Báo cáo thực tập tại Công ty Dệt may Hà Nội

Đứng trước bối cảnh nền kinh tế thế giới tiếp tục trì trệ và càng suy giảm sau sự kiện 11/9, thị trường các nước nhập khẩu hàng dệt may lớn như Nhật, Mỹ bị thu hẹp, cạnh tranh gay gắt dẫn đến giá xuất khẩu giảm mạnh, một số thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam như Đông Âu, SNG chưa có đủ điều kiện để khai thác có hiệu quả nền kinh tế nước ta không tránh khỏi bị ảnh hưởng. Tình hình trong nước cũng mấy không khả quan. Thiên tai trong năm 2001 và 2002 liên tiếp xảy ra để lại các hậu quả nặng nề, các mặt hàng nông sản rớt giá làm thị trường trong nước kém sôi động. Thêm vào đó, hàng dệt may nhập lậu trốn thuế với số lượng lớn gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Các chính sách ưu đãi tại Quyết định 55 của Chính phủ chưa được các cơ quan quản lý Nhà nước hướng dẫn thực hiện kịp thời; vốn lưu động thiếu, vốn vay đầu tư lớn, chi phí đầu vào tăng đã làm tăng gía thành, giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đứng trước những khó khăn đó,Tổng Công ty nói chung và Công ty Dệt May Hà Nội nói riêng đã tìm mọi biện pháp đẩy mạnh xúc tiến thương mại duy trì các thị trường hiện có, mở thêm các thị trường mới, rà soát và giảm chi phí đến mức tối đa để cạnh tranh về giá, tăng cường các biện pháp quản lý, nâng cao năng suất, chất lượng triển khai nhanh các dự án đầu tư đưa vào sản xuất, tập trung khai thác thị trường nội địa bù cho xuất khẩu giảm sút. Do đó, trước diễn biến phức tạp khó lường của năm 2001 đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng nhìn chung Công ty vẫn duy trì được mức tăng trưởng ổn định, đảm bảo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, cùng với sự mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị đem lại giá trị sản lượng và doanh thu mỗi năm một cao, mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước tăng lên rõ rệt. Đó là thành tích đáng được ghi nhận và là kết quả phấn đấu không mỏi mệt của cán bộ công nhân viên, của tập thể lãnh đạo từ Tổng Công ty đến Công ty cùng với sự chỉ đạo sát sao, hiệu quả của Chính phủ và sự hỗ trợ của các Bộ ngành Trung ương, các địa phương. Năm 2003, chúng ta đứng trước những cơ hội và thách thức lớn. Toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty Dệt May Hà Nội cố gắng phát huy những kết quả đã đạt được tiếp tục phấn đấu khai thác tối đa năng lực hiện có, tập trung thực hiện thắng lợi chiến lược đầu tư “ tăng tốc “ để tăng năng lực sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh cả về giá, mẫu mã và chất lượng cho tương xứng với tiềm năng của ngành dệt may Việt Nam và đủ sức hội nhập với khu vực và thế giới.

doc57 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1358 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo thực tập tại Công ty Dệt may Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này phù hợp về giá thành, mẫu mã và phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Tuy vậy, mặt hàng dệt kim lại không được chú trọng ở trong nước và chủ yếu là xuất khẩu nhưng với số lượng nhỏ. Bảng10: Tiêu thụ nội địa sản phẩm dệt kim của Công ty Dệt may Hà Nội Đơn vị : chiếc Sản phẩm Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 So sánh (%) 2001/2000 2002/2001 Tổng số 2.303.091 586.034 972.252 25,4 166 áo Poloshirt 938.976 170.422 332.409 18,5 195 áo T.shirt – Hineck 1.092.810 286.623 339.416 26 118 Hàng thể thao 103.761 66.010 240.914 63,6 365 áo may ô 167.544 62.979 59.513 37,6 94,4 Nguồn: Phòng Kế hoạch - Thị trường. Qua bảng trên ta thấy, sản phẩm tiêu thụ nội địa của hàng dệt kim giảm qua các năm và có sự biến động (năm 2002 tăng so với năm 2001 là 66%) nguyên nhân chủ yếu là do Công ty chưa đáp ứng được nhu cầu về mẫu mã và chất lượng, giá thành còn cao nên giá bán cao trong khi đó các hàng hoá may mặc càng nhiều và tình trạng cạnh tranh ngày càng găy gắt. Tuy nhiên thị trường trong nước là thị trường tiềm năng bởi dân số nước ta có khoảng 76,32 triệu người (số liệu thống kê dân số ngày 1/4/199) và thu nhập của người dân ngày càng cao, xu hướng tiêu dùng hàng dệt kim tăng. Nhận thức được vấn đề nay hiện nay Công ty đã nghiên cứu và sản xuất các loại sản phẩm với mẫu mã khác nhau, có đặc trưng dày mỏng, dài ngắn, rộng hẹp, màu sắc … khác nhau, luôn thay đổi theo xu hướng tiêu dùng và chất lượng sản phẩm ngày càng được quan tâm. + Sản phẩm khăn, lều du lịch: Trong những năm qua, sản phẩm khăn của Công ty chủ yếu tiêu thụ trên thị trường xuất khẩu còn lượng tiêu thụ trong nước là rất nhỏ. Tuy nhiên, mức tiêu thụ sản phẩm khăn san nước ngoài càng tăng lên điều đó đã khẳng định rằng Công ty dần tìm được chỗ đứng trên thị trường trong nước và có thể cạnh tranh so với các đối thủ khác. Cũng như sản phẩm khăn, thì hàng lều bạt du lịch thực sự tìm được vị trí của mình trên thị trường nội địa. Nếu như sản phẩm tiêu thụ năm 2001 so với năm 2000 tăng 8% thì năm 2002 so với năm 2001 là 18%. Đây là sản phẩm khó tiêu thụ vì chưa phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng trong nước nhưng Công ty cũng đang từng bước khẳng định vị trí của mình trên thị trường về mặt hàng này. Tuy nhiên, một đặc điểm rất quan trọng về thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty là các đối thủ cạnh tranh trong nước ngày càng tăng. Có thể nói, Công ty đang phải cạnh tranh rất lớn đối với các đối thủ cạnh tranh khác để chiếm lĩnh thị trường. Bảng 11: Một số đối thủ cạnh tranh hàng dệt kim của Công ty Dệt may Hà Nội Công ty Số lượng (Chiếc) Doanh thu (Tỷ đồng) Thành Công 7.000.000 230 Việt Tiến 14.000.000 195 May 10 3.723.000 105 Thăng Long 2.567.000 97 Chiến Thắng 3.000.000 79,5 Nguồn: Tổng Công ty Dệt may Việt Nam năm 2000 2.2. Thị trường xuất khẩu của Công ty: Trước năm 1990 hàng dệt may xuất khẩu của Công ty được xuất sang các thị trường như Liên Xô và Đông Âu theo hình thức nghị định thư. Sau khi chế độ XHCN suy đổ ở các nước này, việc xuất khẩu của Công ty đã gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên kể từ khi hiệp định buôn bán về hàng đệt may giữa Việt Nam và EU được ký (15/3/1993); kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng lên rõ rệt. Từ đó đến nay, công ty không những ổn định mà thị trường của Công ty ngày càng mở rộng. Thị trường có hạn ngạch chủ yếu là các nước thuộc khối EU, Anh, Đức, Italia) là những thị trường mà hàng dệt may của Công ty xuất khẩu sang có giá trị kim ngạch lớn. Hiện nay khi mà Việt Nam đã ký hiệp định Thương mại với Mỹ thì hàng dệt may là một trong những mặt hàng có thế mạnh của ta có thể xuất sang Mỹ với thuế suất từ trung bình 40 – 50% nay chỉ còn 3 – 4% mở rộng xuất khẩu cho không chỉ Công ty dệt may Hà nội nói riêng mà toàn bộ ngành nói chung. Bảng 12: Kim ngạch xuất khẩu theo thị trường của Công ty Đơn vị: USD Thị trường 2000 2001 2002 Trị giá Tỉ trọng (%) Trị giá Tỉ trọng (%) Trị giá Tỉ trọng (%) Nhật 5.640.261 42 6.114.419 39 533.830 15 Đài Loan 1.341.641 10 1.787.757 11,5 184.775 9,5 Cộng hoà Crech 386.562 2,9 158.249 1 30.637 Anh 1.272.060 9,4 1.332.393 8,5 308.390 4,6 Đức 343.148 2,6 112.458 0,7 50.466 0,2 Đan Mạch 170.554 1,27 262.786 1,7 253.655 1 Mỹ 563.869 4,2 140.482 10 13.854.791 60,5 Pháp 104.768 0,7 112.231 0,7 0 0 Rumani 56.305 0,4 105.331 0,6 0 0 Hàn Quốc 3.252.439 24 3.090.588 19 1.928.975 8,4 Nam Phi 75.413 0,6 136.130 0,9 0 0 Hà Lan 89.079 0,67 165.522 1 45.156 0,2 Thuỵ Sỹ 74.892 0,56 116.111 0,7 0 Singapore 78.771 0,6 0 0 0 0 Iran 0 0 54.400 0,4 0 0 ểc 0 0 176.469 1 0 Cuba 0 0 38.769 0,2 10.740 0 Hồng Kông 0 0 492.728 3 0 0 Libang 0 0 176.469 1,2 118.466 0 Newreland 0 0 0 0 0 Argentina 0 0 0 0 0 Tổng KNXK 13.454.325 100 15.733.522 100 22.891393 100 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh hàng dệt may của công ty. Giá trị kim ngạch xuất khẩu của công ty vào các thị trường tăng đều qua các năm. Nhờ nỗ lực triển khai hoạt động khai thác thị trường cùng tận dụng triệt để các kênh phân phối, ngày nay công ty đã có quan hệ làm ăn với trên 20 thị trường trong đó trên 10 thị trường là khácg hàng thường xuyên và ổn định. Trong số đó, Nhật Bản là khách hàng thường xuyên từ những năm 94, 95, tỉ trọng xuất khẩu các sản phẩm của công ty vào thị trường này luôn chiếm 40% và tốc độ tăng năm 2001 so với 2000 là 8,4%. Tuy nhiên, giá trị kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này lại giảm mạnh từ 6114419 USD xuống còn 3411220 USD, sự giảm sút này không phải xuất phát từ nguyên nhân thị trường đã không còn nhu cầu với sản phẩm của công ty mà do trong năm 2002, kinh tế Nhật Bản gặp khủng hoảng nghiêm trọng đã tác động đến sản xuất và tiêu dùng hàng dệt may nói riêng và các mặt hàng khác nói chung. Sản phẩm chủ yếu của Hanosimex được tiêu thụ tại Nhật Bản là may, khăn còn các sản phẩm sợi, vải, mũ hầu như chưa tìm được chỗ đứng, do các sản phẩm này chưa thể đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường Nhật Bản. Trong vài năm tới, với nỗ lực trong sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm cùng với biện pháp thúc đẩy xuất khâủ thích hợp Nhật Bản vẫn là khách hàng số một của công ty. Số các khách hàng đến từ EU, Anh là bạn hàng thường xuyên và ổn định nhất chiếm xấp xỉ 10% kim ngạch xuất khẩu của công ty. Các bạn hàng khác Đức, Đan Mạch, Thuỵ Sỹ giá trị xuất khẩu vào là không đáng kể. Năm 2001, công ty có quan hệ thêm với năm khách hàng iran, úc, Hồng Kông, Li Băng, tuy nhiên tỉ trọng xuất khẩu vào thị trường chỉ chiếm xấp xỉ 5% và các đơn đặt hàng lại không thường xuyên. Trong số các bận hàng mới của công ty những năm gần đây, Mỹ là thị trường giàu tiềm năng nhất, tốc độ tăng kim ngạch năm nay so với năm trước tăng vượt bậc: tốc độ tăng năm 2001 so với năm 2000 là 159%, năm 2002 so với năm 2001 tang 848,6%. Trong khi 2002, giá trị kim ngạch xuất khẩu của công ty vào thị trường đều giảm sút thì kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ lại không chịu ảnh hưởng gì và vươn lên thành thị trường xuất khẩu số một cuả công ty. Có được tốc độ tăng này một phần là Mỹ là thị trường rộng lớn lại có thị hiếu tiêu dùng không kát khe lắm hơn nữa do là thị trường mới nên còn nhiều tiêm năng chưa được khai thác. Căn cứ vào tốc độ tăng trưởng này Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu chiến lược của công ty trong vài năm tới. Tóm lại, với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường thế giới, để tăng kim ngạch xuất khẩu công ty Hanosimex cần có chiến lược cũng như giảI pháp phù hợp để tiếp tục khai thác những thị trường truyền thống và tích cực tìm kiếm những mối làm ăn mới ở các thị trường mới. Hiện nay công ty đang áp dụng một số biện pháp sau để tăng cường xuất khẩu vào các thị trường: Đổi mới phương thức xuất khẩu: trước kia, hoạt động của công ty chủ yếu theo hình thức uỷ thác. Nhưng từ 1992 trở lại đây, nhằm giẩm bớt chi phí, muốn tìm hiểu và nắm vững nhu cầu của khách hàng, công ty đã đẩy mạnh hình thức xuất khẩu trực tiếp, không qua các đầu mối trung gian. Ngoài ra công ty cũng phát triển hình thức gia công xuất khẩu bởi hoạt động theo phương thức này giúp công ty dễ dàng hơn trong việc tìm hiểu thị hiếu của khách hàng, giảm bớt các chi phí trung gian không cần thiết đồng thời tạo công ăn việc làm cho nhân viên của công ty. Tăng cường các hoạt động nghiên cứu thị trường: ở hoạt động này quan trọng nhất là việc nắm bắt thông tin và nhu cầu từ phía khách hàng. Nó đòi hỏi không những phải có thông tin kịp thời, chính xác mà còn cần sự chi tiết và đầy đủ bởi thông tin là yếu tố mang tính chất quyết định trong hoạt động nghiên cứu thị trường của bất cứ một Công ty nào tham gia vào việc kinh doanh trên thị trường, nhất là đối với những Doanh nghiệp tham gia vào thị trường Quốc tế. Hoạt động nghiên cứu thị trường và tìm kiếm khách hàng mới của Công ty Hanoisimex được thực hiện thông qua việc thu thập các thông tin sơ cấp và thứ cấp. * Các nguồn thông tin sơ cấp Công ty có được chủ yếu qua các bản thông báo, báo cáo của các đối tác phía nước ngoài. Sau khi đã có được những thông tin tương đối đầy đủ về các khách hàng sẽ đặt hàng sắp tới và lượng hàng dệt may mà họ có nhu cầu tiêu dùng, những đối tác này sẽ có những bản báo cáo chi tiết về cho Công ty để từ đó Công ty sẽ có những chuyến chào hàng thử nghiệm. Phương pháp này tuy không phải tốn nhiều chi phí song chỉ có thể áp dụng trong trường hợp tìm kiếm thị trường mới. * Các nguồn thông tin thứ cấp: được Công ty thu thập qua các tạp chí kinh tế và các tài liệu có liên quan khác. Đặc biệt mạng Internet là một trong những nguồn cung cấp thông tin quan trọng nhất. Ngoài ra nguồn cung cấp thông tin khá phong phú khác có được từ chính những cuộc tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, đối thủ cạnh tranh và các quan chức Nhà nước. 3. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty Trong những năm gần đây, Hanosimex đang tong bước phát triển đi lên để khẳng định thế đứng của mình trong ngành dệt may Việt Nam. Với những nỗ lực trong hoạt động sản xuất và kinh doanh công ty đã và đang tạo ra những sản phẩm có chất lượng, giá thành phù hợp, đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng trên thị trường trong nước và thế giới nhằm từng bước tạo ra chữ tín cho sản phẩm mang thương hiệu Hanosimex. Nhờ vậy mà công ty không những duy trì được khách hàng truyền thống mà ngày càng có thêm nhiều khách hàng mới, giá trị sản lượng tiêu thụ ngày càng cao, đời sống cán bộ công nhân viên trong công ty cũng được cải thiện. Điều đó được thể hiện rõ nét qua kết quả kinh doanh của công ty: Bảng13: Kết quả kinh doanh của công ty Hanosimex. Năm Chỉ tiêu ĐVT 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng DT KV Hà Nội KV Vinh KVHà Đông Doanh thu khác TriệuĐ 379.898 306.358 41.337 43.336 3.991 438.407 357.334 37.789 41.581 5.703 473.318 381.407 48.469 37.508 5.934 558.931 445.540 51.920 558.898 5.623 667.500 547.600 41.000 55.000 239.000 Nộpngânsách TriệuĐ 47.980 41.783 4.243 5.293 3.174 Lợi nhuận TriệuĐ 1.211 1.302 1.437 1.544 2.300 Tỷ xuất lợi nhuận. % 0,32 0,3 0,3 0,27 0,35 TNBQcôngty Kv Hà Nội Kv Vinh Kv Hà Đông Kv Đông Mỹ TriệuĐ 694 812 490 472 485 825 950 550 600 550 900 1200 800 800 800 908 1250 800 800 780 1.088 1.350 950 900 1.150 TổngKNXK TriệuĐ 205.005 21.025 251.175 271.275 353.068 Nguồn: Công ty dệt may Hà nội. Nhìn vào bảng trên ta thấy doanh thu của công ty khá cao, tốc độ tăng từ năm này so với năm trước là khoảng 15,9%. Đây là kết quả mà không phải công ty nào trong lĩnh vực dệt may cũng đạt được. Khu vực Hà Nội luôn đứng đầu về doanh thu, trung bình hàng năm chiếm 80,61% tổng doanh thu, tiếp đến là khu vực Vinh (9,76%) và khu vực Hà Đông (9,7%). Tổng doanh thu của năm 1999 tăng so với năm 1998 là 15,4 %; năm 2000 tăng 7,6 % nhưng sang năm 2001 con số này là 22,87% , do năm 2001 sản phẩm mũ bắt đầu được sản xuất để xuất khẩu và doanh thu về sản phẩm dệt kim và sợi tăng mạnh Ngoài mức nộp ngân sách háng năm chiếm mức cao trong Tổng Công ty dệt may Việt Nam (năm 2001 là 14.228 triệu đồng).Công ty dệt may Hà Nội cũng đã đem lại việc làm và thu nhập cao cho người lao động . Hàng nắm số lao động trung bình khoảng 5.000 người, số lao động nữ chiếm 70% tổng số của toàn công ty. Thu nhập bình quân hàng tháng của cán bộ công nhân viên của công ty mỗi năm tăng xấp xỉ 10%. Ta thấy rõ thu nhập bình quân đầu người/ tháng của toàn công ty tăng dần theo từng năm. Đặc biệt là thu nhập bình quân đầu người ở tất cả các khu vực đều tăng, điều này có lẽ một phần là do khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty tăng dần. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm chiếm khoảng 50% tổng doanh thu và tăn đều qua các năm. Kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng đều qua các năm .Năm 1999 tăng 103,42% so với năm 1998, năm 2000 tăng 119,54 % so với năm 1999, riêng năm 2001 đã vượt kế hoạch tổng công ty giao là 102,5% tăng 112,72% so với năm 200. Hình 4: Kim ngạch xuất khẩu theo các năm Xét riêng về mặt lợi nhuận của công ty những năm gần đây: Lợi nhuận trước thuế tăng so với năm trước là 266 triệu, tỷ lệ tăng 11,71%. Lợi nhuận sau thuế tăng 181 triệu, tỷ lệ tăng 11,72%. Lợi nhuận tăng chủ yếu là do lợi nhuận gộp tăng, mà lợi nhuận gộp tăng là do doanh thu bán hàng tăng(doanh thu gộp và doanh thu thuần tăng).Trị giá vốn hàng bán ra tăng nhưng tỷ lệ tăng thấp hơn tỷ lệ tăng doanh thu bán hàng. Tỷ suất lợi nhuận gộp tăng so với năm trước là 2,26%. Điều đó chứng tỏ công ty tổ chức và quản lý tốt khâu kinh doanh. Tuy nhiên, chi phí bán hàng và chi phí quản lý còn cao, đặc biệt là chi phí quản lý có tỷ lệ tăng cao (39,5%), tỷ suất tăng 0,61%. Điều đó chứng tỏ trong năm công ty chưa quản lý tốt chi phí quản lý doanh nghiệp, ảnh hưởng giảm lợi nhuận bán hàng. Trong năm tới, công ty cần phải đề ra những biện pháp quản lý chặt chẽ các khoản chi phí, nhất là chi phí quản lý doanh nghiệp để nâng cao lợi nhuận hơn nữa. Bảng14: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001-2002 Đơn vị:USD Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 So sánh Chênh lệch Tỷ lệ 1.Tổng Doanh thu 591.946 700.101 108.155 18,27 Doanh thu xuất khẩu 232.415 294.402 61.987 26,67 2.Các khoản giảm trừ 1.142 1.200 58 5,08 Giảm giá hàng bán 495 578 83 16,77 Hàng bán trả lại 647 622 -25 -3,86 Thuế xuất khẩu 3.Doanh thu thuần (DTT) 590.804 698.901 108.097 18,3 4.Giá vốn hàng bán 488.520 562.143 173.623 15,07 5.Lợi nhuận gộp(LNG) 102.284 136.758 34.374 33,7 6. Tỷ suất LNG/DTT(%) 17,31 19,57 2,26 7.Chi phí bán hàng(CFBH) 23.516 30127 6611 28,11 8.Tỷ suất CFBH/DTT(%) 3,98 4,31 0,33 9.Chi phí quản lý(CFQL) 20.240 28.235 7.995 39,5 10.Tỷ suất CFQL/DTT(%) 3,43 4,04 0,61 11.Lợi nhuận thuần(LNT) 2271 2537 266 11,71 12.Tỷ suất LNT/DTT(%) 0,38 0,36 -0,02 13.Thuế thu nhập phải nộp 727 812 85 11,69 14.Lợi nhuận thuần sau thuế(LNTST) 1544 1725 181 11,72 15.Tỷ suất LNTST/DTT(%) 0,26 0.27 0,01 Nguồn: Phòng Kế toán-Tài chính Tóm lại, tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua diễn ra ổn định, ngoại trừ năm 1998 là năm khó khăn không chỉ đối với Công ty dệt may Hà Nội mà còn với cả toàn ngành dệt may Việt Nam mà nguyên nhân là do ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính trong khu vực từ cuối năm 1997 .Cụ thể đã làm cho sức mua của các bạn hàng chủ chốt như : Nhật Bản , Đài Loan , Hàn Quốc , Hồng Kông giảm mạnh và khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam yếu đi do các nước có khủng hoảng. Tuy nhiên sang năm 1999 trở đi công ty đã có những tiến bộ đáng kể. Có được kết quả như vậy là do sự chỉ đạo chặt chẽ của ban lãnh đạo công ty kết hợp với sự cố gắng nỗ lực của cán bộ , công nhân viên trong công ty mà đặc biệt là nhờ những cán bộ phòng xuất nhập khẩu vừa năng động vừa nhanh nhạy trong việc tiếp cận và đáp ứng những yêu cầu của công tác hoạt động kinh doanh . III. Đánh giá và phương hướng giải quyết. 1. Đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh của công ty. 1.1 Những thành tựu công ty đạt được. Công ty dệt may Hà Nội (HANOISIMEX) đã có 20 năm làm công tác xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam ra thị trường thế giới. Sự thông thạo thị trường, uy tín quốc tế lâu năm, quan hệ bạn hàng mật thiết và có kinh nghiệm trong giao dịch, cộng với chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng là những lợi thế hết sức căn bản cho công ty trong việc đẩy mạnh và phát triển công tác xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Công ty đề ra chủ trương và biện pháp cụ thể để đẩy mạnh xuất khẩu, xây dựng cơ chế và quy chế khen thưởng khuyến khích xuất khẩu. Do có sự chỉ đạo sát sao của công ty nên hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu luôn luôn hoàn thành kế hoạch đề ra. Công ty có chính sách ưu tiên trong việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ, có chương trình rõ ràng, dành những chi phí hợp lý và cần thiết cho đào tạo. Bằng lỗ lực của mình, công ty ngày càng mở rộng thị trường xuất khẩu. Trước những năm 1990, thị trường chính của công ty là thị trường Liên Xô và các nước Đông Âu, đến nay công ty công ty đã có quan hệ bạn hàng làm ăn ở các châu lục khác nhau trong đó có thị trường Nhật, EU, Mỹ là những thị trường lớn, ổn định và hứa hẹn tương lai sáng lạn của công ty. Mặt hàng xuất khẩu của công ty được đa dạng hoá dần dần. Từ chỗ chỉ có hai mặt hàng năm 1994 đã tăng lên chục mặt hàng năm 2002. Cơ cấu mặt hàng thay đổi theo hướng hợp lý hơn, chủng loại sản phẩm ngày càng phong phú đáp ứng yêu cầu đa dạng của nhiều tầng lớp người tiêu dùng. Trong những năm qua, Công ty dệt may Hà Nội luôn là một trong những doanh nghiệp hoàn thành vượt mức chỉ tiêu nộp ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, công ty luôn luôn quan tâm tới các cán bộ công nhân viên của mình bởi chính họ là người làm nên thành công của doanh nghiệp, thể hiện qua mức lương đảm bảo mức sống cho mỗi người. Mức thu nhập của CBCNV công ty không ngừng được cải thiện. Không những ở Hà Nội mà các khu vực khác của công ty cũng có sự gia tăng đáng khích lệ. Đây chính là một động lực thúc đẩy các thành viên trong công ty phấn khởi, tin tưởng vào sự thành công của công ty hiện tại và tương lai. 1.2 Những mặt còn tồn tại. Trong những năm qua, công ty dệt may Hà Nội đã có nhiều cố gắng trong cạnh tranh ở ngành dệt may và đã thành công đáng kể không chỉ ở trong nước mà còn ở thị trường quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được công ty cồn tồn tai một số mặt hạn chế sau: Về hoạt động sản xuất: Về lao động: trong những năm gần đây lực lượng lao động của Công ty luôn biến động. Hàng năm có khoảng 300 công nhân thôi việc, hầu hết số công nhân này đã thành thạo nghề. Điều này làm đảo lộn cơ cấu lao động của Công ty. Để thay thế số lao động thiếu hụt đó, hàng năm buộc Công ty phải tự đào tạo hoặc tuyển thêm công nhân, gây tốn kém nhiều thời gian và tiền bạc mà chất lượng tay nghề công nhân lại thấp. Về mặt kỹ thuật công nghệ: trong mấy năm gần đây, Công ty nhập nhiều máy móc thiết bị hiện đại mà khi đó tay nghề của công nhân còn thấp chưa thể sử dụng và hiểu hết tính năng của các thiết bị đó nên chưa khai thác hết công suất của máy móc thiết bị. Tình hình cán bộ quản lý kỹ thuật giỏi và công nhân có tay nghề còn thiếu nhiều so với nhu cầu và yêu cầu phát triển của sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là ngành may, Công ty đang thiếu đội ngũ thợ lành nghề có kinh nghiệm, lý do của sự thiếu hụt này phần lớn là do sự biến động về lao động hàng năm. Về nguyên liệu: Công ty chưa chú trọng đến việc khai thác thị trường trong nước, do đó quá trình sản xuất đôi khi còn chậm. Về hoạt động xuất khẩu: Thứ nhất: trong hoạt động xuất khẩu, công ty chưa chủ động tìm kiếm khách hàng mà phần lớn họ tự tìm đến công ty để ký kết hợp đồng. Thứ hai: Công ty không nắm sát được tình hình nhu cầu của thị trường thế giới. Nguyên nhân là do công việc nghiên cứu thị trường còn yếu. Công ty không có bộ phận nghiên cứu thị trường riêng. Thư ba: Trong khi đàm phán với bạn hàng nước ngoài, do không có chi phí để ra nước ngoài, kinh nghiệm ký kết hợp đồng còn hạn chế, nên đôi khi công ty đã bỏ lỡ cơ hội hoặc để mất khách hàng. Việc thực hiện hợp đồng do cả chủ quan và khách quan, đã có những thiếu sót xảy ra, gây nên những tranh chấp không đáng có, để mất niềm tin của khách hàng, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của khách hàng, dẫn tới cũng ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của công ty, nhiều khi phải bồi thường với khối lượng lớn. Thứ tư: Công tác thiết kế mẫu mốt, thời trang của công ty còn yếu, công ty không có phòng thiết kế mẫu riêng mà chủ yếu làm hàng theo đơn đặt hàng của bạn hàng, dẫn đến không có mẫu nhiều, đa dạng để chào bán trên thị trường nước ngoài, do vậy hoạt động xuất khẩu chủ yếu của công ty là do phía bạn hàng đặt hàng mẫu đối mẫu ) mà chưa có mặt hàng chào hàng chủ động. Thứ năm: Do trang thiết bị của công ty còn khá lạc hậu so với nhu cầu ngày càng nâng lên của khách hàng, dẫn đến việc phải làm đi làm lại, thậm chí không ký kết được hợp đồng do năng lực có hạn. Trên đây là một số mặt còn hạn chế của công ty tuy rằng quy trình xuất khẩu của công ty đã khá hoàn thiện. Trong thời kỳ cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc không ngừng nâng cao quy trình xuất khẩu của mình để nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế là điều mà các doanh nghiệp đều quan tâm và cố gắng đạt được trong thời gian sớm nhất. 2. Một số giải pháp và kiến nghị 2.1. Giải pháp từ phía doanh nghiệp: 2.1.1.Xây dựng nguồn nhân lực vững mạnh: Xây dựng bộ máy quản lý tốt: để xây dựng bộ máy quản lý tốt, công ty cần nỗ lực hơn nữa trong việc sắp xếp bố trí lao động một cách hợp lý, thực hiện phân cấp phân quyền rõ ràng, trán tình trạng một phòng ban kiêm nhiều chức năng. Phát huy nhân tố con người: con người là yếu tố quan trọng trong hoật động sản xuất kinh doanh. Để có thể làm ăn hiệu quả công ty cần phải chú trọng nhiều hơn trong vấn đề tổ chức đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý đồng thời sắp xếp lao động một cách hợp lý đúng người đúng việc. Công ty cần phải tạo ra một chế độ khen thưởng khen thưởng hợp lý cũng như xây dựng một nội quy kỉ luật rõ ràng buộc mọi người tuân theo, để có thể khuyến khích người lao động, lao động hết mình về công ty. 2.1.2 Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật- đổi mới công nghệ. Công ty cần phải: -Khai thác tối đa công suất hiện có của các nhà máy sản xuất. -Đầu tư dây chuyền sản xuất các sản phẩm mới như vải denim và quần áo từ vải denim. -Công ty nên nâng cấp các phòng kiểm tra chất lượng tại nhà máy có cùng đIều kiện vật chất với phòng KCS trung tâm và phòng khớp màu dưới sự quản lý của phòng kiểm soát chất lượng. -Xem xét hiện đại hoá các phòng thí nghiệm của nhà máy. Đi đôi với việc tăng cường cơ sở vật chất công ty cần phải tăng tốc đầu tư công nghệ mới. Hiện nay, công ty rất am hiểu về công nghệ mới của các thiết bị sản xuất rất thuận lợi cho kế hoạch tăng tốc đầu tư công nghệ mới của công ty. Việc đổi mới công nghệ phải hướng theo các mục tiêu: -Nâng cao chất lượng sản phẩm hiện có. -Giảm giá thành sản phẩm. -Đa dạng hoá sản phẩm, khai thác tốt nhất những sản phẩm là thế mạnh của công ty. Khi đổi mới công nghệ cần phải nghiên cứu thị trường công nghệ trong và ngoài nước, đánh giá phân tích kỹ dây chuyền sản xuất mà mình dự định sẽ lắp đặt. 2.1.3.Tổ chức tốt việc sản xuất và đầu tư. Công ty cần nghiên cứu tong bước sắp xếp lại sản xuất theo hướng tăng cường chuyên môn hoá, qui mô sản xuất phải phù hợp với năng lực và trình độ quản lý. Tăng cường đầu tư vào những khâu còn yếu kém như in, nhuộm, xử lý hoàn tất và nâng cao chất lượng vải, tăng tỉ trọng vải cung cấp cho may xuất khẩu. Công ty có thể mạnh dạn thí điểm thuê chuyên gia kĩ thuật nước ngoài nhất là vào khâu còn yếu để giúp tăng cường quản lý tăng cường công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tích cực chuẩn bị lực lượng từ qui hoạch lại sản xuất, bổ trí năng lực mở rộng hợp tác liên kết đầu tư bổ sung nhằm sãn sàng xuất khẩu vào những thị trường lớn khi có đIều kiện thuận lợi. Nghiên cứu khai thác nguồn nguyên liệu phù hợp kể cả trong và ngoài nước nhưng cần cố gắng chủ động về nguồn nguyên liệu. 2.1.3 Xây dựng khả năng tài chính mạnh. Khả năng tài chính là nhân tố quyết định nhất tới các hoạt động của công ty nhất. Nếu so các doanh nghiệp dệt may trong nước công ty Hanosimex là một doanh nghiệp lớn có số vốn tương đối lớn nhưng nếu so với các doanh nghiệp dệt may hiện đại trên thế giới thì khả năng tài chính của công ty còn rất nhỏ bé. Để giữ vững khả năng độc lập về tài chính công ty cần áp dụng một số biện pháp bảo toàn và huy động vốn như sau: Mở rộng nguồn hàng thanh toán theo phương thức trả chậm hoặc vay vốn của bạn hàng. Có các biện pháp thu hồi nợ của khách hàng đồng thời khi soạn thảo và kí kết hợp đồng xuất khẩu hay bán trong nước đều phải ghi rõ về thời hạn đến hình thức thanh toán. Công ty có thể huy động vốn bằng cách vay ngân hàng cả dàI hạn và ngắn hạn. 2.2. Kiến nghị đối với nhà nước. Để nâng cao hiệu quả quy trình xuất khẩu của doanh nghiệp, bên cạnh những lỗ lực của doanh nghiệp cần có những sự hỗ trợ từ phía nhà nước. 2.2.1 Chính sách tài chính Để đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư, các chính sách tài chính cần có là: - Nhà nước đảm bảo cấp vốn đầu tư ban đầu và vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước theo đúng luật định. - Cho phép ngành dệt may được sử dụng một phần quỹ bảo hiểm rủi ro của nhà nước ở những công trình trọng điểm - Kéo dài thời gian miễn thuế thu nhập cho các công trình đầu tư mới hoặc đầu tư mở rộng tạo tiền đề cho việc trả lãi vay. 2.2.2 Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu: Nguyên liệu dành cho ngành công nghiệp dệt may được chia thành 2 loại: một loại có nguồn gốc từ thiên nhiên như bông, đay, tơ tằm...; một loại có nguồn gốc từ các quá trình hoá học như sợi tổng hợp, nhân tạo. Trên thế giới, nhiều nước đã biết phát huy lợi thế về từng chủng loại nguyên liệu để phát triển ngành công nghiệp dệt may của mình như Nhật, Trung quốc...là những nước phải nhập khẩu gần như toàn bộ số nguyên liệu thiên nhiên nhưng nhờ tự túc được nguồn nguyên liệu hoá học nên công nghiệp dệt may cũng hết sức phát triển. Ngược lại, nhiều quốc gia trên thế giới là các nước xuất khẩu bông nhưng công nghiệp dệt may lại kém phát triển như: Pakisttan, Uzbekistan...Do vậy, có thể thấy rằng có được nguồn nguyên liệu chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ để phát triển ngành dệt may. Việt Nam thuận lợi về điều kiện tự nhiên để phát triển nguồn nguyên liệu thiên nhiên nhưng để phát triển ổn định và bền vững cần có những điều kiện sau: Chính phủ phê duyệt quy hoạch vùng nguyên liệu các loại sơ thiên nhiên cho ngành dệt may bao gồm vùng trồng bông, vùng trồng dâu nuôi tằm, vùng trồng đay...Từ đó, có các chính sách hợp lý trong việc bảo đảm cung cấp lương thực và các nhu yếu phẩm khác cho nông dân các vùng này, đồng thời có cơ chế thích hợp trong việc khai thác, bảo toàn và phát triển vùng nguyên liệu lâu dài. Cho phép trích tỷ lệ % trong doanh thu để lấy nguồn bù đắp cho quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu. Giảm hoặc miễn thuế GTGT đối với sản phẩm được sản xuất từ nguyên liệu trong nước (bông, đay, tơ tằm) để ngành dệt may dùng số tiền đó đầu tư cho các hộ cung cấp nguyên liệu. Đẩy nhanh qua trình xây dựng các khu công nghiệp hoá dầu, làm tiền đề cho việc sản xuất các loại sơ sợi tổng hợp, góp phần tạo thế chủ động về nguyên liệu cho ngành. 2.2.3 Đổi mới hoàn thiện chính sách thuế. Hệ thống thuế Việt Nam trong những năm qua mặc dù đã được sửa đổi song còn tồn tại nhiều điểm bất hợp lý có ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Do đó, vấn đề đặt ra là phải bổ sung và sửa đổi một số luật thuế: Thuế xuất khẩu: Cũng như các ngành xuất khẩu khác, ngành dệt may xuất khẩu cũng phải chịu thuế xuất khẩu. Hiện nay, ngành dệt may xuất khẩu chịu thuế xuất khẩu là 0%. Như vậy trên thực tế, hàng dệt may xuất khẩu được miễn thuế xuất khẩu. Tuy có lợi thế là nguyên vật liệu nhập khẩu sau khi xuất khẩu được sản phẩm sẽ được hoàn thuế nhập khẩu nhưng thuế xuất nhập khẩu quá cao, thời gian hoàn thuế lâu làm cho giá thành sản xuất cao lên, dẫn tới không có lợi thế cạnh tranh về giá. Đối với các doanh nghiệp thì đây là một khó khăn lớn vì hầu hết nguyên liệu phục vụ cho ngành dệt may đều phải nhập khẩu. Thuế xuất của nhiều loại nguyên liệu nhập khẩu lên đến 40-60%, chỉ có một số ít nguyên liệu chính là có thuế suất thấp hoặc được miễn thuế. Đối với ngành dệt may, quy định thời hạn tạm miễn thuế nhập khẩu cho sản xuất hàng xuất khẩu là 9 tháng cho hàng gia công may mặc là tương đối dài, phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc ký kết hợp đồng, tổ chức sản xuất và xuất khẩu sản phẩm. Tuy nhiên, việc hoàn thuế nhập, tái xuất và thuế nhập khẩu nguyên liệu lại quá chậm. Nguyên nhân chủ yếu là do thủ tục rườm rà, cơ quan thu thuế và cơ quan hoàn thuế không phối hợp với nhau gây thiệt hại và mất thời gian cho doanh nghiệp. Để khắc phục những vướng mắc và tạo điều kiện cho ngành dệt may phát triển hoạt động xuất khẩu, về thuế xuất nhập khẩu có một số kiến nghị sau: áp dụng thuế suất 0% đối với các nguyên liệu chính như bông, các loại sợi, phụ kiện... Phải hoàn thuế cho các doanh nghiệp tham gí cung ứng nguyên phụ kiện đầu vào Đối với vải nhập khẩu thì thuế suất 40-60% là rất cao. Chính phủ nên xem xét vấn đề này Việc hoàn thuế tái xuất cần tiến hành nhanh hơn. Thuế GTGT: Từ 1/1/1999, hệ thống thuế doanh thu không được sử dụng mà thay vào đó là thuế GTGT nhăm tránh đánh thuế trùng lặp và chấn trỉnh công tác hạch toán kế toán Hàng dệt may xuất khẩu thuộc dạng khuyến khích xuất khẩu, chịu thuế GTGT ở mức 0%, đồng thời còn được thoái thuế GTGT các khâu sản xuất trước. 2.2.4 Chính sách về hạn ngạch và giấy phép xuất khẩu hàng dệt may. Về hạn ngạch: Đối với hạn ngạch xuất khẩu nhằm đưa việc giao hạn ngạch hàng năm vào nề nếp và khuyến khích các doanh nghiệp không ngừng đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, Liên Bộ Công Nghiệp- Kế hoạch đầu tư-Thương mại đã ban hành thông tư số 29/1999/TTLB về việc giao hạn ngạch năm 2000. Chính sách này đã sự linh hoạt, mang nhiều tính ưu tiên cho những doanh nghiệp có khả năng sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước song vẫn có những kiến nghị cần giải quyết sau: Cần phân bổ hạn ngạch sớm từ đầu năm để các doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất kinh doanh chủ động Việc phân bổ hạn ngạch phải căn cứ vào năng lực sản xuất kinh doanh thực sự của các doanh nghiệp, đảm bảo công bằng nghiêm minh không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp Nâng tỷ lệ hạn ngạch phân bố theo hình thức thưởng lên 50% vào năm 2003 và tiến tới 100% hạn ngạch sẽ được phân bổ theo thành tích xuất khẩu vào thị trường phi hạn ngạch. Đồng thời đưa mặt hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường phi hạn ngạch vào danh sách các mặt hàng được trợ cấp nóng. Theo dõi chặt chẽ thường xuyên việc thực hiện hạn ngạch ở các doanh nghiệp đảm bảo cho việc thực hiện hạn ngạch có hiệu quả. Về việc cấp giấy phép: Đây là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước để quản lý và điều tiết hoạt động xuất khẩu. Trong những năm qua, nhờ cải cách trong thủ tục hành chính, cũng như điều kiện được cấp hạn ngạch song việc xin cấp giấy phép cho từng chuyến hàng làm các doanh nghiệp mất nhiều thời gian. Bên cạnh đó là nạn quan liêu, cửa quyền trong khi làm thủ tục hải quan cũng làm cho doanh nghiệp tốn không ít thời gian chi phí tiền bạc. 2.2.6 Chính sách hỗ trợ xuất khẩu. Hiện nay, Việt Nam chưa thành lập được qũy bảo hiểm xuất khẩu cũng như quỹ hỗ trợ xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn tham gia hoạt động này, nhất là trong điều kiện thị trường thế giới đầy biến động. Các doanh nghiệp nhỏ, vốn ít vẫn không giám mạo hiểm bán hàng theo phương thức bán trả chậm, trả góp...mặc dù đủ điều kiện ký kết hợp đồng xuất khẩu. Vẫn chưa có hiệp hội ngành may mặc xuất khẩu để hỗ trợ trong việc nghiên cứu thị trường, hỗ trợ về giá cả...Tuy nhiên, đã có quỹ thưởng xuất khẩu. Vừa qua, bộ thương mại đã ban hành quy chế quản lý và sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu nhằm khen thưởng, động viên và khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có thành tích xuất sắc và đạt hiệu quả cao trong hoạt động xuất khẩu. Để hỗ trợ tích cực hơn nữa trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nnghiệp, nhà nước cần sớm thực hiện các giải pháp sau: Thành lập quỹ bảo hiểm và quỹ hỗ trợ xuất khẩu chung cho cả nước và cho phép công ty doanh nghiệp Hà Nội thành lập quỹ hỗ trợ khi giá cả thị trường thế giới có nhiều biến động, gặp nhiều rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng ngoại thương, trong quá trình vận chuyển hàng xuất khẩu. Chính Phủ sớm ra quyết định thành lập hiệp hội dệt may Việt Nam nhằm tập hợp và hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu. Đồng thời nhanh chóng xúc tiến việc thành lập cơ quan xúc tiến thương mại chuyên về thị trường xuất khẩu, trong đó có thị trường hàng dệt may Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu như: hỗ trợ vốn, cho vay vốn với lãi xuất thấp đối với các doanh nghiệp thiếu vốn để sản xuất hoặc thực hiện hợp đồng khi đã có thị trường và đối tác để xuất khẩu hoặc doanh nghiệp mở rộng hoặc tham gia vào thị trường mới... Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các vệ tinh cung ứng dịch vụ, nguyên phụ liệu cho hàng dệt may xuất khẩu: chính sách cho vay vốn, trợ giúp về mặt KHKT đối với nông dân vùng nguyên liệu, với các hộ gia đình sản xuất phụ liệu... 3. Định hướng của công ty trong thời gian tới. Trước sự phát triển như vũ bão của ngành dệt may thế giới, ngành dệt may Việt Nam không tránh khỏi sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ khác. Chính vì vậy, ngành dệt may nói chung, công ty dệt may Hà Nội nói riêng phải không ngừng vươn lên và có các kế hoạch dài hạn cũng như ngắn hạn để đối phó với cơn lốc thị trường. Trước mắt, công ty phải cố gắng thực hiện những mục tiêu là: " Giữ vững và phát triển sản xuất; bảo đảm và phát triển vốn; triệt để tiết kiệm, thực hiện sản xuất kinh doanh có lãi; bảo đảm hoàn thành các chỉ tiêu do tổng công ty giao; thực hiện mức tăng trưởng trên 5% so với thực hiện năm 2001". Đặc biệt, với mặt hàng xuất khẩu, doanh thu chiếm trên 40%/năm, công ty có những định hướng phát triển: Định hướng xuất khẩu hàng hoá: Trong những năm qua, tuy đã giành được rất nhiều và ngày càng nhiều hơn sự tín nhiệm cũng như đơn đặt hàng của bạn hàng song việc khai thác thị trường của công ty chưa triệt để, bước đầu đã có sự thâm nhập thị trường lớn song kim ngạch xuất khẩu còn rất hạn chế. Do đó, việc giữ vững thị trường truyền thống, không ngừng mở rộng thị trường mới là điều quan tâm hàng đầu của ban lãnh đạo công ty. Hiện nay, công ty đang có vị thế khá tốt ở thị trường Nhật, Đài Loan, EU và họ đã trở thành bạn hàng lâu năm, có quan hệ làm ăn lâu dài với công ty. Họ đã mang lại cho công ty trong những năm qua. Để giữ vững được thị trường này, công ty phải có kế hoạch cụ thể để vừa nâng cao được vị thế của mình, vừa ngày càng đáp ứng nhu cầu cao hơn của khách hàng. Từ nay đến năm 2005, để thâm nhập vào các thị trường khác có sức mua cao, công ty có thể xuất khẩu thông qua nhãn hiệu uy tín của Đài Loan hoặc Nhật song về lâu dài, công ty nên có những chiến lược xâm nhập thị trường bằng nhãn hiệu của chính mình. Định hướng sản xuất: Để đẩy mạnh nhập khẩu, công ty không ngừng cải tiến phương thức sản xuất bởi xuất khẩu và sản xuất có mối liên hệ biện chứng, tác động qua lại, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Liên tục đầu tư đổi mới thiết bị máy móc: Để ngày càng nâng cao tính cạnh tranh về sản phẩm của mình trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của khách hàng, vì vậy công ty liên tục tiến hành nâng cấp, cải tạo máy móc trang thiết bị. Công ty có kế hoạch sẽ đầu tư thêm khoảng 80 tỷ đồng trong năm 2001 để nâng cấp khâu cuối, xây dựng thêm nhà máy dệt khăn và xí nghiệp may. Bên cạnh đó, trong năm 2000, công ty vừa cho vào hoạt động dây chuyền sản xuất Denim (vải bò) vào diện hiện đại nhất với công suất 6,5 triệu m/năm. Tổng đầu tư dây chuyền sản xuất này khoảng 110 tỷ đồng, trong đó chi phí thiết bị( của Đức và Bỉ ) khoảng 90 tỷ. Với dây chuyền này, công ty sẽ cho ra đời loại vải Denim có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu may hàng xuất khẩu, tránh tình trạng phải nhập khẩu loại vải này. Đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất: Song song với việc đổi mới trang thiết máy móc, công ty luôn chú trọng ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, vừa hiện đại hoá được sản phẩm của mình, đáp ứng nhu cầu của khách hàng, vừa không bị lạc hậu so với các đối thủ cạnh tranh trong nước cũng như ngoài nước nhất là với sự phát triển như vũ bão, sự bùng nổ khoa học kỹ thuật như hiện nay. Việc ứng dụng, đưa tiến bộ khoa học tiên tiến vào sản xuất là một chủ trương đúng đắn. Nó thể hiện quyết tâm đứng vững và phát huy thế mạnh cũng như nội lực của toàn công ty, đưa công ty lên ngang tầm với các công ty lớn ở các nước tiên tiến. Ta có thể xem xét kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng dệt may của công ty cùng với các doanh nghiệp dệt may khác trong ngành hợp sức cùng phấn đấu hoàn thành mục tiêu toàn ngành trong thời gian tới. Bảng15: Một số mục tiêu sản xuất, xuất khẩu của ngành dệt may. Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2005 2010 Kim ngạch XK Triệu USD 2.000 4.500 8.000 Hàng may mặc " 1.630 3.700 6.000 Hàng dệt " 370 800 2.000 VảI thành phẩm Triệu mét 800 1.330 2.000 Sản phẩm may mặc Triệu SP 350 500 800 Xuất khẩu " 210 350 500 Nội địa " 140 150 300 Sản phẩm dệt kim " 70 300 600 Xuất khẩu " 45 150 400 Nội địa " 25 50 200 Nguồn: Dự án quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010-Tổng công ty dệt may Việt Nam. Vụ thương mại-dịch vụ, Bộ kế hoạch đầu tư. IV.Khảo sát cho chuyên đề và khảo sát cho đề tài. Trong thời gian từ 14/2-16/3 khảo sát hình tình xuất khẩu riêng của công ty dệt may Hà Nội cùng với những số liệu thu thập được, em xin đề xuất đề tài cho chuyên đề là: “Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hàng dệt may của công ty Hanosimex vào EU”. Đề tài này dựa trên cơ sở sau: 1.Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của công ty vào Eu. Kể từ khi hiệp định buôn bán về hàng dêt may giữa Việt Nam và EU được kí kết ngày 15/3/1993 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của công ty ra khu vực thị trường này tăng đáng kể. Mặc dù đay là thị trường có hạn ngạch nhưng xuất khẩu sang khu vực nay đạt kim ngạch xuất khẩu lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Trong giai đoạn 199-2002 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của công ty vào EU tăng trưởng không đều và đang có xu hướng thấp trong năm 2001,2002. Trong khi tổng kim ngạch của công ty tăng hàng năm thì tỉ lệ hàng dệt may xuất khẩu của công ty sang EU lại giảm xuống. Nguyên nhân có thể là do công ty tập trung các thị trường khác là thị trường Mỹ một thị trường đầy hứa hẹn cho hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. Sau đây là bảng số liệu về kết quả kinh doanh xuất khẩu của công ty trên thị trường EU: Bảng16: Kết quả kinh doanh xuất khẩu của công ty trên thị trường EU. KNXK vào EU Trị giá (USD) % so với tổngKNXK (%) 1998 1999 2000 2001 2002 2.596.887 3.841.923 2.801.681 2.326.985 1.398.176 19 27,18 18,55 13,85 10 Nguồn: Báo cáo xuất khẩu giai đoạn 98-2002 Từ những số liệu trên có thể thấy giá trị hàng dệt may của công ty vào EU tăng khá cao trong năm 1999(đạt tỉ trọng xuất khẩu 27,18% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty năm đó và giai đoạn từ 1998-2002. Hai năm gần đây tỉ trọng xuất khẩu của công ty có xu hướng giảm dần. Để tăng cường hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty vào khu vực thị trường này công ty cần phải có kế hoạch sản xuất kinh doanh khả thi nhất nhằm năng cao sức cạnh tranh hàng dệt may của công ty vào EU. Cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu vào Eu bao gồm quần áo dệt kim, khăn các loại và lều vải du lịch. Trong đó các sản phẩm dệt kim là các loại áo mặc trong mặc ngoài quần áo người lớn các loại lều vải du lịch. Bảng 17: Kết quả kinh doanh hàng dệt may của công ty vào EU. Đơn vị :USD Các chỉ tiêu 2000 2001 2002 Trị giá Tỉ trọng (%) Trị giá Tỉ trọng (%) Trị giá Tỉ trọng (%) Quần áo dệt kim. Khăn các loại Lều vải du lịch 2.476.330 241.000 84.351,88 88 8,6 3,1 2.306.177 20.808 0 91 9 0 1.311.497 86.679 0 94 6 0 S giá trị XK vào EU 2.801.681,88 100 2.326.985 100 1.398.176 100 Nguồn: Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. Từ những số liệu trên có thể nhận they các sản phẩm quần áo dệt kim là sản phẩm xuất khẩu chủ đạo của công ty ở thị trường EU. Còn với sản phẩm khăn mặc dù có tăng trong năm 2000 nhưng không phải là xu hướng ổn định. Tỉ trọng xuất khẩu của sản phẩm khăn chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng giả trị hàng dệt may xuất khâủ vào EU của công ty. Đối với lều vải du lịch được được công ty kinh doanh ở thị trường EU từ năm 1996.Tuy nhiên do nhu cầu lều vải rất thấp nên công ty đã rút khỏi thị trường từ quý I năm 200. Qua cơ câu sản phẩm của công ty xuất khẩu sang EU nhận they công ty đang tập trung nỗ lực sản xát để xuất khẩu các sản phẩm quần áo dệt kim vào khu vực thị trường này. Bên cạnh đó công ty nỗ lực nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm mới là các khăn bông. Các nước chủ yếu trong khối EU nhập khẩu hàng dệt may của công ty gồm Anh, Đức, Hà Lan, Đan Mạch, Pháp, Thuỵ Điển, trong đó giá trị kim ngạch xuất khẩu vào Anh là lớn nhất đạt mức 1332393 USD trong năm 2001. Bảng 18: Giá trị xuất khẩu theo từng nước trong EU. Đơn vị: USD Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Trị giá Tỉ trọng (%) Trị giá Tỉ trọng (%) Trị giá Tỉ trọng (%) Anh Đức Pháp Rumani Thuỵ Điển Hà Lan. Đan Mạch 1.272.060 343.148 104.768 56.305 2.251 89.079 170.554 62 16,8 5 2,8 0,1 4,4 8,4 1332.393 112.458 112.231 262.786 0 165.522 262.786 59 5 5 12 0 7 12 1.048.900 50.466 0 0 0 45.156 253.655 75 3,6 0 0 0 3,3 18 SKNXK 2.038.165 100 2.248.176 100 1.398.177 100 Nguồn: Phòng kinh doanh Xuất nhập khẩu. Từ những khái quát về tình hình xuất khẩu dệt may của công ty ở thị trường EU cho thấy công ty dệt may Hà Nội đã và đang nỗ lực không ngừng nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu vào thị trường này mà công ty coi là thị trường trọng điểm của mình. 2. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào EU mà công ty đã áp dụng. 2.1.Nâng cao chất lượng sản phẩm: Đối với thị trường EU thì tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm đòi hỏi rất khắt khe và luôn thay đổi. Do vậy để củng cố và tăng cường hoạt động xuất khẩu các sản phẩm dệt may vào EU, công ty đã và đang không nỗ lực không ngừng nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm vào EU. Cụ thể vừa qua công ty đã xây dựng hệ thống chất lượng theo tiêu chuẩn ISO9000 nhằm thực hiện quá trình quản lý và cải tiến chất lượng sản phẩm, tạo dựng niềm tin với khách hàng nhằm củng cố và mở rộng vị thế của mình trên thị trường quốc tế. Công ty đã thực hiện nhiều biện pháp hữu hiệu trong đó trọng tâm là đầu tư hiết bị, đổi mới công nghệ, đảm bảo yêu cầu chất lượng các loại sợi, vải, hàng may mặc. Đi liền với đầu tư đổi mới công nghệ, công ty còn nỗ lực không ngừng trong công tác đào tạo nâng cao tay nghề và trình độ quản lý cho đổi ngũ cán bộ công nhân viên nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm dệt may được sản xuất ra. Ngoài ra công ty quan tâm đầu tư nâng cao chất lượng của trung tâm kiểm tra chất lượng KCS của công ty nhằm đảm bảo sản phẩm sản xuất ra đạt chất lượng tốt nhất. Đặc biệt, nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng dệt may được công ty nhập khẩu từ các hãng nổi tiếng về chất lượng trên thế giới. Để đảm bảo đáp ứng tốt yêu cầu chất lượng sản phẩm dệt may xuất khẩu theo yêu cầu của khách hàng công ty đã xây dựng một qui trình sản xuất thử mẫu để đánh giá chất lượng của sản phẩm. Đến khi sản phẩm đạt yêu cầu công ty mới tiến hành sản xuất hàng loạt hoặc lúc đó mới tiến hành kí kết hợp đồng và sản xuất. 2.2 Hạ giá thành sản phẩm. Giá cả là nhân tố tạo ra doanh thu quyết định giá bán của doanh nghiệp, vì thế những quyết định giá của công ty sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty. Đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty ở thị trường EU nói riêng và thế giới nói chung thì những chính sách về giá của công ty sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng xâm nhập thị trường của công ty. Hiện nay với hàng dệt may xuất khẩu của công ty sang EU, công ty định giá dựa trên giá FOB tức là khách hàng sẽ phảI thanh toán chi phí vận chuyển từ nơi giao hàng cuả người bán đến địa đIểm cuối cùng của khách hàng. Theo cách định giá này công ty sẽ không phải lo chi phí vận chuyển hàng hoá từ cảng nước xuất khẩu đến các nước nhập khẩu. Công ty xác định giá xuất khẩu dựa vào tham khảo giá trên thị trường quốc tế, nắm chắc những thông tin về giá thành sản xuất. Ngoài ra với mục tiêu tăng khối lượng hàng xuất khẩu ra thị trường EU nói riêng và thị trường nước ngoài nói chung, trong các hợp đồng ký kết với khách hàng thì số lượng thường được xác định còn giá có thể thay đổi tuỳ theo sự thoả thuận của hai bên. Bên cạnh đó công ty còn áp dụng chính sách giảm giá cho những khách hàng mua với những khối lượng lớn nhằm khuyến khích các khách hàng này gia tăng mua hàng của công ty. 2.3 Tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay công ty Hanosimex thiết lập kênh phân phối sản phẩm dệt may sang thị trường EU theo hình thức xuất khẩu gián tiếp qua công ty thương mại: công ty thương mại quốc tế mua sản phẩm dệt may của công ty theo điều kiện FOB sau đó họ tổ chức tiêu thụ các sản phẩm của công ty tới tay người tiêu dùng EU qua các đại lý bán buôn bán lẻ. Do sản phẩm chủ yếu của công ty sang EU là các loại quần áo dệt kim nên bạn hàng của công ty chủ yếu là các công ty thượng mại may mặc. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng đối với sản phẩm dệt may xuất khẩu của công ty thì ngoài việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tối đa hoá chi phí sản xuất công ty còn cố gắng hết mình nhằm giao hàng đúng hẹn trong thời gian tới nhanh nhất có thể có thể để tạo hình ảnh tốt nhất về công ty trước bạn hàng của mình. 2.4 Các hoạt động xúc tiến thương mại tăng cường xuất khẩu vào EU. Trong điều kiện môi trường cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắy như hiện nay, để nâng cao khả năng xuất khẩu của công ty sang EU, công ty đã và đang nỗ lực xây dựng các chiến lược tiếp thị, quảng cáo giới thiệu sản phẩm của mình ở trên khu vực thị trường này nhằm thu hút thêm nhiều khách hàng mới đến với công ty. Hiện nay công ty tổ chức quảng cáo giới thiệu sản phẩm trên các phương tiện đại chúng như các catalo, các ấn phẩm, tạp chí về thương mại. Ngoài ra công ty cồn quảng bá giới thiệu sản phẩm của mình qua mạng internet, bên cạnh đó công ty cũng tham gia vào các hội chợ triển lãm trong nước và nước ngoài để giới thiệu sản phẩm của công ty và kí kết hợp đồng. Thêm vào đó công ty cũng tiến hành gửi thư chào hàng tới khách hàng (chủ yểu là công ty dùng thư điện tử) tới các khách hàng là các công ty thương mại may mặc lớn của EU nhằm giới thiệu về công ty, năng lực sản xuất và các mẫu mã sản phẩm. Mặt khác công ty cũng tận dụng các mối quan hệ trong kinh doanh nhằm giới thiệu và quảng bá sản phẩm của công ty. Kết luận Đứng trước bối cảnh nền kinh tế thế giới tiếp tục trì trệ và càng suy giảm sau sự kiện 11/9, thị trường các nước nhập khẩu hàng dệt may lớn như Nhật, Mỹ bị thu hẹp, cạnh tranh gay gắt dẫn đến giá xuất khẩu giảm mạnh, một số thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam như Đông Âu, SNG… chưa có đủ điều kiện để khai thác có hiệu quả… nền kinh tế nước ta không tránh khỏi bị ảnh hưởng. Tình hình trong nước cũng mấy không khả quan. Thiên tai trong năm 2001 và 2002 liên tiếp xảy ra để lại các hậu quả nặng nề, các mặt hàng nông sản rớt giá làm thị trường trong nước kém sôi động. Thêm vào đó, hàng dệt may nhập lậu trốn thuế với số lượng lớn gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Các chính sách ưu đãi tại Quyết định 55 của Chính phủ chưa được các cơ quan quản lý Nhà nước hướng dẫn thực hiện kịp thời; vốn lưu động thiếu, vốn vay đầu tư lớn, chi phí đầu vào tăng đã làm tăng gía thành, giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đứng trước những khó khăn đó,Tổng Công ty nói chung và Công ty Dệt May Hà Nội nói riêng đã tìm mọi biện pháp đẩy mạnh xúc tiến thương mại duy trì các thị trường hiện có, mở thêm các thị trường mới, rà soát và giảm chi phí đến mức tối đa để cạnh tranh về giá, tăng cường các biện pháp quản lý, nâng cao năng suất, chất lượng triển khai nhanh các dự án đầu tư đưa vào sản xuất, tập trung khai thác thị trường nội địa bù cho xuất khẩu giảm sút. Do đó, trước diễn biến phức tạp khó lường của năm 2001 đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng nhìn chung Công ty vẫn duy trì được mức tăng trưởng ổn định, đảm bảo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, cùng với sự mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị đem lại giá trị sản lượng và doanh thu mỗi năm một cao, mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước tăng lên rõ rệt. Đó là thành tích đáng được ghi nhận và là kết quả phấn đấu không mỏi mệt của cán bộ công nhân viên, của tập thể lãnh đạo từ Tổng Công ty đến Công ty cùng với sự chỉ đạo sát sao, hiệu quả của Chính phủ và sự hỗ trợ của các Bộ ngành Trung ương, các địa phương. Năm 2003, chúng ta đứng trước những cơ hội và thách thức lớn. Toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty Dệt May Hà Nội cố gắng phát huy những kết quả đã đạt được tiếp tục phấn đấu khai thác tối đa năng lực hiện có, tập trung thực hiện thắng lợi chiến lược đầu tư “ tăng tốc “ để tăng năng lực sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh cả về giá, mẫu mã và chất lượng cho tương xứng với tiềm năng của ngành dệt may Việt Nam và đủ sức hội nhập với khu vực và thế giới. Danh sách các tài liệu tham khảo: Bàiviết này được hoàn thành dựa vào một số tài liệu sau: -Giáo trình Kinh doanh quốc tế của khoa quản trị và kinh doanh quốc tế. -Chiến lược dệt tăng tốc hàng dệt may của tổng công ty dệt may Việt Nam. -Tạp chí dệt may các số năm 2001,2002. -Hiệp định thương mại dệt may giữa Việt Nam và EU -Báo cáo kết quả hoạt động của công ty dệt may Hà Nội các năm1999, 2000, 2001, 2002. -Báo cáo xuất khẩu của công ty dệt may Hà Nội. -Báo cáo chuẩn đoán của công ty dệt may Hà Nội. -Và một số trang webside:vnecomomy.com.vn; vineseek.com, vnexpress.com… Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC104.doc
Tài liệu liên quan