất dược phẩm trong nước. Áp thuế cao đối với thuốc thông thường làm cho giá cả của thuốc ngoại và thuốc nội có sự chênh lệch, thuốc nội có giá thấp hơn cùng với chất lượng không thua kém thuốc ngoại. Vi dụ sản phẩm Klacid của Abotte - Anh giá 32.000 đồng/viên, trong khi sản phẩm Clarithromycin Stada của một Cty LD với VN chỉ có giá 5.480 đồng. Việc áp các mức thuế khác nhau đối với từng các nhóm thuốc dẩn đến có sự khác nhau đối với tỷ lệ nhập khẩu các loại thuốc ngoại vào Việt Nam. Nhóm thuốc được nhập khẩu nhiều về Viêt Nam chủ yểu là các nhóm thuốc trong nước chưa sản xuất được hoặc chất lượng sản xuất trong nước kém. Những lô hàng có giá trị nhập khẩu cao là vắc-xin ngừa loét dạ dày Rotarix hộp/liều, vắc-xin ngừa ung thư cổ tử cung Cervarix hộp/liều, Puregon (Follitropin Beta) Inj 600 Iu/0.72ml của Singapore... Tất cả những lô hàng này đều có trị giá trên 1 triệu USD. Bên cạnh đó, nhóm thuốc được nhập về nhiều nhất vẫn là kháng sinh, tiếp đến là nhóm sinh phẩm và vắc-xin. Riêng nhóm thuốc tiêu hóa thì chỉ số nhập khẩu vẫn chậm, thuốc sản xuất trong nước đang tăng tốc. Hiện nay, thuốc tiêu hóa là một trong những nhóm thuốc thiết yếu mà VN đang sản xuất khá thành công. Có thể nói, lượng sản xuất thuốc tiêu hóa trong nước hiện chỉ đứng sau nhóm thuốc kháng sinh và nhóm chống viêm – giảm đau – hạ nhiệt. Đây chính là những nguyên nhân khiến tốc độ nhập khẩu nhóm thuốc này giảm hơn so với những nhóm hàng khác. Năm 2008, có đến trên 30 thị trường cung cấp thuốc tiêu hóa vào VN và trong năm 2009 , nhóm thuốc này nhập vào nước ta từ 27 thị trường. Tác động đối với hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty (lấy ví dụ tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam) Trên cơ sở nhu cầu của thị trường và chính sách thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng dược phẩm nhập khẩu của nhà nước. Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam chủ yếu nhập khẩu các nhóm thuốc tân dược chủ yếu là. kháng sinh hạ nhiệt, giảm đau, chống viêm, Tim mạch Tiêu hóa Vitamin Dịch truyền và một số loại khác.ngoài ra còn có một số thuốc đông dược và các thiết bị y tế khác nhưng chiếm tỷ lệ nhập khẩu thấp. Thị trường nhập khẩu chủ yếu của công ty chủ yếu là các nước thuốc châu á như China, Korea, Đai loan, Thái Lan, Ấn Độ. Các nước có nên công nghiệp dược phát triển như Pháp, Hà Lan, Đức, Áo, ÚC. 2.6.2. Ảnh hưởng của cam kết về thuế nhập khẩu trong tổ chức WTO đến thị trường dược phẩm Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ thương mại với 160 nước và vùng lãnh thổ, tham gia 86 hiệp định thương mại, 46 hiệp định hợp tác đầu tư và 40 hiệp định chống đánh thuế 2 lần, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của trên 70 nước, chính thức là thành viên thứ 150 của WTO năm 2006. Các cam kết chủ yếu trong lĩnh vực dược phẩm khi Việt Nam gia nhập WTO Cam kết về thuế suất nhập khẩu Theo dự kiến mức thuế áp dụng chung cho dược phẩm sẽ chỉ còn 0- 5% so với mức thuế 0- 10% như trước đây. Theo cam kết về lộ trình giảm thuế của Việt Nam khi gia nhập WTO, thì phần lớn các mặt hàng dược phẩm sẽ được cắt giảm thuế còn 0%. Mức thuế trung bình sẽ là 2.5% sau 5 năm kể từ ngày Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Việt Nam là một nước đang phát triển và đồng thời nền kinh tế thị trường còn chưa thực sự được công nhận chính vì vậy việc thực hiện các nghĩa vụ đối với các nước thành viên trong cộng đồng WTO sẽ được gia hạn sau 5 năm kể từ ngày gia nhập (đối với lĩnh vực dược phẩm nói riêng). Điều đó có nghĩa là khi gia nhập WTO, giá thuốc sẽ giảm xuống và trên bình diện chung, người dân sẽ có lợi rất nhiều. Như vậy sau khi Việt Nam cắt giảm mức thuế quan xuống còn 0-5% thì các doanh nghiệp dược phẩm nước ngoài có thể tham gia vào thị trường Việt Nam một cách dễ dàng hơn. Đồng thời giá của các loại thuốc tân dược nước ngoài hiện nay giảm đi càng làm gia tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm này Thế nhưng, ngành Dược Việt Nam chủ yếu là công nghiệp bào chế, sản xuất các thuốc gốc, chưa chú trọng phát triển nguồn dược liệu để sản xuất thuốc. Thuốc sản xuất trong nước chỉ bảo đảm được khoảng 652/1.563 hoạt chất. Vì thế, theo phân tích của nhiều doanh nghiệp, việc giảm giá thành dược phẩm khi gia nhập WTO tuy lớn nhưng sẽ chỉ tùy thuộc vào một số mặt hàng. Đối với các dòng thuốc hiếm, nhất là các thuốc chuyên khoa mà Việt Nam chưa sản xuất được, việc giảm giá chỉ có thể xảy ra khi các công ty đa quốc gia có ý định giảm. quyền kinh doanh kể từ ngày 1/1/2009 , doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh doanh nghiệp nước ngoài tại Viêt Nam được trực tiếp xuất nhập khẩu dược phẩm quyền phân phối trực tiếp Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam sẽ không được tham gia phân phối trực tiếp dược phẫm tại Việt Nam. Các thuốc do doanh nghiệp có vốn đầu từ nước ngoài, chi nhánh doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam nhập khẩu trực tiếp sẻ được bán lại cho các doanh nghiệp trong nước có chức năng phân phối ( kể từ ngày 1/1/2009) Ảnh hưởng tích cực đối với các cam kết trong lĩnh vực dược phẩm khi Việt Nam gia nhập WTO Việc gia nhập WTO đã mở ra một môi trường đầu tư kinh doanh, thông thoáng, minh bạch và thuận lợi hơn giủa Việt Nam và các nước thành viên. đối với thị trường dược phẩm, việc Việt Nam gia nhập WTO đã tạo ra những cơ hội mới cho thị trường Thuận lợi trong việc tiếp cận các đối tác kinh doanh để hợp tác sản xuất, chuyển giao công nghệ từ ngày 1/1/2007, theo cam kết, các doanh nghiệp nước ngoài sẻ được quyền mở chi nhánh tại Việt Nam ( tăng cường cơ hội hợp tác, liên doanh, liên kết) Cam kết không cho các doanh nghiệp nước ngoài phân phối trực tiếp dược phẩm tại Việt Nam là cam kết vĩnh viễn Cam kết giảm thuế suất đối với tất cả các loại mặt hàng, thuộc mọi lĩnh vực ( trong đó có dược phẩm) nhằm đảm bảo sự thuận lợi và dễ dàng trong lưu thong hàng hoá của các nước thành viên Ảnh hưởng tiêu cực đối với các cam kết trong lĩnh vực dược phẩm khi Việt Nam gia nhập WTO Đối với nguyên liệu nhập khẩu, Việt Nam cam kết giảm thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu làm thuốc: có 3 dòng thuế, mức thuế suất nhập khẩu giảm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, mức giảm 5% với thời gian cam kết thực hiện từ 3-5 năm. Do trước và sau khi gia nhập WTO thuế suất nguyên liệu chủ yếu là 0% nên không có ảnh hưởng nhiều tới các doanh nghiệp sản xuất phải nhập khẩu nguyên liệu, tuy nhiên sẻ gây ảnh hưởng lớn tới một số doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu của Việt Nam. Đối với thuốc thành phẩm, Việt Nam cam kết giảm thuế suất nhập khẩu đối với thuốc thành phẩm: có 47 dòng thuế có mức thuế suất thuế nhập khẩu giảm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, là các dòng thuế hiện có mức thuế suất nhập khẩu là 10% và 15%. Thời gian cam kết thực hiện là từ 2-5 năm ( trung bình là 3 năm). Mức giảm từ 2-7%( trung bình là 3%). Trong đó có một số dòng thuế chính đó là: nhóm kháng sinh (18/29 dòng thuế), nhóm vitamin ( 04/9 dòng thuế) Việc giảm thuế suất nhập khẩu một số dòng thuế sẻ là thách thức cho các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm trong nước trong việc canh tranh với thuốc nhập khẩu từ bên ngoài. 2.6.3. các tác động khác ảnh hưởng đến thị trường dược phẩm nhập khẩu Việt Nam Tỷ giá hối đoái Thị trường dược phẩm VN hiện nay có đến 90% nguyên liệu và trên 50% thuốc thành phẩm phải nhập khẩu. trong thời gian qua nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu,tỷ giá ngoại tệ nhập khẩu tăng cao so với đồng tiền trong nước,cùng với sự khan hiếm các nguồn nghiên liệu vì thế đã đẩy giá cả của nguyên liệu thuốc nhập khẩu tăng cao, giá thuốc thành phẩm vì thế cũng tăng cao. Thống kê của Hiệp hội Sản xuất kinh doanh dược trong 2 tháng vừa qua cho thấy giá nguyên liệu kháng sinh từ Ấn Độ và Trung Quốc đã tăng nhiều so với đầu năm. Chẳng hạn: Amoxicilin từ 882.000 đồng tăng lên hơn 1 triệu đồng/kg (tăng 14%); Cephalexin từ 1,1 triệu đồng lên gần 1,2 triệu đồng/kg, Paracetamol từ 37.000 đồng tăng lên 40.000 đồng/kg (tăng 8% Sự độc quyền nhập khẩu của các công ty nhập khẩu Theo một chuyên gia ngành dược thì vào những năm 1990 pháp luật quy định nhà sản xuất nước ngoài khi đã đăng ký lưu hành thuốc vào Việt Nam thì tất cả các đơn vị xuất nhập khẩu ở Việt Nam có chức năng phân phối đều được mua thuốc của nhà sản xuất này. Nhưng 10 năm gần đây, Bộ Y tế ban hành quy định cấp số đăng ký cho các loại thuốc (cấp cho cả nhà sản xuất và nhà phân phối) thì nảy sinh cơ chế độc quyền. Bởi khi nhà phân phối đăng ký một loại thuốc thì nhà sản xuất không thể bán cho nhà phân phối khác ở Việt Nam. Vì nhà phân phối có số đăng ký độc quyền phân phối sản phẩm ấy tại Việt Nam. Ngoài ra, các nhà phân phối còn lợi dụng quy định “không nhập khẩu các loại thuốc mới có chứa hoạt chất đã được đăng ký với nhiều tên” để củng cố thêm thế độc quyền. Một nhà phân phối đăng ký cùng lúc nhiều loại thuốc chứa cùng một hoạt chất để nhà phân phối khác không đăng ký thêm được loại thuốc khác có hoạt chất ấy. Chính cơ chế trên giúp các nhà phân phối nước ngoài độc quyền giá bán mà không sợ cạnh tranh. Đến năm 2004, Bộ Y tế sửa sai bằng quy định cho nhập khẩu song song các loại thuốc bị áp đặt giá cao tại Việt Nam nhưng cũng không cải thiện được tình hình vì... mọi sự đã rồi. Bởi lúc ấy, nhà phân phối nắm thế độc quyền đã chiếm hết thị phần phân phối các loại thuốc ấy tại Việt Nam, nhà sản xuất cũng không dám bán cho nhà phân phối khác. Vd : “Một hộp Eucalyptine viên rời, hộp 42 viên giá chỉ có 28.000 đồng. Sau khi chuyển giao cho hệ thống phân phối độc quyền là Cty Z. thuốc được ép vỉ và bán 42.000 đồng/hộp/28 viên mà chất lượng cũng như nhau”. Văn hóa tiêu dùng của người dân Nghiên cứu hành vi của NTD Việt Nam trong thời gian qua có thể thấy tâm lý “sính ngoại” đang chiếm ưu thế. Người dân không mặn mà với thị trường thuốc nội, thuốc ngoại càng đắt tiền thì chứng tỏ thuốc càng chất lượng, càng tốt, vì thế dẫn tới sự lợi dụng của các công ty nhập khẩu tăng giá thuốc để đánh vào tâm lý dùng hàng ngoại của người dân. Sự cấu kết giữa các công ty nhập khẩu với nhau Trong hệ thống phân phối dược phẩm Việt Nam đang diễn ra một thực trạng là các đơn vị môi giới, nhập khẩu… đang liên kết với nhau nhằm tạo ra một mạng lưới phân phối để lách luật. Theo đó, thuốc trước khi nhập khẩu vào Việt Nam đã được các nhà phân phối, Cty môi giới cấu kết với văn phòng đại diện của Cty nước ngoài ấn định giá. Các Cty nước ngoài cũng quyết định luôn giá bán buôn và bán lẻ ra thị trường. các Cty phân phối dược phẩm trong và ngoài nước đang cấu kết với nhau đẩy giá thuốc tại Việt Nam cao hơn 200% - 300% so với giá gốc. Ngoài độc quyền phân phối, thuốc được các hãng dược tự định giá thuốc, trong đó bao gồm các chi phí và có cả phí hoa hồng cho bác sĩ, trước khi lưu thông. Theo một dược sĩ, một viên thuốc Decolgen do Cty United Pharma của Philippines sản xuất bán 600 đồng/viên, trong khi đó thuốc Cetamol Fort cũng tương đương do mua nguyên liệu một chỗ, các chi phí như nhau nhưng Cty Pharmedic sản xuất chỉ bán 60 đồng/viên. Hoa hồng cho bác sĩ và bệnh viện Để cạnh tranh thị phần với NPP độc quyền, các NPP được nhập khẩu song song phải chi hoa hồng cho bác sĩ để kê toa thuốc của mình. Các NPP có thế độc quyền cũng đáp trả, cuộc chiến “hoa hồng” bắt đầu. Hình thức của “hoa hồng” cũng đa dạng, phong phú từ cái phong bì gửi tận tay bác sĩ định kỳ hàng tháng đến món quà cho gia đình bác sĩ mỗi dịp lễ lạt, các suất tham gia hội thảo quốc tế kèm nghỉ dưỡng ở nước ngoài… Có khi, chỉ chi phí “hoa hồng” cho bác sĩ cũng còn cao hơn giá thực của thuốc khi NPP nhập khẩu. Những khoản trên DN bắt buộc phải tính vào chi phí quản lý, kinh doanh thuốc nếu không muốn chịu lỗ. Các chi phí ấy cuối cùng cũng rơi vào giá thuốc mà người bệnh phải trả, góp phần đẩy giá thuốc lên tới trời. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ CÁC ẢNH HƯỞNG XẤU CỦA THUẾ QUAN ĐẾN MẶT HÀNG DƯỢC PHẨM 3.1. DỰ BÁO THỊ TRƯỜNG DƯỢC PHẨM 3.1.1. Thị trường dược phẩm thế giới Thị trường dược phẩm thế giới hiện nay đang phân bố không đồng đều, 80% thị phần ở các nước phát triển và 20% ở phần còn lại của thế giới trong khi đó dân số ở các nước phát triển chỉ chiếm 10% dân số thế giới còn các nước đang phát triển và các nước nghèo chiếm 90% dân số thế giới. Theo thống kê của tổ chức Y Tế thế giới WHO thì trong các năm gần đây, con số người nghèo trên thế giới không được dùng thuốc chữa bệnh lên đến 70% và đặc biệt là các loại thuốc đặc trị, các loại thuốc mới. Tại sao lại có hiện tượng như vậy, đó là do thị trường dược phẩm thế giới hiện nay đang bị thao túng bởi các tập đoàn dược phẩm lớn. Các tập đoàn này với lợi thế có tiềm lực khoa học kỹ thuật, tài chính, kinh nghiệm có thể điều chỉnh mức giá mong muốn vì thế gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu dược phẩm ở các nước khác đặc biệt là các nước nghèo. Vì thế việc người tiêu dùng ở các nước nghèo có thể tiếp cận được với các mặt hàng thuốc đắt tiền là rất khó khăn. Thêm nữa, trong thời gian gần đây, tình trạng thuốc giả, thuốc kém chất lượng đang ngày càng nhiều ở các quốc gia trên thế giới và nhất là ở các nước đang phát triển. Hàng năm lượng thuốc giả vẫn đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của con người. Theo tổ chức Y Tế thế giới cho biết, mỗi năm thất thoát 35 tỷ USD trong thương mại dược phẩm. Gần đây, thuốc giả còn tấn công vào các bệnh viện lớn. Các loại thuốc đang bị làm giả nhiều nhất là kháng sinh, thuốc điều trị ung thư, rối loạn cương, sốt rét, tim mạch, … là những loại thuốc đắt tiền, có nhãn hiệu nổi tiếng. Trên thế giới đã phát hiện trường hợp ung thư dùng phải thuốc ung thư giả khiến bệnh ngày càng nặng. Theo các chuyên gia thì lượng thuốc giả không những giảm mà sẽ còn gia tăng trong thời gian tới. Điều này không những ảnh hưởng đến người tiêu dùng mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp ở những nước đang phát triển. Các doanh nghiệp luôn phải có thanh tra kiểm tra sát sao các mặt hàng nhập khẩu của doanh nghiệp mình để tránh bị làm giả nguy hại đến sức khỏe người tiêu dùng. 3.1.2. Thị trường dược phẩm trong nước Ngành dược phẩm chịu tác động của rất nhiều yếu tố, trong số đó dân số và thu nhập của người dân sẽ là yếu tố rất lớn ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của ngành, và tiền thuốc bình quân đầu người. Sự gia tăng về dân số cũng như nhu cầu sẽ khiến Việt Nam trở thành một thị trường giàu tiềm năng. Mặt khác, cùng với sự phát triển của xã hội, trình độ dân trí được nâng lên kéo theo đó là sự hiểu biết về các mặt hàng dược phẩm cũng được nâng lên nhanh chóng. Mặc dù đơn thuốc là do bác sĩ kê đơn tuy nhiên do dân trí được nâng lên nên người tiêu dùng đã có thể nhận thức được đầy đủ về các loại dược phẩm. Như vậy Việt Nam có thể coi là một thị trường đầy tiềm năng đối với hàng hoá nói chung và nhu cầu về dược phẩm nói riêng. Trong thời gian tới khi đời sống của nhân dân được nâng cao thì nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cũng càng được quan tâm nhiều hơn. Chính vì vậy theo cục quản lý dược Việt Nam tiền thuốc bình quân đầu người sẽ là 12-15 USD. Với nhu cầu sử dụng dược phẩm như vậy trên một qui mô dân số tương đối lớn các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải tìm cách đáp ứng được nhu cầu ngày một tăng này. Sự gia tăng về tiền thuốc bình quân đầu người tăng lên cũng có nghĩa là nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu về dược phẩm của người dân cũng ngày một lớn hơn. Với một thị trường tương đối lớn và còn giàu tiềm năng như vậy, các doanh nghiệp dược Việt Nam cũng cần phải chú ý tới sự xâm chiếm thị trường từ bên ngoài. Các doanh nghiệp nước ngoài luôn biết tận dụng thời cơ để lấn sâu vào thị trường đang lên. Nhất là đối với ngành dược phẩm, một mặt hàng mà bất cứ giai đoạn nào, thời kỳ nào con người cũng cần tới. Hình 3.1-Dự báo thị trường dược phẩm Việt Nam (Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam) Theo như biểu đồ dự báo thị trường dược phẩm như trên thì trong tương lai chắc chắn ngành dược phẩm sẽ có nhiều triển vọng để phát triển. Với tổng mức thị trường có xu hướng tăng lên đều đặn mặc dù tỉ lệ tăng trưởng không có sự thay đổi nhưng đây vẫn có thể coi là một thành công lớn của ngành dược phẩm Việt Nam. 3.2. CÁC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU Y TẾ VIỆT NAM. 3.2.1. Cơ hội Các dự báo về thị trường dược phẩm Việt Nam cho biết nhu cầu về thuốc khám chữa bệnh sẽ tăng cao trong thời gian tới vì thế các doanh nghiệp Dược sẽ có hướng tăng tổng mức nhập khẩu và do người dân có hiểu biết hơn về các mặt hàng dược phẩm sẽ là nhân tố tác động giúp các doanh nghiệp có thể chuyển hướng lựa chọn ưu tiên về chất lượng so với giá cả. Từ đó kéo theo mức lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu cũng tăng theo. Hiện nay, lượng thuốc nội mới chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu trong nước còn lại là 60% thuốc nhập ngoại. Điều này cho thấy công nghiệp dược nước ta phát triển chưa theo kịp nhu cầu của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, thị trường dược phẩm trên thế giới đang tập trung chủ yếu ở các nước phát triển, đây là một cơ hội để các nước đang phát triển và các nước nghèo tự mình khai thác tiềm năng thị trường sẵn có. Đối với Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam , với quy mô vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng năm tăng từ 4 tỷ lên 5 tỷ và tiếp tục tăng cao trong các năm tới, thì việc thu lợi nhuận từ 60% thị trường là một khoản thu rất lớn. Bên cạnh đó, 90% nguồn nguyên liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất trong nước đều là từ nguồn nhập ngoại. Trung bình hàng năm, giá trị nhập khẩu dược phẩm của nước ta lên đến 80 triệu USD. Bên cạnh đó, việc phát triển công nghiệp dược của nước ta theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi các công ty dược phẩm trong nước phải có đầy đủ các trang thiết bị hiện đại và cần thiết. Nước ta hiện nay mới chỉ có 175 công ty sản xuất dược phẩm, và chỉ 58 doanh nghiệp trong số đó được chứng nhận chứng chỉ chất lượng GMP. Nhu cầu về trang thiết bị rất lớn cũng mở cho các doanh nghiệp dược phẩm kinh doanh mảng thiết bị vật tư. Đây là một mảng kinh doanh rất lớn cho các doanh nghiệp nhập khẩu nói chung và Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam nói riêng. 3.2.2. Thách thức Bên cạnh thuận lợi đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu, các doanh nghiệp Dược cũng phải đối mặt với thách thức lớn nhất đó chính là sự cạnh tranh của thị trường dược phẩm và vấn đề thuốc giả hiện nay chưa được quản lý chặt chẽ. Việt Nam càng trở thành thị trường Duợc tiềm năng thì sẽ càng làm cho các doanh nghiệp muốn nhảy vào kinh doanh từ đó làm cho lợi nhuận của thị trường bị san sẻ, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu cũng bị giảm sút. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, càng có thêm nhiều các doanh nghiệp Dược phẩm lớn tham gia vào thị trường đặc biệt là các Công ty nước ngoài. Hiện nay, nước ta có trên 500 doanh nghiệp dược phẩm trong nước và trên 200 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này làm cho môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Một điều đáng nói ở đây đó là ngoài nguồn cung chủ yếu từ con đường nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước thì các mặt hàng thuốc đặc trị, thuốc chuyên sâu, thuốc có công nghệ cao lại chủ yếu do các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp. Trong thời gian tới, Chính Phủ đang khuyến khích các Công ty trong nước tự sản xuất và các Công ty nước ngoài tiếp tục đầu tư vào thị trường Dược phẩm Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau, như liên doanh với Việt Nam hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài. Việc các doanh nghiệp liên tiếp tham gia vào thị trường Việt Nam làm tăng mức độ cạnh tranh của thị trường này, điều này càng yêu cầu các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình. Một thách thức lớn đặt ra cho các doanh nghiệp dược phẩm nói chung cũng như Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam nói riêng đó là nạn làm thuốc giả hiện nay trên thị trường. Thuốc nhái, thuốc giả là một trong những vấn đề nóng bỏng và phức tạp hiện nay - đó là lời khuyến cáo của Tổ chức Interpol khi đề cập đến thực trạng thuốc tây giả trên thị trường VN hiện nay. Riêng khu vực Đông Nam Á, VN là nước đứng hàng thứ hai (sau Lào) có tình trạng thuốc giả nhiều nhất. 3.3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU Y TẾ VIỆT NAM Là đơn vị sản xuất và kinh doanh dược phẩm- thực phẩm với ý thức “ sức khỏe là vốn quý nhất”, công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam luôn luôn hướng tới “ chất lượng cao, hiệu quả cao” là mục tiêu duy nhất trong suốt quá trình hoạt động của công ty. Vì thế, hơn lĩnh vực nào khác, trong lĩnh vực sức khỏe, chất lượng phải đặt lên hàng đầu. *Mục tiêu Trở thành công ty lớn mạnh hàng đầu tại Việt Nam, trở thành một tập đoàn lớn mạnh phát triển bền vững, là lựa chọn số một đối với người tiêu dùng cũng như các đối tác nhờ uy tín và khả năng cung cấp sản phẩm dịch vụ. Trở thành nhà cung cấp chuyên nghiệp các sản phẩm về thực phẩm chức năng, mang lại cuộc sống tốt đẹp và khỏe mạnh cho con người Việt Nam. Xây dựng công ty thành một tổ chức chuyên nghiệp, tạo dựng công ăn việc làm ổn định, môi trường làm việc chuyên nghiệp, năng động, thu nhập cao cho toàn bộ cán bộ công nhân viên công ty. *Phương hướng phát triển Tiêu chí của công ty UY TÍN- CHẤT LƯỢNG làm nền móng phát triển. Công ty hướng tới thành công bằng việc cung cấp cho khách hàng những gói sản phẩm và dịch vụ đa dạng, hoàn hảo. Sự hài lòng và lơi ich của khach hàng là động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự phát triển của công ty. Sử dụng những phương thức quảng cáo đa phương tiện hiệu quả nhất để quảng bá hình ảnh và sản phẩm công ty đến với người tiêu dùng, đối tác. Giử vững và phát huy tốc độ phát triển của công ty về doanh số, thị phần, thị trường, uy tín và trình độ nhận thức. Quan hệ chặt chẽ bền vững với đối tác truyền thống và mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Tăng cường đào tạo, phát huy tinh thần sang tạo trong đội ngũ cán bộ công nhân viên nhằm tăng hàm lượng công nghệ, nâng cao hiệu quả công việc. Cũng cố, hoàn thiện và mở rộng mạng lưới tiệu thụ hàng hóa, xây dựng vững chắc các đại lý then chốt làm nền tảng cho sự phát triển. Về dịch vụ : luôn quan tâm, đẩy mạnh phát triển năng lực kỷ thuật của đội ngũ cán bộ công nhân viên, hàng năm các kỷ sư đều được tham gia các khóa đào tạo kỷ thuật của các hang nhằm đảm bảo chăm sóc khách hàng một cách tốt nhất. 3.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG CỦA THUẾ NHẬP KHẨU ĐẾN MẶT HÀNG DƯỢC PHẨM, NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU 3.4.1. Một số giải pháp từ công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam (đại diện cho các doanh nghiệp nhập khẩu dược phẩm ở Việt Nam) 3.4.1.1. Tiến hành quản lý thời gian Hoạt động nhập khẩu hàng của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam là một hoạt động xuyên suốt quá trình từ khâu lựa chọn nhà cung ứng tới việc tiêu thụ hàng. Trong mỗi bước đều có sự phát sinh chi phí vì thế việc sử dụng vốn, thời gian sao cho hợp lý là cần thiết. Nói đến quản lý thời gian, đó là việc Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam đặt ra các hạn mức thời gian nhất định cho từng khâu, từng bước. Tránh tình trạng công việc bị ứ đọng, người này là không xuể còn người khác lại không có việc để làm. Điều này sẽ tác động xấu làm phát sinh thêm nhiều chi phí và thời gian vô ích. Vì thế để công tác quản lý thời gian trong kinh doanh nhập khẩu được tốt hơn thì việc quy định, tính toán thời gian hoàn thành công việc phải hợp lý nhất để tiết kiệm thời gian đồng thời đẩy nhanh tiến độ công việc, tạo thêm thời gian quay vòng vốn nhanh từ đó vừa giảm bớt các chi phí không cần thiết vừa tăng thêm hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Quản lý thời gian nên đặt ở chính mỗi phòng và do trưởng phòng đảm nhiệm, trưởng phòng sẽ là người nắm bắt được tình hình tiến triển công việc chung trong phòng và sẽ biết được tốt nhất việc nào nên làm trước, việc nào nên làm sau, điều phối hoạt động của cả phòng sao cho tận dụng được tối đa thời gian mỗi ngày. 3.4.1.2. Tăng cường huy động vốn, nâng cao hiệu quả công tác quản lý vốn cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu Vốn là một yếu tố rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Nguồn vốn có thể đến từ nhiều kênh khác nhau như vốn Nhà nước, vốn cổ đông, vốn vay từ ngân hàng, vốn từ hoạt động chứng khoán, vốn tự có phát sinh từ các hoạt động kinh doanh có lãi và vốn của Ngân hàng. Các biện pháp tăng nguồn vốn tự có và vốn cổ đông được khuyến khích do mức lãi suất thấp hơn nguồn vốn đi vay của Ngân hàng. Việc quản lý vốn sao cho hiệu quả rất quan trọng, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam liên tục cố gắng tăng quy mô vốn và tăng số quay vòng vốn, tránh không để tình trạng một số khách hàng chiếm dụng vốn thông qua việc trả chậm làm phát sinh những khoản nợ khó đòi. Để khắc phục tình trạng này, Công ty nên có những biện pháp khuyến khích cho các khách hàng có thể thanh toán sớm đồng thời có những quy định chặt chẽ hơn đối với các khách hàng trong việc thanh toán. Như vậy, để nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu thì công tác quản lý về thời gian và vốn cần phải được quan tâm hàng đầu để tránh các chi phí không đáng có gây thiệt hại cho hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. 3.4.1.3. Nâng cao mức độ nhạy bén của doanh nghiệp trước các nguyên nhân làm tăng giá thuốc Hàng loạt các mặt hàng thuốc tây tăng giá vùn vụt, gây "sốc"cho người dân. Trung bình các loại thuốc tăng giá khoảng 10-20% so với đầu năm 2009, có không ít loại tăng đến gần 100% .Ngày 19-11-2009, ghi nhận tại một số nhà thuốc, trung tâm bán sỉ dược phẩm tại TPHCM cho thấy những loại thuốc tăng giá gây "giật mình" nhất là 14 mặt hàng thuốc của Công ty Gedeon Richter (Hungary) sản xuất, Công ty cổ phần Dược phẩm Bến Tre (Bepharco) nhập khẩu và phân phối. Giá thuốc mới được Bepharco thông báo tăng kể từ ngày 1-11-2009. Cụ thể, thuốc Cavinton 5mg giá bán tăng từ 67.000đ/hộp hai vỉ/25 viên lên gần 97.000đ/ hộp, tăng khoảng 44%. Cũng thuốc này nhưng hàm lượng 10mg từ 70.000đ/hộp hai vỉ/15 viên lên gần 104.000đ/ hộp (tăng khoảng 48%); thuốc Panangin từ 32.000đ/hộp/50 viên lên 42.000 đ (31%); thuốc Mydocalm loại 150 mg tăng từ 43.000/hộp ba vỉ/10 viên lên 60.000 đ, tăng khoảng 39%. Cũng thuốc này nhưng hàm lượng 50 mg giá từ 27.000 đ tăng lên gần 38.000 đ... Ngoài ra, 3/5 mặt hàng thuốc của Công ty Egis (Hungary) sản xuất do Bepharco nhập khẩu, phân phối cũng tăng giá bán khá cao. Theo một số nhà thuốc, trước đây khi các công ty chuẩn bị tăng giá thuốc thì các trình dược viên đều biết trước để thông báo cho khách hàng (nhà thuốc bán lẻ) mua nhiều hơn với giá cũ nhằm điều chỉnh giá lẻ bán ra tăng dần từng bước cho khách hàng không bị "sốc". Thế nhưng, thời gian gần đây việc tăng giá thuốc của một số công ty được giữ rất kín. Vì vậy, nhiều nhà thuốc không biết để lấy thêm hàng, dẫn đến tình trạng người bệnh phản ứng với giá thuốc đột ngột tăng quá cao. Thống kê sơ bộ 100 mặt hàng thuốc thông dụng thì có tới 92 mặt hàng tăng giá so với đầu năm 2007. Có những loại thuốc chỉ tăng nhẹ vài %, nhưng nhiều loại tăng 10% trở lên như: thuốc Efferalgan Codein (viên sủi) tăng 9,27% so với quí 1-2009; thuốc Tetra 500 mg (Mekophar cung cấp) tăng 13,46%; thuốc Enteric (Công ty cổ phần Dược phẩm 2-9 cung cấp) tăng 16,9%..., thuốc tăng giá mạnh nhất là các loại kháng sinh, kháng viêm, tim mạch, an thần. Các loại thuốc được sản xuất ở các nước Canada, Pháp, Hàn Quốc, Ấn Độ… đều tăng giá từ 10% trở lên. Chẳng hạn, thuốc Clofen 75 mg (kháng viêm - Hàn Quốc) đầu năm 2009 chỉ có 23.060 đ/hộp 10 viên, thì tháng 10-2009 tăng lên 28.000 đ/hộp (tăng 21,4%). Lý giải về việc tăng giá thuốc, doanh nghiệp đưa ra hàng tá lý do: giá nguyên liệu, chi phí sản xuất và bao bì đều tăng nên buộc các nhà sản xuất phải tăng giá thuốc. Các chi phí sản xuất, quản lý đối với nhà máy sản xuất thuốc theo tiêu chuẩn GMP-ASEAN hoặc GMP-WHO đều tăng cao hơn bình thường, nên các nhà sản xuất cũng phải tính vào giá thành. Còn theo một số công ty kinh doanh dược phẩm, do tác động của "cơn bão" giá ở rất nhiều mặt hàng trên thị trường, sắp tới khả năng sẽ có thêm nhiều mặt hàng thuốc tây tiếp tục tăng giá. Như vậy, có thể thấy rằng giá cả tăng cao sẽ khiến cho hiệu quả kinh doanh nhập khẩu cùng giảm đi do lượng thuốc nhập khẩu được tiêu thụ sẽ ít đi, nhưng vấn đề giá cả tăng cao là do nguyên nhân khách quan, Công ty không thể thay đổi được mà chỉ cố gắng phản ứng, dự báo trước được các mức giá sẽ tăng trong tương lai từ các kênh thông tin khác nhau để từ đó có những tính toán trước và giảm thiểu thiệt hại đối với hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. 3.4.1.4. Đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, xúc tiến bán hàng tạo điều kiện cho việc tiêu thụ hàng nhập khẩu Hoạt động quảng cáo xúc tiến có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng nhập khẩu. Giúp cho khách hàng biết đến sản phẩm của Công ty và gợi mở nhu cầu sử dụng sản phẩm cho họ. Tuy nhiên hầu hết các sản phẩm nhập khẩu hiện nay tiêu thụ thông qua các Công ty khác hoặc thông qua việc kê đơn của bác sĩ. Để có thể tiêu thụ tốt hơn lượng hàng nhập khẩu Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam cần có các kế hoạch đầu tư cho hoạt động quảng cáo, xúc tiến thông qua hội nghị khách hàng, tổ chức đội ngũ nhân viên marketing chuyên nghiệp, mở các quầy hàng bán và giới thiệu sản phẩm. Quảng cáo xúc tiến là một hoạt động cần thiết giúp cho người tiêu dùng có thêm được các thông tin về sản phẩm mà công ty cung ứng. Hiện nay các sản phẩm của Công ty chủ yếu được quảng cáo trên các tạp chí thuốc và sức khỏe, nhưng mức độ quảng cáo cũng chưa thường xuyên. Bên cạnh đó, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam còn áp dụng quảng cáo thông qua việc quảng cáo trên các kênh của đài truyền hình, đài phát thanh, …. Đây là những hoạt động cần thiết giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu. Tổ chức các hội nghị khách hàng cũng là một hình thức quảng cáo tới người tiêu dùng. Đặc biệt ở hình thức quảng cáo này đó là tạo được mối quan hệ thân thiết với khách hàng. Tuy nhiên nhược điểm của hình thức này là chi phí cho mỗi lần tổ chức khá tốn kém và lượng khách hàng có thể tham gia với số lượng hạn chế. Biện pháp này nên áp dụng đối với những khách hàng là doanh nghiệp lớn, khách hàng thường xuyên, khách hàng có tiềm năng tiêu thụ mạnh. Hiện nay, mỗi năm Công ty mới chỉ tổ chức được 2 cuộc họp hội nghị khách hàng để giới thiệu sản phẩm. Trong mỗi cuộc hội nghị, Công ty thường thu được nhiều ý kiến bổ ích đóng góp cho hoạt động kinh doanh và cũng qua đó biết được những yêu cầu của khách hàng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu từ đó cũng góp phần tăng hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu. Quảng cáo thông qua việc mở ra các quầy hàng và giới thiệu sản phẩm. Hiện nay người tiêu dùng thường đến các cửa hàng thuốc trong cả nước mua những sản phẩm mà họ có nhu cầu sử dụng vì thế việc có những quầy hàng của riêng Công ty sẽ là nơi có nhiều sản phẩm của Công ty nhất, giúp người tiêu dùng không bị lẫn lộn với sản phẩm của các Công ty khác từ đó tạo cho họ có thêm dấu ấn đối với hàng hóa của Công ty. Hoạt động của các quầy hàng không chỉ bó hẹp trong việc quảng cáo hàng hóa mà còn phải tạo uy tín, thương hiệu thông qua việc hướng dẫn sử dụng cho người tiêu dùng. Tất cả các biện pháp trên đều có tác dụng giúp nâng cao hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh và Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 nên dành ra một khoản kinh phí nhất định để phục vụ cho các hoạt động này. 3.4.2.Một số giải pháp từ bộ y tế Thứ nhất, nhập khẩu: Bộ Y tế sẽ ban hành thông tư hướng dẫn bổ sung hướng dẫn xuất nhập khẩu thuốc và mỹ phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Đồng thời, Bộ Y tế có văn bản đề nghị Bộ Tài chính xem xét lại việc áp mã thuế nhập khẩu đối với các thuốc đã được Bộ Y tế cho phép nhập khẩu không áp dụng vào mã thuế của mỹ phẩm; xem xét lại việc sử dụng phương pháp dựa vào giá bán lẻ để tính thuế nhập khẩu. Thứ hai, nhập khẩu: Bộ trưởng Bộ Y tế sẽ ban hành chỉ thị mới về việc cung ứng thuốc, sử dụng thuốc trong các cơ sở điều trị. Bên cạnh đó, Bộ Y tế có cơ chế, chính sách cụ thể khuyến khích sử dụng thuốc của các cơ sở sản xuất trong nước đạt tiêu chuẩn ""Thực hành sản xuất thuốc tốt"" (GMP). Tổng Công ty Dược Việt Nam, các Công ty - Xí nghiệp Dược nghiên cứu, xây dựng kế hoạch tổ chức đấu thầu. Thứ ba, quản lý giá thuốc: Bộ Tài chính phải xây dựng Thông tư hướng dẫn thực hiện quản lý giá thuốc sau khi Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý giá thuốc, đồng thời ban hành các quy định về đấu thầu thuốc cung ứng cho bệnh viện và chế tài xử phạt những cơ sở vi phạm về giá thuốc. Thứ tư, chống độc quyền: Nhập khẩu song song và tổ chức nhập khẩu song song các thuốc đang bị áp đặt giá cao tại Việt Nam. Đồng thời, phải có quy định về sản xuất thuốc theo hợp đồng. Thứ năm, tài chính: Các bệnh viện phải được tạo nguồn kinh phí để chủ động đấu thầu mua thuốc cho bệnh viện trong thời gian sáu tháng - một năm. Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ cước vận chuyển thuốc tới vùng sâu, vùng xa... Thứ sáu, tuyên truyền giáo dục: Tuyên truyền nâng cao nhận thức trong việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, giúp người dân hiểu chất lượng thuốc sản xuất trong nước, khắc phục thị hiếu chuộng thuốc ngoại, biệt dược. Thứ bảy, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm: Kiểm tra và xử lý nghiêm hành vi trốn thuế, lậu thuế. Tăng cường thanh tra, kiểm tra liên ngành về giá thuốc trên thị trường. 3.4.3. Một số giải pháp từ cơ quan Hải Quan. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính đối với hoạt động nhập khẩu dược phẩm Hiện nay, để có thể nhập khẩu hàng về tiêu thụ, các doanh nghiệp Dược phẩm cần phải thông qua rất nhiều khâu. Đầu tiên, khi các doanh nghiệp thực hiện nhập khẩu dược phẩm theo danh mục quản lý của Bộ Y Tế phải lập hồ sơ gửi về Bộ Y Tế bao gồm các nội dung: Đơn xin phép nhập khẩu bao gồm 3 bộ hồ sơ trong đó 1 bộ gửi Tổng cục Hải quan, 1 bộ gửi doanh nghiệp và 1 bộ lưu tại Bộ Y Tế. Bộ gửi Hải quan sẽ được Bộ Y Tế đóng dấu “ BỘ GỬI HẢI QUAN” và gửi trực tiếp đến Tổng cục Hải Quan. Bộ gửi doanh nghiệp sẽ được Bộ Y Tế đóng dấu “ BỘ GỬI DOANH NGHIỆP”, doanh nghiệp được sử dụng bộ hồ sơ này để trình Hải quan cửa khẩu khi nhận hàng. Bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do Sở kế hoạch – Đầu tư tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương cấp, giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu do cơ quan Hải quan cấp ( chỉ nộp lần đầu khi xin nhập khẩu) Tài liệu hướng dẫn sử dụng, tài liệu kỹ thuật kèm theo ( bản gốc) và bản dịch tiếng Việt. Giấy phép lưu hành và các chứng chỉ chất lượng của cơ quan có thẩm quyền của các nước sản xuất cấp ( Bản sao có công chứng) Đây là một trong những khó khăn trong việc thực hiện các thủ tục thông quan hàng hóa. Nó làm chậm quá trình tiêu thụ hàng, làm giảm tiến độ nhập khẩu và còn tạo ra nhiều chi phí liên quan ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty . Đối với các lô hàng thường xuyên phải nhập về mà mỗi lần nhập phải qua 4 bước làm thủ tục sẽ gây phiền hà cho doanh nghiệp.Vì thế nhà nước cần có thêm các biện pháp giúp đơn giản hóa các thủ tục hành chính để giúp Công ty một mặt tiết kiệm được thời gian, chi phí mặt khác có thêm điều kiện để quay vòng vốn, nâng cao được hiệu qủa kinh doanh hàng nhập khẩu, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng trong nước. Cơ quan hải quan cần phải nhanh chóng hoàn thiện chi tiết biểu thuế nhập khẩu sao cho theo kịp với sự phát triển của ngành dược phẩm.Các văn bản thủ tục phai chi tiết rỏ ràng để tạo điều kiện thuận lợi trong làm thủ tục thông quan hàng hóa nhập khâu Theo lời ông Phạm Hưng Thịnh, đại diện Công ty dược phẩm trung ương 5 phát biểu: "Cục Quản lý dược nên làm việc với hải quan để họ áp thuế suất cho phù hợp. Nhiều khi hải quan áp giá để tính thuế không theo hợp đồng giữa các doanh nghiệp mà tính theo bảng giá riêng để đánh thuế cao, khiến giá thuốc bị đẩy lên". Phía Cục Quản lý dược cũng cho biết, biểu thuế nhập khẩu không chi tiết được từng loại hoạt chất. Vì vậy, nhiều khi hải quan chỉ căn cứ vào tờ hướng dẫn sử dụng, xếp các thuốc có từ "giảm đau" vào nhóm thuốc giảm đau, hạ sốt có thuế suất cao, mặc dù đó là thuốc chuyên khoa sâu, dạng bào chế hiện đại mà trong nước chưa sản xuất được. Bộ Y tế đã nhiều lần đề nghị Bộ Tài Chính điều chỉnh giá thuế nhập khẩu, những thuốc mà trong nước cần mà chưa sản xuất được thì nên áp thuế 0% để người dân được hưởng lợi nhiều nhất. KẾT LUẬN Ở nước ta hiện nay, việc tiêu thụ thuốc từ hàng nhập khẩu là khá lớn, chiếm đến 60% tổng thuốc trên thị trường. Do vậy,biểu thuế suất mặt hàng dược phẩm nhập khẩu và các chính sách áp thuế của cơ quan hải quan đối với từng nước, từng loại hàng hóa có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường dược phẩm trong nước. Vấn đề hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực của thuế nhập khẩu đới với thị trường dược phẩm đồng thời phát huy các ảnh hưởng tích cực, bảo vệ thị trường dược phẩm trong nước là một vấn đề cấp thiết để bảo đảm sự tồn tại và phát triển của các Công ty Dược đặc biệt là các Công ty Dược phẩm trong nước. Trong khuôn khổ đề tài: “ Ảnh hưởng của thuế nhập khẩu đối với mặt hàng dược phẩm nhập khẩu, lấy ví dụ tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam ”, em đã tìm hiểu về thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam nói riêng và tình hình thị trường dược phẩm trong nước nói chung, qua đó đưa ra một số ảnh hưởng của thuế nhập khẩu đến mặt hàng dược phẩm nhập khẩu và đưa ra một số giải pháp kiến nghị chủ quan đối với Công ty. Xuất nhập khẩu y tế Việt Nam, với cơ quan hải quan, với cơ quan nhà nước. với Em hy vọng rằng chuyên đề của em sẽ trở thành nguồn tài liệu tham khảo của Công ty. Một lần nữa, em xin chân thành cám ơn cô giáo Thạc sỹ. Nguyễn Thị Liên Hương ,cùng toàn thể các cô, các chú, các anh, các chị trong Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam, đặc biệt là phòng kinh doanh Xuất nhập khẩu của Công ty đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập. Em xin chân thành cảm ơn!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 47.DOC
Tài liệu liên quan