Ảnh hưởng của vạt bao và vạt tam giác đối với phẫu thuật răng khôn hàm dưới

KẾT LUẬN Nhóm vạt bao có tỷ lệ lành thương thứ phát cao hơn nhóm vạt tam giác. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Bệnh nhân của cả hai nhóm vạt đều có sưng nhiều vào ngày thứ hai sau phẫu thuật, tuy nhiên vạt tam giác có sưng hơn vạt bao, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Bệnh nhân của cả hai nhóm vạt đều có độ há miệng nằm trong giới hạn bình thường. Đặc biệt ở nhóm vạt tam giác, độ há miệng ngày thứ hai sau phẫu thuật là nhỏ nhất so với trước và ngày thứ bảy sau phẫu thuật (p<0,017). Hai nhóm vạt có tỷ lệ đau trái chiều nhau. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ đau giữa hai loại vạt chủ yếu ở mức độ đau ít, vạt tam giác có tỷ lệ đau nhiều hơn. Nhóm răng nằm ngang và ngầm loại B, mức độ sưng ở vạt tam giác cao hơn so với vạt bao (sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ đau ít và tỷ lệ có đau ở nhóm răng ngầm loại B và nằm ngang, từ chiều của ngày thứ nhất đến sáng ngày thứ hai sau phẫu thuật. Có sự giới hạn há miệng ở nhóm răng lệch gần và ngầm loại C ở cả hai nhóm vạt.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 87 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của vạt bao và vạt tam giác đối với phẫu thuật răng khôn hàm dưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 201 ẢNH HƯỞNG CỦA VẠT BAO VÀ VẠT TAM GIÁC ĐỐI VỚI PHẪU THUẬT RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI Phan Văn Hữu*, Lê Đức Lánh** TÓM TẮT Mục tiêu: Ảnh hưởng của vạt bao và tam giác đến sự lành thương, tình trạng viêm xương ổ, sưng, đau, khít hàm sau phẫu thuật. Đối tượng và phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng với thiết kế nửa miệng. 30 bệnh nhân khỏe mạnh được phẫu thuật lần lượt hai răng khôn hàm dưới (cùng độ lệch và ngầm như nhau) với vạt bao và vạt tam giác. Kết quả và kết luận: Vạt bao có tỷ lệ lành thương thứ phát cao hơn, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Hai nhóm vạt có tỷ lệ đau trái chiều nhau. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ đau ít và tỷ lệ có đau giữa hai loại vạt. Vạt tam giác có tỷ lệ đau nhiều hơn, chủ yếu ở nhóm răng ngầm loại B và nhóm răng nằm ngang, vào chiều ngày 1 và sáng ngày 2 sau phẫu thuật (p<0,05). Mức độ sưng, khít hàm sau phẫu thuật giữa hai nhóm vạt khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Ngày thứ 02 sau phẫu thuật, nhóm vạt tam giác có độ há miệng nhỏ hơn trước và ngày thứ 07 sau phẫu thuật, có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Từ khóa: Vạt bao và vạt tam giác, phẫu thuật răng khôn hàm dưới. ABSTRACT ENVELOPE AND TRIANGLE FLAPS IN THIRD MOLAR SURGERY Phan Van Huu, Le Duc Lanh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 201 - 207 Objectives: The aim of this study was to investigate the influence of flap design on postoperative wound healing, alveolar osteitis, swelling, pain and trismus. Materials and method: A clinical trial with split mouth design. 30 healthy patients were subjected to surgical extraction of both impacted mandibular third molars, located in a similar clinical and radiographic position. Two kinds of flaps are used: envelope and triangle flaps. Results and conclusion: Envelope flap group had higher ratio of primary wound healing (p<0.05). There was statistically significant difference between two of flaps in postoperative pain with triangle flap having higher ratio of pain from the first afternoon to the second morning after surgery. There were no statistical difference between these two flaps in postoperative swelling and trismus. Key word: Envelope and triangle flaps, surgical extraction of impacted mandibular third molars. ĐẶT VẤN ĐỀ Phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới là loại phẫu thuật miệng phổ biến. Ngày nay, với kỹ thuật tiên tiến, kết hợp với trang thiết bị hiện đại, các tai biến nghiêm trọng sau phẫu thuật hiếm khi xảy ra. Do đó, vấn đề đang được quan tâm hiện nay là sự lành thương, tình trạng viêm xương ổ và mức độ sưng, đau, khít hàm xảy ra như thế nào sau phẫu thuật. Đã có nhiều nghiên cứu đề cập đến các phương pháp phẫu thuật khác nhau, nhằm cải thiện tốt hơn tình trạng sức khỏe cho bệnh nhân sau can thiệp. Gần đây, một số nhà nghiên cứu có khuynh hướng đi sâu đánh giá ảnh hưởng cũng như ưu khuyết điểm của các loại vạt được sử dụng trong phẫu thuật. Ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới, nhưng chưa có * Bệnh viện RHM TW Tp. HCM, **: Khoa RHM – Đại học Y Dược Tp. HCM Tác giả liên lạc: ThS. Phan Văn Hữu ĐT: 0918299644; Email: nhakhoatanhai@yahoo.com  Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 202 nghiên cứu nào phân tích về đặc điểm và lợi ích của mỗi loại vạt trong phẫu thuật. Vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “ảnh hưởng của vạt bao và vạt tam giác đối với phẫu thuật răng khôn hàm dưới” với các mục tiêu: 1. Đánh giá ảnh hưởng của vạt bao và tam giác đến thời gian phẫu thuật, sự lành thương và tình trạng viêm xương ổ sau phẫu thuật. 2. Đánh giá ảnh hưởng của vạt bao và tam giác đến mức độ sưng, đau, khít hàm sau phẫu thuật. 3. Đánh giá ảnh hưởng của vạt bao và tam giác đến mức độ sưng, đau, khít hàm theo loại lệch và ngầm của răng khôn dưới sau phẫu thuật. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Mẫu nghiên cứu Gồm 30 bệnh nhân có sức khỏe tốt, có chỉ định và nhu cầu phẫu thuật cả 2 răng 38 và 48. Răng 38 và 48 cùng mọc lệch, ngầm như nhau (được đánh giá qua phim toàn cảnh và khám lâm sàng). Tình trạng vệ sinh răng miệng tốt.Tự nguyện tham gia nghiên cứu. Thiết kế nghiên cứu Thử nghiệm lâm sang theo phương pháp mù đơn với thiết kế nửa miệng. Mô tả phương pháp Trước phẫu thuật Cung cấp thông tin cho bệnh nhân, bao gồm: mục tiêu nghiên cứu, số lần hẹn, các biến chứng có thể gặp sau phẫu thuật. Phát và thu lại phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu. Khám, xét nghiệm cận lâm sàng, chụp Panorex và làm bệnh án theo từng quy định. Trong phẫu thuật Bệnh nhân tham gia nghiên cứu đều được phẫu thuật vào buổi sáng, do cùng phẫu thuật viên và ê kíp phụ mổ thực hiện. Quy trình phẫu thuật áp dụng trong nghiên cứu được thực hiện theo quy trình của bộ môn Phẫu thuật miệng, khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh. Cách chọn loại vạt trong phẫu thuật Vạt được chọn một cách ngẫu nhiên theo thiết kế nửa miệng, trong lần phẫu thuật đầu tiên. Bệnh nhân được phẫu thuật răng bên đối diện với loại vạt còn lại, cách lần phẫu thuật trước bốn tuần. - Kỹ thuật tạo vạt bao: từ đường chéo ngoài đến góc ngoài xa của răng số 8. Tiếp theo, đường rạch chạy dọc theo đường viền nướu ngoài R8 và dừng lại ở gai nướu R6,7. Vạt được khâu kín với ba mũi khâu rời bằng chỉ silk 3.0. - Kỹ thuật tạo vạt tam giác: đường rạch đầu tiên cũng tương tự như vạt bao. Đường rạch tiếp theo là một đường cong nhẹ, xuống dưới đường tiếp nối niêm mạc nướu khoảng 2-3mm và kết thúc ở vị trí tương đương mặt gần R7. Vạt được khâu kín với ba mũi khâu rời bằng chỉ silk 3.0. Hình 1: Vạt tam giác Hình 2: Vạt bao Sau phẫu thuật Bệnh nhân nhận giấy dặn dò sau phẫu thuật. Cấp toa thuốc năm ngày gồm: Amoxicilline 500mg, ngày uống 3 lần, mỗi lần Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 203 1 viên; Diclofenac 25mg, ngày uống 3 lần mỗi lần 1 viên. Thu thập số liệu nghiên cứu Loại lệch và ngầm của răng khôn Lệch gần, lệch ngang và lệch loại khác. Ngầm loại A, loại B, loại C (thu thập trước phẫu thuật, thông qua phim toàn cảnh và đánh giá trực tiếp trên lâm sàng). Độ há miệng tối đa (mm) Khoảng cách giữa bờ cắn răng cửa giữa hàm trên và răng cửa giữa hàm dưới, được xác định bằng thước điện tử, đo trước phẫu thuật (T0), ngày thứ hai (T2), ngày thứ bảy (T7) sau phẫu thuật. Độ lồi má dưới (mm) Khoảng cách từ khóe miệng đến chân dái tai, từ góc mắt ngoài đến góc hàm dưới, được xác định bằng thước dây mềm vào trước phẫu thuật (L0) và ngày thứ hai sau phẫu thuật (L2). Mức độ sưng sau pt (mm) Là hiệu số của độ lồi má dưới sau và trước phẫu thuật. Thời gian phẫu thuật (phút) Từ lúc rạch vạt cho đến khi khâu mũi khâu cuối cùng. Mức độ chấn thương trong phẫu thuật Được xác định thông qua độ sâu và độ dài rãnh xương mặt ngoài R8 khi khoan xương trong quá trình phẫu thuật, gồm cấp độ 1 (chấn thương ít), cấp độ 2 (trung bình), cấp độ 3 (chấn thương nhiều). Mức độ đau sau phẫu thuật Do bệnh nhân tự đánh giá bằng cách sử dụng thang đánh giá cường độ đau theo mô tả. Thang này gồm có 6 mức độ đau: Không đau Hơi đau Đau nhẹ Đau vừa Đau nhiều Đau dữ dội Được đánh giá vào lúc: 6 giờ sau phẫu thuật (T01), sáng và chiều ngày thứ nhất (T1s, T1c), ngày thứ hai (T2s, T2c), ngày thứ ba (T3s, T3c) và sáng ngày thứ tư (T4s) sau phẫu thuật. Viêm xương ổ răng sau phẫu thuật Được ghi nhận vào ngày thứ hai và thứ ba sau phẫu thuật, gồm có hai mức độ: có viêm xương ổ, không có viêm xương ổ. Sự lành thương Có hai mức độ lành thương nguyên phát và lành thương thứ phát. KẾT QUẢ Bảng 1: Phân bố tỷ lệ của răng khôn hàm dưới theo loại vạt. Răng Loại vạt Tổng số răng n(%) Vạt bao n(%) Vạt tam giác n(%) R38 R48 13 (43,3%) 17 (56,7%) 17 (56,7 %) 13 (43,3%) 30 (100%) 30 (100%) Bảng 2: Phân bố mẫu nghiên cứu theo loại lệch, ngầm của răng khôn dưới n(%). Loại vạt Loại ngầm Loại lệch Loạ i A Loại B Loại C Tổng vạt Gần Ngang Khác Tổng vạt Vạt bao 3 (10) 25 (83,4) 2 (6,6) 30 (100) 6 (20) 23 (76,6) 1 (3,4) 30 (100) Vạt tam giác 3 (10) 25 (83,4) 2 (6,6) 30 (100) 6 (20) 23 (76,6) 1 (3,4) 30 (100) Tổng răng 6 (10) 25 (83,4) 2 (6,6) 30 (100) 6 (20) 23 (76,6) 1 (3,4) 60 (100) Bảng 3: Sự lành thương, tình trạng viêm xương ổ và thời gian phẫu thuật. Viêm xươngổ Sự lành thương Thời gian phẫu thuật (tb±đlc) Có viêm Không viêm Nguyên phát Thứ phát Vạt bao 3 (9,9%) 27 (90,1%) 18 (60%) 12 (40%) 12,60  4,74 Vạt tam giác 0% 30 (100%) 27 (90%) 3 (10%) 11,93 4,88 P 0,49 0,015 Bảng 4: So sánh độ sưng của hai nhóm vạt. Loại vạt Độ sưng mặt sau phẫu thuật (tb±đlc) Vạt bao Vạt tam giác p 9,4±0,52 10,2±0,45 0,57 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 204 Bảng 5: So sánh mức độ đau của hai nhóm vạt (n%). Thời gian loại vạt N Mức độ đau p Không đau đau ít đau vừa đau nhiều T1c vạt bao 30 9(30) 17(56,7)4(13,3) 0(0) 0,035vạt tam giác 30 1(3,3) 24(80,0)4(13,3) 1(3,3) T2s vạt bao 30 11(36,7) 15(50,0)4(13,3) 0(0) 0,003vạt tam giác 30 1(3,3) 24(80,0)3(10,0) 0(0) Bảng 6: So sánh tỷ lệ có đau của hai nhóm vạt (n%). Thời gian loại vạt N Mức độ đau p Không đau đau T1c vạt bao 30 9(30) 21 (70,0) 0,012* vạt tam giác 30 1(3,3) 29 (96,7) T2s vạt bao 30 11(36,7) 19 (63,3 0,002* vạt tam giác 30 1(3,3) 29 (96,7) Biểu đồ 1: Diễn tiến đau sau phẫu thuật ở nhóm vạt bao và tam giác. Bảng 7: Độ há miệng của bệnh nhân trước và sau phẫu thuật (mm). Loại vạt Độ há miệng (TB  ĐLC) P 1 T0 T2 T7 p Vạt bao 52,50  6,03 43,73 9,26 49,679,26 0,057 Vạt tam giác 52,20  6,39 43,3710,2 51,037,49 <0,001 (p* 20 tt  < 0,017) (p * 72 tt  < 0,017) P 2 0,82 0,88 0,52 Bảng 8. Ảnh hưởng của vạt đến độ sưng má dưới theo loại lệch, ngầm của răng khôn dưới. Loại vạt Loại ngầm Loại lệch Loại A Loại B Loại C p Gần ngang khác p Vạt bao Vạt tam giác P 8,7±5,0 8,7±1,2 1 9,7±5,3 10,5±4,8 0,54 8,0±9,5 8±15,7 1 0,89 0,24 8,8±4,8 9,8±3,7 0,87 9,6±5,6 10,4±4,9 0,65 8,0 8,0 - 0,91 0,87 Bảng 9. Ảnh hưởng của vạt đến tỷ lệ đau theo loại lệch, ngầm của răng khôn hàm dưới. Thời gian sau phẫu thuật Loại vạt Đau theo loại ngầm (n%) Đau theo loại lệch ( n%) Loại A (n=3) Loại B (n=25) Loại C (n=2) Gần (n=6) Ngang (n=23) Khác (n=1) Chiều ngày 01 Vạt bao 3(100) 17(68,0) 1(50) 5(83,3) 15(65,2) 1(50) Sáng ngày 02 Vạt tam giác p 3(100) 25(100) 1(50) 6(100) 22(95,7) 1(50) - 0,001 - 1,00 0,02 - % Đau Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 205 Biểu đồ 2: Diễn tiến đau sau phẫu thuật ở nhóm răng nằm ngang của hai loại vạt. Biểu đồ 3: Diễn tiến đau sau phẫu thuật ở nhóm răng ngầm loại B của hai loại vạt. Bảng 10. Ảnh hưởng của vạt đến độ há miệng theo loại lệch, ngầm răng khôn dưới. Thời gian sau phẫu thuật Loại vạt Độ há miệng theo loại ngầm (tb ±đlc) Độ há miệng theo loại lệch (tb ±đlc) Loại A Loại B Loại C Gần Ngang Khác Ngày thứ 02 Vạt bao Vạt tam giác P 42,17±12,77 44,83±11,3 0,30 43,72±4,19 44,32±10,54 0,83 35±7,07 34±7,07 0,90 37±11,77 35,33±12,24 0,82 45,65±8,04 45,61±8,98 0,97 40 40 - Ngày thứ 07 Vạt bao Vạt tam giác P 53,67±7,09 54,33±8,02 0,92 50,12±8,55 50,8±7,74 0,77 38±11,01 49±4,24 0,38 42,17±12,77 44,83±11,3 0,71 51,78±6,88 52,87±5,45 0,56 46 46 - BÀN LUẬN Ảnh hưởng của vạt đến thời gian phẫu thuật, sự lành thương và tình trạng viêm xương ổ Theo Lê Đức Lánh và cộng sự (2007) thời gian phẫu thuật phụ thuộc chủ yếu vào độ khó của răng, thời gian lật vạt, sự hợp tác của bệnh nhân và kinh nghiệm của phẫu thuật viên. Trong nghiên cứu này, thời gian phẫu thuật của hai nhóm vạt tương đương nhau. Như vậy, quá trình tạo và lật vạt của vạt bao và vạt tam giác là như nhau, không có loại vạt nào gây khó khăn hay cản trở nhiều hơn trong quá trình phẫu thuật cũng như khi khâu đóng vạt. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sự lành thương giữa hai nhóm vạt. Nhóm vạt bao có sự lành thương thứ phát cao hơn so với nhóm vạt tam giác (40% so với 10%). Kết quả này của chúng tôi là tương đồng với kết quả của Jakse và cộng sự (2005)(9). Tác giả này cho rằng thiết kế vạt có ảnh hưởng quan trọng đến sự lành thương sau phẫu thuật. Hiện tượng tạo khe hở ở mặt xa R7, được xem như là một yếu tố không thuận lợi. Điều đó đưa đến quá trình lành thương thứ phát, đặc biệt cao ở nhóm vạt bao. Theo y văn, vạt bao thường bị căng sau khi khâu đóng ở mặt xa R7. Tại đây vạt càng bị căng hơn do ảnh hưởng của khối sưng cùng với sự chuyển động của cơ nhai, dễ dàng làm đứt chỉ hay rách mép vết thương, tạo nên sự lành thương thứ phát sau phẫu thuật. Đây có thể là yếu tố thuận lợi gây mất biểu mô bám dính ở mặt xa của răng này, kéo dài thời gian khó chịu sau phẫu thuật do sự tăng nhạy cảm ở bề mặt chân R7. Tình trạng viêm xương ổ và áp xe mô mềm cũng có thể xảy ra. Đáng lưu ý là tình trạng viêm ổ răng chỉ xuất hiện ở nhóm vạt bao với tỷ lệ là 9,9%. Mặc dầu sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, nhưng chúng tôi nhận thấy các ca viêm xương ổ đều nằm trong các trường hợp lành thương thứ phát. Ảnh hưởng của vạt đến độ sưng, đau, khít hàm sau phẫu thuật Sưng, đau, khít hàm là các biến chứng hay gặp sau phẫu thuật răng khôn. Nguyên nhân chính là do chấn thương trong phẫu thuật khi tạo vạt, khoan cắt xương để tiếp cận được với % Đau % Đau Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 206 răng cần phẫu thuật. Thiết kế nửa miệng trong nghiên cứu đã giúp đồng nhất được một số yếu tố như yếu tố cơ địa, loại lệch, ngầm của răng khôn, nhờ vậy hạn chế gây nhiễu. Ngoài ra tất cả các răng được phẫu thuật đều có mức độ chấn thương loại 2, có thể không đề cập đến yếu tố này. Do đó các kết quả có được tập trung vào ảnh hưởng của từng loại vạt đến mức độ sưng, đau, khít hàm sau phẫu thuật. Ảnh hưởng của vạt lên mức độ sưng sau phẫu thuật Theo Kirk và cộng sự (2007), mức độ sưng thường đạt cực đại 48 giờ sau phẫu thuật và giảm dần sau đó. Trong nghiên cứu này, mặc dầu độ sưng của hai nhóm vạt khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), nhưng cả hai nhóm vạt đều có sưng vào ngày thứ hai sau phẫu thuật, khác biệt so với trước phẫu thuật có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Về mối liên quan giữa sưng với loại lệch và ngầm của răng khôn, nhận thấy mức độ sưng sau phẫu thuật ở hai loại vạt là bằng nhau đối với nhóm răng lệch loại khác (8 mm), ngầm loại A (8,7 mm), loại C (8 mm). Tuy nhiên, đối với nhóm răng lệch gần, lệch ngang và ngầm loại B thì độ sưng mặt ở nhóm vạt tam giác nhiều hơn vạt bao, mặc dầu sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Ảnh hưởng của vạt lên đau sau phẫu thuật Y văn có ghi nhận nhiều phương pháp đánh giá đau sau phẫu thuật. Theo Kucer và cộng sự (2005), hai phương pháp đánh giá đau VAS và đánh giá đau theo mô tả đang được sử dụng rộng rãi hiện nay và có giá trị như nhau trong nghiên cứu (sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê). Ở đây chúng tôi chọn thang đánh giá đau theo mô tả với 6 mức độ đau khác nhau (có hình ảnh minh họa kèm theo), giúp cho bệnh nhân tự đánh giá mức độ đau của bản thân được chính xác và khách quan hơn. Trong nghiên cứu này, mức độ đau nhiều và đau vừa ở hai nhóm vạt không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Việc thiết kế vạt là có ảnh hưởng đến mức độ đau ít từ chiều ngày thứ nhất cho đến sáng ngày thứ hai sau phẫu thuật. Nhóm vạt tam giác sẽ có tỷ lệ ở mức độ đau ít nhiều hơn vạt bao. Sự khác biệt này xảy ra chủ yếu ở nhóm răng phẫu thuật tương đối khó (khả năng cắt xương nhiều), cụ thể là nhóm răng lệch ngang, và ngầm loại B trở lên. Hai nhóm vạt có quá trình giảm đau trái chiều nhau, nhóm vạt bao có tỷ lệ đau giảm nhanh ở giai đoạn đầu sau phẫu thuật (chiều ngày phẫu thuật đến sáng ngày thứ hai sau phẫu thuật), sau đó thì giảm rất chậm ở giai đoạn muộn sau phẫu thuật (chiều ngày thứ hai đến sáng ngày thư tư sau phẫu thuật); trong khi nhóm vạt tam giác có quá trình giảm đau ngược lại. Chúng tôi nhận thấy, có mối liên quan giữa quá trình giảm đau ở giai đoạn muộn với sự lành thương của hai loại vạt. Ở vạt bao, hiện tượng bung chỉ ở mặt xa R7 thường xảy ra vào những ngày đầu sau phẫu thuật, dẫn đến sự lành thương thứ phát. Có thể điều này chính là nguyên nhân làm cho quá trình giảm đau chậm đi ở nhóm vạt bao. Ảnh hưởng lên độ khít hàm sau phẫu thuật Khít hàm (hay há miệng hạn chế) là một biến chứng thường gặp trong phẫu thuật răng khôn. Trong nghiên cứu này, nếu xét theo tiêu chuẩn há miệng > 40mm là không hạn chế thì độ há miệng sau phẫu thuật của hai nhóm vạt đều trong giới hạn bình thường. Cả hai nhóm vạt đều có độ há miệng trở lại gần bình thường vào ngày thứ bảy sau phẫu thuật. So sánh về độ há miệng trước và sau phẫu thuật giữa hai nhóm vạt, nhận thấy sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, nghĩa là vạt bao và vạt tam giác không có ảnh hưởng lên độ há miệng sau phẫu thuật. Kết luận này tương đồng với kết luận của Kirk và cộng sự. Riêng ở nhóm vạt tam giác, độ há miệng ngày thứ hai sau phẫu thuật có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với độ há miệng trước và ngày thứ bảy sau phẫu thuật, nghĩa là độ há miệng ngày thứ hai sau phẫu thuật là có nhỏ hơn. Sự khác biệt về độ há miệng không có ý nghĩa thống kê ở các nhóm răng trên cùng một Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 207 loại vạt, và cùng nhóm răng giữa hai loại vạt khác nhau. Nghĩa là loại lệch, ngầm của răng khôn dưới không có ảnh hưởng đến độ há miệng sau phẫu thuật. Tuy nhiên, vào ngày thứ hai sau phẫu thuật, có sự giới hạn há miệng ở nhóm răng lệch gần và ngầm loại C (độ há miệng < 40 mm). KẾT LUẬN Nhóm vạt bao có tỷ lệ lành thương thứ phát cao hơn nhóm vạt tam giác. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Bệnh nhân của cả hai nhóm vạt đều có sưng nhiều vào ngày thứ hai sau phẫu thuật, tuy nhiên vạt tam giác có sưng hơn vạt bao, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Bệnh nhân của cả hai nhóm vạt đều có độ há miệng nằm trong giới hạn bình thường. Đặc biệt ở nhóm vạt tam giác, độ há miệng ngày thứ hai sau phẫu thuật là nhỏ nhất so với trước và ngày thứ bảy sau phẫu thuật (p<0,017). Hai nhóm vạt có tỷ lệ đau trái chiều nhau. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ đau giữa hai loại vạt chủ yếu ở mức độ đau ít, vạt tam giác có tỷ lệ đau nhiều hơn. Nhóm răng nằm ngang và ngầm loại B, mức độ sưng ở vạt tam giác cao hơn so với vạt bao (sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ đau ít và tỷ lệ có đau ở nhóm răng ngầm loại B và nằm ngang, từ chiều của ngày thứ nhất đến sáng ngày thứ hai sau phẫu thuật. Có sự giới hạn há miệng ở nhóm răng lệch gần và ngầm loại C ở cả hai nhóm vạt. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Benetello V., Sakamoto F.C. (2007). “The selective and non selective cyclooxygenase inhibitors valdecoxib and piroxicam induce the same postoperative anagesia and control of trismus and swelling after lower third molar removal”. Brazilian Journal of Medical and Biological Research. 40. pp. 1133-1140. 2. Cerqueira P.R.F., Vasconcelos B.C.D., Bessa-Nogueira R.V. (1997). “Comparation study on the effect of a tube drain in impacted lower third molar surgery”. J Oral Maxillofac Surg. 26. pp. 187-90. 3. Glenn K. D., Darryl C.T. (2007). “Influence of two different flap designs on incidence of pain, swelling, trismus, and alveolar osteitis in the week following third molar sugrery”. Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol Oral Endol. 104. pp. e1-e6. 4. Farman AG (2004). “Tooth eruption and dental impaction”. Panoramic imaging news. 2. pp. 1-9. 5. Fragiskos D (2007). “Surgical extraction of impacted teeth”. Oral Surgery springer. pp. 122 -140. 6. Hattab F.N., Abu Alhaija E.S.J. (1999). “Radiographic evaluation of mandibular third molar eruption space”. Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol Endod. 88. pp. 285- 291. 7. Hugoson A., Kugelberg C. (1988). “The prevalence of third molar impactions in a Swedish population: an Epidemiological study”. Community Dent. Health. 5. pp. 121- 38. 8. Inci K., Suleyman B. (2007). “Review of flap design influence on the health of the periodontium after mandibular third molar surgery”. Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol Oral Endol. 104. pp. 18-23. 9. Jakse N. and et al. (2002). “Primary wound healing after lower third molar surgery. Evaluation of two different flaps design”. Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol Endod. 93. pp. 7-12. 10. Jose M.S.B, Sergio H.B. (2008). “Flap epositioning versus conventional suturing in third molar surgery”. Med Oral Pathol Oral Cirbucal. 13(2). pp. 138-142. 11. Kim T.W., Artun J., Behbehani F., Artese F. (1993). “Prevalence of Third Molar Impaction in Orthodontic Patients Treated with non-extraction and with extraction of 4 Premolars”. Oral Surg Oral Med Oral Pathol. 76. pp. 688-693. 12. Larry J (1998). “Principles of management of impacted Teeth”. Oral and Maxillofacial Surgery. 9. pp. 215-248. 13. Mico-Llorens JM (2006). “Effect of methylprednisolone in controlling complications after impacted lower third molar surgical extraction”. Eur J Clin Pharmacol. 62. pp. 693-698. 14. Mesgarzadeh A.H., Goshaderu A. (2008). “Evaluating Facial Cryotherapy for postoperative sequelae of third molar surgery”. Medwell Journal. 3. pp. 154-160. 15. Maria M., Suarez-Cunqueiro (2007). “Marginal flap versus paramarginal flap in impacted third molar surgery”. Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol Oral Endol. 95. pp. 403-408. 16. Odusanya S.A., Abayomi I.O. (1991). “Third molar eruption among rural Nigerians”. Oral Surg Oral Med Oral Pathol. 71. pp. 151-154. 17. Pasqualini D. and et al. (2005). “Primary and secondary closure of the surgical wound after removal of impacted mandibular third molars: a comparative study”. Int J Oral Maxillofac Surg. 34. pp. 52-57. 18. Quek S.L., Tay C.K., Tay K.H., Toh S.L. and et al. (2003). “Pattern of third molar impaction in a Singapore Chinese population: A Retrospective radiographic survey”. Int. J.Oral Maxillofac. Surg. 32. pp. 548-552. 19. Zvonko K (2003). “The objective measurement of pain in orofacial surgery”. Acta stomatologica. 19. pp. 41.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfanh_huong_cua_vat_bao_va_vat_tam_giac_doi_voi_phau_thuat_ran.pdf