Bài giảng Xã hội học khoa học công nghệ và môi trường

XÃ HỘI HỌC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ I. KHOA HỌC. 1. Khái niệm khoa học: Lúc đầu khoa học chỉ là một nghiên cứu triết lý tự nhiên trong triết học, sau đó đến đầu thế kỷ XIX, triết lý tự nhiên được tách khỏi triết học hình thành nên khái niệm khoa học; mới đầu là khoa học tự nhiên, sau đó đến khoa học xã hội . do đó có rất nhiều khái niệm về khoa học từ các góc độ nghiên cứu: - Từ điển Larousse (2002) của Pháp định nghĩa: “Khoa học là một tập hợp tri thức đã được kiểm chứng bằng thực nghiệm về các sự kiện, sự vật và hiện tượng tuân theo một quy luật xác định”. - Từ điển Triết học của Liên Xô (bản tiếng Việt, 1975) định nghĩa: “Khoa học là lĩnh vực hoạt động nhằm mục đích sản xuất ra những tri thức mới về tự nhiên, xã hội và tư duy bao gồm tất cả những điều kiện và yếu tố của sự sản xuất này”. Do đó, khoa học bao gồm những người tiến hành các hoạt động sản xuất ra hệ thống tri thức. - Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô (1986) định nghĩa: “Khoa học là lĩnh vực hoạt động của con người, có chức năng xử lý và hệ thống hóa về mặt lý thuyết các tri thức khách quan”, “Là một trong những hình thái ý thức xã hội, bao gồm trong đó cả những hoạt động nhằm thu nhận các kiến thức mới, và cả những kết quả của các hoạt động đó”. - Luật KH&CN của Việt Nam - Điều 2 của định nghĩa: “Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy”. - Từ điển Xã hội học của Nguyễn Khắc Viện (1994) định nghĩa: “Khoa học là một thiết chế xã hội”. Định nghĩa này dựa trên nghiên cứu của một nhà nghiên cứu lịch sử khoa học người Mỹ, D.J. Price từ năm 1972. Các định nghĩa trên cho thấy, có 4 định nghĩa về khoa học trên cơ sở 4 cách tiếp cận sau: 1) Khoa học là một hệ thống tri thức. 2) Khoa học là một hoạt động sản xuất tri thức. 3) Khoa học là một hình thái ý thức xã hội. 4) Khoa học là một thiết chế xã hội. Từ đó, ta có thể khái niệm khoa học như sau: “Khoa học là hệ thống các kiến thức về các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy, dựa trên những phương pháp được xác định để thu nhận kiến thức” 2. Tính chất của khoa học. 2.1. Tính mới. Khoa học là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới, học thuyết mới về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết mới này tốt hơn, có thể thay thế dần những cái cũ không còn phù hợp đòi hỏi khoa học không thể đi trên những con đường mòn mà phải có tính mới. Nhà khoa học Louis Pasteur từng nói rằng "Khoa học không có ranh giới quốc gia, bởi vì kiến thức là tài sản của nhân loại". Làm khoa học là để khám phá ra những kiến thức mới, mở ra những chân trời mới cho nhân loại, để phục vụ cho lợi ích của con người nói chung, không phục vụ riêng cho một thể chế chính trị hay quốc gia nào. 2.2. Tính thông tin. Là tài sản của nhân loại nên khoa học có tính thông tin. Tính thông tin quy định tri thức phải được chia sẻ, không được giữ bí mật hoặc giữ làm tài sản của riêng mình. Vì vậy, các nhà khoa học phải công bố khoa học (công bố các sản phẩm kết quả nghiên cứu của họ,, "biếu không" chúng cho các đồng nghiệp và nhân loại phục vụ cho lợi ích chung của loài người. 2.3. Tính rủi ro. Rủi ro, là xác suất một tai nạn xảy ra trong một thời gian và không gian. Trong hoạt động khoa học, cộng đồng khoa học luôn phải đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn, hình thành từ nhiều nguyên nhân như: rủi ro về tài chính phục vụ cho nghiên cứu khoa học quá thiếu, sản phẩm khoa học chưa được ứng dụng hoặc không được ứng dụng, bị đánh giá khó ứng dụng thực tế; rủi ro về thủ tục pháp lý trong quá trình tuân thủ pháp luật, hoặc thay đổi pháp luật, áp dụng pháp luật và các mâu thuẫn giữa pháp luật trong nước và quốc tế. 2.4. Tính cá nhân, Khoa học là hoạt động sản xuất tri thức của mỗi người trong cộng đồng khoa học do đó sản phẩm khoa học là kết quả nghiên cứu của các nhân, nó mang tính cá nhân. 2.5. Tính kế thừa. Khoa học nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức của con người, phục vụ cho lợi ích chung do đó mặc dù tri thức khoa học trong thời đại thông tin là một loại sản phẩm vừa mang tính cá nhân rất cao, song lại là sự kế thừa những của nỗ lực cả một tập thể, cộng đồng khoa học đi trước. 3. Chức năng của khoa học: Khoa học có 3 chức năng cơ bản. 3.1. Chức năng khám phá. Khoa học khám phá thuộc tính của vật chất, tự nhiên, xã hội, sự vật, hiện tượng . Khoa học khám phá những vật thể tự nhiên vốn tồn tại, những qui luật vận động của vật chất, những tính chất hoặc những hiện tượng của thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan, nhờ đó làm thay đổi cơ bản nhận thức của loài người. 3.2. Chức năng dự báo. Dựa vào kho tàng kiến thức của các Bộ môn khoa học, hiểu biết về thế giới vật chất, qui luật vận động của vật chất với những công cụ, thiết bị, phương tiện và phưong pháp khoa học. Khoa học có thể dự báo về các hiện tượng tự nhiên, xã hội ví dụ: dự báo thời tiết, khí hậu, hiện tượng thiên văn, dự báo các biến cố chính trị, kinh tế, xã hội. 3.3. Chức năng sáng tạo: Khoa học vận dụng qui luật vận động của vật chất, tự nhiên, xã hội để sáng tạo các giải pháp tác động vào các vật chất, tự nhiên, xã hội nhằm cải tạo chúng. 4. Phân loại khoa học. 4.1. Khái niệm phân loại khoa học: Phân loại khoa học vạch ra mối liên hệ lẫn nhau giữa các khoa học tự nhiên, khoa học - kĩ thuật, khoa học xã hội, triết học trên cơ sở các nguyên tắc (chẳng hạn nguyên tắc chủ quan, khách quan, phát triển, phối hợp, phụ thuộc .) và trình bày mối liên hệ đó dưới dạng một dãy hoặc một sự sắp xếp các khoa học có căn cứ lôgic. Phân loại khoa học có ý nghĩa quan trọng trong việc tổ chức và quản lí các hoạt động khoa học (nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo .) và trong công tác thông tin, thư viện. Song, sự phân loại khoa học này chỉ mang tính chất rất tương đối: Ví dụ: Các môn khoa học tự nhiên tạo nên cơ sở cho các khoa học ứng dụng. Các khoa học tự nhiên và ứng dụng lại được phân biệt với các ngành khoa học xã hội, nhân văn, thần học, nghệ thuật. Các ngành Toán học, Thống kê và Tin học cung cấp nhiều công cụ và khung làm việc được sử dụng trong các ngành khoa học tự nhiên. Ở Việt Nam, ba ngành này được xếp vào loại khoa học tự nhiên. 4.2. Các tiêu chí phân loại khoa học, 4.2.1. Ph ân chia theo đối tượng nghiên cứu, Hệ thống khoa học được chia thành: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học kỹ thuật, khoa học môi trường . a) Khoa học tự nhiên (hay Tự nhiên học), là ngành nghiên cứu lý luận về vũ trụ qua các quy luật hoặc định luật về trật tự thiên nhiên. Thuật ngữ khoa học tự nhiên được dùng để tách biệt với Triết học và các môn khoa học xã hội với các đối tượng nghiên cứu thuộc về các lĩnh vực xã hội, nhân văn . b) Khoa học xã hội, bao gồm các môn khoa học nghiên cứu về các phương diện con người của thế giới. c) Khoa học - kĩ thuật, là thuật ngữ ghép.khoa học một dạng hoạt động lao động của con người, ra đời trong quá trình chinh phục giới tự nhiên với kỹ thuật là toàn bộ các thiết bị, phương tiện, máy móc và công cụ vật chất nằm trong tư liệu sản xuất để quản lý, khai thác, bảo quản và chế tạo các sản phẩm dùng cho sản xuất và thỏa mãn các nhu cầu của đời sống xã hội. d) Khoa học môi trường, là ngành khoa học nghiên cứu mối quan hệ và tương tác qua lại giữa con người và môi trường xung quanh nhằm mục đích bảo vệ môi trường sống của con người trên trái đất. Khoa học môi trường là một ngành khoa học độc lập, được xây dựng trên cơ sở tích hợp các kiến thức của các ngành khoa học đã có (sinh học, địa học, hoá học .) cho một đối tượng chung là môi trường sống bao quanh con người với phương pháp và nội dung nghiên cứu cụ thể.

doc83 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2144 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Xã hội học khoa học công nghệ và môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Bởi lẽ, còn có quá nhiều lý do cản trở con người làm điều đó, chẳng hạn như: vì mưu sinh mà chỉ thấy lợi ích trước mắt; vì sự cạnh tranh mà dẫn đến sự tàn phá, vì sự hạn chế của KH&CN mà cản trở đến sự tái tạo... 4.4. Xử lý hình sự vi phạm môi trường. Theo nghiên cứu của Trung tâm Con người và thiên nhiên Việt Nam, thì luật pháp về môi trường của Việt Nam còn nhiều bất cập, một số quan điểm về tội phạm môi trường còn chưa rõ ràng, gây không ít khó khăn cho người thừa hành công vụ trong việc phát hiện, xử lý các vi phạm về môi trường. Vedan là một trong số các ví dụ điển hình. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 (sửa đổi) đã xác định: Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân (điều 4, mục 2); và “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật” (điều 4, mục 5). Đây chính là quan điểm nhất quán về quyền và trách nhiệm của các chủ thể pháp luật đối với công tác Bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Điều 7 của Luật này cũng quy định 15 hành vi vi phạm môi trường cụ thể bị nhà nước nghiêm cấm. Tuy nhiên, đến nay, khái niệm về tội phạm môi trường  vẫn chưa được luật hóa, mà mới chỉ được định nghĩa trong một số công trình nghiên cứu... Những vụ sai phạm rất điển hình như vụ Công ty Vedan Việt Nam, vụ Công ty Hyundai - Vinashin, vụ Nhà máy Miwon ở Phú Thọ... đều đã không bị xử lý hình sự. Việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đối với các trường hợp này, trên thực tế đã bộc lộ những bất cập của chính sách hình sự hóa vi phạm môi trường, cũng như sự yếu kém của bộ máy quản lý môi trường ở Trung ương và địa phương, dẫn đến các tội phạm lọt lưới pháp luật. Cũng theo công trình nghiên cứu này, trong số 10 tội danh về phạm tội môi trường, đến nay ở Việt Nam chỉ có 2 tội danh bị khởi tố điều tra và đưa ra xét xử là hủy hoại rừng (điều 189) và vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã, quý hiếm (điều 190). Trước đây, quan điểm của Việt Nam trong vấn đề tội phạm môi trường là hạn chế hình sự hóa, lấy giáo dục, phòng ngừa là chính. Điều này đã và đang tạo nên những lỗ hổng lớn trong hệ thống quản lý và bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên, làm hạn chế tính răn đe và thực thi của luật pháp. Đã đến lúc cần phải có những cách tiếp cận và nhận thức mới hơn để hoàn thiện cơ sở pháp luật về tội phạm môi trường cũng như công tác giám sát thực thi pháp luật về Bảo vệ môi trường tại Việt Nam. 5. Quản lý môi trường. 5.1. Khái niệm quản lý môi trường: "Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia". Quản lý nhà nước về môi trường nhằm: - Khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường phát sinh trong hoạt động sống của con người. - Phát triển bền vững kinh tế và xã hội quốc gia theo 9 nguyên tắc của một xã hội bền vững do hội nghị Rio-92 đề xuất, gồm: Phát triển bền vững kinh tế, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, không tạo ra ô nhiễm và suy thoái chất luợng môi trường sống, nâng cao sự văn minh và công bằng xã hội. - Xây dựng các công cụ có hiệu lực quản lý môi trường quốc gia và các vùng lãnh thổ thích hợp cho từng ngành, từng địa phương và cộng đồng dân cư… 5.2. Cơ sở của quản lý môi trường: 5.2.1. Về triết học: Nguyên lý về tính thống nhất vật chất thế giới gắn tự nhiên, con người và xã hội thành một hệ thống rộng lớn "Tự nhiên - Con người - Xã hội", trong đó yếu tố con người giữ vai trò rất quan trọng. Sự thống nhất của hệ thống trên được thực hiện trong các chu trình sinh địa hoá của 5 thành phần cơ bản: 1) Sinh vật sản xuất (tảo và cây xanh) có chức năng tổng hợp chất hữu cơ từ các chất vô cơ dưới tác động của quá trình quang hợp. 2) Sinh vật tiêu thụ là toàn bộ động vật sử dụng chất hữu cơ có sẵn, tạo ra các chất thải. 3) Sinh vật phân huỷ (vi khuẩn, nấm) có chức năng phân huỷ các chất thải, chuyển chúng thành các chất vô cơ đơn giản. 4) Con người và xã hội loài người. 5) Các chất vô cơ và hữu cơ cần thiết cho sự sống của sinh vật và con người với số lượng ngày một tăng. Tính thống nhất của hệ thống "Tự nhiên - Con người - Xã hội" đòi hỏi việc giải quyết vấn đề môi trường và thực hiện công tác quản lý môi trường phải toàn diện và hệ thống. Con người nắm bắt cội nguồn sự thống nhất đó, phải đưa ra các phương sách thích hợp để giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh trong hệ thống đó. Vì chính con người đã góp phần quan trọng vào việc phá vỡ tất yếu khách quan là sự thống nhất giữa tự nhiên - con người - xã hội. Sự hình thành những chuyên ngành khoa học như quản lý môi trường, sinh thái nhân văn là sự tìm kiếm của con người nhằm nắm bắt và giải quyết các mâu thuẫn, tính thống nhất của hệ thống "Tự nhiên - Con người - Xã hội". 5.2.2. Về kinh tế: Quản lý môi trường được hình thành trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường và thực hiện điều tiết xã hội thông qua các công cụ kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động phát triển và sản xuất của cải vật chất diễn ra dưới sức ép của sự trao đổi hàng hoá theo giá trị. Loại hàng hoá có chất lượng tốt và giá thành rẻ sẽ được tiêu thụ nhanh. Trong khi đó, loại hàng hoá kém chất lượng và đắt sẽ không có chỗ đứng. Vì vậy, chúng ta có thể dùng các phương pháp và công cụ kinh tế để đánh giá và định hướng hoạt động phát triển sản xuất có lợi cho công tác bảo vệ môi trường. Các công cụ kinh tế rất đa dạng gồm: các loại thuế, phí và lệ phí, cota ô nhiễm, quy chế đóng góp có bồi hoàn, trợ cấp kinh tế, nhãn sinh thái, hệ thống các tiêu chuẩn ISO. 5.2.3. Về luật pháp: Cơ sở luật pháp của quản lý môi trường là các văn bản về luật quốc tế và luật quốc gia về lĩnh vực môi trường. Luật quốc tế về môi trường là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, giữa quốc gia và tổ chức quốc tế trong việc ngăn chặn, loại trừ thiệt hại gây ra cho môi trường của từng quốc gia và môi trường ngoài phạm vi tàn phá quốc gia. Các văn bản luật quốc tế về môi trường được hình thành một cách chính thức từ thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, giữa các quốc gia châu Âu, châu Mỹ, châu Phi. Từ hội nghị quốc tế về "Môi trường con người" tổ chức năm 1972 tại Thụỵ Điển và sau Hội nghị thượng đỉnh Rio 92 có rất nhiều văn bản về luật quốc tế được soạn thảo và ký kết. Cho đến nay đã có hàng nghìn các văn bản luật quốc tế về môi trường, trong đó nhiều văn bản đã được chính phủ Việt Nam tham gia ký kết. Trong phạm vi quốc gia, vấn đề môi trường được đề cập trong nhiều bộ luật, trong đó Luật Bảo vệ Môi trường được quốc hội nước Việt Nam thông qua ngày 27/12/1993 là văn bản quan trọng nhất. Chính phủ đã ban hành Nghị định 175/CP ngày 18/10/1994 về hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ Môi trường và Nghị định 26/CP ngày 26/4/1996 về Xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường. Bộ Luật hình sự, hàng loạt các thông tư, quy định, quyết định của các ngành chức năng về thực hiện luật môi trường đã được ban hành. Một số tiêu chuẩn môi trường chủ yếu được soạn thảo và thông qua. Nhiều khía cạnh bảo vệ môi trường được đề cập trong các văn bản khác như Luật Khoáng sản, Luật Dầu khí, Luật Hàng hải, Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Phát triển và Bảo vệ rừng, Luật Bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, Pháp lệnh về đê điều, Pháp lệnh về việc bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, Pháp luật bảo vệ các công trình giao thông. Các văn bản trên cùng với các văn bản về luật quốc tế được nhà nước Việt Nam phê duyệt là cơ sở quan trọng để quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. 5.3. Nội dung công tác quản lý nhà nước về môi trường của Việt Nam: Nội dung công tác quản lý nhà nước về môi trường của Việt Nam được thể hiện trong Điều 37, Luật Bảo vệ Môi trường, gồm các điểm: - Ban hành và tổ chức việc thực hiện các văn bản pháp quy về bảo vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường. - Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế hoạch phòng chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường. - Xây dựng, quản lý các công trình bảo vệ môi trường, các công trình có liên quan đến bảo vệ môi trường. - Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường. - Thẩm định các báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các cơ sở sản xuất kinh doanh. - Cấp và thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường. - Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về bảo vệ môi trường, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. - Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi trường. - Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. - Thiết lập quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. 5.4. Các công cụ quản lý môi trường: 5.4.1. Khái niệm : “Công cụ quản lý môi trường là các biện pháp hành động thực hiện công tác quản lý môi trường của nhà nước, các tổ chức khoa học và sản xuất. Mỗi một công cụ có một chức năng và phạm vi tác động nhất định, liên kết và hỗ trợ lẫn nhau”. 5.4.2. Phân loại: a) Phân loại theo chức năng, gồm: - Công cụ điều chỉnh vĩ mô: Luật pháp, chính sách…, - Công cụ hành động: Công cụ hành động là vũ khí quan trọng nhất của các tổ chức môi trường trong công tác bảo vệ môi trường, có tác động trực tiếp tới hoạt động kinh tế - xã hội, như các quy định hành chính, quy định xử phạt và công cụ kinh tế... Thuộc về loại này có các công cụ kỹ thuật như: 1) Mô hình hoá, 2) Đánh giá môi trường, 3) Kiểm toán môi trường, 4) Quan trắc môi trường. b) Phân loại theo bản chất, thành: - Công cụ luật pháp, chính sách, gồm: các văn bản về luật quốc tế, luật quốc gia, các văn bản khác dưới luật, các kế hoạch và chính sách môi trường quốc gia, các ngành kinh tế, các địa phương. Về luật pháp, Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: "Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và làm huỷ hoại môi trường". Căn cứ quy định này, Quốc hội khoá IX của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam tại kỳ họp thứ IV ngày 17/12/1993 đã thông qua Luật Bảo vệ Môi trường gồm 7 chương với 55 Điều. Đây là một trong những luật quan trọng của nước ta quy định về sự thống nhất quản lý bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước, đề ra những biện pháp phòng, chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường. Những nội dung quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường, lập quy hoạch bảo vệ môi trường cũng như xây dựng tiềm lực cho hoạt động dịch vụ môi trường ở Trung ương và địa phương. Luật xác định nhiệm vụ bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân, các tổ chức, cá nhân phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về bảo vệ môi trường, nhằm bảo vệ sức khoẻ mọi người, đảm bảo quyền con người được sống trong môi trường trong lành của đất nước cũng như góp phần bảo vệ môi trường khu vực và trên thế giới. Về chính sách, “Chính sách môi trường là những chủ trương, biện pháp mang tính chiến lược, thời đoạn, nhằm giải quyết một nhiệm vụ bảo vệ môi trường cụ thể nào đó, trong một giai đoạn nhất định”. Chính sách môi trường cụ thể hoá Luật Bảo vệ Môi trường (trong nước) và các Công ước quốc tế về môi trường. Mỗi cấp quản lý hành chính đều có những chính sách môi trường riêng. Nó vừa cụ thể hoá luật pháp và những chính sách của các cấp cao hơn, vừa tính tới đặc thù địa phương. Sự đúng đắn và thành công của chính sách cấp địa phương có vai trò quan trọng trong đảm bảo sự thành công của chính sách cấp trung ương. - Công cụ kinh tế gồm: các loại thuế, phí đánh vào thu nhập bằng tiền của hoạt động sản xuất kinh doanh. Các công cụ này chỉ áp dụng có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường. Các công cụ kinh tế được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích trong hoạt động của tổ chức kinh tế để tạo ra các tác động tới hành vi ứng xử của nhà sản xuất có lợi cho môi trường. Các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường gồm: 1) Thuế và phí môi trường. 2) Giấy phép chất thải có thể mua bán được hay "cota ô nhiễm". 3) Ký quỹ môi trường. 4) Trợ cấp môi trường. 5) Nhãn sinh thái. Việc sử dụng các công cụ kinh tế trên ở các nước cho thấy một số tác động tích cực như các hành vi môi trường được thuế điều chỉnh một cách tự giác, các chi phí của xã hội cho công tác bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn, khuyến khích việc nghiên cứu triển khai kỹ thuật công nghệ có lợi cho bảo vệ môi trường, gia tăng nguồn thu nhập phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường và cho ngân sách nhà nước, duy trì tốt giá trị môi trường của quốc gia. - Công cụ kỹ thuật quản lý gồm: các đánh giá môi trường, xử lý chất thải, tái chế và tái sử dụng chất thải… Các công cụ kỹ thuật quản lý thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát nhà nước về chất lượng và thành phần môi trường, về sự hình thành và phân bố chất ô nhiễm trong môi trường. Các công cụ kỹ thuật quản lý có thể được thực hiện thành công trong bất kỳ nền kinh tế phát triển như thế nào. - Công cụ giáo dục môi trường: "Giáo dục môi trường là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục chính quy và không chính quy nhằm giúp con người có được sự hiểu biết, kỹ năng và giá trị tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển một xã hội bền vững về sinh thái". Mục đích của Giáo dục môi trường nhằm vận dụng những kiến thức và kỹ năng vào gìn giữ, bảo tồn, sử dụng môi trường theo cách thức bền vững cho cả thế hệ hiện tại và tương lai. Nó cũng bao hàm cả việc học tập cách sử dụng những công nghệ mới nhằm tăng sản lượng và tránh những thảm hoạ môi trường, xoá nghèo đói, tận dụng các cơ hội và đưa ra những quyết định khôn khéo trong sử dụng tài nguyên. Hơn nữa, nó bao hàm cả việc đạt được những kỹ năng, có những động lực và cam kết hành động, dù với tư cách cá nhân hay tập thể, để giải quyết những vấn đề môi trường hiện tại và phòng ngừa những vấn đề mới nảy sinh. Giáo dục môi trường chủ yếu thông qua các phương tiện thuyền thông môi trường: "Truyền thông môi trường là một quá trình tương tác xã hội hai chiều nhằm giúp cho những người có liên quan hiểu được các yếu tố môi trường then chốt, mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau của chúng và cách tác động vào các vấn đề có liên quan một cách thích hợp để giải quyết các vấn đề về môi trường". Truyền thông môi trường không nhằm quá nhiều vào việc phổ biến thông tin mà nhằm vào việc chia sẻ nhận thức về một phương thức sống bền vững và nhằm khả năng giải quyết các vấn đề môi trường cho các nhóm người trong cộng đồng xã hội, nhằm: - Thông tin cho người bị tác động bởi các vấn đề môi trường biết tình trạng của họ, từ đó họ quan tâm đến việc tìm kiếm các giải pháp khắc phục. - Huy động các kinh nghiệm, kỹ năng, bí quyết địa phương tham gia vào các chương trình bảo vệ môi trường. - Thương lượng hoà giải các xung đột, khiếu nại, tranh chấp về môi trường giữa các cơ quan, trong nhân dân. - Tạo cơ hội cho mọi thành phần trong xã hội tham gia vào việc bảo vệ môi trường, xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường. - Khả năng thay đổi các hành vi sẽ được hữu hiệu hơn thông qua đối thoại thường xuyên trong xã hội. Truyền thông môi trường qua các hình thức: - Chuyển thông tin tới từng cá nhân qua việc tiếp xúc tại nhà, tại cơ quan, gọi điện thoại, gửi thư. - Chuyển thông tin tới từng nhóm qua hội thảo, tập huấn, huấn luyện, họp nhóm, tham quan, khảo sát... - Chuyển thông tin qua các phương tiện truyền thông đại chúng: báo chí, tivi, radio, pano, áp phích, tờ rơi, phim ảnh,.... - Tiếp cận truyền thông qua những buổi biểu diễn lưu động, tham gia hội diễn, các chiến dịch, tham gia các lễ hội, các ngày kỷ niệm... 5.4.3. Hệ thống tổ chức quản lý môi trường ở Việt Nam: 5.4.4. Hệ thống văn bản pháp lý hiện hành liên quan đến quản lý môi trường ở Việt Nam: Với mục đích về quản lý môi trường, tăng cường khả năng đo được các kết quả hoạt động của môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế, năm 1993, Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (ISO) đã triển khai xây dựng bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường có mã hiệu ISO 14000 nhằm mục đích tiến tới thống nhất áp dụng Hệ thống quản lý môi trường (EMS) đảm bảo sự phát triển bền vững trong từnh quốc gia, trong khu vực và quóc tế. Hệ thống quản lý môi trường thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với cộng đồng, đối với xã hội, vừa là bảo vệ sức khoẻ cho con người vừa là bảo vệ tài nguyên thiên nhiên làm cho đất nước phát triển bền vững. Vì vậy phải áp dụng hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14000. a) Cấu trúc của bộ tiêu chuẩn ISO 14000: Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 gồm: - ISO 14001: Quản lý môi trường - Quy định và hướng dẫn sử dụng. - ISO 14004 : Hệ thống quản lý môi trường - Hướng dẫn chung về nguyên tắc, hệ thống và kỹ thuật hỗ trợ. - ISO 14010 : Hướng dẫn đánh giá môi trường - Nguyên tắc chung. - ISO 14011 : Hướng dẫn đánh giá môi trường - Quy trình đánh giá - Đánh giá hệ thống quản lý môi trường. - ISO 14012 : Hướng dẫn đánh giá môi trường - Chuẩn cứ trình độ của chuyên gia đánh giá Trong bộ tiêu chuẩn trên, ISO 14001 là cơ sở để cơ quan chứng nhận đánh giá và cấp giấy chứng nhận cho cơ sở có hệ thống quản lý môi trường phù hợp với ISO 14000. Hệ thống quản lý môi trường (EMS) 14001 và 14004 là những tiêu chuẩn quốc tế về vệ sinh môi trường do Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (ISO) quy định, có vị trí quan trọng nhất trong Hệ thống ISO14000, ảnh hưởng rộng rãi tới mọi lĩnh vực về môi trường. Xét theo nghĩa rộng nhất, EMS là phương pháp mà một công ty sử dụng để thiết lập, thực hiện và kiểm tra những chính sách và mục tiêu về môi trường. Tiêu chuẩn ISO 14001 là một công cụ hữu hiệu cho việc triển khai đánh giá hoạt động về môi trường của một công ty. Việc thực hiện ISO 14001 ở Việt Nam được thực hiện chậm hơn so với các nước láng giềng như Thái Lan, Singapore hoặc Malaysia. Cho tới năm 1998, tiêu chuẩn này vẫn chưa được chấp nhận và dịch sang tiếng Việt. Tuy nhiên, sau khi được chấp nhận thành tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN ISO 14001:1998), ISO 14001 đã dần trở nên phổ biến trong cộng đồng các doanh nghiệp. Trong sự vận động hướng tới mở cửa thị trường các tổ chức của Việt Nam làm ăn với khách hàng hoặc đối tác nước ngoài buộc phải có hệ thống quản lý môi trường được cấp chứng chỉ phù hợp tiêu chuẩn ISO 14001 như là điều kiện tiên quyết cho việc ký kết hợp đồng hoặc thoả thuận. Những năm gần đây, Việt Nam đã tìm ra được các biện pháp ở các mức độ khác nhau nhằm xúc tiến việc ứng dụng ISO 14001, từ các biện pháp khuyến khích cho tới việc quy định bắt buộc. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn chưa nhận thức hết những lợi ích của việc ứng dụng ISO 14001 đối với tính hiệu quả và năng suất hoạt động. Bằng chứng là cho tới nay, việc xúc tiến ứng dụng ISO 14001 chủ yếu chỉ tập trung vào nhu cầu cần có chứng chỉ ISO 14001 để tránh mất những vụ làm ăn đòi hỏi phải có hệ thống quản lý môi trường đã được cấp chứng chỉ hơn là nhấn mạnh vào lợi ích của việc ứng dụng tiêu chuẩn ISO 14001 vào việc nâng cao hoạt động chủ chốt của doanh nghiệp. Hầu hết những tổ chức được cấp chứng chỉ là các doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài hoặc trong các ngành xuất khẩu. Đối với việc ứng dụng ISO 14001 ở cảng biển và những ngành hoạt động trong khu vực cảng biển, hiện tại chưa có cảng nào hay tổ chức liên quan đến ngành hàng hải được cấp chứng chỉ ISO 14001, mà những hoạt động này hiện tại đang được kiểm soát thông qua một loạt những qui tắc và điều lệ của các cơ quan chức năng, bao gồm cả Tiêu chuẩn TCVN 5943-11995 của Việt Nam về chất lượng nước vùng bờ biển. Còn dự án do Trường đại học tự do Brussels và Viện Hải dương học Hải Phòng phối hợp thực hiện mới là một trong những sáng kiến đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về cách ứng dụng tiêu chuẩn ISO 14001 ở cảng biển và các ngành liên quan hoạt động trong khu vực cảng biển. Đối với Chính phủ, năm 2003 đã công bố Chiến lược quốc gia bảo vệ môi trường cho tới năm 2010 với tầm nhìn đến năm 2020, mục tiêu nhằm xúc tiến việc ứng dụng tiêu chuẩn ISO 14001 cho hệ thống quản lý môi trường. Văn bản này đã đề ra mục tiêu phải có 50% doanh nghiệp được cấp chứng chỉ đạt tiêu chuẩn ISO 14001 hoặc tương đương vào năm 2010 và 80% doanh nghiệp được chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO 14001 hoặc tương đương vào năm 2020. (Quyết định 256/2003/QD-TTG, 2003), do đó, trong 5-10 năm tới, Việt Nam sẽ gia tăng nhanh chóng số chứng chỉ ISO 14001 cấp cho các doanh nghiêp. 6. Vai trò của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường. 6.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước: Muốn giải quyết được vấn đề bảo vệ môi trường cần phải bắt đầu từ nhận thức của con người (từng hộ dân, người dân), bởi một khi người dân không có ý thức tự giác bảo vệ môi trường thì chắc chắn sự nghiệp bảo vệ môi trường sẽ không thành công.   Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đặt vị trí quan trọng của công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm này được thể hiện rõ trong Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25-6-1998: "Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân". Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg, ngày 2-12-2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 cũng nhấn mạnh: "Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của toàn xã hội, của các cấp, các ngành, các tổ chức, cộng đồng và của mọi người dân". Các tổ chức bao gồm nhiều loại hình, như các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội. Cộng đồng có thể được hiểu theo nghĩa rộng trên phạm vi toàn xã hội, nhưng thông thường được hiểu là cộng đồng ở cơ sở, tức là nhóm người sống tại cùng một địa phương hoặc dưới sự quản lý của cùng một chính quyền địa phương. Các tổ chức, cộng đồng, tuy có tính chất và đặc điểm khác nhau, nhưng đều phát huy vai trò trong hoạt động bảo vệ môi trường. Theo Nghị định số 35/HĐBT ngày 28/11/1992 về công tác quản lý khoa học và công nghệ, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ngày càng phát triển. Hiện nay, có hàng trăm đơn vị hội viên thuộc Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và nhiều Trung tâm hoạt động trong lĩnh vực KH&CN tại các tỉnh và thành phố. Các hội này nói chung không có hệ thống tới cơ sở, mà thường là tập hợp các nhà chuyên môn trong một lĩnh vực nhất định để tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, tư vấn đào tạo và chuyển giao công nghệ. Cho đến nay, các hội đã đóng góp ý kiến xây dựng các chính sách, luật pháp về bảo vệ môi trường, như Luật Bảo vệ môi trường, Kế hoạch hành động đa dạng sinh học, Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia,... Đối với một số dự án quan trọng, như Dự án xây dựng Nhà máy Thủy điện, các hội đã được yêu cầu nghiên cứu đóng góp ý kiến cho báo cáo nghiên cứu khả thi của công trình này, trong đó có phần về đánh giá tác động môi trường. Nhiều điều kiến nghị đã được các cơ quan có thẩm quyền xem xét và chấp nhận. Tuy không có hệ thống tổ chức đến tận cơ sở, nhưng các hội vẫn thực hiện nhiều hoạt động tại các địa phương trong cả nước, thông qua các đề tài nghiên cứu, các dự án phát triển trong các lĩnh vực sản xuất, xã hội và bảo vệ môi trường, thí dụ như Hội Khoa học Kỹ thuật lâm nghiệp Việt Nam trong việc bảo vệ rừng và bảo tồn thiên nhiên. Các tổ chức chính trị - xã hội, như Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,... có hệ thống tổ chức từ Trung ương tới cơ sở, vì vậy có điều kiện và vai trò quan trọng trong việc huy động hội viên cùng nhân dân địa phương thực hiện nhiều hoạt động bảo vệ môi trường tại địa phương. Các chương trình lớn của quốc gia có liên quan đến môi trường, như Chương trình 327 trước đây về “phủ xanh đất trống, đồi núi trọc”, Chương trình “5 triệu ha rừng” hiện nay, Chương trình “Nước sạch và vệ sinh nông thôn”,... có thành công hay không, phần quyết định là của cộng đồng địa phương. 6.2. Xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường: Các dự án do Chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế tài trợ để xây dựng những mô hình về cải thiện điều kiện sinh hoạt và bảo vệ môi trường chỉ có thể đạt kết quả tốt, nếu mô hình phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của địa phương, được nhân dân chấp nhận và có thể được tiếp tục nhân ra, nhằm giải quyết vấn đề trong phạm vi rộng hơn. Ngay các dự án Chính phủ đầu tư toàn bộ, như dự án về xây dựng hệ thống dẫn và cấp nước phục vụ dân sinh, thì cộng đồng địa phương phải đảm bảo việc khai thác sử dụng có hiệu quả và có trách nhiệm bảo quản, duy trì công trình. Nếu không, sẽ xảy ra trường hợp "cha chung không ai khóc", công trình sẽ không phát huy được công dụng mong muốn và sẽ mau chóng hư hỏng. Cộng đồng địa phương còn có thể đóng góp ý kiến cho các chủ trương, chính sách của Nhà nước và các dự án đầu tư, nhất là những gì có tác động trực tiếp tới môi trường, tới sản xuất và đời sống của nhân dân tại đó. Vì vậy, thực hiện nguyên tắc "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" là một trong các biện pháp quan trọng để xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường. Cộng đồng xã hội được Nhà nước đảm bảo các quyền khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện đòi bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra thông qua tổ chức đại diện, được hỗ trợ cung cấp các bằng chứng theo yêu cầu khi thực hiện quyền đòi bồi thường thiệt hại. Các hành vi về gây ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, xâm phạm quyền, lợi ích của Nhà nước, cộng đồng dân cư, tổ chức, gia đình và cá nhân thì cộng đồng có quyền tố cáo và tham gia phản biện xã hội nhằm làm cho các chủ trương, chính sách, chương trình hay dự án ngày càng hoàn thiện trong thực tiễn, đáp ứng nhu cầu xã hội, tạo nên sự đồng thuận nhằm phục vụ tốt hơn những vấn đề quốc kế, dân sinh. Hiện nay, Biến đổi khí hậu đang làm thay đổi môi trường toàn cầu nhưng không đồng đều ở các vùng khác nhau, trong đó Việt Nam được dự đoán là một trong những nước sẽ chịu hậu quả nặng nề nhất với khoảng 1/6 diện tích đất đai và 1/3 dân số bị ảnh hưởng. Bởi vậy, vai trò của cộng đồng trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững rất quan trọng. Hội bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam đã tiến hành xây dựng Nghị định về sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ môi trường ở nước ta. Nội dung chính gồm 5 nhóm các quy định: 1) Quy định chung, 2) Quy định về thông tin môi trường cho cộng đồng, 3) Nội dung tham gia của cộng đồng, 4) Tiếp cận tư pháp, 5) Nâng cao năng lực cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường. Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam là tổ chức đầu tiên được Thủ tướng Chính phủ giao cho chức năng phản biện xã hội (2002), tập trung vào lĩnh vực Bảo vệ thiên nhiên và môi trường. Đến nay Hội đã tiến hành các phản biện xã hội đối với dự án Tam Đảo 2; bô xít Tây Nguyên và vụ việc Vedan gây ô nhiễm nghiêm trọng trên sông Thị Vải. Song cũng từ đó đặt ra vấn đề: muốn thực hiện tốt chức năng phản biện xã hội, cần một đội ngũ chuyên gia giỏi, tâm huyết, thực hiện các bước thu thập dữ liệu khoa học, đặc biệt là các chứng cứ khoa học và pháp luật, thì những ý kiến phản biện mới có ích đối với vấn đề xã hội, chính quyền quan tâm. Nguyên tắc chung của phản biện xã hội về tài nguyên, môi trường là tuân thủ luật pháp, có cơ sở khoa học, tư duy hệ thống, phù hợp văn hóa, hội thảo, xây dựng Văn kiện phản biện xã hội về tài nguyên, môi trường và truyền thông những vấn đề môi trường trọng yếu chưa được tính đến hay tính đủ bao gồm môi trường tự nhiên, xã hội - nhân văn, trong đó chú ý sức khỏe con người, an ninh môi trường và tác động tiêu cực đến kinh tế. Thực tế cho thấy, phản biện xã hội chỉ thành công khi có sự tham gia tích cực của cộng đồng xã hội. Theo đó, Nghị định “Sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ môi trường” cũng được xây dựng nhằm xác định cơ sở pháp lý bảo đảm thông tin môi trường; sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động môi trường; bình đẳng pháp luật trong tiếp cận môi trường; nâng cao năng lực cộng đồng về bảo vệ môi trường. Cộng đồng sẽ được tham gia vào việc xây dựng cơ chế, chính sách pháp luật; được tuyền truyền, đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực và nhận thức; được khen thưởng khi có thành tích xuất sắc trong bảo vệ môi trường. Đồng thời được tiếp nhận định kỳ thông tin, báo cáo về hiện trạng môi trường quốc gia, địa phương. Cộng đồng còn được tiếp nhận các thông tin không định kỳ về các hoạt động chất thải, công nghệ xử lý, thông số tiêu chuẩn về chất thải, các giải pháp bảo vệ môi trường trong quá trình lập báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án; thông tin về các loại chất thải, khối lượng chất thải rắn, lưu lượng nước thải, kết quả quan trắc các thông số môi trường của cơ sở trong quá trình hoạt động. 7. Công nghệ môi trường và một số định hướng nhằm phát triển công nghệ môi trường ở Việt Nam. 7.1. Khái niệm. Công nghệ môi trường là các sản phẩm hoặc quá trình có thể hạn chế, phòng ngừa, giảm thiểu hoặc xử lý các tác động có hại gây ra do hoạt động của con người lên môi trường. Công nghệ môi trường còn bao gồm các quá trình sản xuất hiệu quả hơn, ít chất thải hơn hoặc tiêu thụ ít nguyên liệu hơn, hoặc các phương pháp làm sạch môi trường ô nhiễm đang tồn tại hoặc tiêu huỷ an toàn hoặc tái chế chất thải. Vì vậy: “Công nghệ môi trường là tổng hợp các biện pháp vật lý, hoá học, sinh học nhằm ngăn ngừa và xử lý các chất độc hại phát sinh từ quá trình sản xuất và hoạt động của con người. Công nghệ môi trường bao gồm các tri thức dưới dạng nguyên lý, quy trình và các thiết bị kỹ thuật thực hiện nguyên lý và quy trình đó.”* (Nguồn: Website Theo các định nghĩa nêu trên công nghệ môi trường bao gồm sản xuất sạch hơn và công nghệ xử lý chất thải cuối đường ống. Theo định nghĩa của Chương trình môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP): - Sản xuất sạch hơn là tiếp cận áp dụng liên tục chiến lược phòng ngừa tổng hợp về môi trường đối với các quá trình sản xuất, sản phẩm và dịch vụ nhằm nâng cao hiệu suất sinh thái và giảm thiểu rủi ro cho con người và môi trường. - Kỹ thuật xử lý cuối đường ống được hiểu là công nghệ xử lý khí thải, nước thải, chất thải rắn trước khi thải ra môi trường. Công nghệ xử lý chất thải bao gồm cả công nghệ tái sinh, tái chế, tái sử dụng các loại phế phẩm, phụ phẩm của quá trình sản xuất. Ở các nước phát triển, ngoài khái niệm "công nghệ môi trường" còn có khái niệm "công nghệ xanh" và "công nghệ sạch": - Công nghệ xanh là công nghệ sản xuất có áp dụng các biện pháp công nghệ xử lý chất thải đảm bảo không thải ra môi trường các chất ô nhiễm với nồng độ vượt quá tiêu chuẩn cho phép. - Công nghệ sạch là công nghệ sản xuất sử dụng nguyên liệu, nhiên liệu và các biện pháp kỹ thuật trong dây chuyền sản xuất nhằm đạt được mục đích thải ít chất thải nhất và chất thải ít chứa các thành phần gây ô nhiễm. Ngành Công nghệ môi trường được phát triển thành một ngành kinh tế quan trọng tại nhiều quốc gia phát triển (Mỹ, Nhật, Canađa, Anh, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc ...) và một số quốc gia đang phát triển (Thái Lan, ấn Độ, Malaysia ...). Trong số các công nghệ đã được áp dụng, có nhiều công nghệ được sử dụng ổn định như : - Công nghệ xử lý nước thải, gồm: Các phương pháp cơ học, hóa học, hóa lý, hóa sinh, sinh học . - Công nghệ xử lý khí thải, gồm: Các phương pháp khô (buồng lắng, Xyclon, lọc tay áo, lọc tĩnh điện ...), các phương pháp ướt (hấp thu, ô xy hóa-khử ...). - Công nghệ xử lý chất thải rắn, gồm: Chôn lấp hợp vệ sinh, đóng rắn, hóa học, sinh học, tái sử dụng ... Các công nghệ này đã được các công ty nước ngòai du nhập vào Việt Nam và đã phát huy tác dụng trong thực tế nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại Việt Nam. Sau 18 năm đổi mới (1986-2004), nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật, phát triển với tốc độ tăng trưởng cao, ổn định. Ngoài những lợi ích kinh tế xã hội, sự phát triển đã, đang và sẽ sinh ra một khối lượng lớn chất thải, trong đó có nước thải, khí thải, chất thải rắn. Nếu không áp dụng công nghệ khống chế ô nhiễm thích hợp và hiệu quả thì các chất thải sinh ra sẽ gây tác động nghiêm trọng tới môi trường và sức khoẻ nhân dân. Vì vậy, đầu tư cho công nghệ phòng ngừa và xử lý ô nhiễm là vấn đề ưu tiên trong công tác quản lý môi trường. 7.2. Hiện trạng về áp dụng Công nghệ môi trường tại Việt Nam. 7.2.1. Hiện trạng áp dụng công nghệ môi trường tại các đô thị:* Diễn đàn doanh nghiệp, số 50, ngày 20/6/2003, tr.13. Tính đến năm 2003, nước ta có 656 đô thị, trong đó có 5 thành phố lớn do Trung ương quản lý, 81 thành phố, thị xã cấp tỉnh và hơn 570 thị trấn cấp huyện với tổng dân số 20,0 triệu người (chiếm 25% dân số toàn quốc). Dự báo đến năm 2010 sẽ có 1.226 đô thị, với tổng số dân 30,4 triệu người (chiếm 33% dân số toàn quốc) và đến năm 2020 sẽ có 1.953 đô thị, với tổng số dân 46,0 triệu người (chiếm 45% dân số toàn quốc). Sự phát triển các đô thị cùng với việc gia tăng tỷ lệ dân số đô thị gấp áp lực rất lớn đến môi trường đô thị. Bên cạnh sự phát triển mạnh ngành công nghiệp một mặt góp phần rất lớn vào sự phát triển kinh tế nhưng lại gây ảnh hưởng môi trường nghiêm trọng. Quá trình đô thị hóa nhanh sẽ gia tăng lượng chất thải bao gồm khí thải giao thông, nước thải và rác thải sinh hoạt. Các loại ô nhiễm thường thấy tại các đô thị Việt Nam là ô nhiễm nguồn nước mặt, ô nhiễm bụi, ô nhiễm các khí sulfure, cacbonic, nitrit, ô nhiễm chì (Pb), chất thải rắn (trong sinh hoạt, bệnh viện). Nồng độ các chất ô nhiễm trong nước mặt thường rất cao như là chất rắn lờ lững, nhu cầu ôxy sinh hoá, nhu cầu ôxy hoá học, nitơrit, nitơrat... gấp từ 2-5 lần, thậm chí tới 10-20 lần trị số tiêu chuẩn cho phép đối với nguồn nước mặt loại B, chỉ số E Côli vượt tiêu chuẩn cho phép hàng trăm lần. Ngoài các chất ô nhiễm hữu cơ trên, môi trường nước mặt đô thị ở một số nơi còn bị ô nhiễm kim loại nặng và chất độ hại như là chì, thuỷ ngân, asen, clor, phenol... Ở hầu hết các đô thị đều bị ô nhiễm bụi, nhiều nơi bị ô nhiễm ở mức độ trầm trọng. Ở một số khu dân cư gần các KCN nồng độ khí sulffure vượt chỉ số tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Tính trung bình lượng chất thải rắn sinh hoạt thải ra ở các thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh) từ 0,6 – 0,8 kg/người/ngày, chất thải rắn trong bệnh viện (cơ sở y tế) được thải ra ước tính từ 50-70 tấn/ngày. Chất thải rắn này ảnh hưởng rất lớn đến môi trường đô thị. Hiện nay khả năng thu gom chất thải rắn còn rất thấp so với yêu cầu đặt ra. Tại nhiều thị xã tỷ lệ thu gom chất thải rắn trung bình chỉ đạt 20-40%. Biện pháp thu gom chất thải rắn hiện nay chủ yếu là chôn lấp. (nhưng chưa có bãi chôn lấp nào đạt tiêu chuẩn kỹ thuật vệ sinh môi trường). Thực tế cho thấy, Việt Nam có trên 800.000 cơ sở sản xuất công nghiệp với gần 70 KCX và KCN tập trung. Đóng góp của công nghiệp vào GDP là rất lớn; tuy nhiên chúng ta cũng phải chịu nhiều thiệt hại về môi trường do lĩnh vực công nghiệp gây. Hiện nay khoảng 90% cơ sở sản xuất công nghiệp và phần lớn các KCN chưa có trạm xử lý nước thải. Các ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường, nặng nhất là công nghiệp nhiệt điện, công nghiệp sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng, công nghiệp khai thác khoáng sản. Vấn đề ô nhiễm do bụi và tiếng ồn tại hầu hết các đô thị đang là vấn đề cấp bách. Tại các đô thị lớn (Hà Nội, TP. HCM), đã có những khu vực bị ô nhiễm do khí CO, chất hữu cơ bay hơi (VOC). Nguyên nhân chính là do gia tăng quá mức lượng ô tô và xe máy do chất lượng đường sá yếu kém và do tỉ lệ xe cũ cao (số lượng xe có 10-20 năm sử dụng chiếm 73%). Ngoài những biện pháp quản lý, cải thiện chất lượng đường sá, mở rộng đường, tăng tỷ lệ người đi xe buýt công cộng, thay xăng pha chì ... hiện nay đã có một số nghiên cứu công nghệ trong nước và nghiên cứu ứng dụng công nghệ nước ngoài nhằm giảm thiểu ô nhiễm do khí thải giao thông. Ngoài ra, trong thời gian qua đã có một số công ty nước ngoài (Nga, Mỹ ...) đến thử nghiệm công nghệ giảm thiểu ô nhiễm do khí thải giao thông tại TP. HCM. Cho đến nay chưa có công nghệ nào được triển khai vào thực tế. Vấn đề thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt tại tất cả các đô thị chưa được triển khai. Hiện nay, tại một số thành phố lớn (TP. Hà Nội, TP.HCM, TP. Đà Nẵng ...) đang thực hiện các dự án cải tạo kênh rạch trong nội thị, di dời nhà ổ chuột, kè bờ sông, giải tỏa 2 bờ sông, xây đường nhựa có thảm cỏ ngăn cách với bờ sông ... Tại các đô thị khác, vấn đề quy hoạch hệ thống thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt đã được phê duyệt, nhưng chưa được triển khai do thiếu nguồn kinh phí. Thực hiện Chỉ thị số 199/TTg ngày 3/4/1997 của Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp cấp bách trong quản lý chất thải rắn ở các đô thị và khu công nghiệp, các địa phương đã tiến hành quy hoạch hệ thống bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt. Hiện nay đã có 32 đô thị có quy hoạch xây dựng bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh, trong đó có 13 đô thị đang xây dựng. Các công nghệ áp dụng là chôn lấp hợp vệ sinh và sản xuất phân compost. Tuy nhiên, cho đến nay rất ít địa phương có được khu xử lý rác đạt tiêu chuẩn vệ sinh. 7.2.2. Hiện trạng áp dụng công nghệ môi trường tại khu công nghiệp : Trong những năm gần đây tốc độ hình thành và phát triển các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) tại Việt Nam xảy ra rất nhanh. Ngoài những lợi ích kinh tế xã hội, sự phát triển các KCN, KCX sinh ra một khối lượng lớn nước thải, khí thải, chất thải rắn gây tác động nghiêm trọng tới môi trường và sức khỏe nhân dân trong khu vực. Trong thời gian qua đã có 18/76 KCN, KCX áp dụng công nghệ xử lý nước thải tập trung... . Nhìn chung việc xử lý nước thải trong các KCN chưa được coi trọng, ngay cả các KCN có trạm xử lý nước thải tập trung nhưng việc vận hành cũng chưa tốt, dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng; chất thải rắn công nghiệp và chất thải nguy hại từ tất cả các KCN, KCX chưa được thu gom và xử lý. Khả năng xây dựng mô hình KCN thân thiện môi trường đã được triển khai tại một số khu công nghiệp. Các giải pháp cần thiết Tuy nhiên, việc phối hợp đồng bộ giữa các ngành chưa tốt, thiếu nhiều cơ chế chính sách, quy định phù hợp, đầu tư tài chính cho bảo vệ môi trường còn hạn chế... gây ảnh hưởng đến công tác bảo vệ môi trường. đòi hỏi phải thường xuyên kiểm soát, thanh tra môi trường công nghiệp, khuyến khích và bắt buộc áp dụng các biện pháp xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường. Khuyến khích đổi mới thiết bị công nghệ, thay đổi sản phẩm, đóng cửa và di dời các đơn vị cũ gây ô nhiễm môi trường. Chương 3 VAI TRÒ VÀ NHIỆM VỤ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Hiện nay, chúng ta đang đứng trước những thách thức về môi trường. Sự khai thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên làm cho đất trồng bị suy thoái. Hiện tượng khan hiếm nước gây khô hạn và bệnh tật. Việc ngăn chặn nạn săn bắt, khai thác trái phép các động - thực vật quý hiếm còn nan giải đối với các nhà quản lý. Sự lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật và an toàn thực phẩm đang khiến toàn xã hội lo lắng. Các đô thị và khu công nghiệp bị ô nhiễm nặng nề... Bởi vậy, bảo vệ môi trường là một trong những nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu trong quá trình hoạch định đường lối chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ CNH - HĐH đất nước. Chỉ thị số 36-TƯ của Bộ Chính trị ngày 25/6/1998 về “Tăng cường công tác bảo vệ môi trường thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước’” đã khẳng định bảo vệ môi trường là một vấn đề sống còn của đất nước. 1. Cơ sở pháp lý: Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam quy định: "Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và làm huỷ hoại môi trường". Căn cứ quy định này, Quốc hội khoá IX của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam tại kỳ họp thứ IV ngày 17/12/1993 đã thông qua Luật Bảo vệ Môi trường gồm 7 chương với 55 Ðiều. Ðây là một trong những luật quan trọng của nước ta quy định về sự thống nhất quản lý bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước, Luật xác định nhiệm vụ bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân, các tổ chức, cá nhân phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về bảo vệ môi trường, nhằm bảo vệ sức khoẻ mọi người, đảm bảo quyền con người được sống trong môi trường trong lành của đất nước cũng như góp phần bảo vệ môi trường khu vực và trên thế giới. Trong công tác bảo vệ môi trường, các cá nhân, đoàn thể có quyền và nghĩa vụ sau: Khiếu nại và tố cáo về các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Kiến nghị việc xây dựng các biện pháp bảo vệ môi trường ở địa phương. Có quyền được bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ Luật dân sự và các Nghị định của Chính phủ do các tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường. Có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường, hỗ trợ các cơ quan nhà nước trong việc phòng chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai, lũ lụt. Tạo điều kiện thuận lợi cho các đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên bảo vệ môi trường thi hành nhiệm vụ. Có nhiệm vụ chấp hành quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kết luận những vấn đề về môi trường. Có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do hành vi gây tác hại đến môi trường làm thiệt hại cho người khác. Vận động các đơn vị, cá nhân, hộ gia đình sống trong thành phố, thị xã không được: - Hoạt động sản xuất, dịch vụ gây ồn, rung, mùi khó chịu, bụi, nóng và các hình thức ô nhiễm khác ảnh hưởng tới các hộ gia đình xung quanh. - Gây ồn, rung vượt quá tiêu chuẩn quy định. - Ðổ rác sinh hoạt, các chất phế thải, xác động vật ra vỉa hè, đường phố, sông, hồ, khu vực công cộng. - Nuôi lợn trong khu vực nội thành, nội thị. - Chăn, dắt, nuôi súc vật nơi công cộng. - Dùng phân tươi, hôi thối tưới rau. 2. Hoạt động của tổ chức Công đoàn trong công tác bảo vệ môi trường. 2.1. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền Bảo vệ môi trường trong CNVCLĐ: Hàng năm các cấp Công đoàn đã tổ chức học tập các Nghị quyết, Chỉ thị, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết của tổ chức Công đoàn nhằm tuyên truyền nâng cao nhận thức về môi trường và BVMT cho CNVCLĐ thông qua nhiều hình thức phong phú như: tổ chức đánh giá môi trường lao động và tập huấn cấp cứu ban đầu, tổ chức hội thi, tập huấn bồi dưỡng kiến thức, hội thảo, tọa đàm, phát hành tờ gấp … Điển hình là Ngành NN&PTNT với trên 1100 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông - lâm - thuỷ sản và thuỷ lợi, hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng cạnh tranh thấp, công nghệ, nhà xưởng cũ, môi trường lao động chưa được cải thiện, có nhiều khả năng gây nguy cơ, sự cố TNLĐ và bệnh nghề nghiệp. Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp trong những năm gần đây cũng tác động đến cơ cấu chất lượng lao động, luôn bổ sung vào đội ngũ CNLĐ một lực lượng lao động chưa qua đào tạo cơ bản. Vì vậy, việc quán triệt Chỉ thị 20/2004/CT-TTg ngày 08/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường chỉ đạo và tổ chức thực hiện AT-VSLĐ, Phòng chống cháy nổ (PCCN), Bảo vệ môi trường (BVMT), hướng tới xây dựng và phát triển văn hoá an toàn trong lao động trong sản xuất nông nghiệp luôn được Công đoàn, nhất là Công đoàn ngành NN&PTNT quan tâm, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của Bộ tổ chức, triển khai và giám sát các nội dung công tác BHLĐ và BVMT trong toàn ngành. 2.2. Tổ chức, phát động phong trào thi đua Bảo vệ môi trường: Nhiều năm qua, cùng với công tác Bảo hộ lao động (BHLĐ), công tác Bảo vệ môi trường (BVMT) là một trong những hoạt động quan trọng của tổ chức Công đoàn. Từ năm 1978, Công đoàn đã tổ chức, phát động phong trào "Bảo đảm an toàn - vệ sinh lao động" và duy trì, phát triển sâu rộng trong cả nước. Ngày 24/4/1996, Tổng LĐLĐ Việt Nam đã ra Chỉ thị số 05/TLĐ đẩy mạnh hoạt động BVMT, gắn kết với công tác BHLĐ, tổ chức, phát động phong trào CNVCLĐ với tên gọi mới: phong trào "Xanh, sạch, đẹp, bảo đảm AT-VSLĐ". Đặc biệt, ngày 15/11/2004, Đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam và lãnh đạo Bộ Tài nguyên Môi trường (TN&MT) đã ký Nghị quyết liên tịch về việc phối hợp hành động bảo vệ môi trường phục vụ phát triển bền vững. Công tác BHLĐ luôn gắn kết với BVMT và đã thực sự trở thành một nhiệm vụ trọng tâm trong phong trào thi đua của tổ chức Công đoàn tất cả các cơ quan, nhà máy, trường học, bệnh viện... trên toàn quốc. Đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam thường xuyên chỉ đạo các cấp Công đoàn lồng ghép nhiệm vụ BVMT với công tác đảm bảo AT-VSL Đ, cải tạo môi trường và điều kiện làm việc... Thông qua những hoạt động thiết thực như vận động cán bộ, CNVCLĐ nỗ lực tham gia chiến dịch: dọn vệ sinh làm sạch môi trường, trồng cây xanh, thi đua sáng kiến, cải tiến kỹ thuật và tìm ra giải pháp giảm thiểu ô nhiễm tại nguồn...; phong trào "Xanh, sạch, đẹp, bảo đảm AT-VSLĐ" đã và đang thu hút hàng chục triệu lượt người tham gia, trở thành “Thông điệp xanh” của tổ chức Công đoàn Việt Nam, điển hình là phong trào thi đua trong Công đoàn ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT).   2.3. Phối hợp với Bộ TN&MT trong công tác bảo vệ môi trường: Cùng với việc tổ chức các phong trào thi đua. Hàng năm, Tổng Liên đoàn Lao động phát động và duy trì nhiều hoạt động phối hợp bảo vệ môi trường trong các cấp Công đoàn và CNVCLĐ. Tổng LĐLĐ Việt Nam và Bộ TN&MT đã ký Nghị quyết liên tịch phối hợp triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường trong các cấp Công đoàn, CNVCLĐ, cùng nhân dân cả nước phối hợp hành động BVMT, từng bước thay đổi những hành vi, phong tục tập quán lạc hậu ảnh hưởng xấu đến môi trường; thí điểm nhân rộng mô hình CNVCLĐ bảo vệ môi trường trong các cấp Công đoàn, đặc biệt chú trọng các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức và năng lực tổ chức, chỉ đạo công tác bảo vệ môi trường cho cán bộ công đoàn. Nội dung phối hợp của nghị quyết gồm 8 nội dung chính: 1) Xây dựng chương trình lồng ghép về quản lý thống nhất hệ thống an toàn - vệ sinh lao động với bảo vệ môi trường trong hệ thống công đoàn. 2) Tổ chức thưòng xuyên các hoạt đọng tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm và hợp lý tài nguyên thiên nhiên cho CNVCLĐ cả nước; lồng ghép hoạt động bảo vệ môi trường với phong trào “Xanh-sạch-đẹp, đảm bảo an toàn - vệ sinh lao động” do Tổng LĐLĐ Việt Nam phát động; đẩy mạnh các hoạt động truyền thông cho cán bộ công đoàn các cấp. 3) Tổ chức biên soạn và cung cấp tài liệu giáo dục về môi trường phù hợp với CNVCLĐ. 4) Xây dựng và thực hiện chương trình hành động “Tăng cường sự tham gia của Công đoàn trong lĩnh vực bảo vệ môi trường giai đoạn 2005-2010” nhằm triển khai có hiệu quả Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng 2020. 5) Xây dựng các chương trình bảo vệ, nâng cao chất lượng môi trường lao động, khu công nghiệp. 6) Tổ chức thực hiện các công trình nghiên cứu về vai trò của Công đoàn và người lao động trong sự nghiệp bảo vệ môi trường; nghiên cứu, kiến nghị với Nhà nước sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, luật pháp liên quan đến môi trường. 7) Tổ chức các chương trình hành động và các hoạt động cụ thể nhân ngày Môi trường thế giới (5-6) và sự kiện môi trường khác hàng năm trong các cơ sở sản xuất và các cấp Công đoàn. 8) Chủ động, tích cực tham gia triển khai các chương trình, dự án thực hiện Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến 2010. Hàng năm, Tổng LĐLĐ Việt Nam với Bộ TN&MT sẽ xây dựng kế hoạch bảo vệ môi trường hàng năm và triển khai thực hiện nghị quyết, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết thông qua đầu mối là Viện nghiên cứu Khoa học Kỹ thuật Bảo hộ lao động (Tổng LĐLĐ Việt Nam) và Vụ Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường). 2.4. Phối hợp với các cấp Chính quyền địa phương phát động phong trào tự quản và các hoạt động khác về bảo vệ môi trường. - Tham gia thành lập tổ chức tự quản về bảo vệ môi trường, xây dựng và tổ chức thực hiện hương ước về bảo vệ môi trường. - Tham gia kiểm tra, đôn đốc các hộ gia đình, cá nhân thực hiện quy định về giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường thu gom, tập kết và xử lý rác thải. - Phát động các phong trào thi đua giữ gìn vệ sinh đường làng, ngõi xóm, khu phố, nơi công cộng. Vận động nhân dân xóa bỏ các hủ tục, thói quen làm mất vệ sinh, có hại cho môi trường. - Tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất - kinh doanh trên địa bàn. Các quy định về AT-VSLĐ và BVMT trong các đơn vị, doanh nghiệp. 2.5. Một số hoạt động khác: - Thường xuyên tổ chức các hoạt động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy trình, quy phạm về AT-VSLĐ, phòng chống cháy nổ. - Đẩy mạnh công tác nghiên cứu KH&CN về BHLĐ, về AT-VSLĐ đã phục vụ thiết thực cho việc cải thiện điều kiện làm việc (ĐKLV), khắc phục nguy cơ TNLĐ, cháy, nổ; góp phần chăm sóc sức khoẻ của người lao động và bảo vệ môi trường. - Thường xuyên tổ chức khám sức khoẻ định kỳ và khám phát hiện sớm bệnh nghề nghiệp cho người lao động, - Củng cố, kiện toàn và phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ của cán bộ làm công tác BHLĐ, mạng lưới AT-VSV... Tuy nhiên, vấn đề làm thế nào có thể đánh giá tác động hay đánh giá sự đóng góp của KHCN đối với phát triển kinh tế trong một quốc gia hoặc một ngành nào đó luôn luôn là vẫn đề thời sự thu hút nhiều quốc gia, nhiều giới xã hội quan tâm.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_giang_xa_hoi_hoc_khcn_va_moi_truong_403.doc
Tài liệu liên quan