Bàn về các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự trong bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Hai là, bổ sung vào khoản 1 Điều 29 (Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự) hai căn cứ mà người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự gồm: “Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự”; “Người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”. Ngoài ra, bổ sung thêm căn cứ “người phạm tội gián điệp thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 110 của Bộ luật này” vào khoản 1 Điều 29. Sửa đổi điểm a khoản 1 Điều 29: “Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa” thành “Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”. Ba là, bổ sung vào khoản 2 Điều 29 (Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự) căn cứ miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo hướng: “Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này”. Đồng thời, bổ sung thêm căn cứ “người phạm tội đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác thuộc trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 364 hoặc khoản 6 Điều 365 của Bộ luật này” và căn cứ “người phạm tội đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 390 của Bộ luật này”

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 97 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự trong bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba 3 NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI BÀN VỀ CÁC CĂN CỨ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 (SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2017) Hoàng Minh Đức1 Lê Quang Thắng2 Có thể khẳng định, tội phạm và trách nhiệm hình sự (hình phạt, các biện pháp tư pháp, miễn hình phạt, án tích) là những chế định cơ bản của Luật hình sự. Theo nguyên tắc chung, tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Đây là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước. Với ý nghĩa đó, trách nhiệm hình sự được đặt ra nhằm bảo đảm cho hoạt động xử lý người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội một cách kịp thời, nhanh chóng và công minh. Mặc dù vậy, thực tiễn và lý luận pháp lý cho thấy rằng, không phải mọi trường hợp người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS) đều phải chịu trách nhiệm hình sự, trong những trường hợp khi có đủ các căn cứ và điều kiện nhất định người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Miễn trách nhiệm hình sự là chế định thể hiện rõ chính sách hình sự khoan hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong việc xử lý đối với người phạm tội, bằng việc không buộc người phạm tội phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi vì đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Chế định này đã được quy định từ rất sớm trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam và tiếp tục được nghiên cứu, sửa đổi và quy định cụ thể hơn trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với những điểm mới cả về Tóm tắt: Trong lịch sử lập pháp hình sự của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chính sách hình sự nhân đạo và khoan hồng luôn được đề cập một cách sâu sắc, đầy đủ, toàn diện trong các quy định của Bộ luật Hình sự, đặc biệt là các quy định về miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, án treo, xóa án tích. Bài viết này tập trung phân tích, luận giải các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) góp phần làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa và giá trị quy phạm pháp luật, đồng thời, tiếp tục kiến nghị một số giải pháp lập pháp góp phần hoàn thiện quy định về miễn trách nhiệm hình sự, trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Từ khóa: Trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt Nhận bài:05/11/2017; Hoàn thành biên tập:12/03/2018; Duyệt in: 02/04/2018 Abstract: In the history of criminal law of Vietnam, humanitarian and munificent criminal policies are always mentioned in full depth in the provisions of Penal Codes, particularly in regulations on exemption or conviction expungement from criminal liability, exemption from punishment, reduction of sentence duration, exemption from serving sentences, conditional parole, probation, conviction expungement. This article focuses on analysis and interpretation the basis for exemption from criminal responsibility in the Criminal Code 2015 (amended in 2017), contributing to clarify the content, the meaning, and the value of legal norms. The author also recommends some legislative solutions which contribute to improving regulations on exemption from criminal liability, and hence enhancing the effect of prevention and fighting against crimes in practice. Keywords: Criminal liability, exemption from criminal liability, exemption from punishment Date of receipt: 05/11/2017;Date of revision: 12/03/2018; Date of approval: 02/04/2018 1 Tiến sỹ, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân 2 Thạc sỹ, Học viện Cảnh sát nhân dân HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 4 nội dung, hình thức và kỹ thuật lập pháp. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung trình bày, luận giải làm sáng tỏ nội hàm, bản chất của các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự, trên cơ sở đó kiến nghị một số giải pháp góp phần nâng cao nhận thức và hiệu quả thực tiễn hoạt động áp dụng pháp luật hình sự trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Thứ nhất, về cơ sở pháp lý của miễn trách nhiệm hình sự. Theo quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), chế định miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại phần chung và phần các tội phạm, bao gồm các trường hợp cụ thể dưới đây: Một là, miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội quy định tại Điều 16 BLHS; Hai là, miễn trách nhiệm hình sự khi có những căn cứ nhất định quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 29 BLHS; Ba là, miễn trách nhiệm hình sự đối với người 18 tuổi phạm tội khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a, b, c khoản 2 Điều 91 BLHS; Bốn là, miễn trách nhiệm hình sự khi thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 110, khoản 7 Điều 364, khoản 6 Điều 365, khoản 2 Điều 390 BLHS. Năm là, miễn trách nhiệm hình sự khi hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 27 BLHS. Thứ hai, về kỹ thuật lập pháp hình sự. Miễn trách nhiệm hình sự được thể hiện dưới hai hình thức hoặc là “được miễn trách nhiệm hình sự” hoặc là “có thể được miễn trách nhiệm hình sự” và được BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định một cách chi tiết, cụ thể, rõ ràng và thống nhất. Ngoài các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 16, Điều 110, khoản 7 Điều 364, khoản 6 Điều 365, khoản 2 Điều 390 và Điều 27 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về cơ bản giống như quy định về miễn trách nhiệm hình sự trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã điều chỉnh tên điều luật và thứ tự tại Điều 25 (Miễn trách nhiệm hình sự) thành Điều 29 (Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự). Đồng thời, quy định việc áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự nhằm tạo cơ sở pháp lý đảm bảo lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi phạm tội. Đặc biệt, xuất phát từ thực tiễn công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã bổ sung quy định: “Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”. Thứ ba, về thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự. Nghiên cứu về các trường hợp được hoặc có thể được miễn trách nhiệm hình sự quy định trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có thể khẳng định, chủ thể có thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án tùy thuộc vào từng giai đoạn cụ thể của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Thứ tư, về nội hàm, bản chất của các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) phân chia các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự thành hai hình thức “được” (bắt buộc) hoặc “có thể được” (tùy nghi) miễn trách nhiệm hình sự với những nội dung chủ yếu sau đây: Một là, về các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 16, Điều 27, khoản 1 Điều 29, khoản 4 Điều 110 BLHS. - Miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Điều 16 BLHS quy định: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba 5 cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này”. Có thể khẳng định, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một trường hợp phạm tội đặc biệt, khi người phạm tội hoàn toàn có khả năng và điều kiện để thực hiện hành vi phạm tội đến cùng mặc dù không có gì ngăn cản nhưng người phạm tội đã lựa chọn cách thức xử sự là không tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội của mình một cách tự nguyện và dứt khoát khi tội phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Chính việc lựa chọn cách thức xử sự này đã phần nào thể hiện thái độ ăn năn, hối cải, sự thức tỉnh lương tâm của người phạm tội và đối với họ thiết nghĩ việc áp dụng các hình thức trách nhiệm hình sự là không thực sự cần thiết. Với ý nghĩa đó, Nhà nước quy định trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm. - Miễn trách nhiệm hình sự khi hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 27 BLHS quy định: “Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, đối với trường hợp người phạm tội sau khi thực hiện tội phạm mà tội phạm đó không thuộc nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII của BLHS, nhóm các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI của BLHS, tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 353 của BLHS, tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354 của BLHS đã trải qua một khoảng thời gian nhất định (05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) họ không thực hiện hành vi phạm tội mới hoặc không trốn tránh và không có quyết định hoặc cố tình trốn tránh nhưng vì bất kỳ lý do nào khác mà cơ quan có thẩm quyền không ra quyết định truy nã thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ không còn cần thiết nữa và trường hợp này họ được miễn trách nhiệm hình sự. Quy định này nhằm bảo đảm nguyên tắc xử lý đã được quy định cụ thể tại điểm a, khoản 1 Điều 3 và điểm a, khoản 2 Điều 3 BLHS: “Mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật. Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật”. Mặt khác, quy định này tạo cơ sở pháp lý góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm và hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đồng thời, là giải pháp để đảm bảo quyền con người, quyền công dân không bị xâm phạm trong bất kỳ trường hợp nào từ phía các cán bộ và cơ quan công quyền. - Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội do có sự thay đổi chính sách, pháp luật hoặc khi có quyết định đại xá. Theo quy định tại khoản 1 Điều 29 BLHS thì người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự nếu có một trong các căn cứ sau đây: + Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Căn cứ này xuất hiện không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội, dù có thể sau khi thực hiện hành vi phạm tội người phạm tội tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, đã lập công chuộc tội Điều này có nghĩa, việc hành vi phạm tội không còn nguy hiểm nữa hoàn toàn do khách quan xuất phát từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước thể hiện rõ trong chính sách, pháp luật. Khi có căn cứ này người phạm tội đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự. Chẳng hạn, theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 6 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành BLHS số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 thì kể từ ngày 03/7/2017 không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà BLHS năm 1999 quy định là tội phạm nhưng BLHS năm 2015 không quy định là tội phạm, bao gồm: tảo hôn; báo cáo sai trong quản lý kinh tế; vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính; hành vi theo BLHS năm 1999 (được hướng dẫn thi hành trong các văn bản quy phạm pháp luật) là tội phạm nhưng do có sửa đổi, bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu thành tội phạm nên hành vi đó không cấu thành tội phạm nữa. Nếu vụ án đã khởi tố, đang điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn chấp hành hình phạt thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt. + Đại xá là sự tha miễn, khoan hồng ở mức cao hơn nhiều so với đặc xá, do đó, thẩm quyền quyết định cũng cao hơn (thuộc về Quốc hội) và việc áp dụng hình thức tha miễn này cũng ít phổ biến hơn. Quyết định đại xá chính là một trong những căn cứ miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Nghiên cứu quy định của pháp luật có thể khẳng định, đại xá có một số đặc điểm cơ bản dưới đây3: Đại xá là sự tha miễn hoàn toàn đối với một số loại tội phạm nhất định trong một thời điểm nhất định, không liên quan đến việc người được tha đã bị kết án hay chưa, không phụ thuộc vào yếu tố nhân thân hoặc thái độ cải tạo của người đó; Đại xá được áp dụng không chỉ đối với người đang bị giam giữ để điều tra hoặc thi hành án, mà còn đối với bất kỳ ai đã phạm vào một trong những loại tội được hưởng đại xá; Đại xá thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội; Người được đại xá được trả tự do ngay, được phục hồi toàn bộ quyền công dân và coi như không phạm tội (tương tự như xóa án tích hiện nay). Thực tiễn lịch sử lập pháp hình sự ở nước ta từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay cho thấy, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã hai lần ra quyết định đại xá tội phạm, cụ thể: Đại xá năm 1945 nhân sự kiện thắng lợi của cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, theo Sắc lệnh số 52/SL ngày 20/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời. Đại xá năm 1954 nhân dịp giải phóng thủ đô Hà Nội, thực hiện đại xá theo Thông tư số 413-TTg ngày 09/11/1954 của Thủ tướng Chính phủ, sau khi có kết luận của Hội đồng Chính phủ và được sự thỏa thuận của Ban Thường trực Quốc hội. Đây là đợt đại xá khi Nhà nước đã có Hiến pháp, nhưng Hiến pháp năm 1946 lại không quy định cụ thể về thẩm quyền quyết định đại xá. - Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội gián điệp. Khoản 4 Điều 110 BLHS quy định: “Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì được miễn trách nhiệm hình sự về tội này”. Đây là trường hợp người phạm tội đã đồng ý, chấp thuận hoặc tiếp nhận mục đích về việc sẽ thực hiện một trong các hành vi như: Hoạt động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài; hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường hoặc thực hiện hành vi khác giúp người nước ngoài hoạt động tình báo, phá hoại; Cung cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp bí mật Nhà nước cho nước ngoài; thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu khác nhằm mục đích để nước ngoài sử dụng chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhưng trước khi hành vi phạm tội bị phát 3 Nguyễn Ngọc Anh (2007), Hoàn thiện pháp luật về đặc xá ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.23-24. Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba 7 giác người phạm tội đã không thực hiện nhiệm vụ như đã hứa hẹn, thỏa thuận, dự định, đồng thời, người phạm tội đã tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được miễn trách nhiệm hình sự. Hai là, về các trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2, 3 Điều 29, khoản 2 Điều 91, khoản 7 Điều 364, khoản 6 Điều 365, khoản 2 Điều 390 BLHS. - Miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Đây là trường hợp các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, khi người phạm tội có những biểu hiện chuyển biến rõ rệt về nhận thức, thái độ bằng việc tự thú nhận về hành vi phạm tội của mình mặc dù chưa bị phát giác, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, đồng thời, người phạm tội phải lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, tức là đã có hành động giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm; cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc đã cứu được tài sản của nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hoả hoạn; có những phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá trị hoặc thành tích xuất sắc đột xuất khác được các cơ quan có thẩm quyền xác nhận4. - Miễn trách nhiệm hình sự khi người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự. Đây là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự lần đầu tiên được pháp điển hóa trong BLHS. Trong mối tương quan với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về khởi tố theo yêu cầu của người bị hại:“Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của BLHS khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết” thì quy định này có phạm vi điều chỉnh rộng hơn, bao quát hơn và có tính linh hoạt hơn, góp phần thúc đẩy quá trình tự nguyện hòa giải giữa các bên, đồng thời, có khả năng khắc phục trong chừng mực nhất định những hậu quả, mất mát về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản do người phạm tội gây ra cho người bị hại, khuyến khích người phạm tội tích cực sửa chữa lỗi lầm, bồi thường thiệt hại, ăn năn hối cải và đối với người phạm tội có đủ các điều kiện nêu trên thiết nghĩ việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ thực sự không còn cần thiết mà được thay thế bằng các hình thức xử lý khác một cách linh hoạt, hợp lý, nhân văn. Đồng thời, quy định này cũng phần nào tháo bỏ những rào cản về mặt pháp lý tồn tại trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự những năm qua, tạo khả năng nhận thức và vận dụng pháp luật hình sự sáng tạo, linh hoạt của các cơ quan có thẩm quyền. - Miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (quy định tại điểm a khoản 2 Điều 29). Đây là trường hợp mà các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội khi mà tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đã có sự thay đổi, chuyển biến và sự thay đổi chuyển biến đó hoàn toàn không lệ thuộc vào thái độ, ý thức chủ quan của người phạm tội sau khi đã thực hiện tội phạm. Thực tiễn nhận thức và vận dụng căn cứ này, các cơ quan có thẩm quyền 4 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 8 tiến hành tố tụng cần cân nhắc xem xét mối quan hệ giữa sự thay đổi của tình hình đời sống chính trị xã hội gắn với chính bản thân người phạm tội tại từng thời điểm cụ thể (được chứng minh bằng việc họ đã hoàn lương, chăm chỉ làm ăn, tham gia các hoạt động xã hội... hoặc do họ mắc bệnh hiểm nghèo...) để quyết định nên hay không nên miễn trách nhiệm hình sự đối với họ. - Miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa (quy định tại điểm b khoản 2 Điều 29). Đây là trường hợp mà các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể miễn trách nhiệm hình sự khi người phạm tội sau khi thực hiện tội phạm đã lâm vào tình trạng mắc bệnh hiểm nghèo và tình trạng bệnh này làm cho người phạm tội không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa. Đây là quy định thể hiện rõ chính sách hình sự khoan hồng và nhân đạo của Đảng và Nhà nước, khi thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội trong tình trạng mắc bệnh hiểm nghèo như: Ung thư giai đoạn cuối, liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, suy thận độ IV trở lên, nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn AIDS đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao hoặc mắc một trong các bệnh khác5. Lẽ tự nhiên, việc kết luận người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo và không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa phải được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền, cụ thể: đối với phạm nhân bị bệnh nặng phải có kết luận của Hội đồng giám định y khoa hoặc bản sao Bệnh án, kết luận của Bệnh viện cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên về tình trạng sức khỏe của người đó. Riêng phạm nhân bị nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn AIDS phải có kết quả xét nghiệm HIV theo quy định của Bộ Y tế và bản sao Bệnh án hoặc kết luận của cơ quan y tế có thẩm quyền khẳng định đã chuyển giai đoạn AIDS, đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao. - Miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (khiển trách; hòa giải tại cộng đồng; giáo dục tại xã, phường, thị trấn)6. Khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:“Người dưới 18 tuổi phaṃ tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này: a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này; b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này; c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án”. Có thể khẳng định, khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) được xem là định hướng ban đầu cho việc xử lý chuyển hướng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, tạo cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét miễn trách nhiệm hình sự và giao người dưới 18 tuổi cho gia đình, cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục. Tuy nhiên, việc thiếu các quy định rõ ràng, cụ thể đã cản trở việc áp dụng xử lý chuyển hướng trong thực tiễn. Ngoài ra, thực tiễn xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định tại khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999 cũng như các chế tài không giam giữ thiếu bài bản, không hiệu quả do thiếu các dịch vụ hỗ trợ và các nguồn nhân lực tại cộng đồng hạn chê.́ Do vậy, cần thiết phải bổ sung các quy định có liên quan của 5 Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BYT ngày 15/3/2013 Hướng dẫn thi hành quy định về tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân. 6 TS. Hoàng Minh Đức (2016), Tìm hiểu về biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật Hình sự năm 2015, Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp, số 04/2016. Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba 9 BLHS về vấn đề xử lý chuyển hướng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, cụ thể, đầy đủ để các cơ quan tiến hành tố tụng làm căn cứ áp dụng xử lý chuyển hướng. Đồng thời, việc đa dạng hóa các biện pháp xử lý chuyển hướng là cần thiết nhằm tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền được lựa chọn biện pháp xử lý chuyển hướng phù hợp nhất đối với từng trường hợp cụ thể. Ngoài ra, cũng cần phải lưu ý rằng, biện pháp xử lý chuyển hướng được xem xét áp dụng với từng trường hợp cụ thể phải phù hợp với tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, nhu cầu của người dưới 18 tuổi phạm tội và điều kiện cũng như các loại dịch vụ hỗ trợ tại địa phương nơi người dưới 18 tuổi phạm tội cư trú như tham vấn, kèm cặp, tập huấn kỹ năng sống, hướng nghiệp, dạy nghề7. Như chúng ta đã biết, một trong những nguyên tắc quan trọng trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội đó là phải bảo đảm các lợi ích tốt nhất của các em. Vì vậy, việc lựa chọn phương pháp xử lý phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi, tạo môi trường phát triển bình thường cho người dưới 18 tuổi phạm tội là vô cùng quan trọng. Trong nhiều trường hợp, việc áp dụng các biện pháp xử lý nằm ngoài hệ thống tư pháp chính thức, mang tính răn đe, giáo dục xã hội (xử lý chuyển hướng) để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi mang lại hiệu quả mong muốn và đó là một đòi hỏi của Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em và các chuẩn mực quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên. Cách thức xử lý không viện dẫn đến các thủ tục tố tụng chính thức đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đang được sử dụng phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới, đã và đang đem lại nhiều hiệu quả trong việc giáo dục và phòng ngừa tội phạm vị thành niên cũng như đảm bảo lợi ích cộng đồng. Trong bối cảnh hiện nay, tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, tỷ lệ tái phạm tương đối cao, thực tiễn áp dụng những quy định về tư pháp hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển và thay đổi nhanh chóng về mọi mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, đối ngoại hiện nay và trước những yêu cầu hội nhập quốc tế theo hướng bảo vệ tốt hơn nữa cho người dưới 18 tuổi phạm tội, hệ thống tư pháp hình sự của Việt Nam đã bộc lộ một số hạn chế nhất định như các biện pháp thay thế xử lý chính thức chưa được quan tâm, các quy định chưa thực sự bảo đảm vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và tính thân thiện trong quy trình tố tụng cũng như yêu cầu của các chuẩn mực quốc tế về bảo vệ trẻ em... Những bất cập này đặt ra yêu cầu phải xem xét, nghiên cứu để có những sửa đổi, bổ sung kịp thời hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói chung, pháp luật liên quan đến hệ thống xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng mà trong đó việc xây dựng một hệ thống các biện pháp chuyển hướng và quy trình xử lý chuyển hướng cụ thể đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hết sức cần thiết nhằm bảo vệ tốt hơn lợi ích của người dưới 18 tuổi, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cũng như đảm bảo thực thi các nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam. - Miễn trách nhiệm hình sự đối với người đưa hối lộ. Khoản 7 Điều 364 quy định: “Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ”. - Miễn trách nhiệm hình sự đối với người môi giới hối lộ. Khoản 6 Điều 365 quy định: “Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”. - Miễn trách nhiệm hình sự đối với người không tố giác tội phạm. Khoản 2 Điều 390 quy định:“Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt”. 7 Ban soạn thảo BLHS (sửa đổi) (2015), Dự thảo Báo cáo đánh giá tác động Dự án BLHS (sửa đổi), Hà Nội, Tr.35-45. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 10 Với những phân tích, luận giải trên đây về cơ sở pháp lý, về kỹ thuật lập pháp, về thẩm quyền quyết định, về nội hàm, bản chất của chế định miễn trách nhiệm hình sự, chúng tôi cho rằng, việc quy định về các căn cứ, trường hợp miễn trách nhiệm hình sự trong BLHS thể hiện tư duy lập pháp tiến bộ, văn minh, nhân đạo, khoan hồng của Đảng và Nhà nước, thể chế hóa đầy đủ tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về việc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp với xu thế chung của thời đại, đồng thời, thể hiện sự nỗ lực và những cam kết của Việt Nam khi tham gia ký kết, phê chuẩn Điều ước quốc tế trong lĩnh vực quyền con người. Đây chính là nên tảng chính trị, pháp lý vững chắc cho việc nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giải quyết những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự. Mặc dù vậy, từ thực tiễn xây dựng pháp luật, thực tiễn đời sống pháp lý và dưới góc độ khoa học luật hình sự, chúng tôi thiết nghĩ điều kiện tiên quyết và có vai trò then chốt nhằm hiện thức hóa các quy định về miễn trách nhiệm hình sự trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm là phải xây dựng và tạo lập một hệ thống đồng bộ các giải pháp từ công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích pháp luật, đào tạo nâng cao trình độ pháp lý, nhận thức pháp luật của không chỉ các cán bộ thuộc cơ quan công quyền mà còn của mỗi người dân trong xã hội, đến việc thực thi một cách minh bạch, công khai, hiệu quả các quy định của pháp luật trong thực tiễn, đồng thời, thường xuyên tổng kết thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả. Với phương châm đó, chúng tôi kiến nghị một số giải pháp góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về miễn trách nhiệm hình sự sau đây: Thứ nhất, hoàn thiện các quy định của BLHS về miễn trách nhiệm hình sự, cụ thể như sau: Một là, trong sự thống nhất và đồng bộ với các chương khác của Phần chung BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), cần quy định toàn bộ các căn cứ và các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự tập trung vào chương V (Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự) tạo điều kiện dễ dàng cho việc nhận thức và áp dụng. Hai là, bổ sung vào khoản 1 Điều 29 (Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự) hai căn cứ mà người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự gồm: “Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự”; “Người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”. Ngoài ra, bổ sung thêm căn cứ “người phạm tội gián điệp thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 110 của Bộ luật này” vào khoản 1 Điều 29. Sửa đổi điểm a khoản 1 Điều 29: “Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa” thành “Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”. Ba là, bổ sung vào khoản 2 Điều 29 (Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự) căn cứ miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo hướng: “Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này”. Đồng thời, bổ sung thêm căn cứ “người phạm tội đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác thuộc trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 364 hoặc khoản 6 Điều 365 của Bộ luật này” và căn cứ “người phạm tội đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 390 của Bộ luật này” Thứ hai, về hướng dẫn pháp luật. Các cơ quan liên ngành trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phối hợp tổ chức rà soát và đề xuất ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về miễn trách nhiệm hình sự, tập trung vào một số tình tiết như: “sự thay đổi chính sách, pháp luật”, “người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”, “người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo”, “lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt”./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfban_ve_cac_can_cu_mien_trach_nhiem_hinh_su_trong_bo_luat_hin.pdf
Tài liệu liên quan