Báo cáo 22 trường hợp nhiễm trùng đường tiết niệu nặng: Viêm thận bể thận sinh khí tại bệnh viện chợ Rẫy

Điều trị Có nhiều ý kiến điều trị khác nhau. Nếu không mổ và chỉ điều trị bằng kháng sinh, tỉ lệ tử vong khá cao (40%)(12), tuy rằng cũng có tác giả cho rằng cắt bỏ thận là điều trị lựa chọn trong nhiều trường hợp VTBTSK(3). Aswathaman báo cáo một nghiên cứu trên 41 bệnh nhân VTBTSK, 80% bệnh nhân được điều trị thành công bằng kháng sinh, mở thận ra da qua da mà không cần cắt bỏ thận(1). Trong một nghiên cứu phân tích gộp trên 210 bệnh nhân VTBTSK bởi tác giả Somani: nếu chỉ điều trị nội khoa tỉ lệ tử vong (50%), điều trị nội khoa kết hợp cắt bỏ thận cấp cứu tỉ lệ tử vong (25%), điều trị nội khoa kết hợp dẫn lưu qua da tỉ lệ tử vong (13,5%), điều trị nội khoa kết hợp dẫn lưu qua da và lựa chọn cắt thận tỉ lệ tử vong thấp nhất (6,6%)(14). Hiện nay phác đồ điều trị VTBTSK được nhiều tác giả chấp nhận được trình bày trong Hình 1. Huang và cs cho rằng đối với VTBTSK nhóm 1 và nhóm 2 có thể điều trị với kháng sinh và mổ dẫn lưu thận(5,6). Trong nhóm 3 và nhóm 4, nếu có sự hiện diện của ít hơn hai yếu tố nguy cơ (giảm tiểu cầu, suy thận cấp, rối loạn tri giác và choáng) chỉ cần mở thận ra da qua da và dùng kháng sinh (tỉ lệ thành công 64%). Tuy nhiên, nếu có hai hoặc nhiều hơn các yếu tố nguy cơ trên, cắt thận mang lại kết quả tốt hơn. Tỉ lệ tử vong là 15-20% trong hai báo cáo khác, trong đó cắt thận là điều trị lựa chọn(5,6). Một số yếu tố tiên lượng nặng: có choáng, giảm tiểu cầu, đường huyết khó kiểm soát, suy đa cơ quan, hôn mê(9,17). Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 1 TH nhóm 3b, đã được điều trị kháng sinh thích hợp, mổ cắt lọc mô hoại tử và dẫn lưu cạnh thận. Tuy nhiên bệnh cảnh sau đó không cải thiện nhiều, nhất là đường huyết luôn dao động, do đó cắt bỏ thận đã được chỉ định để giải quyết ổ nhiễm trùng. 2 TH tử vong do nhập viện muộn, có choáng nhiễm trùng, nhiễm độc, suy đa cơ quan.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 89 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo 22 trường hợp nhiễm trùng đường tiết niệu nặng: Viêm thận bể thận sinh khí tại bệnh viện chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 59 BÁO CÁO 22 TRƯỜNG HỢP NHIỄM TRÙNG ĐƯỜNG TIẾT NIỆU NẶNG: VIÊM THẬN BỂ THẬN SINH KHÍ TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY Ngô Xuân Thái*, Vũ Đức Huy**, Hoàng Khắc Chuẩn**, Thái Kinh Luân* TÓM TẮT Mở đầu và mục tiêu: Viêm thận - bể thận sinh khí (emphysematous pyelonephritis)(VTBTSK) là tình trạng nhiễm trùng cấp tính nặng, hoại tử nhu mô thận và mô quanh thận, đặc trưng bởi việc sinh ra khí trong nhu mô thận, hệ thống thu thập, mô quanh thận. Khí các-bon dioxide được tạo ra bởi quá trình vi khuẩn lên men đường. Triệu chứng ban đầu tương đối mơ hồ, nhưng thường có sự suy giảm đột ngột tổng trạng, cần phải điều trị khẩn cấp. Điều trị bao gồm hồi sức, điều chỉnh rối loạn điện giải và đường huyết, dùng kháng sinh diệt được vi khuẩn Gram âm, giải quyết bế tắc đường tiết niệu. Phẫu thuật dẫn lưu và cắt bỏ thận cần cân nhắc trong trường hợp khí khuếch tán rộng và thận bị hủy hoại nặng. Đối tượng-Phương pháp nghiên cứu: báo cáo hàng loạt trường hợp từ tháng 5/2011 – 1/2014, có 22 trường hợp VTBTSK được chẩn đoán và điều trị tại khoa Tiết niệu, bệnh viện Chợ Rẫy, gồm 4 nam và 18 nữ. 15 bệnh nhân có tiền sử bệnh đái tháo đường. 9 bệnh nhân có tiển sử sỏi niệu. Kết quả: Có 1TH nhóm 1, 2TH nhóm 2, 5TH nhóm 3a, 12TH nhóm 3b và 2TH nhóm 4. 2 bệnh nhân tử vong do nhập viện muộn, có suy đa cơ quan. VTBTSK là bệnh hiếm gặp nhưng có thể gây biến chứng chết người, bệnh thường xảy ra trên bệnh nhân bị đái tháo đường và/hoặc có bế tắc đường tiết niệu. Kết luận: VTBTSK mặc dù hiếm gặp nhưng bệnh cảnh rất nặng nề, tỉ lệ tử vong cao nếu không chẩn đoán và điều trị tích cực kịp thời. Từ khóa: Viêm thận-bể thận sinh khí, viêm bể thận sinh khí, viêm bàng quang sinh khí, nhiễm trùng niệu, đái tháo đường. ABSTRACT REPORT ON 22 CASES OF SEVERE URINARY TRACT INFECTIONS: EMPHYSEMATOUS PYELONEPHRITIS AT CHO RAY HOSPITAL Ngo Xuan Thai, Vu Đuc Huy, Hoang Khac Chuan, Thai Kinh Luan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 4- 2014: 59 - 65 Background and Objective: Emphysematous pyelonephritis (EPN) is an acute severe, necrotizing infection of the renal parenchyma and its surrounding tissues that is characterized by the gas formation within the renal parenchyma, collecting system, or perinephric tissue. This gaseous component, carbon dioxide, is produced from glucose by the bacterial fermentation. Although patients with EPN show relatively vague symptoms initially, their general conditions often get worse which leads to a need in urgent medical care. Treatment for patients with EPN comprises resuscitation, correction of any electrolyte and glucose problems, administration of antibiotics targeting Gram-negative bacteria. Urinary tract obstruction is relieved by a percutaneous nephrostomy or stent. Definitive management is by percutaneous drainage, except when there is extensive diffuse gas with renal destruction; in this case, a nephrectomy is advised. Patients and Method: A cases series study of EPN was performed at Chợ Rẫy hospital from May 2011 to * Bộ môn Tiết Niệu Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh **Khoa Tiết Niệu bệnh viện Chợ Rẫy. Tác giả liên lạc: TS. Ngô Xuân Thái ĐT: 0918017034 Email: drthaidhyd@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Chuyên Đề Thận Niệu 60 January 2014. There were 22 patients, including 4 male and 18 female, who were diagnosed and treated at the Urology Department. Among of these cases, there were 15 cases diabetes mellitus, and 9 cases with the prehistory of urinary lithiasis. Results: There were 1 case of group 1, 2 cases of group 2, 5 cases of 3a, 12 cases 3b and 2 cases of group 4. Two patients died due to late admission and multiple organ failure. EPN is rare, but life- threatening infection. It frequently occurs in patients suffering from diabetes mellitus and/ or urinary tract obstruction. Conclusion: EPN is a rare condition which carries major morbidity and significant mortality. Rapid and prompt diagnosis with appropriate aggressive treatment is likely to reduce mortality. Keywords: Emphysematous pyelonephritis, EPN, emphysematous pyelitis, emphysematous cystitis, urinary tract infections, UTIs, diabetes mellitus. MỞ ĐẦU Viêm thận - bể thận sinh khí (emphysematous pyelonephritis: EPN) (VTBTSK) là một bệnh nhiễm trùng hoại tử cấp tính rất nặng của thận, sinh ra khí trong hệ thống thu thập, nhu mô thận, và mô quanh thận. Nếu khí có trong bể thận, mà không có trong nhu mô, được gọi là viêm bể thận sinh khí (emphysematous pyelitis). VTBTSK thường xuất hiện ở những người mắc bệnh đái tháo đường, và có triệu chứng giống với viêm thận bể thận cấp tính. Tuy nhiên, diễn biến lâm sàng của VTBTSK có thể trở nên nghiêm trọng và đe dọa tính mạng người bệnh nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Trường hợp đầu tiên được báo cáo bởi Kelly và MacCullum vào năm 1898, kể từ đó đến nay có khoảng 600 trường hợp của VTBTSK đã được báo cáo trong y văn thế giới. Báo cáo này trình bày 22 trường hợp VTBTSK được phát hiện và điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy trong thời gian từ tháng 5/2011- 1/2014. KẾT QUẢ Trong 22 trường hợp bị VTBTSK điều trị tại khoa Tiết niệu, bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 5/2011 đến tháng 1/2014 gồm 4 bệnh nhân nam và 18 bệnh nhân nữ. Tuổi bệnh nhân từ 24 đến 81 (trung bình 57). 10 TH bệnh xảy ra ở bên trái, 10 TH ở bên phải và 2 TH ở 2 bên. 8 bệnh nhân nhập viện trong tình trạng choáng nhiễm trùng rất nặng, phải dùng thuốc vận mạch. Có 9 TH có kèm triệu chứng và hình ảnh bế tắc đường tiết niệu trên do sỏi. Ghi nhận quan trọng là có đến 15 TH bị bệnh đái tháo đường, và lượng đường huyết không được kiểm soát tốt. 4 TH có kèm viêm bàng quang sinh khí và có triệu chứng tiểu ra khí. Về phân loại bệnh theo tác giả Huang, 22 bệnh nhân của nghiên cứu này có 1 TH ở nhóm 1, 2 TH ở nhóm 2, 5 TH nhóm 3a và 12 TH ở nhóm 3b và 2 TH nhóm 4. Các xét nghiệm vi khuẩn học cho thấy tất cả là vi khuẩn đường ruột, 14 TH có tác nhân gây bệnh là Escherichia coli, 2 TH là Klebsiella sp., 1 TH là Proteus sp. Các triệu chứng lâm sàng được trình bày trong bảng 1. Bảng 1. Triệu chứng lâm sàng Triệu chứng Số TH Tỉ lệ Y văn Sốt 18/22 82% 79% Đau lưng hoặc đau bụng 22/22 100% 71% Buồn nôn và nôn 7/22 32% 17% Khó thở 6/22 27,2% 13% Suy thận cấp 8/22 36,3% 35% Giảm tri giác 8/22 36,3% 19% Choáng 8/22 36,3% 29% Tiểu ra khí 4/22 18,2% - Triệu chứng gặp nhiều nhất là sốt (82%) và đau lưng và/hoặc đau bụng (100%). 8/22 TH có suy thận cấp (36,3%). 8/22 TH có biểu hiện suy giảm tri giác (36,3%) và 8/22 TH có biểu hiện choáng nhiễm trùng (36,3%). Ngoài ra chúng tôi cũng ghi nhận có triệu chứng khó thở (6/22 TH) và buồn nôn hay nôn (7/22 TH). 4 TH có triệu chứng tiểu ra khí và hình ảnh CT scan bụng của viêm bàng quang sinh khí. 1 TH có triệu chứng tràn khí dưới da khi chọc dò hố thắt lưng ở TH Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 61 đầu tiên của báo cáo này thấy có ra ít mủ đặc nhưng xì ra rất nhiều khí với áp lực khá cao. Các triệu chứng cận lâm sàng Tăng bạch cầu máu với công thức bạch cầu chuyển trái, procalcitonin tăng, tiểu ra mủ và bạch cầu. Phân tích nước tiểu cho thấy có nhiễm trùng. Giảm tiểu cầu. Chỉ số creatinin máu tăng. Cấy nước tiểu kèm cấy máu, và cấy mủ khi mổ giúp định danh được vi khuẩn gây bệnh trong đa số các trường hợp. Cấy tìm vi khuẩn và làm kháng sinh đồ giúp chọn lựa được các kháng sinh phù hợp. Một số trường hợp xét nghiệm cho thấy có rối loạn đông máu trong bệnh cảnh nhiễm trùng nặng. Phim X quang chụp bụng không chuẩn bị thấy có nhiều bóng khí ở vùng bóng thận. CT scan bụng: có hình ảnh tụ khí trong đài bể thận, nhu mô thận và khoang quanh thận, dọc rãnh đại tràng, và vùng sau phúc mạc. Có trường hợp phát hiện khí trong bàng quang, trong phúc mạc, nhu mô lách và cả ở trung thất. Các tác nhân gây bệnh phân lập được qua cấy nước tiểu, cấy máu, cấy mủ chiếm đa số là E. coli. BÀN LUẬN Bệnh VTBTSK đã được mô tả lần đầu tiên vào năm 1898 (2,9,11,12,19). Vi khuẩn gây bệnh thường gặp là Escherichia coli (70%), Klebsiella pneumoniae (29%) và các tác nhân gây bệnh khác như Proteus, Pseudomonas, Streptococcus nhóm D, Staphylococcus và một số tác nhân gây bệnh hiếm gặp như Clostridium septicum, Candida albicans, Cryptococcus neoformans cũng đã từng được báo cáo. Trong báo cáo của chúng tôi, vi khuẩn gây bệnh chiếm đa số là E. coli (14/22 TH). Vi khuẩn lên men đường trong nước tiểu và sinh ra các loại khí khác nhau gồm có nitơ, hydro, carbon dioxide, và oxygen, trong đó carbon dioxide là chủ yếu. Sinh lý bệnh của VTBTSK vẫn còn chưa rõ ràng. 90-95% các trường hợp xảy ra ở bệnh nhân bị đái tháo đường; mặc dù nhiễm trùng tiểu rất hay gặp ở những bệnh nhân đái tháo đường, nhưng chỉ một số ít bị VTBTSK. Các yếu tố thuận lợi đưa đến VTBTSK ở những người mắc bệnh đái tháo đường không kiểm soát tốt mức đường huyết và có nồng độ hemoglobin glycosyl hóa cao (72%) và cơ chế suy giảm miễn dịch gây ra bởi các yếu tố tại chỗ như tắc nghẽn đường tiết niệu(6,9,11,12). Dịch tễ học Tuổi trung bình của bệnh nhân VTBTSK được báo cáo là 55 (19-81 tuổi). Bệnh thường gặp hơn ở phụ nữ gấp 6 lần ở nam giới(7,8,12,15,19). Bệnh hay gặp ở bệnh nhân bị đái tháo đường phụ thuộc hay không phụ thuộc insulin. Ít có báo cáo bệnh xảy ra ở người không bị đái tháo đường, trong trường hợp này, có yếu tố góp phần của tắc nghẽn đường tiết niệu, suy thận và ức chế miễn dịch. Ở những bệnh nhân này, 22% có bế tắc đường tiểu trên, 4% có thận đa nang, và 4% có bệnh thận giai đoạn cuối. Tắc nghẽn là nguyên nhân chính của VTBTSK ở những người không bị đái tháo đường. Thận bên trái bị ảnh hưởng nhiều hơn so với bên phải. Trường hợp VTBTSK hai bên cũng đã được báo cáo(8,12). Chẩn đoán Chẩn đoán VTBTSK dựa vào các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng. Theo Schainuck, gần như ở tất cả bệnh nhân bị VTBTSK đều có tam chứng kinh điển: sốt, nôn ói và đau vùng hông lưng. Tiểu ra khí chỉ gặp khi nhiễm trùng lan đến hệ thống đài bể thận(8,11). Theo tổng quan y văn bệnh VTBTSK thường có triệu chứng sốt (79%), đau bụng hoặc mạn sườn (71%), buồn nôn và nôn (17%), khó thở (13%), suy thận cấp (35%), thay đổi cảm giác (19%), sốc (29%), và giảm tiểu cầu (46%). Có những tiếng lép bép trên vùng mạn sườn có thể gặp trong trường hợp VTBTSK nặng. Triệu chứng tiểu ra khí có thể gặp khi có kèm viêm bàng quang sinh khí (emphysematous cystitis), trong nghiên cứu của chúng tôi có 4 TH. Một số báo cáo có ghi nhận triệu chứng tràn khí dưới da và tràn khí trung thất trong VTBTSK(4). Biến chứng VTBTSK cũng có thể xảy ra ở bệnh nhân Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Chuyên Đề Thận Niệu 62 đang có thai(18). Những bệnh đi kèm bao gồm nghiện rượu, suy dinh dưỡng, sỏi thận, đái tháo đường nhiễm ceton acid. Các yếu tố tiên lượng nặng Choáng nhiễm trùng nhiễm độc, suy giảm tri giác, suy đa cơ quan, đường huyết cao khó kiểm soát, hôn mê. Tỉ lệ tử vong là 11%. Không có khác biệt về tỉ lệ tử vong giữa nhóm bệnh nhân được điều trị bảo tồn và nhóm bệnh nhân được điều trị can thiệp mạnh hơn. Một số tác giả cho rằng cần nghi ngờ VTBTSK ở các bệnh nhân có nhiều bệnh đi kèm và có tình trạng nhiễm trùng nặng (S.Shetty). Loạt nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy tất cả bệnh nhân đều có triệu chứng đau lưng hay đau bụng (100%) và sốt (82%), 15/22 TH bị bệnh đái tháo đường (68,2%). Triệu chứng choáng nhiễm trùng và suy giảm tri giác gặp trong 8/22 TH (36,3%). Có 1 TH tràn khí dưới da, 1 TH tràn khí trong phúc mạc, 1 TH tràn khí trung thất và 2 TH VTBTSK hai bên (nhóm 4), có 4 bệnh nhân có triệu chứng tiểu ra khí do viêm bàng quang sinh khí, hình ảnh CT scan có sự hiện diện của khí trong bàng quang. Cận lâm sàng Trong 22TH của báo cáo này, chúng tôi đều thực hiện CT scan bụng và nhận thấy có sự hiện diện của khí ở khu vực thận và quanh thận, và/hoặc khí lan rộng vùng sau phúc mạc. Xét nghiệm cũng cho thấy có tình trạng tăng bạch cầu (22/22 TH), tăng procalcitonin máu (20/22 TH), tăng creatinin (8/22 TH), và một số trường hợp nặng có giảm tiểu cầu, và tăng đường huyết (15/22 TH). X quang chụp bụng không chuẩn bị, có thể thấy hình ảnh khí trong hệ thống đài bể thận và mô quanh thận cũng như thấy sỏi cản quang của thận và niệu quản. Tác giả Shokeir nhận thấy siêu âm bụng có thể giúp chẩn đoán VTBTSK trong khoảng 80% các trường hợp(13), tuy nhiên theo Pontin, CT scan mới là phương tiện chẩn đoán hình ảnh không thể thiếu để chẩn đoán VTBTSK và có độ nhạy đến 100%(10). Các chẩn đoán phân biệt gồm có viêm thận bể thận cấp (acute pyelonephritis) và viêm thận bể thận hạt vàng (xanthogranulomatous pyelonephritis). Phân loại Năm 1996, Wan và cs mô tả 2 tip VTBTSK riêng biệt(16,17). Phân loại VTBTSK hiện được đồng ý nhiều nhất được mô tả bởi Huang và cs (2000) dựa trên CT, phân loại này được điều chỉnh phân loại trước đây được đề xuất bởi Michaeli và cs (1984)(8). Phân loại này cơ bản mô tả các vị trí giải phẫu của khí trên CT scan: Nhóm 1 - khí giới hạn trong hệ thống đài bể thận. Nhóm 2 - khí giới hạn trong nhu mô thận. Nhóm 3a - khí lan rộng ra quanh thận hoặc có áp xe. Nhóm 3b - khí lan vượt ra ngoài cân Gerota Nhóm 4 - VTBTSK hai bên hoặc VTBTSK một bên trên thận đơn độc. Điều trị Có nhiều ý kiến điều trị khác nhau. Nếu không mổ và chỉ điều trị bằng kháng sinh, tỉ lệ tử vong khá cao (40%)(12), tuy rằng cũng có tác giả cho rằng cắt bỏ thận là điều trị lựa chọn trong nhiều trường hợp VTBTSK(3). Aswathaman báo cáo một nghiên cứu trên 41 bệnh nhân VTBTSK, 80% bệnh nhân được điều trị thành công bằng kháng sinh, mở thận ra da qua da mà không cần cắt bỏ thận(1). Trong một nghiên cứu phân tích gộp trên 210 bệnh nhân VTBTSK bởi tác giả Somani: nếu chỉ điều trị nội khoa tỉ lệ tử vong (50%), điều trị nội khoa kết hợp cắt bỏ thận cấp cứu tỉ lệ tử vong (25%), điều trị nội khoa kết hợp dẫn lưu qua da tỉ lệ tử vong (13,5%), điều trị nội khoa kết hợp dẫn lưu qua da và lựa chọn cắt thận tỉ lệ tử vong thấp nhất (6,6%)(14). Hiện nay phác đồ điều trị VTBTSK được nhiều tác giả chấp nhận được trình bày trong Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 63 Hình 1. Huang và cs cho rằng đối với VTBTSK nhóm 1 và nhóm 2 có thể điều trị với kháng sinh và mổ dẫn lưu thận(5,6). Trong nhóm 3 và nhóm 4, nếu có sự hiện diện của ít hơn hai yếu tố nguy cơ (giảm tiểu cầu, suy thận cấp, rối loạn tri giác và choáng) chỉ cần mở thận ra da qua da và dùng kháng sinh (tỉ lệ thành công 64%). Tuy nhiên, nếu có hai hoặc nhiều hơn các yếu tố nguy cơ trên, cắt thận mang lại kết quả tốt hơn. Tỉ lệ tử vong là 15-20% trong hai báo cáo khác, trong đó cắt thận là điều trị lựa chọn(5,6). Một số yếu tố tiên lượng nặng: có choáng, giảm tiểu cầu, đường huyết khó kiểm soát, suy đa cơ quan, hôn mê(9,17). Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 1 TH nhóm 3b, đã được điều trị kháng sinh thích hợp, mổ cắt lọc mô hoại tử và dẫn lưu cạnh thận. Tuy nhiên bệnh cảnh sau đó không cải thiện nhiều, nhất là đường huyết luôn dao động, do đó cắt bỏ thận đã được chỉ định để giải quyết ổ nhiễm trùng. 2 TH tử vong do nhập viện muộn, có choáng nhiễm trùng, nhiễm độc, suy đa cơ quan. KẾT LUẬN VTBTSK là một bệnh nặng và có tỉ lệ tử vong cao. Chẩn đoán nhanh và chính xác kết hợp với điều trị tích cực và kịp thời giúp giảm tử vong. Bệnh thường gặp ở những bệnh nhân có bệnh đái tháo đường có hay không kèm bế tắc đường tiết niệu. Cần can thiệp phẫu thuật sớm ở bệnh nhân này để phòng ngừa VTBTSK, do 90% các trường hợp biến chứng nặng này xảy ra ở bệnh nhân bị đái tháo đường. Chẩn đoán VTBTSK dựa vào: lâm sàng (đau lưng, sốt cao, buồn nôn) và cận lâm sàng: siêu âm bụng, phim KUB, và đặc biệt là CT scan bụng (có khí trong thận và khoang quanh thận). Nguyên tắc điều trị: cần phối hợp các biện pháp nội khoa (hồi sức chống choáng, kháng sinh, điều chỉnh đường huyết...) và ngoại khoa (dẫn lưu ổ nhiễm trùng, cắt lọc mô hoại tử, dẫn lưu thận, cắt bỏ thận, giải quyết bế tắc nếu có). Cắt thận sau khi đã đánh giá chức năng của hệ tiết niệu và khi lâm sàng không cải thiện. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Chuyên Đề Thận Niệu 64 Hình 1. Phác đồ điều trị Viêm thận –bể thận sinh khí theo Huang JJ và Tseng CC (2000). ∗ Yếu tố nguy cơ: Giảm tiểu cầu, suy thận cấp, rối loạn tri giác, choáng(6) TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aswathaman K, Gopalakrishnan G, Gnanaraj L, Chacko NK, Kekre NS, Devasia A (2008). Emphysematous pyelonephritis: outcome of conservative management. Urology. 71(6):1007- 1009. 2. Aziz F, Penupolu S, Doddi S, Rodriguez A, Obiefuna A (2011). Emphysematous pyelonephritis in type II diabetes: A case report, The Internet Journal of Urology, 8(1). 3. Chen MT, Huang CN, Chou YH, Huang CH, Chiang CP, Liu GC (1997). Percutaneous drainage in the treatment of emphysematous pyelonephritis: 10-year experience. J Urol. 157(5):1569-1573. 4. Cheng YT, Wang HP, Hsieh HH (2001). Emphysematous pyelonephritis in a renal allograft: successful treatment with percutaneous drainage and nephrostomy. Clin Transplant. 15(5):364-367. 5. Huang JJ, Chen KW, Ruaan MK (1991). Mixed acid fermentation of glucose as a mechanism of emphysematous urinary tract infection. J Urol. 146(1):148-151. 6. Huang JJ, Tseng CC (2000). Emphysematous pyelonephritis: clinicoradiological classification, management, prognosis, and pathogenesis. Arch Intern Med. 160(6):797-805. 7. Langston CS, Pfister RC (1970). Renal emphysema. A case report and review of the literature. Am J Roentgenol Radium Ther Nucl Med;110(4):778-786. 8. Michaeli J, Mogle P, Perlberg S, Heiman S, Caine M (1984). Emphysematous pyelonephritis. J Urol. 131(2):203-208. 9. Olvera-Posada D., García-Mora A., Culebro-García C., Castillejos-Molina R., Sotomayor M., Feria-Bernal G., Sốt, đau hông lưng, đái tháo đường CT scan Siêu âm KUB Khí vùng Khí vùng Thành công Đánh giá hỗ trợ thận Viêm thận bể thận sinh Truyền dịch, kháng sinh, kiểm soát đường huyết Phân nhóm VTBTSK Nhóm Nhóm 3a, 3b Nhóm 4 Kháng sinh và dẫn lưu qua da ≤ 1 yếu tố nguy cơ∗ ≥ 2 yếu tố nguy cơ∗ 2 bên Thận độc nhất Cắt thận Kháng sinh và dẫn lưu qua da 2 bên Kháng sinh và dẫn lưu qua da Không đáp ứng Không đáp ứng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 65 Rodríguez-Covarrubias F.(2013). Prognostic factors in emphysematous pyelonephritis, Actas Urol Esp;37(4):228-232. 10. Pontin AR, Barnes RD, Joffe J, Kahn D (1995). Emphysematous pyelonephritis in diabetic patients. Br J Urol. 75(1):71-74. 11. Schaeffer AJ, Schaeffer EM (2012). Emphysematous pyelonephritis, Chapter 10 –Infections of the urinary tract, Campbell-Walsh Urology, 10th ed. Saunders. An Imprint of Elsevier., Philadelphia, Pennsylvania, pp.299-301. 12. Schainuck LI, Fouty R, Cutler RE (1968). Emphysematous pyelonephritis. A new case and review of previous observations. Am J Med; 44(1):134-139. 13. Shokeir AA, El-Azab M, Mohsen T, El-Diasty T(1997). Emphysematous pyelonephritis: a 15-year experience with 20 cases. Urology;49(3):343-346. 14. Somani BK, Nabi G, Thorpe P, Hussey J, Cook J, N’Dow J, ABACUS Research Group (2008). Is percutaneous drainge the new gold standard in the management of emphysematous pyelonephritis? Evidence from a systematic review. J Urol. 179(5):1844-1849. 15. Tang HJ, Li CM, Yen MY, et al (2001). Clinical characteristics of emphysematous pyelonephritis. J Microbiol Immunol Infect. 34(2):125-30. 16. Wan YL, Lee TY, Bullard MJ, Tsai CC (1996). Acute gas- producing bacterial renal infection: correlation between imaging findings and clinical outcome. Radiology. 198(2):433- 438. 17. Wan YL, Lo SK, Bullard MJ, Chang PL, Lee TY (1998). Predictors of outcome in emphysematous pyelonephritis. J Urol.159(2):369-373. 18. Wang YC, Wang JM, Chow YC, Chiu AW, Yang S (2004). Pneumomediastinum and subcutaneous emphysema as the manifestation of emphysematous pyelonephritis. Int J Urol. 11(10):909-911. 19. Yang WH, Shen NC (1990). Gas-forming infection of the urinary tract: an investigation of fermentation as a mechanism. J Urol;143(5):960-964. Ngày nhận bài báo: 12/5/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/5/2014 Ngày bài báo được đăng: 10/7/2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbao_cao_22_truong_hop_nhiem_trung_duong_tiet_nieu_nang_viem.pdf