Áp dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh vàng tại Việt Nam

Xây dựng thị trường phái sinh là một biện pháp hữu hiệu để phòng chống rủi ro biến động về giá, và đã trở nên phổ biến trên thị trường tài chính quốc tế. Thị trường phái sinh từng bước được hình thành và cũng có những bước phát triển nhất định tại thị trường Việt Nam. Tuy vẫn còn có những tồn tại và bất cập xuất hiện từ môi trường pháp lý, nhận thức về rủi ro và tâm lý engại trong sử dụng các công cụ tài chính hiện đại của các cá nhân và doanh nghiệp,đồng thời cùng với những khó khăn xuất phát từ sự tư vấn của ngân hàng khi cung cấp dịch vụ. Chính vì vậy, việc khắc phục những khó khăn, tìm ra những giải pháp cho việc phát triển các sản phẩm phái sinh là yêu cầu cầp thiết hiện nay. Ngoài những nỗ lực của bản thân các Ngân hàng, Chính phủ, Ngân hàng Nhà Nước cũng như các Bộ, các cơ quan ban ngành của Chính phủ phải có những chủ trương, chính sách đúng đắn, có tầm nhìn chiến lược nhằm xây dựng môi trường pháp lý và tạo điều kiện cho các sản phẩm tài chính ngân hàng nói chung và các sản phẩm phái sinh nói riêng ngày càng phát triển . Tìm hiểu hoạt động kinh doanh các sản phẩm phái sinh ở Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình hội nhập với thế giới. Việc tiếp cận các sản phẩm này nhằm giúp các nhà đầu tư phòng ngừa rủi rotrong biến động giá vàng, đa dạng hoá các hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu có hạn, các hoạt động kinh doanh này là tương đối mới, số liệu về ngành và số liệu hoạt động kinh doanh vàng tại các Ngân hàng còn trong vòng bí mật, hạn chế cung cấp ra bên ngoài bởi kinh doanh các sản phẩm phái sinh là nghiệp vụ tương đối mới và còn mang tính cạnh tranh cao. Do vậy, đề tài mang tính định tính hơn định lượng, nhưng mục tiêu chính của đề tài là đưa ra cái nhìn bao quát về thị trường phái sinh, một nhu cầu cần thiết cho sự ổn định trên thị trường.

pdf52 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2066 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Áp dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh vàng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyền chọn trả cho người bán một số tiền gọi là phí quyền chọn. Người bán quyền chọn sẵn sàng bán hoặc tiếp tục nắm giữ tài sản theo điều khoản của hợp đồng nếu người mua muốn thế. Một quyền chọn để mua tài sản gọi là quyền chọn mua (call), một quyền chọn bán một tài sản gọi là quyền chọn bán (put). Một cách khác để phân loại thành quyền chọn kiểu Châu Âu và quyền chọn kiểu Mỹ.  Quyền chọn kiểu Châu Âu là loại quyền chọn chỉ có thể được thực hiện vào ngày đáo hạn chứ không được thực hiện trước ngày đó.  Quyền chọn kiểu Mỹ là loại quyền chọn có thể được thực hiện vào bất cứ thời điểm nào trước khi đáo hạn. Quyền chọn có thể được dựa vào các tài sản cơ sở như cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất, ngoại hối, kim loại quý hay nông sản… Các quyền chọn có thể được mua bán trên thị trường tập trung (như thị trường quyền chọn Chicago - CBOE, thị trường hợp đồng tương lai quốc tế London – LIFFE…) hay các thị [26] trường phi tập trung (OTC) trên cơ sở thoả thuận trực tiếp giữa hai bên không thông qua sở giao dịch, đây chính là loại thị trường quyền chọn xuất hiện đầu tiên. 1.4 Tài khoản ký quỹ (Margin account): - Là hình thức nhà đẩu tư “ vay mượn “ tiền của công ty chứng khoán hay ngân hàng chuyên về lĩnh vực đầu tư chứng khoán hay ngân hàng chuyên về lĩnh vực đầu tư chứng khoán, kinh doanh tiền tệ, vàng để mua bán chứng khoán hoặc ngoại tệ, vàng. - Để vay mượn tiền thì nhà đầu tu phải “đặt cọc” một số tiền cho công ty chứng khoán hoặc ngân hàng vào trong một tài khoản gọi là tài khoản Margin (tài khoản ký quỹ hay tài khoản bảo chứng ). Tỷ lệ đặt cọc tuỳ theo công ty chứng khoán hay ngân hàng quy định . 2. Các Sản Phẩm Phái Sinh Áp Dụng Trong Kinh Doanh Vàng ở Việt Nam: Các sản phẩm phái sinh vàng là các hợp đồng phái sinh như hợp đồng kỳ hạn, quyền chọn… dựa trên tài sản cơ sở là vàng. Trong vài năm gần đây, các Ngân Hàng Thương Mại ở Việt Nam như ngân hàng Á Châu, Eximbank, Sacombank… đã bắt đầu đưa ra các giao dịch này nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Tuy cũng còn mới mẽ nhưng các loại hợp đồng vàng kỳ hạn, quyền chọn vàng.. hứa hẹn nhiều triển vọng phát triển trong tương lai. Do nhu cầu sử dụng vàng ở Việt Nam rất lớn như phương tiện thanh toán trong giao dịch và giá vàng biến động rất lớn trên thị trường thế giới xảy ra hàng ngày khiến cho các cá nhân, doanh nghiệp, các nhà đầu tư hết sức quan tâm các nghiệp vụ kinh doanh vàng phái sinh của các ngân hàng đặc biệt là của ngân hàng Eximbank, ACB,.. Sàn giao dịch vàng của ACB hết sức đông đúc khách hàng quan tâm. Tuy cả ACB và Eximbank đều là các ngân hàng đi đầu trong việc phát triển các sản phẩm phái sinh vàng, nhưng hiện tại ACB không có giao dịch kỳ hạn mà chỉ giao dịch quyền chọn vàng. Ngược lại, tuy Eximbank triển khai giao dịch quyền chọn vàng sau ACB nhưng lại là ngân hàng duy nhất hiện nay có cung cấp giao dịch kỳ hạn. [27] 2.1. Quyền chọn vàng: Quyền chọn vàng (gold option) là một hợp đồng giữa hai bên, theo đó người mua option có quyền, chứ không phải có nghĩa vụ mua hoặc bán một số lượng vàng cụ thể với một mức giá thực hiện đã được ấn định trước cho một thời hạn cụ thể trong tương lai, sau khi đã trã một khoản phí (gọi là premium) cho người bán option ngay từ lúc ký hợp đồng. Rủi ro của người bán Option là rất lớn nếu như không có khả năng tài chính, năng lực phân tích và các công cụ bảo hiểm rủi ro, trong khi người mua Option không chịu bất cứ rủi ro nào ngoài phí (premium). Triển khai nghiệp vụ quyền chọn vàng tại Việt Nam, ngân hàng đóng vai trò người bán và khách hàng đóng vai trò người mua. Quyền chọn vàng được ACB đưa ra giao dịch đầu tiên vào khoảng tháng 12 năm 2004. Đến nay một số ngân hàng thương mại khác như Eximbank, Sacombank, Techcombank, Việt Á, Sài Gòn Bank… cũng đã và đang trong giai đoạn chuẩn bị và cung cấp giao dịch này cho khách hàng. Với hợp đồng quyền chọn vàng tại ACB: - Đối tượng áp dụng: các cá nhân và tổ chức có nhu cầu bảo hiểm rủi ro biến động giá vàng theo quy định hiện hành của Ngân Hàng Nhà Nước và pháp luật có liên quan. - Mục đích sử dụng: • Mua Quyền chọn mua: Khách hàng có nhu cầu thanh toán vàng (chẳng hạn như mua nhà hoặc bất động sản, trả nợ vay bằng vàng v.v.. ) có thể có nhu cầu mua Quyền chọn mua để phòng ngừa rủi ro giá vàng tăng lên vào thời điểm thanh toán vàng trong tương lai. • Mua Quyền chọn bán: Khách hàng có nguồn thu bằng vàng (chẳng hạn như nhận thanh toán tiền bán nhà hoặc bất động sản, sổ tiết kiệm bằng vàng đáo hạn v.v…) có thể có nhu cầu mua quyền chọn bán để phòng ngừa rủi ro giá vàng giảm xuống vào thời điểm nhận thanh toán vàng trong tương lai. - Điều kiện ký kết: [28]  Khách hàng là cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự hoặc doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam.  Khách hàng thanh toán phí cho ACB ngay từ lúc ký hợp đồng quyền chọn vàng. Khoản phí này được ACB tính toán cho từng hợp đồng cụ thể.  Khách hàng đồng ý ký hợp đồng quyền chọn vàng và sử dụng lệnh thực hiện hợp đồng quyền chọn vàng theo biểu mẫu ACB. Với một giao dịch tối thiểu là 100 (một trăm) lượng vàng, kỳ hạn tối thiểu là 2 (hai) tuần, khách hàng có thể ký hợp đồng Quyền chọn vàng với Ngân hàng với phương thức tất toán hợp đồng linh hoạt. Thực hiện hợp đồng: Vào ngày đáo hạn hợp đồng, khách hàng có quyền thực hiện hoặc không thực hiện quyền chọn vàng. Đối với trường hợp khách hàng yêu cầu ngân hàng thực hiện hợp đồng Option có giao nhận vàng thực tế: hai bên thực hiện thanh toán tiền và vàng theo hợp đồng. Đối với trường hợp khách hàng không muốn giao nhận vàng thực tế: Ngân hàng sẽ thực hiện chi trả khoản tiền chênh lệch giá dựa trên giá vàng do ngân hàng niêm yết hai chiều (gồm giá mua và giá bán) tại thời điểm đáo hạn hợp đồng để bù trừ giao dịch vàng cho khách hàng. Sử dụng sản phẩm quyền chọn vàng, người mua bất động sản có thể đảm bảo khả năng chi trả và tránh thua lỗ trước những biến động tăng của giá vàng mà vẫn có lợi khi giá vàng xuống, còn người bán thì một mặt luôn đảm bảo lợi nhuận dự kiến khi giá vàng xuống, mặt khác sẽ có lãi nhiều hơn khi giá vàng tăng. 2.2. Hợp đồng vàng kỳ hạn: Hợp đồng vàng kỳ hạn là hợp đồng mua bán vàng giữa bên mua và bên bán, theo đó hai bên cam kết mua bán với nhau một khối lượng vàng nhất định, theo một mức giá xác định ở thời điểm thỏa thuận nhưng việc chuyển giao và thanh toán được tiến hành vào một thời điểm xác định trong tương lai. Mục đích sử dụng của hợp đồng kỳ hạn vàng nhằm: [29] o Phòng ngừa rủi ro tức là nhằm cố định giá trị được các khoản thu hoặc chi bằng vàng trong tương lai nhằm tránh những tổn thất khi giá vàng biến động mạnh. o Đầu cơ kiếm lợi nhuận, tức là thực hiện các giao dịch mang tính cá cược trên giá vàng để thu lợi nhuận dựa trên sự phán đoán về xu hướng biến động giá vàng trong lương lai. Đây là hình thức giao dịch đã được các ngân hàng trong nước thực hiện lâu nay, nhưng chủ yếu tập trung vào việc mua bán ngoại tệ. Thời gian qua, do tình hình giá vàng thế giới biến động mạnh nên nhiều ngân hàng đã áp dụng hình thức mua bán kỳ hạn vào việc mua bán vàng. Ngân hàng Eximbank cung cấp giao dịch vàng kỳ hạn cho khách hàng nhằm mục đích cố định được giá trị các khoản thu hoặc chi bằng vàng trong tương lai để bảo hiểm khỏi những tổn thất khi giá vàng biến động mạnh hoặc thu lợi nhuận dựa trên sự phán đoán về xu hướng biến động giá vàng.  Cách thức giao dịch: khách hàng trực tiếp đến phòng kinh doanh vàng để thỏa thuận giá mua bán, kỳ hạn giao dịch, thực hiện dựa trên sự phán đoán về xu hướng biến động giá vàng.  Điều kiện để ký hợp đồng: tất cả các cá nhân, doanh nghiệp Vệt Nam.  Số lượng tối thiểu: 10 lượng vàng SJC.  Loại vàng giao dịch là các loại vàng SJC được Eximbank mua bán tai thời điểm giao dịch.  Thời hạn giao dịch: từ 3 đến 365 ngày.  Chi phí và lợi nhuận: khách hàng không phải trả chi phí giao dịch. Khách hàng được hưởng lãi trên khoản tiền ký quỹ tại ngân hàng. Lợi nhuận không giới hạn nếu giá vàng biến động theo đúng xu hướng khách hàng đã dự đoán. 2.3 Mua bán vàng giao sau: Hoạt động kinh doanh vàng hiện đang hết sức phát triển tại thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh thị trường chứng khoán không mấy sáng sủa, lạm phát tăng [30] cao.Thông thường người Việt Nam đầu tư vào vàng miếng, thế nhưng hiện nay họ đang chuyển sang đầu tư vàng giao sau như một cách đầu tư rẻ hơn vào loại kim loại quý này. Hình thức giao dịch vàng như trên hiện tại được cung cấp tại Ngân hàng ACB. Bắt đầu được tiến hành từ tháng 5 năm 2007, lượng giá trị giao dịch vàng hàng ngày tại đây khoảng 100 triệu USD. Vàng giao sau có tính thanh khoản cao hơn và hấp dẫn hơn vàng giao ngay bởi bạn chỉ cần phải trả khoảng 7% tiền đặt cọc (như ở ACB), như vậy nhu cầu vốn khi kinh doanh cũng thấp hơn. Trước đó, nhiều ngân hàng có kinh doanh vàng cũng đã triển khai các dịch vụ bán hàng giao sau với những phương thức khác nhau. Chẳng hạn, tại ngân hàng Việt Á, khách có nhu cầu mua vàng giao sau sẽ hợp đồng thỏa thuận với ngân hàng về số lượng cần mua và giá cả (giá bán được tính theo giá sỉ ngay tại thời điểm ký hợp đồng). Sau đó, bên mua thay vì trả tiền và nhận vàng đem về thì trong trường hợp này, ngân hàng sẽ chuyển toàn bộ số vàng khách đã mua sang hình thức gửi tiết kiệm thời hạn từ 3 tháng trở lên (tất nhiên là chuyển trên sổ sách, chứng từ). Số vàng gửi ngân hàng này sẽ được tính lãi suất theo kỳ hạn gửi tiết kiệm bằng vàng với lãi suất kỳ hạn 3 tháng hiện là 0,22%; 6 tháng là 0,24%/tháng... Theo Phòng Kinh doanh vàng ngân hàng Việt Á, phương thức bán “nóng” (thu tiền ngay), giao sau và được hưởng lãi suất không chỉ áp dụng cho người mua vàng SJC mà ngân hàng còn áp dụng cho cả trường hợp khách có nhu cầu mua vàng nguyên liệu. Trường hợp bên mua cần nhận vàng trước thời hạn phải báo trước cho ngân hàng. Hình thức mua bán vàng giao sau ở Eximbank áp dụng cho cả việc mua và bán vàng, nghĩa là khách hàng có thể mua giao chậm vàng của ngân hàng nhưng cũng có thể bán giao chậm vàng cho ngân hàng. [31] CHƯƠNG III: ÁP DỤNG CÔNG CỤ PHÁI SINH TRONG KINH DOANH VÀNG. 1. Kinh doanh vàng trên sàn: (3) 1.1 Sự ra đời của sàn giao dịch vàng: Tháng 5 năm 2007, sàn giao dịch vàng đầu tiên được khai trương tại 29 Lý Thường Kiệt, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh do ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) tổ chức. Sàn giao dịch sẽ tạo ra một sân chơi cho những người muốn bảo hiểm rủi ro hoặc tìm chênh lệch giá vàng. Sàn giao dịch sẽ là nơi nhà đầu tư đến để mua và bán vàng hằng ngày. Họ tự quyết định giá cả tận dụng từng giây phút biến động của thị trường vàng để tối đa hoá lợi nhuận cho mình. Hoạt động trên sàn, ngoài ACB vừa là nhà tổ chức vừa là thành viên, còn có một số thành viên khác cũng là ngân hàng hoặc doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực kinh doanh vàng như ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), ngân hàng Việt Á (VAB), công ty vàng bạc đá quí Sài Gòn (SJC)… Các thành viên sẽ có đại diện ngồi tại sàn để nhận lệnh từ nhà đầu tư. Ngoài ra, các thành viên tự doanh được mua bán vàng cho chính mình. Để tham gia giao dịch, nhà đầu tư - cá nhân và tổ chức cần mở tài khoản lưu ký tiền hoặc vàng tại một ngân hàng đang là thành viên trên sàn. 1.2 Phương thức kinh doanh vàng trên sàn: * Qui tắc khớp lệnh đối với khách hàng của ACB: - Lệnh của khách hàng sẽ đuợc ưu tiên khớp trước với Khối Ngân Quỹ nếu thoả điều kiện. - Những lệnh nào không khớp được với giá mua và giá bán của Khối Ngân Quỹ sẽ được chuyển lên trung tâm giao dịch vàng với tư cách là lệnh của thành viên ACB. [32] - Giá mua và giá bán của Khối Ngân Quỹ có thể thay đổi liên tục và không công bố ra bên ngoài. * Đặc điểm loại hình giao dịch: - Khách hàng chỉ cần ký quỹ trước 1 tỷ lệ x% giá trị giao dịch khi đặt lệnh. - x% được qui định và thay đổi tuỳ theo từng nhóm đối tượng khách hàng . - Khách hàng được quyền rút vàng mặt nếu đáp ứng đủ đều kiện về đảm bảo nợ vay. * Các qui định chung về giao dịch: - Loại hình vàng giao dịch: vàng SJC. - Khối lượng tối thiểu: 50 lượng cho 1 lệnh. - Đơn vị yết giá: VND/lượng. - Bước nhảy về giá: 5000 đồng/lượng. - Không giới hạn biên độ dao động của giá vàng đặt lệnh. - Lệnh chỉ có hiệu lực trong ngày. • Phân loại khách hàng: Loại khách hàng Thành viên Khách hàng Doanh nghiệp Khách hàng cá nhân Các tỷ lệ 5%, 4%, 3% 7%, 5%, 4% 7%, 5%, 4% Phí giao dịch 1000 đồng 2000 đồng 2000 đồng Hạn mức tín dụng Max: 150 tỷ Max:100 tỷ Max: 100 tỷ Đại diện Có Không Không Kiểm soát Không Có Có * Cơ chế khớp lệnh của trung tâm giao dịch vàng: - Khớp lệnh liên tục, tự động. - Thứ tự ưu tiên: giá - thời gian. - Giá khớp lệnh: là giá mà tại đó khối lượng giao dịch như nhau thì khớp lệnh ở giá khớp lệnh liền trước. [33] • Nguyên tắc cấp hạn mức giao dịch cho khách hàng: Tài sản ròng = Giá trị vàng và tiền thực có - tổng giá trị dư nợ Giá trị rút tối đa = Tài sản ròng – (tỷ lệ ký quỹ ban đầu * tổng giá trị dư nợ vay) Giá trị đặt lệnh tối đa = Giá trị được rút tối đa / tỷ lệ ký quỹ ban đầu. • Điều kiện đảm bảo tỷ lệ tài sản ròng/dư nợ:  Tỷ lệ ký quỹ ban đầu: Tài sàn ròng / Tổng dư nợ vay >= Tỷ lệ ký quỹ ban đầu.  Tỷ lệ ban đầu: Tài sàn ròng / Tổng dư nợ vay >= tỷ lệ cảnh báo => yêu cầu khách hàng bổ sung tiền ký quỹ để đảm bảo tỷ lệ ban đầu.  Tỷ lệ xử lí: Tài sản ròng / Tổng dư nợ vay ACB có quyền đơn phương tất toán một phần hoặc toàn bộ trạng thái của khách hàng. Ví dụ minh hoạ: Để đơn giản, trong ví dụ này tạm thời bỏ qua phí giao dịch, lãi suất vay tiền/vàng. - Khách hàng muốn mua 100 lượng giá 1.400.000 VND/L - Khách hàng sẽ ký quỹ 7% giá trị giao dịch là 98 triệu VND Khi lệnh mua được khớp, khách hàng sẽ vay: (1.400 triệu – 98 triệu) = 1.302 triệu VND. - Nợ vay: 1.302 triệu VND. - Tài sản ròng: 98 triệu VND. => Tỷ lệ tài sản ròng/Nợ vay = 7,5% > 7% (tỷ lệ ký quỹ ban đầu) o Giá vàng giảm : 13.600.000 VND/L. Nợ vay = 1.302 triệu VND. Tài sản ròng = (100 L * 13.600.000 VND/L) - 1.302 triệu VND = 58 triệu. Tỷ lệ tài sản ròng/Nợ vay = 4,45% vi phạm tỷ lệ cảnh báo. [34]  Yêu cầu khách hàng bổ sung tiền ký quỹ: 33.140.000 VND để trở lại tỷ lệ ký quỹ ban đầu. o Giá vàng giảm: 13.397.000 VND/L. - Nợ vay : 1.302 triệu VND. - Tài sản ròng = (100L*13.397.000 VND/L) – 1.302 triệu VND = 37,7 triệu. - Tỷ lệ tài sản ròng/Nợ vay = 2,9% vi phạm tỉ lệ xử lí.  ACB sẽ tất toán trạnh thái của khách hàng bằng cách nhấn nút xử lí => phần mềm sẽ tự động đặt lệnh bán ra 100L của khách hàng (theo giá mua của khối Ngân Quỹ trong hệ thống) để tiến hành thu nợ. • Qui trình rút tiền/ vàng từ tài khoản kinh doanh vàng: - Khách hàng chỉ có thể rút tiền khi số tiền/vàng khách hàng muốn rút <= giá trị được rút tối đa. - Số tiền/vàng khách hàng có thể rút chính là Min của giá trị được rút tối đa và số dư khả dụng tài khoản tương đương tương ứng. (Tài khoản tiền gửi thanh toán đầu tư vàng VND hoặc tài khoản vàng giữ hộ đầu tư vàng).  Nếu rút vàng trong giờ giao dịch của Sàn: áp dụng giá khớp lệnh gần nhất.  Nếu rút vàng ngoài giờ giao dịch của sàn: áp dụng giá niêm yết của ACB. Ví dụ minh hoạ: - Khách hàng A có số tiền được rút tối đa là: 1.000.000.000 đồng. - Khách hàng muốn rút tiền:  Nếu số dư tài khoản tiền gửi thanh toán đầu tư vàng VND: 800.000.000 đồng thì số tiền khách hàng có thể rút là 800.000.000 đồng.  Nếu số dư tài khoản tiền gửi thanh toán đầu tư vàng VND: 1.200.000.000 đồng thì số tiền khách hàng có thể rút là 1.000.000.000 đồng. - Qui đổi giá trị rút tối đa từ tiền sang vàng : 83L (1.000.000.000/12.000.000)  Nếu số dư tài khoản vàng giữ hộ đầu tư vàng XAU: 50 lượng thì số vàng khách hàng có thể rút 50 lượng. [35]  Nếu số dư tài khoản vàng giữ hộ đầu tư vàng XAU: 150 lượng thì số vàng khách hàng có thể rút là 83 lượng. 1.3 Ví dụ minh họa cho vay đầu tư vàng tại ACB: - Ngày 01/01/2007, khách hàng A sở hữu 50.000.000 VND và vay đầu tư vàng tại ACB. • ACB cấp cho khách hàng hạn mức 50 tỷ đồng. • Tỷ lệ ký quỹ ban đầu : Rbđ = 7% (tương đương mỗi lần nhận nợ, khách hàng được vay tối đa gấp 13 lần vốn tự có) • Số lượng vàng mua bán tối thiểu: 50 lượng. Lưu ý: Để đơn giản, trong ví dụ này tạm thời bỏ qua phí giao dịch mua bán vàng và lãi tiền gởi, lãi vay phát sinh qua đêm. - Khi đăng ký vay mua bán vàng tại ACB, khách hàng A có 4 tài khoản kinh doanh vàng, sau khi nộp tiền vào tài khoản tiền gởi thanh toán, số dư của các tài khoản như sau: o Số dư tài khoản tiền gởi thanh toán vàng VND: 50.000.000 VND. o Số dư tài khoản vàng giữ hộ DT Vàng XAU: 0 lượng vàng SJC. o Dư nợ tài khoản cho vay DT Vàng VND: 0 o Dư nợ tài khoản cho vay vàng DT vàng XAU: 0 1. Cách thức ACB cho vay đầu tư vàng : - Khách hàng A mua 50 lượng vàng SJC với tỷ giá 13.000.000 VND/lượng, với số vốn 50.000.000 VND, ACB sẽ cho khách hàng vay thêm 600.000.000 VND đề thực hiện giao dịch mua vàng. Lúc này, số dư tài khoản của khách hàng là:  Số dư tài khoản tiền gửi tiết kiệm DT Vàng VND: - 600.000.000 VND  Số dư tài khoản vàng giữ hộ DT Vàng XAU: 50 lượng vàng SJC. - ACB sẽ phong toả 50 lượng vàng trên tài khoản giữ hộ vàng DT vàng XAU làm tài sản đảm bảo cho khoản vay trên. [36] - Kết thúc giờ giao dịch ngày 01/01/2007, khác hàng A không nộp tiền vào tài khoản tiền gởi thanh toán DT vàng, ACB sẽ giải ngân cho khách hàng vay khoản tiền này.  Số dư tài khoản tiền gởi thanh toán DT Vàng VND: 0  Số dư tài khoản vàng giữ hộ DT Vàng XAU: 50 lượng vàng SJC.  Dư nợ tài khoản cho vay DT Vảng VND: 600.000.000 VND. - Kết thúc giờ giao dịch ngày 01/01/2007, khách hàng A có số dư và dư nợ như sau:  Số dư tài khoản tiền gởi thanh toán DT Vàng VND: 0  Số dư tài khoản vàng giữ hộ DT Vàng XAU: 50 lượng vàng SJC.  Dư nợ tài khoản cho vay DT Vàng VND: 600.000.000 2. Cách thức ACB thu nợ: 2.1 Khách hàng nộp tiền/vàng vào tài khoản: - Ngày 02/01/2007, khách hàng A nộp 100.000.000 VND vào tài khoản tiền gởi thanh toán.  Số dư tài khoản tiền gởi thanh toán DT Vàng VND: 100.000.000 VND  Số dư tài khoản vàng giữ hộ DT Vàng XAU: 50 lượng vàng SJC.  Dư nợ tài khoản cho vay DT Vàng VND: 600.000.000 VND. - Kết thúc giờ giao dịch ngày 02/01/2007, ACB thu nợ trên số dư tài khoản tiền gởi thanh toán như sau:  Số dư tài khoản tiền gởi thanh toán DT Vàng VND: 0  Số dư tài khoản vàng giữ hộ DT Vàng XAU: 50 lượng SJC.  Dư nợ tài khoản cho vay DT Vàng VND: 500.000.000 VND. 2.2 Khách hàng bán vàng với ACB để trả nợ: - Ngày 02/01/2007, khách hàng A bán 50 lượng vàng với tỷ giá 13.100.000 /lượng, sau khi thanh toán bù trừ giao dịch bán vàng và thu nợ, số dư các tài khoản kinh doanh vàng của khách hàng như sau:  Số dư tài khoản tiền gởi thanh toán DT Vàng VND: 155.000.000 VND.  Số dư tài vàng giữ hộ Vàng XAU: 0 lượng SJC. [37]  Dư nợ tài khoản cho vay DT Vàng VND: 0 1.4 Lợi ích của sự ra đời sàn giao dịch vàng: - Việc thành lập Trung tâm giao dịch vàng một mặt nhằm hạn chế những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế bắt nguồn từ thị trường vàng tự do vì giá vàng có ảnh hưởng trực tiếp đến các hàng hoá khác và đến việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, sự ổn định của nền kinh tế. Mặt khác giúp Nhà nước kiểm soát được những biến động cung cầu về vàng để có chính sách hợp lí nhằm bình ổn thị trường vàng trong nước. - Tạo ra một kênh điều hoà cung cầu, giúp các doanh nghiệp kinh doanh vàng chủ động hơn về nguồn vàng nguyên liệu, giảm được một lượng mgoại tệ đáng kể mà đáng ra phải dùng để nhập khẩu vàng, huy động được nguồn vốn bằng vàng trong dân đang bị đóng băng đồng thời giảm được các chi phí khi nhập khẩu. Giúp các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, góp phần giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng tái đầu tư và cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vàng, loại bỏ thị trường “chợ đen”. - Việc mua bán ở Trung tâm giao dịch vàng sẽ được thanh toán bằng VND sẽ tiết kiệm được một lượng ngoại tệ khá lớn, góp phần tích cực vào việc cân đối cung cầu ngoại tệ. - Doanh nghiệp và người tiêu dùng có thể sử dụng các công cụ phái sinh như: kiểm dịnh chất lượng vàng, tư vấn, bảo hiểm, mua bán qua tài khoản. - Hạn chế được tình trạng giá ảo, đưa vàng về sát với thực tế hơn và thúc đẩy thị trường vàng sôi động hơn. - Hạn chế tình trạng dự trữ vàng, đưa vàng vào kinh doanh lợi nhuận. 1.5 S ự bất cập của sàn giao dịch vàng: 1.5.1 Chính sách thu hút khách hàng: Đây là việc quan trọng vì ngân hàng cần phải thu hút sự chú ý của khách hàng doanh nghiệp và cá nhân về dịch vu mới trên sàn giao dịch vàng, bởi lẽ đơn giản [38] khách hàng có biết đến, có nghe đến sản phẩm thì mới có thể tìm hiểu sử dụng. Do đó, ngân hàng cần thông tin tuyên truyền rộng rãi về dịch vụ quyền chọn vàng một cách chi tiết đến khách hàng thông qua việc quảng cáo dịch vụ mới này trên truyền hình, báo, tạp chí, mạng internet, đặc biệt là tại website của ngân hàng Đây là cách làm tuy có tốn kém nhưng kết quả khả quan vì độ lan truyền của thông tin qua các kênh này rất cao, sẽ làm cho nhiều khách hàng biết đến sản phẩm mới của ngân hàng một cách nhanh chóng nhất. Trang web chính thức của ACB cũng chỉ có mỗi bảng giá điện tử và một vài tin tức điểm báo không được cập nhật thường xuyên. Những quy định về giao dịch cũng như cách thức giao dịch được thể hiện rất ít, chỉ là những quy định chung trên trang web. Hiện nay , ngân hàng chủ yếu thông qua việc phát các thư quảng cáo sản phẩm đến khách hàng không chú trọng đến việc tuyên truyền rộng rãi đến mọi người . Điều này sẽ làm mất một số các khách hàng tiềm năng đang cần có một công cụ để phòng ngừa rủi ro . 1.5.2 Các sự cố về “sập sàn”: Sáng 4/3/2008, Sàn giao dịch Vàng Sài Gòn của Ngân hàng Á Châu (ACB) (chi nhánh Mạc Đĩnh Chi, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh ) đã gặp sự cố khi khách hàng không giao dịch được do hệ thống máy tính bị treo . Sự cố này diễn ra từ 10 giờ đến 11 giờ khiến khá nhiều nhà đầu tư đã tỏ ra tức giận vì không thể mua, bán trong thời điểm “nhạy cảm” và giá vàng thế giới đang xuống. Thiệt hại không tính toán được nhưng khách hàng rất bức xúc vì trong suốt một giờ, không một ai đứng ra giải thích về sự cố, ngay cả khi nhà đầu tư kéo lên gặp lãnh đạo Ngân hàng ACB cũng không gặp. Đây là lần thứ hai kể từ ngày 22/2/2008, sàn này gặp sự cố . 1.5.3 Phát triển các dịch vụ đi kèm: Khi giao dịch trên sàn, các khách hàng rất cần đến sự tư vấn của các chuyên viên ngân hàng về cách thức giao dịch sản phẩm trong quá trình giao dịch. Vì khách hàng không đủ kiến thức, thời gian để nắm bắt rõ được diễn biến của thị trường, của giá vàng trong nước và thế giới trong giai đoạn qua, hiện tại và sắp tới. Nhà đầu tư [39] khó có thể cập nhật kịp thời các biến động chính trị, kinh tế trên thế giới - yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến giá vàng thế giới. Khi thông tin này đến được các nhà đầu tư vàng trong nước thì trong nhiều trường hợp giá đã thay đổi rất nhiều, ảnh hưởng bất lợi đến nhà đầu tư . Trong khi đó, hiện nay, các ngân hàng ít quan tâm đến việc thành lập các nhóm tư vấn về tài chính tiền tệ giúp khách hàng nắm bắt thông tin thị trường và những phân tích cũng như dự báo của các chuyên gia kinh tế về sự biến động của thị trường trong tương lai nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các quyết định tài chính của khách hàng liên quan đến giao dịch vàng. 1.5.4 Cần có sự kết hợp với thị trường thế giới : Hiện nay, sàn vàng chỉ giao dịch một loại vàng là SJC là giá vàng ở Việt Nam. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp kinh doanh vàng thì luôn phải nhập khẩu vàng từ thị trường thế giới nên chịu rủi ro từ sự biến động giá từ thế giới nhiều hơn. Đây là điều gây khó khăn cho đối tượng là doanh nghiệp khi tham gia sàn vàng nên cần phải khắc phục trong thời gian sắp tới, đáp ứng nhu cầu phòng ngừa rủi ro của doanh nghiệp. Sàn giao dịch ACB chỉ hoạt động trong giờ hành chính và buộc nhà đầu tư phải đến sàn, trong khi thị trường vàng thế giới hoạt động liên tục 24/24 và có thể giao dịch qua mạng 1.5.5 Thiếu sự công khai , minh bạch : Hiện nay , quy chế trên sàn giao dịch vàng của ACB do chính ACB xây dựng và ban hành ( theo sự uỷ quyền của những thành viên đồng sáng lập ). Việc tự đề ra quy chế giao dịch và đồng thới tham gia giao dịch đặt ra những câu hỏi về sự công khai, minh bạch trong hoạt động của sàn giao dịch . 2. Giao dịch quyền chọn vàng: 2.1 Thực trạng giao dịch quyền chọn vàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam (4). [40] Giao dịch quyền chọn vàng được ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu thực hiện thí điểm theo văn bản cho phép của ngân hàng nhà nước số 458/CV – QLNH ngày 16/7/2004. Theo đó, kể từ ngày 15/12/2004, ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu bắt đầu cung cấp cho khách hàng là các cá nhân và tổ chức một sản phẩm mới, đó là quyền chọn mua và bán vàng, gọi tắt là quyền chọn vàng (gold option) nhằm mục tiêu chủ yếu đáp ứng nhu cầu bảo hiểm giá cho khách hàng khi sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán và đầu tư. Đây là sản phẩm có tác dụng hữu ích cho mọi thành phần dân cư và kinh tế. Trong điều kiện nhu cầu nhà ở của người dân đang ngày càng tăng, đồng thời giá vàng liên tục có những biến động mạnh và khó dự báo như trong thời gian qua, sản phẩm quyền chọn vàng đã đáp ứng được nhu cầu của nhiều người và các thành phần kinh tế có giao dịch vàng trong kinh doanh. Do đó, sau ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, các ngân hàng thương mại khác cũng bắt đầu triển khai thực hiện giao dịch quyền chọn bằng vàng là: ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), Ngân Hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), và ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn thương tín (Sacombank), ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (eximbank), ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương (Techcombank), ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế (VIB Bank), ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á, ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông, ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam… trong đó chủ yếu là đang trong giai đoạn nghiên cứu sản phẩm quyền chọn hoặc chuẩn bị triển khai. 2.2 Những khó khăn và nguyên nhân của khó khăn trong giao dịch quyền chọn vàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.(5) - Giao dịch quyền chọn vàng đã được một số Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam triển khai thực hiện từ cuối năm 2004 cho đến ngày nay. Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng các ngân hàng thương mại hiện nay vẫn đang lung túng đối với việc triển khai và phát triển sản phẩm quyền chọn vàng . [41] - Đứng trên giác độ khách hàng doanh nghiệp và khách hàng cá nhân, các khách hàng này cho rằng những khó khăn chủ yếu và nguyên nhân gây cản trở cho việc sử dụng giao dịch quyền chọn vàng hiện nay như sau: • Khách hàng thiếu kiến thức và thông tin về sản phẩm quyền chọn vàng mà các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam cung cấp. • Mức quy định quy mô giao dịch tối thiểu còn cao tại hầu hết các NHTM cung cấp giao dịch này, cụ thể, đối với thể nhân là 100 lượng vàng và pháp nhân tối thiểu là 1.000 lượng (dù chỉ có ngân hàng Á Châu trong tháng 4 năm 2006 đã có thay đổi quy định về quy mô giao dịch tối thiểu là 50 lượng, 80 lượng hay 100 lượng) nhưng nhìn chung nếu vẫn giữ mức quy mô tối thiểu là 100 lượng thì khó có thể đáp ứng cho nhu cầu đa dạng của phần đông khách hàng cá nhân trong thanh toán và tiết kiệm vàng, đặc biệt khi mà việc sử dụng vàng trong giao dịch nhà đất vẫn còn là một thói quen khá phổ biến từ trước đến nay. • Chi phí cho việc mua hợp đồng quyền chọn từ các ngân hàng thương mại cổ phần khá cao. Có những thời điểm khi giá vàng biến động mạnh, chi phí lên đến 5 - 10% trị giá hợp đồng quyền chọn. Đây có thể được xem là cản trở lớn nhất cho khách hàng khi có nhu cầu phòng ngừa rủi ro biến động giá trong thời gian qua hay tìm kiếm cơ hội sinh lời trên sự biến động giá vàng này. - Một số ý kiến khác của khách hàng doanh nghiệp và cá nhân liên quan đến vấn đề này như sau: • Khách hàng doanh nghiệp khi giao dịch quyền chọn vàng gặp khó khăn trong khâu hạch toán kế toán có liên quan đến phí trong giao dịch quyền chọn vàng bởi vì cho đến nay Bộ tài chính vẫn chưa có văn bản nào có liên quan đến hướng dẫn thi hành hạch toán phí quyền chọn nói chung và quyền chọn vàng nói riêng. • Khách hàng thiếu hướng dẫn chi tiết và tư vấn từ các chuyên viên ngân hàng liên quan đến việc đưa ra mức giá thực hiện thích hợp khi thoả thuận hợp đồng hoặc khi khách hàng cần sự tư vấn về việc có nên hoặc không nên bán quyền chọn kiểu Âu đang cao giá hay nên hoặc không nên thực hiện quyền chọn kiểu Mỹ đang cao giá trước ngày đáo hạn. [42] • Khách hàng thiếu thông tin cần thiết liên quan đến việc định giá quyền chọn và dự báo về giá vàng. Đứng trên giác độ ngân hàng thương mại, những nguyên nhân chính gây ra khó khăn trong việc triển khai và phát triển giao dịch quyền chọn vàng tại NHTM: Thứ nhất, những trở ngại và nguyên nhân chính từ phía khách hàng làm cho giao dịch quyền chọn vàng ít được sử dụng tại các NHTMVN như sau: • Nhận thức về rủi ro phát sinh do biến động giá vàng và ý nghĩa của việc sử dụng các công cụ phòng chống rủi ro còn hạn chế ngay cả khi thị trường có nhiều biến động. • Đa số khách hàng doanh nghiệp và cá nhân có thói quen chấp nhận rủi ro hơn là sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro nói chung và giao dịch quyền chọn vàng nói riêng. • Khách hàng còn có tâm lý e ngại khi sử dụng quyền chọn vàng vì chưa hiểu và vì quyền chọn vàng là sản phẩm tài chính phái sinh còn quá mới mẻ ở Việt Nam. • Khách hàng chưa có kinh nghiệm sử dụng công cụ tài chính phái sinh để tìm hiếm lợi nhuận trên sự biến động giá. • Khách hàng ngại sử dụng quyền chọn vàng vì phải trả một khoản phí quá cao trong khi đó nếu sử dụng thì khách hàng doanh nghiệp không biết hạch toán khoản chi phí này như thế nào. • Đối với các khách hàng doanh nghiệp, hầu hết chưa có giám đốc tài chính như thông lệ thế giới, tức là chưa có người chuyên lo tính toán, dự báo biến động của thị trường, biến động của lãi suất, tỷ giá và giá cả để xử lý, chuyên lo về tài chính trong hoạt động kinh doanh nên các khách hàng doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là theo lối kinh doanh truyền thống, khi nào cần USD, cần vàng thì mua, khi nào có nhu cầu thì bán. Thời gian qua chỉ mới có một số khách hàng là doanh nghiệp kinh doanh vàng lớn thực hiện nghiệp vụ quyền chọn vàng để phòng ngừa rủi ro cho hoạt động kinh doanh của mình. [43] Thứ hai, về phía ngân hang thương mại, thời gian qua, một số ngân hàng đã nỗ lực nghiên cứu và triển khai cung cấp giao dịch quyền chọn vàng cho các khách hàng của mình có thêm công cụ phòng ngừa rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận dựa trên sự biến động giá. Tuy nhiên, qua khảo sát ý kiến đại diện của các ngân hàng thương mại có hoạt động kinh doanh vàng trên địa bàn thì khi triển khai nghiệp vụ này vẫn còn một số trở ngại cho sự phát triển quyền chọn vàng bắt nguồn từ phía ngân hàng như sau: • Một số đặc điểm thiết kế cho sản phẩm quyền chọn vàng vẫn chưa phù hợp với nhu cầu đa dạng của thị trường Việt Nam như quy mô tối thiểu và kỳ hạn chưa phù hợp và phí mua quyền thì quá cao. • Ngân hàng chưa cung cấp hướng dẫn một cách chi tiết và dễ hiểu về sản phẩm, cách thức thực hiện sản phẩm cũng như các lợi ích và thiệt hại nếu có liên quan đến sản phẩm quyền chọn vàng. • Công tác tuyên truyền quảng cáo, tiếp thị của một số ngân hàng thương mại chưa tốt, chưa hiệu quả, do đó một mặt doanh nghiệp chưa biết đến nghiệp vụ này, một mặt đã biết nhưng chưa thấy lợi ích của nghiệp vụ quyền chọn, nên chưa lựa chọn. • Một số ngân hàng thương mại chưa quan tâm đến việc đẩy mạnh và phát triển sản phẩm quyền chọn vàng hoặc chỉ triển khai sản phẩm nhằm mục đích khuếch trương tên tuổi của ngân hàng là chính chứ không quan tâm đến khuyết điểm của sản phẩm hoặc thay đổi sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng theo từng giai đoạn biến động của thị trường. Ngoài những trở ngại từ phía các khách hàng doanh nghiệp và cá nhân, đại diện các ngân hàng thương mại tham gia cuộc khảo sát còn chỉ ra một số trở ngại xuất phát từ môi trường tài chính của Việt Nam. Đây là những trở ngại có ảnh hưởng nhất định đến việc phát triển công cụ tài chính phái sinh nói chung và giao dịch quyền chọn vàng nói riêng tại các ngân hàng thương mại việt nam trong thời gian qua. Cụ thể như sau: • Các văn bản pháp lý của nhà nước chưa theo kịp với xu hướng phát triển [44] của thị trường. • Chưa có một cơ chế pháp lý, văn bản pháp luật cụ thể đảm bảo cho sự ra đời và hoạt động lành mạnh của thị trường quyền chọn vàng. • Bản thân các ngân hàng chưa được hỗ trợ giúp phòng ngừa rủi ro nếu cung cấp quyền chọn vàng ngay đến quy định liên quan đến hạn mức trạng thái mở, mức dừng lỗ, ... trong giao dịch quyền chọn vàng mà ngân hàng nhà nước vẫn chưa ban hành. • Ngân hàng nhà nước chưa có quy định pháp lý để phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở tại thị trường Việt nam. Chính điều đó sẽ là chất xúc tác cho việc phát triển giao dịch phái sinh để tăng cường hiệu quả phòng ngừa rủi ro cho hoạt động kinh doanh vàng. • Thiếu thông tin tài chính trên thị trường tài chính tiền tệ khiến cho công cụ phân tích và dự báo giá vàng của các ngân hàng và khách hàng gặp nhiều trở ngại. Từ đó, khách hàng không có thông tin để quyết định phòng ngừa rủi ro hoặc tìm kiếm cơ hội sinh lời từ quyền chọn vàng. • Thị trường các công cụ tài chính phái sinh, kể cả thị trường quyền chọn vàng Việt nam còn quá nhỏ bé về quy mô thị trường, số lượng giao dịch nhỏ (vài trăm lượng trong khi giao dịch quyền chọn vàng trên thế giới có quy mô tối thiểu đã lên đến 1.000 ounce vàng, tương đương 800 lượng) trong khi đó, thị trường Việt Nam còn chỉ cho phép các nhà đầu tư là người mua mà chưa cho phép là người bán quyền chọn. • Thị trường chỉ mới phát triển ở mức độ thấp, còn thiếu vắng các nhà đầu tư am hiểu kỹ về lợi ích cũng như kỹ thuật tính toán lợi nhuận từ các loại nghiệp vụ này. • Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, những khó khăn, trở ngại và nguyên ngân làm cho giao dịch quyền chọn vàng chưa phát triển tại Việt Nam được xuất phát từ cả ba phía có liên quan đến khách hàng cá nhân, doanh nghiệp, ngân hàng và môi trường tài chính đã được thu thập, trình bày và phân một cách cụ thể và rõ nét. Đây sẽ là nền tảng rất quan trọng cho việc đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục [45] khó khăn và đưa ra định hướng phát triển giao dịch quyền chọn trong thời gian sắp tới. 3. Giải pháp để ứng dụng và phát triển các công cụ phái sinh trong kinh doanh vàng: 3.1. Xây dựng sàn giao dịch vàng thống nhất để ứng dụng công cụ phái sinh . (6). Hiện Việt Nam đã trở thành quốc gia có số người tham gia đầu tư vàng đứng đầu thế giới. Do vậy, đã đến lúc cần phải có sàn giao dịch vàng mang tầm quốc gia để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Còn nếu cứ tiếp tục để thị trường giao dịch tự do thì chắc chắn nhà đầu tư cũng như thị trường vàng trong nước sẽ gặp nhiều rủi ro. Hiện Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam đang tập trung nghiên cứu kinh nghiệm của các sàn giao dịch vàng quốc tế đang hoạt động hiệu quả, kết hợp với nghiên cứu tình hình giao dịch của thị trường vàng trong nước và các cơ chế pháp luật hiện hành để sớm cho ra đời một sàn giao dịch vàng quốc gia. Trước mắt, sẽ thành lập sàn giao dịch vàng ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Điểm khác biệt lớn nhất so với các sàn giao dịch nhỏ lẻ là không phải do một doanh nghiệp, một đơn vị tổ chức mà là do nhiều ngân hàng thương mại, nhiều doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vàng tham gia. Hoạt động của sàn giao dịch độc lập, không phụ thuộc hoặc hoạt động vì lợi ích của riêng một doanh nghiệp mà chủ yếu là làm dịch vụ, hoàn toàn không có sự cạnh tranh kinh doanh giữa các hội viên, các doanh nghiệp. - Sàn giao dịch vàng quốc gia sẽ do Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam đứng ra thành lập và chịu trách nhiệm, do đó, việc khớp giá ở sàn giao dịch vàng quốc gia, tỷ giá hình thành trên thị trường vàng Việt Nam, giá mua cũng như giá bán sẽ được minh bạch và khách quan nhất. - Sàn giao dịch sẽ có dịch vụ mua bán có kỳ hạn và thực hiện các công cụ phái sinh để phòng ngừa các rủi ro khi thị trường vàng thế giới biến động bất thường. Trường hợp cần thiết, sàn giao dịch có thể sẽ cấp tín dụng hoặc đáp ứng các nhu cầu vàng vật chất cho nhà đầu tư. - Nhà đầu tư sẽ được tính giá mua, giá bán trên cơ sở khớp giá hàng ngày của nhiều người mua, nhiều người bán, nếu lượng khách giao dịch càng lớn sẽ phản ánh giá mua và giá bán càng khách quan hơn. [46] Lợi ích đối với các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ là rất lớn. Sàn giao dịch vàng quốc gia sẽ hạn chế được lượng giao dịch không chính thức, tránh được những rủi ro không đáng có. Thông qua đó, cơ quan quản lý cũng nắm được lượng cung, cầu của thị trường vàng, cung cầu ngoại tệ liên quan đến vàng cũng như lượng tiền giao dịch trên thị trường vàng một cách chính xác, chủ động hơn, để có những điều tiết kịp thời khi biến động xảy ra. 3.2. Thay đồi nhận thức về rủi ro: (7) - Từ lâu, trong tâm lý các khách hàng cá nhân và doanh nghiệp đã quen với việc được Nhà Nước, Chính Phủ che chở cho hoạt động đầu tư, kinh doanh của mình thông qua hàng loạt các văn bản chính sách về quản lý ngoại hối nhằm ồn định thị trường. Chính sự ổn định này đã dẫn đến tâm lý ỷ lại, sự thờ ơ trước sự đe doạ của rủi ro phát sinh do những biến động của thị trường đem lại . - Tuy nhiên tâm lý ỷ lại và thờ ơ với rủi ro hay tâm lý e ngại này không chỉ bời sự bảo hộ của Nhà Nước mà còn xuất phát bởi một nguyên nhân nữa là do tong thời gian qua, thị trường tài chính tiền tệ tại Việt Nam chưa gặp được những biến động lớn. Những nước chịu khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 đã bị sốc trong khủng hoảng và do đó, họ đã vươn lên mạnh mẽ như Thái Lan, Malaysia, … đang là những quốc gia có hệ thống chống rủi ro tài chính phát triển mạnh trong khu vực. - Ở Việt Nam, hầu như chưa gặp khủng hoảng tài chính lớn và vì thế, các doanh nghiệp còn tương đối yên tâm. Hầu hết mọi người đều có một niềm tin là tỷ giá USD/VND hay giá vàng/VND sẽ được Nhà Nước giữ cố định còn lãi suất thì đã có Ngân hàng Trung Ương và Nhà Nước, Ngân hàng Trung Ương sẽ không để cho các chỉ số này biến động mạnh. - Vì vậy, niềm tin này là khá nguy hiểm trong giai đoạn hiện nay nhất là khi chúng ta đã bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ hội nhập với nền kinh tế thế giới, thời kỳ cạnh tranh bình đẳng trong WTO giữa các quốc gia khác nhau trên thế giới, thời kỳ phát triển không ngừng của thị trường và nền kinh tế thì chúng ta cần phải làm cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư thay đổi nhận thức rằng chuyện gì sẽ xảy ra và họ sẽ đối phó với rủi ro phát sinh như thế nào nếu như Ngân hàng Nhà Nước không tiếp tục duy trì chính sách bảo hộ như trước đây. Chính tâm lý ỷ lại, không phòng ngừa rủi ro đã làm một bộ phận người dân cũng như giới đầu tư bất động sản “điêu đứng “, vì giá vàng đột ngột tăng mạnh trong những năm gần đây. - Cần phải làm cho doanh nghiệp và cá nhân thay đổi nhận thức về rủi ro thị trường, nhận thức về mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận nhất là đối với rủi ro trên thị trường tài chính với mức ảnh hưởng rất lớn đến nguồn tài sản mà họ nắm giữ, [47] đồng thới xoá đi tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự che chở, can thiệp trực tiếp vào thị trường của Chính Phủ bằng các văn bản pháp lý. 3.3. Nâng cao nhận thức, trình độ của doanh nghiệp về phòng ngừa rủi ro (8). Đây là một giải pháp mang tính nền tảng căn bản, được gợi ý từ quá trình xử lý kết quả khảo sát của chúng tôi (xem phần trên về các nhân tố nội tại tác động đến quyết định sử dụng sản phẩm phái sinh để quản trị rủi ro tài chính) cũng như từ gợi ý của nhiều ngân hàng cung cấp sản phẩm này. Trách nhiệm quản lý chung yêu cầu các thành viên hội đồng quản trị phải đảm bảo được rằng ban giám đốc đủ khả năng thực hiện các quyết định về chính sách của hội đồng quản trị. Họ nên yêu cầu các nhà quản trị cao cấp của công ty kiểm tra lại xem hệ thống đào tạo và phần mềm có đủ khả năng đáp ứng công việc hay không. Trong Tạp chí kinh doanh Havard, Cheryl Francis (giám đốc vốn của công ty FMC) ủng hộ quan điểm này: “Một trong những chìa khóa để sử dụng sản phẩm phái sinh một cách phù hợp là giáo dục và đào tạo. Các nhà quản trị phải biết làm sao để nhận diện rủi ro và truyền đạt thông tin về chúng”. Nhưng trong điều kiện nước ta hiện nay, không nên để doanh nghiệp “tự bơi” trong việc đào tạo về phòng ngừa rủi ro tài chính. Tốt hơn nhà nước nên có chính sách cụ thể “quảng bá hậu WTO” về quản trị rủi ro tài chính trong quá trình hội nhập, từ đó kích thích các doanh nghiệp và tổ chức đào tạo chuyên nghiệp ngồi lại với nhau xây dựng một chương trình đào tạo về quản trị rủi ro phù hợp cho doanh nghiệp Việt Nam. 3.4. Xây dựng khung pháp lý rõ ràng cho việc kinh doanh sản phẩm phái sinh: (9) Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan có liên quan cần nhanh chóng nghiên cứu, xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh điều chỉnh hoạt động kinh doanh các công cụ tài chính phái sinh của các ngân hàng thương mại. Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, chúng tôi cho rằng việc xây dựng và ban hành các văn bản nêu trên cần phải lưu ý một số vấn đề pháp lý sau đây: Về hình thức văn bản: để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, Nhà nước xem xét ban hành Luật giao dịch công cụ tài chính phái sinh điều chỉnh thống nhất về tổ chức, hoạt động của thị trường tài chính phái sinh (không chỉ chú ý vào các thị trường có tổ chức như sàn giao dịch giao sau, sàn giao dịch quyền chọn, mà phải chú ý vào [48] các giao dịch OTC vì theo kinh nghiệm thì đây là những giao dịch phổ biến hơn tại Việt Nam) và hoạt động kinh doanh các sản phẩm tài chính phái sinh như thông lệ ở nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực. Về mặt quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh các công cụ tài chính phái sinh của các ngân hàng thương mại: Theo nguyên tắc và theo thông lệ quốc tế, các ngân hàng thương mại có thể tham gia thực hiện các nghiệp vụ phái sinh theo một trong các tư cách: (1) Người cung cấp dịch vụ ngân hàng liên quan đến công cụ phái sinh hoặc cung cấp dịch vụ môi giới, tư vấn cho khách hàng mua, bán công cụ phái sinh (ngân hàng cung cấp dịch vụ); (2) Nhà đầu tư mua, bán các sản phẩm phái sinh. Theo loại tài sản cơ sở, các sản phẩm phái sinh có thể chia thành các sản phẩm phái sinh dựa trên tài sản tài chính (như ngoại tệ, lãi suất, cổ phiếu, trái phiếu, khoản vay, tiền gửi…) và các sản phẩm phái sinh dựa trên hàng hoá (như gạo, cao su, cà phê, xăng dầu…). Chúng tôi cho rằng, cần căn cứ vào tính chất của từng loại hình công cụ phái sinh, mức độ rủi ro và tư cách tham gia vào giao dịch phái sinh của ngân hàng thương mại để có hình thức quản lý phù hợp.  Thứ nhất, nhóm các hoạt động, dịch vụ không cần xin phép là các dịch vụ ngân hàng cung cấp cho khách hàng kinh doanh các công cụ phái sinh như hoạt động môi giới, tư vấn, nhận ủy thác và quản lý tài khoản đầu tư vào các sản phẩm phái sinh của khách hàng. Với tư cách là người cung cấp các dịch vụ cho khách hàng đầu tư vào sản phẩm phái sinh, ngân hàng thương mại không phải gánh chịu rủi ro nảy sinh từ hoạt động kinh doanh công cụ phái sinh, do vậy, việc cấp phép riêng cho các nghiệp vụ này là không cần thiết.  Thứ hai, nhóm các hoạt động, dịch vụ cần xin phép là hoạt động kinh doanh công cụ tài chính phái sinh giữa các ngân hàng thương mại và giữa ngân hàng thương mại với khách hàng. Với tư cách là một bên tham gia giao dịch mua bán các công cụ tài chính phái sinh, các ngân hàng thương mại sẽ phải gánh chịu rủi ro từ giao dịch nên việc cấp phép, thanh tra và giám sát của Ngân hàng Nhà nước là cần thiết để bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, bảo đảm sự an toàn của bản thân ngân hàng và sự ổn định của cả hệ thống. Về quy trình, điều kiện cấp phép và giám sát rủi ro Do yêu cầu của quá trình cải cách hành chính, Ngân hàng Nhà nước cần thay đổi căn bản cơ chế cấp phép cho việc cung cấp từng dịch vụ tài chính phái sinh cụ thể của các ngân hàng thương mại theo hướng: Ngân hàng Nhà nước không cấp phép cho từng sản phẩm tài chính phái sinh của ngân hàng thương mại, mà quy định các điều kiện cần thiết để được cung cấp từng nhóm sản phẩm tài chính phái sinh [49] (trên cơ sở đảm bảo an toàn, có chính sách quản lý rủi ro phù hợp, có đủ năng lực cung cấp dịch vụ). Khi có đủ các điều kiện này, tổ chức tín dụng sẽ được thực hiện hoạt động kinh doanh các sản phẩm tài chính phái sinh và Ngân hàng Nhà nước chỉ giám sát, thanh tra việc cung cấp dịch vụ của tổ chức tín dụng trên cơ sở tuân thủ các điều kiện do Ngân hàng Nhà nước quy định (việc này đã từng bước áp dụng cho hoán đổi và quyền chọn, nhưng thật ra có nhiều vướng mắc, cuối cùng đôi khi vẫn quay lại tình trạng xin phép theo sản phẩm). Ngân hàng Nhà nước không quy định cụ thể các loại sản phẩm tài chính phái sinh mà ngân hàng thương mại được phép cung cấp trong giấy phép của từng ngân hàng, mà nên quy định chung theo nhóm các dịch vụ tài chính phái sinh sẽ được cung cấp (có thể theo tiêu chí phân loại dựa vào tài sản tài chính gốc của công cụ phái sinh như các công cụ tài chính phái sinh dựa trên giao dịch ngoại tệ, vàng tiêu chuẩn quốc tế, tiền gửi, khoản vay, lãi suất...). [50] KẾT LUẬN Xây dựng thị trường phái sinh là một biện pháp hữu hiệu để phòng chống rủi ro biến động về giá, và đã trở nên phổ biến trên thị trường tài chính quốc tế. Thị trường phái sinh từng bước được hình thành và cũng có những bước phát triển nhất định tại thị trường Việt Nam. Tuy vẫn còn có những tồn tại và bất cập xuất hiện từ môi trường pháp lý, nhận thức về rủi ro và tâm lý e ngại trong sử dụng các công cụ tài chính hiện đại của các cá nhân và doanh nghiệp, đồng thời cùng với những khó khăn xuất phát từ sự tư vấn của ngân hàng khi cung cấp dịch vụ. Chính vì vậy, việc khắc phục những khó khăn, tìm ra những giải pháp cho việc phát triển các sản phẩm phái sinh là yêu cầu cầp thiết hiện nay. Ngoài những nỗ lực của bản thân các Ngân hàng, Chính phủ, Ngân hàng Nhà Nước cũng như các Bộ, các cơ quan ban ngành của Chính phủ phải có những chủ trương, chính sách đúng đắn, có tầm nhìn chiến lược nhằm xây dựng môi trường pháp lý và tạo điều kiện cho các sản phẩm tài chính ngân hàng nói chung và các sản phẩm phái sinh nói riêng ngày càng phát triển . Tìm hiểu hoạt động kinh doanh các sản phẩm phái sinh ở Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình hội nhập với thế giới. Việc tiếp cận các sản phẩm này nhằm giúp các nhà đầu tư phòng ngừa rủi ro trong biến động giá vàng, đa dạng hoá các hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu có hạn, các hoạt động kinh doanh này là tương đối mới, số liệu về ngành và số liệu hoạt động kinh doanh vàng tại các Ngân hàng còn trong vòng bí mật, hạn chế cung cấp ra bên ngoài bởi kinh doanh các sản phẩm phái sinh là nghiệp vụ tương đối mới và còn mang tính cạnh tranh cao. Do vậy, đề tài mang tính định tính hơn định lượng, nhưng mục tiêu chính của đề tài là đưa ra cái nhìn bao quát về thị trường phái sinh, một nhu cầu cần thiết cho sự ổn định trên thị trường. Do kiến thức và thời gian có hạn, nhóm tác giả chỉ có thể trình bày đuợc những vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh các sản phẩm phái sinh ở Việt Nam nên còn nhiều thiếu sót rất mong sự cảm thông và đóng góp ý kiến của quý Thầy, Cô, và độc giả. [51] TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] PTS Nguyễn Hữu Định: Kinh doanh vàng tại Thành phố Hồ Chí Minh, chính sách và giải pháp. NXB Thành phố Hồ Chí Minh [2] Phan Chung Thuỷ: Phát triển giao dịch quyền chọn vàng tại các ngân hàng thương mại tại Việt Nam - Luận Văn Thạc Sĩ [3] Nguyễn Ninh Kiều - Nghiệp Vụ Ngân Hàng Hiện Đại, Nhà Xuất Bản Thông Kê năm 2007. [4] Huỳnh Phước Nguyên - Kinh doanh vàng tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - Luận Văn Thạc Sĩ. [5] TS. Nguyễn Văn Tiến, sách Quyền chọn tiền tệ, NXB Thống kê, năm 2004. [6] Giải pháp phát triển thị trường phái sinh ở Việt Nam – ( Kỷ yếu hội thảo khoa học) – Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam thường trực hội đồng KH&CN Ngân Hàng Vụ Chiến Lược Phát Triển Ngân Hàng. Các trang web: - www.vangvietnam.com; www. kitco.com; www.gso.gov.vn - www.trangsucvietnam.com.vn; - www.vi.wikipedia.org; tuoitre.com.vn; vangvietnam.vn - www.org.vn; giavang.net; - saga.vn; vinamap.vn; www.centralbank.vn - goldnews; bullionvault.com; - www.bis.org; www.sge.sh; www.vietnamwebsite.net - www.sbv.gov.vn .................... [52] PHỤ LỤC (1). Tham khảo từ nguồn sách tham khảo của PTS Nguyễn Hữu Định – “Kinh doanh vàng tại Thành Phố Hồ Chí Minh” - phần thị trường vàng thế giới. (2). Tham khảo từ nguồn tuổi trẻ online (ngày 02/03/2008) – bài viết nhận định về những nguyên nhân gây biến động giá vàng – Ths Hồ Quốc Tuấn. (3). Tài liệu nội bộ “Hướng dẫn kinh doanh vàng trên sàn” – Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Á Châu. (4). Tham khảo từ nguồn luận văn thạc sĩ – Tác giả Phan Chung Thủy - phần “Giao dịch quyền chọn vàng” . (5). Tham khảo từ nguồn luận văn thạc sĩ – Tác giả Phan Chung Thuỷ - phần “ Những khó khăn và nguyên nhân của khó khăn trong giao dịch quyền chọn vàng tại các NHTM Việt Nam”. (6). Tham khảo từ nguồn “Cơ chế cho sàn giao dịch vàng quốc gia” (ngày 25/05/2008) - mạng vneconomy. (7), (8), (9). Tham khảo từ nguồn “Luận văn bảo vệ” của TS Nguyễn Thị Ngọc Trang”- phần “Hệ thống giải pháp bổ trợ”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBai hoan chinh.pdf
Tài liệu liên quan