Báo cáo thực tập tại Công ty máy và phụ tùng Machinoimport

Trong quá trình nghiên cứu và học hỏi tại Công ty máy và phụ tùng, em đã học hỏi và tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm, nhưng vẫn còn hạn chế vì thời gian thực tập ngắn. Nhưng em cảm thấy thực tế và lý thuyết khác nhau rất nhiều em cần phải có thời gian để học hỏi. Em xin cảm ơn các cô, các bác và các anh chị tại phòng kinh doanh của Công ty đã giúp đỡ em rất nhiều và em xin cảm ơn bác Vương Văn Tịnh đã giúp đỡ em và chỉ bảo cho em những số liệu để em hoàn thành chương trình thực tập tại Công ty. Em xin chúc các cô các bác tại Công ty mạnh khoẻ.

doc40 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1692 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo thực tập tại Công ty máy và phụ tùng Machinoimport, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát và định kỳ tổ chức thanh tra. Tháng 8 năm 2003, theo chính sách đổi mới, cơ cấu lại các doanh nghiệp Nhà nước nhằm làm tăng tính hiệu quả cũng như tạo sự chủ động cho các đơn vị trong hoạt động sản xuất kinh doanh, Công ty Máy và Phụ tùng đã chuyển đổi thành Công ty Máy và Phụ tùng Machinoimport tách 10 đơn vị trực thuộc thành các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hoàn toàn độc lập để đáp ứng kịp nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài góp phần tích cực vào tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước. Cơ cấu bộ máy tổ chức mới của Công ty Máy và phụ tùng: Ban lãnh đạo Công ty Machinoimport gồm có: 1 giám đốc và 2 phó giám đốc phụ trách ba mảng công việc khác nhau. Bộ máy tổ chức của Machinoimport được bố trí thành 7 phòng ban, các trung tâm, các chi nhánh và các xí nghiệp trực thuộc. 1. Phòng Tổ chức cán bộ. 2. Phòng Hành chính lễ tân. 3. Phòng Tài chính Kế toán. 4. Phòng Kế hoạch đầu tư. 5. Phòng Kinh doanh I, II, III. Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức Công ty Máy và Phụ tùng Giám đốc Công ty Các phó giám đốc Phòng Tổ chức cán bộ Phòng Tài chính Kế toán Phòng Kế hoạch đầu tư Phòng Kinh doanh I Phòng Kinh doanh II Phòng Kinh doanh III Phòng Hành chính lễ tân Chi nhánh Cty tại Móng Cái Chi nhánh Cty tại Vinh Chi nhánh Cty tại TP Hồ Chí Minh Trung tam TM Hồ Gươm Trung tâm XNK Thiết bị Phụ tùng Trung tâm hợp tác LĐQT Trung tâm ĐTDA&PTXD Xí nghiệp SXKD ồng thép Machino Liên doanh sản xuất nước dứa cô đặc Xí nghiệp SX&DVKD Liên doanh SX phụ tùng xe máy ô tô Machino Chức năng nhiệm vụ của từng phòng ban: ³ Phòng tổ chức cán bộ: ž Làm công tác tham mưu cho giám đốc và đại diện cho các bộ phận trong việc tuyển dụng, đào tạo nguồn nhân lực, bố trí sắp xếp cán bộ, đề bạt lương cho cán bộ công nhân viên. ž Đầu mối cho việc chăm lo đời sống vật chất, văn hoá tinh thần, thăm hỏi ốm đau, hiếu hỷ của cán bộ nhân viên. ž Phối hợp cùng với Ban giám đốc và ba phòng: Hành chính lễ tân, Tài chính kế toán, Kế hoạch đầu tư để tổ chức quản lý các bộ phận khác trong công ty. ³ Phòng Hành chính lễ tân: ž Xây dựng chơng trình công tác hàng tháng, quý và có trách nhiệm thường xuyên đôn đốc việc thực hiện chương trình đã được giám đốc phê duyệt. ž Lưu trữ các quyết định của ban giám đốc, các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. ž Trực tiếp quản lý con dấu, thực hiện công tác hành chính văn thư, lễ tân, phơng tiện giao thông, bảo vệ, y tế. ³ Phòng Tài chính kế toán: ž Xây dựng chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu chi tài chính, quỹ tiền lơng với các chi nhánh, các trung tâm, các xí nghiệp của Công ty trình lên ban giám đốc. ž Quản lý và sử dụng các quỹ chuyên dùng theo quy định cuả công ty. ž Tổng hợp lu trữ hồ sơ tài liệu về hạch toán, kế toán, quyết toán và các báo cáo theo quy định. ž Thực hiện các khoản nộp ngân sách nh luật định. ž Chấp hành quy định về an toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ theo quy định. ž Giải quyết hàng tồn kho ứ đọng, chậm bán. Tìm mọi biện pháp thu hồi công nợ lâu ngày và các khoản nợ có nguy cơ khó đòi. ž Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định hiện hành về hạch toán kinh doanh của các đơn vị cơ sở. Thực hiện lành mạnh hoá tình hình tài chính của các đơn vị. ž Quản lý sử dụng thông tin, điện toán phục vụ nghiệp vụ kinh doanh theo quy định của chi nhánh. ž Chấp hành chế độ báo cáo và kiểm tra chuyên đề. ³ Phòng Kinh doanh I: Nhập khẩu chủ yếu thiết bị máy móc, phụ tùng, nguyên liệu cho các công trình xây dựng, văn hoá xã hội, công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, y tế; thiết bị phòng thí nghiệm hoá, lý. ³ Phòng Kinh doanh II: ž Kinh doanh ô tô, xe máy, săm lốp, phụ tùng. ž Nhập khẩu thiết bị máy móc, phụ tùng, nguyên liệu cho các công trình nông nghiệp, thuỷ lợi. ³ Phòng Kinh doanh III: ž Nhập khẩu các công trình vật liệu xây dựng, thiết bị vật liệu xây dựng, thiết bị vật tư ngành cấp thoát nước, trang trí nội thất, thiết bị văn phòng. ž Nhập khẩu các loại thiết bị và nguyên liệu sản xuất cho các nhà máy bia, thiết bị thông tin liên lạc, thiết bị thi công. Mối quan hệ giữa các phòng ban, các đơn vị trong Công ty là mối quan hệ bình đẳng, làm việc độc lập theo đúng chức năng và đúng công việc được giao. Nhân viên trong các phòng ban có tinh thần cộng tác giúp đỡ lẫn nhau vì lợi ích của công ty. 3>. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty. 3.1>. Chức năng của Công ty. Công ty có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu, đại lý và lắp ráp, lắp đặt, sửa chữa và đóng mới các loại xe, máy, các dụng cụ thiết bị toàn bộ, tư liệu sản xuất (bao gồm: phụ tùng, nguyên nhiên vật liệu xây dựng, hàng công nghiệp tiêu dùng), thực hiện các nghiệp vụ tư vấn hợp tác lao động quốc tế và các dịch vụ khác nhằm phục vụ công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Ngoài hoạt động kinh doanh chính là nhập khẩu, hiện nay Công ty đang tìm kiếm và mở rộng mặt hàng cũng như thị trường xuất khẩu nhằm tăng doanh thu và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kinh doanh, xuất khẩu gạo, cao su, đậu phộng, nguyên liệu dệt, giầy dép, hoa quả tươi khô, đặc biệt là một số mặt hàng tuy có khối lượng và giá trị không lớn nhưng đó là nhưng mặt hàng mới: vỏ tôm, vỏ ghẹ, rau câu, thuỷ sản đông lạnh, đồ chơi bằng phế liệu… 3.2>.Nhiệm vụ của Công ty. + Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu kể cả các kế hoạch về sản xuất và các kế hoạch khác có liên quan đáp ứng yêu cầu về sản xuất, kinh doanh của Công ty. + Thực hiên đầy đủ, nghiêm túc các các xam kết trong hợp đồng ngoại thương, các hợp đồng sản xuất kinh doanh và các dịch vụ khác mà Công ty ký kết. + Đổi mới hiện đại hoá công nghẹ trang thiết bị và phương thức quản lý trong quá trình xây dựng và phát triển của Công ty. + Thực hiện chính sách cho cán bộ công nhân viên, chế đọ quản lý tài chính, lao động do Công ty quản lý, lầm tốt công tác phân phối theo lao động, đảm bảo công bằng và đời sống vật chất cho cán bộ công nhân viên. + Tiến hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, thu được lợi nhuận, tạo được công an việc làm cho công nhânviên chức. + Hợp lí hoá sản xuất, kinh doanh, tiết kiệm chi phí, thực hiện hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp khác trên cơ sở bình đẳng, đôi bên cùng có lợi. + Chuẩn bị đầy đủ những điều kiện cần thiết cho việc hội nhập đầy dủ vào thị trường thế giới, trước mắt là việc Việt Nam gia nhập AFTA, tiến tới gia nhập WTO. + Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước và thực hiện mục tiêu chung chính sách xã hội. 4> Bộ phận trong Công ty mà sinh viên thực tập - Phòng kinh doanh - Người phụ trách: Vương Văn Tỉnh Phần II>. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty Máy và Phụ tùng 1>.Đặc điểm về vốn sản xuất kinh doanh. Là một doanh nghiệp nhà nước mang nét đặc trưng của Công ty nhà nước tham gia kinh doanh thương mại. Đặc trưng dễ nhận thấy của Công ty là nguồn vốn. Theo số liệu của công ty, cơ cấu nguồn vốn được huy động theo hai nguồn chính : Nguồn vốn nhà nước cấp Nguồn vốn tín dụng được huy động từ các ngân hàng, các tổ chức tín dụng và nguồn vốn ngắn hạn. Một khó khăn lớn của Công ty là nguồn vốn kinh doanh còn rất hạn hẹp, hàng tồn kho nhiều nên thường phải kinh doanh bằng vốn ngắn hạn nen ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Để trả nợ ngân hàng thì việc bán hàng và thu hội vốn theo hợp đồng đã kí và đang thực hiện phải hết sức khẩn trương, đúng thời cơ. Đây cũng chính là lý do Công ty không có khả năng dự trữ mặt hang thời vụ để xuất khẩu. Hiện nay, vay vốn ở các tổ chức tín dụng rất khó khăn vì lâu nay việc vay vốn chỉ thực hiện thông qua thế chấp. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có tài sản cầm cố hoặc là hàng hoá trong kho hoặc tài sản cố định nhưng phần lớn doanh nghiệp không có quyền sở hữu tài sản mà chỉ có quyền quản lý và khai thác sử dụng. Thêm nữa, hạn mức tín dụng vô cùng nhỏ so với nhu cầu kinh doanh. Mua hàng trả chậm hay bán hàng ứng trước tiền rất phổ biến trên thế giới mà thông qua nó các nước phát triển, các đối tác giao dịch có tiềm lực kinh tế mạnh cấp tín dụng cho các nước đang phát triển không có khả năng tài chính. Nhưng hiện nay Việt Nam không khuyến khích loại hình này vì những đổ bể của hợp đồng kinh tế thời gian qua, các ngân hàng đã dừng việc bảo lãnh cho các hợp đồng thanh toán chậm nếu không kí quỹ tới 80% giá trị hợp đồng. Nếu làm như vậy thì coi như hình thức này không được áp dụng ở nước ta. Thiếu vốn là một trong những trở ngại lớn vì Công ty nhập khẩu mặt hàng có giá trị lớn, thời gian hoàn vốn dài. Vốn không đủ Công ty phải đi vay với lãi xuất cao nhiều khi làm mất cơ hội, giẩm hiệu quả kinh doanh .Trên đây là khó khăn lớn về vốn mà Công ty gặp phải. 2>.Đặc điểm mặt hàng Khác với một số doanh nghiệp thương mại đang hoạt động trên thị trường, Công ty thực hiện chiến lược kinh doanh đa dạng hoá mặt hàng và chính điều này đã giảm bớt rủi do trong kinh doanh của công ty. Bên cạnh chiến lược đa dạng hoá chủng loại hàng hóa kinh doanh, về từng mặt hàng cụ thể Công ty vẫn mang nét chung của các doanh nghiệp kinh doanh là chịu biến động về cung –cầu của những mặt hàng thời vụ. Cho đến nay Công ty đã nhập khẩu các hệ thống dây chuyền đồng bộ cho các nhà máy sản xuất hàng công nghiệp và tiêu dùng như: Trang thiết bị y tế cho các bệnh viện trên toàn quốc đặc biệt là Bệnh viện 108 và Bệnh viện Bạch Mai (11 triệu USD), thiết bị y tế Tây Ba Nha cho Sở y tế Hà Tây (5 triệu USD), dây chuyền sản xuất nước ngọt, dây chuyền sản xuất đá Granit Huế, dây chuyền sản xuất bánh ngọt cho Công ty thực phẩm miền bắc, dây chuyền khai thác đá cho mỏ đá ánh Sơn - Hải Hưng, dây chuyền làm bao bì, dây chuyền sản xuất xi măng của Đức, các trang thiết bị cho công trình lăng Bác, công trình tu tạo cho nhà Hát lớn Hà Nội, sân vận động Hà Nội, Thiết bị cho nhà máy đường Lam Sơn (23 triệu USD), thiết bị ngành nước, thiết bị thí nghiệm cho các viện nghiên cứu, thiết bị đo soi hàng cho ngân cho sân bay Nội Bài, nhập khẩu kinh doanh ô tô các loại, các loại phụ tùng ô tô săm lốp ô tô. Biểu số về cơ cấu mặt hàng nhập khẩu: STT Mặt hàng Đơn vị tính năm 1999 năm 2000 năm 2001 năm 2002 năm 2003 1 Ô tô các loại Chiếc 101 80 82 78 52 2 Xe máy các loại Chiếc 120 110 98 82 61 3 Săm lốp ô tô Chiếc 3000 1800 1675 1350 1150 4 Săm lốp xe máy Chiếc 3000 2000 1800 1430 1005 5 Vòng bi chiếc 171200 16000 13000 102000 89000 6 Bình điện Bình 550 400 330 198 158 7 Dây điện từ Tấn 11 9,5 9,1 8,2 7,6 8 Máy thi công XD Chiếc 45 39 42 45 49 9 Phụ tùng các loại USD 260000 280000 310000 425000 637000 Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Machinoimport Nhìn vào biểu trên ta thấy trong giai đoạn 1996 - 2000, mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Công ty là vòng bi, bình điện, săm lốp ô tô và xe máy, dây điện từ nhưng gần đây khối lượng giảm dần. Từ năm 2002 nhu cầu về xe máy và ô tô tiêu dùng nội địa tăng mạnh thế nhưng số lượng nhập khẩu ô tô, xe máy các loại lại giảm. Có thể suy đoán rằng nhu cầu về phụ tùng tăng lên trong khi nhu cầu về máy móc giảm xuống, một phần vì trong nước đã bắt đầu sản xuất được, phần quan trọng hơn là thuế nhập khẩu đánh vào các mặt hàng này cũng cao hơn để hạn chế nhập khẩu khuyến khích ngành công nghiệp chế tạo và lắp ráp trong nước phát triển. Do vậy nhu cầu về phụ tùng càng ngày càng tăng lên. Đây là một dấu hiệu tốt cho nền sản xuất trong nước dần tiến tới chỉ nhập khẩu những mặt hàng chưa sản xuất được hoặc sản xuất sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. 3>.Đặc điểm thị trường nhập khẩu. Sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, thị trường xuất nhập khẩu của Machinoimport không còn bó hẹp trong khối các nước XHCN như trước đây mà đã mở rộng ra nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới. Trước những năm 1990, Công ty được Nhà nước giao độc quyền kinh doanh nhập khẩu thiết bị máy móc, phương tiện vận tải như: máy bay, tàu thủy, tàu hỏa và các loại phụ tùng theo kế hoạch nhập khẩu hàng năm của Nhà nước phục vụ nền kinh tế quốc dân. Sau những năm 1990, theo cơ chế kinh doanh mới, Công ty vẫn duy trì quan hệ với nhiều Công ty lớn trên thế giới và nhập khẩu trang thiết bị máy móc phục vụ sản xuất kinh doanh, tiêu dùng, đảm bảo chất lượng, uy tín trên thương trường. Hiện nay, Công ty đã thiết lập được mối quan hệ rộng lớn trên khắp thế giới, thường xuyên, liên tục với các thị trường chính như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Ucraina, ấn Độ, Đức, Pháp, Đan Mạch, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Nga, Italia, Mỹ, Nauy, Thuỵ sỹ, Hà Lan, úc các nước trong khối ASEAN như: Thái Lan, Malaisia, Indonesia, Singapore… Nhật Bản là thị trường chính của Công ty với các mặt hàng chủ lực như: ô tô, đồ điện tử, máy móc cho giao thông vận tải, máy thi công xây dựng. Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức cũng là những thị trường ngày càng trở nên quan trọng với Công ty. Đặc biệt, các trang thiết bị y tế, dây chuyền sản xuất bia Công ty thường nhập khẩu của Đức. 4>.Đặc điểm về nhân lực. Số lượng Cán bộ công nhân viên năm 2000 trong Công ty là rất lớn, gần 1.800 người, trong đó phần lớn lại là những người đã lớn tuổi, có nhiều năm cống hiến nhưng trình độ lại không đáp ứng được những yêu cầu của nhiệm vụ mới đòi hỏi phải nhanh nhạy và có kiến thức chuyên môn sâu, có ngoại ngữ và thích ứng với cơ chế thị trường. Cũng trong năm 2000 này khâu tổ chức, đào tạo và bố trí cán bộ một thời gian dài chậm đổi mới và chưa có định hướng, trong khi yêu cầu về tổ chức lại và phát triển là một thực tế đòi hỏi cấp bách. Điều này có ở từ bộ phận lãnh đạo quản lý trên Công ty với cấc Công ty thành viên. Năm 2001, tổng số lao động trong Công ty hiện nay la 1.667 cán bộ công nhân viên Giải quyết chế độ chính sách trong năm là : 61 người. Tiếp nhận cán bộ mới : 74 người. Đào tạo : 124 người. Đề bạt : 48 người. Khen thưởng : 09 người. Kỷ luật : 07người. Năm 2002, Công ty đã tiếp nhận cán bộ mới, nhìn chung nhiều đơn vị đã tổ chức tuyển dụng theo đúng qui chế của Công ty ban hành như lập hội đồng tuyển dụng, tổ chức thi tuyển. Bên cạnh đó Công ty giải quyết ché độ cho cán bộ theo đúng qui định hiện hành. Trong năm đã giải quyết nghỉ hưu, nghỉ chế độ cho 60 cán bộ công nhân viên, chuyển đi nơi khác 9 người. Hiện nay trong toàn Công ty còn một số lao động chưa có việc làm ổn định. Phần III>. Tình hình kinh doanh nhập khẩu hàng hoá của Công ty trong thời gian qua. 1>. Kết quả kinh doanh . Trong thời kỳ cơ chế thị trường mở rộng, Công ty đã góp phần không nhỏ trong việc nhập khẩu phục vụ 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta đề ra. Công ty đang nhập khẩu máy móc, thiết bị cho các công trình lớn nhỏ khác nhau, đầu tư chiều sâu, cải tạo và mở rộng các nhà máy hiện có để phục vụ sản xuất lương thực, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu bằng nguồn vốn tự có, vốn vay tư nhân, vốn vay của các tổ chức tín dụng quốc tế thông qua các hiệp định cấp Chính phủ hoặc thoả thuận quốc tế, bằng các nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài. Ngoài ra còn bằng các phương pháp hàng đổi hàng cho các ngành các địa phương. Trong những năm đầu cơ chế thị trường, Công ty đứng trước nhiều khó khăn do nhu cầu thiết bị toàn bộ giảm mạnh, nhiều hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ không thực hiện được do sự biến động về chính trị ở các nước Đông Âu và Liên Xô cũ. Năm 1989 kim ngạch nhập khẩu của Công ty giảm mạnh so với thời kỳ1988, do thời kỳ này Nhà nước không còn cấp vốn nữa. Thời điểm này cũng chính là lúc Công ty chuyển mạnh và rõ rệt sang chế độ hạch toán kinh doanh, phát huy tính chủ động và độc lập kinh doanh để nhanh chóng đáp ứng với đòi hỏi của cơ chế thị trường. Từ năm 1990 đến năm 1996 kim ngạch nhập khẩu của Công ty tăng dần lên một cách rõ rệt, tuy nhiên trong 2 năm 1998-1999 kim ngạch nhập khẩu của Công ty đã giảm xuống bởi sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: khủng hoảng tài chính trong khu vực, kinh tế trong nước tăng trưởng chậm cũng như sự đột biến của giá đô la Mỹ trên thị trường. Ngoài ra nhiều doanh nghiệp trong nước cũng được cấp giấy phép nhập khẩu trực tiếp gây nên tác động không nhỏ đối với tình hình kinh doanh nhập khẩu của Công ty. Tổng doanh thu- lợi nhuận. Biểu về doanh thu và lợi nhuận của Công ty qua 5 năm: Năm Tổng doanh thu Lợi nhuận thực hiện Trị giá %so với năm trước Trị giá % so với năm trước 1999 1.130,9 2,18 2000 890,9 79% 9,538 438% 2001 1.285,4 144% 15,53 163% 2002 2.340,3 182% 18,9 148% 2003 3.434 147% 21 110% Đơn vị: tỷ đồng Kể từ khi thành lập với các thành viên hạch toán độc lập, năm 2003 là năm Công ty đạt doanh thu cao nhất hơn 3.434 tỷ đồng tăng gần 50% so với năm 2002 (2.340 tỷ đồng). Đạt mức độ cao như vậy là do Công ty đã áp dụng nhiều phương thức kinh doanh, đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh. Năm 2000, mặc dù gặp phải thời tiết không thuận lợi hạn hán kéo dài, lũ lụt ở các tỉnh miền Trung, đồng thời luật thuế VAT đội giá bán hàng lên đã làm nhu cầu trong nước giảm nhưng toàn Công ty đã thực hiện được 890,92 tỷ đồng doanh thu bằng 80% so với năm 1999, trong đó doanh số bán hàng xuất khẩu là 17 tỷ đồng, doanh thu bán hàng nội địa là 823,38tỷ đồng và doanh thu sản xuất, dịch vụ là 50,53 tỷ đồng. Năm 2002, toàn Công ty đã thực hiện được 2.340,3 tỷ đồng doanh thu bằng 182% so với năm 2001, trong đó doanh số bán hàng xuất khẩu là 394,59 tỷ đồng, doanh thu bán hàng nội địa là 1.858,57 tỷ đồng và doanh thu sản xuất, dịch vụ là 87,14 tỷ đồng. Chi phí lưu thông của Công ty giảm qua từng năm góp phần làm tăng lợi nhuận. Năm 2000, Công ty đạt mứclợi nhuận là 9.538 tỷ đồng, đạt 438% so với năm 1999. Năm 2003, Công ty đạt mức lợi nhuận là trên 21 tỷ đồng, đạt 110,5% so với năm 2002. 1.2 Nộp ngân sách-mức lương bình quân. Biểu về nộp ngân sách-mức lương bình quân. Năm Nộp ngân sách(tr.đồng) Mức lương bq tr.đ/người/tháng 2000 58.655 1 2001 62.900 1 2002 120.406 1,09 2003 1.740.000 1,2 Trong những năm qua Công ty luôn hoàn thành kế hoạch nộp ngân sách. Tổng số tiền nộp ngân sách của Công ty ngày càng tăng. Năm 2003 Công ty nộp ngân sách 174 tỷ đồng tăng 17% so với năm 2002 và là năm có mức nộp ngân sách cao nhất từ trước tới nay. Hiện nay, Công ty đã thực hiện hạch toán độc lập với từng đơn vị thành viên, đơn vị nào kinh doanh lãi sẽ được hưởng lợi nhiều nên đã khuyến khích cán bộ công nhân viên Công ty làm việc mang lại nhiều lợi nhuận đưa Công ty phát triển ngày càng vững chắc. Các lãnh đạo Công ty đã ý thức được rằng nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên sẽ nâng cao được trách nhiệm của họ với công việc. Điều đó sẽ thúc đẩy họ làm việc hăng say hơn, kết quả thu về ngày càng lớn. Với chính sách hạch toán độc lập này, Công ty đã đạt được mức lương bình quân năm 2003 là hơn 1,2triệu đồng/người/tháng, tăng hơn 10% so với năm 2002. 2>.Phương thức kinh doanh nhập khẩu hàng hoá của Machinoimport. 2.1. Kim ngạch nhập khẩu. Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh nổi bật nhất của công ty. Tình hình nhập khẩu trong những năm qua có phần thuận lợi, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân như thiên tai, tìmh hìmh quốc tế không ổn định, do cạnh tranh ngày cành gay gắtgiữa các doanh nghiệp…đã dẫn đến kim ngạch nhập khẩu có những biến động tiêu cực. Biểu số về kim ngạch nhập khẩu: Năm Giá trị nhập khẩu(1000USD) Lượng tăng liên hoàn(1000USD) Tốc độ tăng liên hoàn (%) Mức tăng bình quân(%) 1999 70124 112,4 2000 59208 (10916) 84,4 2001 59962 754 101,3 2002 61292 1330 102,2 2003 112234 50942 183,1 Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Machinoimport Như đã nói ở trên, năm 2000 do bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố nên giá trị nhập khẩu của Công ty bị giảm mạnh, cụ thể giảm 15,6% tương ứng với một lượng là 10916 nghìn USD. Năm 2001 và 2002 tăng nhẹ nhưng kim ngạch vẫn thấp hơn năm 1999. Khác với xuất khẩu, năm 2003 kim ngạch nhập khẩu tăng rất cao 183,1% so với thực hiện năm 2002 tương ứng với một lượng tăng là 50942 nghìn USD, trong khi tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu năm 2003/2002 lại giảm so với 2002/2001. Từ bảng phân tích về quy mô quy mô nhập khẩu theo các năm cho thấy: nhập khẩu máy móc, thiết bị phụ tùng, nguyên vật liệu là hoạt động kinh doanh truyền thống đem lại nguồn thu chính cho Công ty. 2.2. Phương thức nhập khẩu. Biểu số: Năm Đơn vị 1999 2000 2001 2002 2003 ST (1000USD) %00/99 ST (1000USD) %01/00 ST (1000USD) %02/01 ST (1000USD) %03/02 TCT 70124 59208 84 59962 101 61292 102,0 112234 183,1 NK k.doanh 23413 19750 84,1 29481 149,0 52568 178,4 103255 196,4 NK Uỷ.thác 46693 39458 85,2 30481 77,0 8724 29,2 8979 102,9 Cq V. phòng 1395 6942 465,3 5231 75,3 5639 108,0 12570 222,9 NK k.doanh 563 2434 432,0 3097 160,5 3498 113,3 8673 247,9 NK Uỷ thác 832 4508 542,4 2134 47,3 2141 100,1 3897 181,9 Các đ.v thành viên 68729 52266 76,1 54731 104,7 55653 102,1 99664 179,0 NK k.doanh 22868 17361 75,9 26384 151,9 29496 118,2 62788 213,0 NK Uỷ thác 45861 34950 76,2 28347 81,1 26157 92,2 36876 140,9 Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Machinoimport Nhập khẩu kinh doanh là hình thức nhập khẩu trong đó Công ty thực hiện từ khâu đầu đến khâu cuối, tức là việc tìm hiểu thị trường để mua hàng đến khi bán được hàng và thu tiền vốn của chính mình. Để thực hiện tốt công việc này, cán bộ Công ty phải có trình độ chuyên môn tốt, nhanh nhạy, quyết đoán để có thể dự đoán và nắm bắt được diễn biến thị trường một cách nhanh nhất, chính xác nhất nhằm bán hàng ra thị trường với gía cao nhất. Hình thức nhập khẩu kinh doanh mang lại lợi nhuận khá cao vì có thể "buôn tận gốc bán tận ngọn" nhưng nó lại có nhược điểm lớn là nếu không bán được hàng sẽ bị tồn đọng vốn kinh doanh và tốn kém các chi phí kho bãi, bảo quản,… Phòng xuất nhập khẩu phải xem xét nguồn hàng, tính toán mọi chi phí phát sinh trong quá trình nhập khẩu như: thuế, tiền kho bãi, tiền vận chuyển, tiền bảo hiểm…. Đối với các Công ty xuất nhập khẩu máy móc và phụ tùng, ban đầu do nguồn vốn, nhân lực còn bị hạn chế trong khi thị trường lại thường xuyên biến động nên gặp nhiều khó khăn trong hoạt động nhập khẩu kinh doanh. Nhập khẩu uỷ thác là hình thức được áp dụng chủ yếu trong các hoạt động nhập khẩu của Công ty từ năm 2001 trở về trước. Công ty nhập khẩu uỷ thác cho các doanh nghiệp trong nước có nhu cầu nhập khẩu hàng hoá và chọn Công ty để uỷ thác nhập khẩu. Các doanh nghiệp uỷ thác nhập khẩu cho Công ty thường là các doanh nghiệp không thẻ tự mình nhập khẩu hàng hoá mà doanh nghiệp mình cần nhưng ít hiểu biết về thị trường, về giá cả cũng như chưa có kinh nghiệm. Qua việc uỷ thác nhập khẩu, các doanh nghiệp rút ngắn được thời gian chọn lựa khách hàng, tìm được đúng mặt hàng mình yêu cầu với giá phù hợp.Theo hình thức kinh doanh này, Công ty ký hợp đồng nhập khẩu uỷ thác với các đơn vị trong nước, nhập khẩu hàng hoá về cho họ và thu phí uỷ thác. Các đơn vị kinh tế đó là: các doanh nghiệp Nhà nước, các Công ty trách nhiệm hữu hạn, các Công ty tư nhân không có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng đó hoặc chưa tạo được sự tin cậy đối với các đối tác ở nước ngoài. Về thu phí uỷ thác thì tuỳ theo tính chất ngành hàng và trị giá của mỗi hợp đồng, thông thường Công ty thu phí uỷ thác từ 0,6% đến 15% giá trị của hợp đồng nhập khẩu. Theo kết quả ở biểu số trên ta thấy kim ngạch nhập khẩu uỷ thác có xu hướng giảm trong khi kim ngạch nhập khẩu kinh doanh ngày càng được mở rộng. Nếu như kim ngạch nhập khẩu kinh doanh đạt 19750 nghìn USD trong năm 2000 năm 2001tăng 149% đạt 29481 nghìn USD và đột phá với mức tăng 178,4% đạt 52568 nghìn USD trong năm 2002 so với kỳ thực hiện năm 2001. Chứng tỏ Công ty ngày càng phát triển hơn, năng động hơn trong cơ chế thị trường, hoạt động có hiệu quả hơn và vốn kinh doanh cũng tăng lên. Mặt khác, điều đó còn cho thấy hoạt động kinh doanh của Công ty đã có uy tín với các bạn hàng. Trong kinh doanh xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu của cơ quan văn phòng có mức tăng trưởng luôn thấp hơn so với các đơn vị thành viên. Ngược lại, trong kinh doanh nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu của cơ quan văn phòng có mức tăng trưởng cao hơn các đơn vị thành viên. Điều này do cán bộ của cơ quan văn phòng có kinh nghiệm hơn, có lợi thế hơn trong việc tìm kiếm các hợp đồng lớn. 3>.Các nghiệp vụ kinh doanh nhập khẩu hàng hoá. Kinh doanh nhập khẩu hàng hoá là hoạt động chính của công ty. hoạt động này phải được tổ chức thực hiện qua rất nhiều nghiệp vụ khác nhau từ khâu điều tra thị trường trong nước để xác định nhu cầu mà lựa chọn hàng hoá nhập khẩu. Tiếp đến phải lựa chọn thị trường cung ứng nước ngoài, tìm kiếm đối tác giao dịch, các bước tiến hàng giao dịch, đàm phán, ký kết, thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá được chuyển quyền sở hữu cho mình tại cảng đích quy định, hoàn thành các nghĩa vụ thanh toán. Hơn nữa, còn phải tiếp nhận hàng hoá về kho sau khi đã tiến hành các thủ tục hải quan, tổ chức các nghiệp vụ bán hàng và thanh quyết toán trong lưu thông nội địa,…Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ phải được nghiên cứu đầy đủ kỹ lưỡng và thận trọng. Chúng phải được đặt trong các khâu này gặp sai sót thì toàn bộ dây chuyền hoạt động kinh doanh sẽ bị ảnh hưởng theo. Điều này đã được chứng minh qua thực tế. Đó là sự thua lỗ lớn, thậm chí đổ bể, phá sản của một doanh nghiệp có khi chỉ ở khâu hàng nhập khẩu về không bán được do chưa nghiên cứu kỹ thị trường hoặc một cơn sốt bất thường của giá cả hàng hoá đã gây nên sự lầm tưởng về nhu cầu. Để thực hiện tốt các nghiệp vụ, các thành viên tham gia hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty phải nắm được đầy đủ và chính xác các thông tin về nhu cầu hàng hoá, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, giá cả xu hướng biến động, chu kỳ sống của sản phẩm hàng hoá. Mặt khác, các cán bộ Công ty phải luôn học tập, nghiên cứu, nâng cao kỹ thuật ngiệp vụ ngoại thương, các văn bản cũng như chính sách của Nhà nước và các Bộ ngành có liên quan về hàng hoá nhập khẩu. Một yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của Công ty trên thị trường là những điều này phải trở thành nếp làm việc thường xuyên của cán bộ làm công tác kinh doanh nhập khẩu. Hoạt động kinh doanh nhập khẩu ở Công ty gồm các nghiệp vụ sau: 3.1>. Nghiên cứu thị trường. Thực tế kinh doanh hiện nay, công việc nghiên cứu thị trường không chỉ tiến hành ở một, hai bộ phận như trước đây mà nó được thực hiện bởi toàn bộ những người tham gia kinh doanh nhập khẩu. Chẳng hạn như một chuyến đi công tác ở nước ngoài để đàm phán, ký kết hợp đồng có thể đem lại một hợp đồng nhập khẩu hàng hoá khác. Công việc này được thực hiệnmột cách linh hoạt, khẩn trương nhưng rất tỷ mỷ tránh mang lại sự thua thiệt cho Công ty . Ngày nay, Công ty đã có quan hệ buôn bán với nhiều hãng trên thế giới. Điều này đảm bảo cho Công ty luôn có thị trường đầu vào đối với rất nhiều loại hàng hoá có nhu cầu nhập khẩu. Thế nhưng không có bất kỳ thị trường nào không có sự biến động nên đòi hỏi Công ty phải nghiên cứu kỹ từng thị trường để có thể tìm ra thị trường nhập khẩu có lợi nhất. Trước khi tìm thị trường nước ngoài để nhập khẩu hàng hoá, Công ty phải tìm hiểu nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước về mọi thông số của sản phẩm hàng hoá như chủng loại, quy cách, kích cỡ, thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng trong nước. Về mặt thương phẩm phải hiểu rõ giá trị, công dụng, quy cách, mẫu mã, phẩm chất của hàng hoá đó. Công ty tìm cách nắm bắt đầy đủ các mức giá cho từng điều kiện mua hàng, giao hàng, tính tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu, sơ bộ tính toán được giá thành hàng hoá nhập khẩu làm cơ sở cho bước xây dựng phương án kinh doanh. Ngoài ra, Công ty phải nghiên cứu cả những biến động của thị trường trong và ngoài nước, sự vận động của chu kỳ kinh doanh, tính thời vụ trong sản xuất lưu thông và tiên dùng, khả năng thương lượng để đạt được điều kiện mua bán có lợi hơn. Ngoài việc nghiên cứu thị trường nước ngoài thì việc xác định chính xác nhu cầu, xu hướng biến động cùa nó trong từng thời điểm, từng lĩnh vực sản xuất cũng rất quan trọng. Nếu dung lượng thị trường trong nước tương đối lớn mà lại xác định là nhỏ thì sẽ bị thiệt hại trong mua bán với nước ngoài vì điều kiện giá cả thường có mức chênh lệch cao giữa khối lượng hàng lớn và nhỏ. ngược lại, sự ngộ nhận về dung lượng thị trường lớn nhưng trong thực tế lại là nhỏ sẽ gây thiệt hại lớn về kinh tế vì hàng hoá ứ đọng, vốn không lưu thông. Những năm qua, bằng việc thực hiện đúng các bước trong khâu nghiên cứu thị trường, Công ty đã nhập khẩu được rất nhiều loại hàng hoá khác nhau kim ngạch nhập khẩu không ngừng tăng qua các năm. Đặc biệt là việc nắm bắt tốt thị trường trong nước đã giúp Công ty tăng đáng kể kim ngạch nhập khẩu kinh doanh. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng mặt hàng kinh doanh của Công ty chưa đa dạng phong phú, thị trường kém ổn định, dung lượng thị trường nhỏ. Tình hình này đòi hỏi Công ty phải năng động hơn trong việc tìm kiếm thị trường mới bên cạnh việc củng cố và phát huy các mối quan hệ và thị trường truyền thống. 3.2>. Lựa chọn đối tác. Trong điều kiện giao lưu quốc tế mở rộng như hiện nay, các thông tin đến từ rất nhiều nguồn, khối lượng các đối tượng giao dịch buôn bán cùng tham gia trên thị trường rất lớn. Vì thế việc lựa chọn đối tác càng phải tiến hành kỹ lưỡng, thận trọng. Việc lựa chọn đối tác giao dịch trong hoạt động nhập khẩu của Công ty được thực hiện theo hai cách sau: - Gọi thầu cung cấp - Nghiên cứu các bản chào hàng rồi đi đến quyết định lựa chọn Hai cách này thực chất là giống nhau song cách thực hiện lại khác nhau. Theo cách gọi thầu cung cấp thì khi có nhu cầu nhập khẩu một loại hàng hoá nào đó, Công ty sẽ thông báo mời dự đấu thầu cung cấp hàng hoá. Công ty với tư cách là người gọi thầu có thể thực hiện đấu thầu mở rộng hay đấu thầu hạn chế. Thông qua việc đấu thầu này Công ty sẽ chọn ra người trúng thầu theo những điều kiện họ đưa ra trong quá trình đấu thầu mà Công ty cho là có lợi nhất đối với mình. Theo cách thứ hai, Công ty thực hiện các bước sau: - Liên hệ với đại diện thương mại của các nước để hỏi xin danh sách các nhà cung cấp hàng hoá cần nhập khẩu và những thông tin về họ. Trong trường hợp đã xác định được các nhà cung cấp rồi thì không phải thực hiện việc xin danh sachs nữa mà chỉ lập ra danh sách các nhà cung cấp để phục vụ cho việc xin các bản chào hàng. - Lập thư hỏi giá và gửi đến các nhà cung cấp đã lựa chọn. - Nghiên cứu các bản báo giá để chọn ra các đối tác có những điều kiện hấp dẫn nhất rồi tiến hành giao dịch đàm phán. 3.3>. Xác định mức giá nhập khẩu Đây là điều kiện tối quan trọng quyết định tới hiệu quả kinh doanh. Công ty thường sử dụng đồng USD làm đồng tiền tính giá nhập khẩu . Tuỳ theo điều kiện giao hàng trong hợp đồng mua bán mà giá có thể được tính theo các mức khác nhau cho từng trường hợp. - Nếu nhập khẩu bằng đường biển, Công ty thường sử dụng giá CIF tại cảng Hải Phòng hoặc cảng tp.HCM. Đôi khi là giá giao hàng tại các cảng thông quan nội địa cho hàng vận chuyển bằng container như ICD Gia Thuỵ Hà Nội, ICD Long Thành.. - Nếu nhập khẩu bằng đường bộ, Công ty thường sử dụng giá CPT. Thực tế, hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty chỉ dùng giá cố định vì Công ty chỉ ký hợp đồng nhập khẩu theo từng chuyến. 3.4>. Lập phương án kinh doanh. Theo quy định của Công ty thì mọi hoạt động nhập khẩu dưới mọi hình thức đều phải lập phương án kinh doanh để các bộ phận có chức năng (phòng tài chính kế toán, phòng kế hoạch đầu tư) xem xét tính toán có nên thực hiện hay không. Phương án kinh doanh phải được sự phê duyệt của giám đốc căn cứ vào những đánh giá nhận xét của các phòng chức năng. Trong phương án nhập khẩu kinh doanh cần xem xét những vấn đề sau: - Đối tác kinh doanh : Tên, địa chỉ, tư cách pháp nhân - Thời gian dự kiến thực hiện: thời gian bắt đầu, kết thúc - Phương thức, địa điểm, thời gian giao nhận - Xuất xứ hàng hoá, tên, số lượng, chất lượng, quy cách - Đánh giá sơ bộ hiệu quả kinh doanh : giá bán, giá vốn (gồm giá mua + thuế nhập khẩu + thuế VAT hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt nếu có), chi phí trực tiếp (phí làm thủ tục thanh toán, phí giao nhận vận chuyển, phí lưu kho bãi, lãi ngân hàng,) và lãi. Trong phương án nhập khẩu uỷ thác cần xem xét các vấn đề: Ngoài 04 vấn đề đầu giống nhập khẩu kinh doanh, nhập khẩu uỷ thác còn phải xem xét đến - Hiệu quả: Các khoản Công ty thu được và các khoản Công ty phải chi (chi thanh toán, vận chuyển, giám định, giao nhận,..) - Diễn giải: Điều kiện thanh toán (khách hàng tự thanh toán hay chuyển qua Công ty thanh toán), hình thức thanh toán (L/C, TTR), thuế nhập khẩu, chi phí giao nhận vận chuyển, giám định, … do Công ty nộp. 3.5>. Đàm phán và ký kết hợp đồng. Công ty có quan hệ với nhiều tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, các chi nhánh, đại diện nước ngoài tại Việt Nam. Các mối quan hệ này đựoc xây dựng trên tinh thần hợp tác tương trợ lẫn nhau đảm bảo hai bên cùng có lợi. hợp đồng nhập khẩu là công cụ duy nhất ràng buộc hai bên, quy định rõ quyền lợi, nghĩa vụ của các bên. Trong công ty, thường thì trưởng phòng hoặc phó phòng kinh doanh được giám đốc uỷ quyền có tư cách pháp nhân để đàm phán và ký kết hợp đồng. Các hình thức đàm phán được sử dụng linh hoạt trong mỗi trường hợp nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Theo quy định của pháp luật Việt Nam Công ty thực hiện ký kết hợp đồng dưới hình thức văn bản và có thể được ký theo 2 cách: - Các bên chủ động gặp nhau cùng bàn bạc và đi đến ký kết - Hoặc một trong hai bên soạn thảo hợp đồng rồi gửi cho bên kia ký sau. Đôi khi có những hợp đồng phức tạp thì một trong các bên dự thảo hoạt động rồi gửi cho bên kia xem xét thống nhất ngày gặp gỡ bàn giao trực tiếp để đi đến ký kết. 3.6>. Thực hiện hợp đồng. Giống như các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu khác, Công ty phải thực hiện đầy đủ các thủ tục thì mới được nhận hàng như: - Nếu hợp đồng yêu cầu mở L/C, Công ty phải mở L/C tại ngân hàng của mình theo yêu cầu của hợp đồng. Nội dung của L/C phải phù hợp với nội dung hợp đồng . - Nếu thanh toán bằng TTR, Công ty phải chuyển tiền cho ngân hàng để ngân hàng chuyển cho người bán. - Sau khi nhận được thông báo giao hàng, Công ty ra ngân hàng để nhận bộ chứng từ giao hàng. Công ty có trách nhiệm kiểm tra nếu thấy hợp lệ thì chuyển tiền cho ngân hàng và được ngân hàng ký xác nhận để đi nhận hàng. - Trường hợp khách hàng là người tin tưởng đã làm ăn với nhau lâu năm, thanh toán bằng TTR thì người bán gửi bộ chứng từ và Công ty chuyển tiền ngay cho họ. - Công ty cầm bộ chứng từ này ra nhận hàng tại cảng, kiểm tra hàng hoá về số lượng, vàchất lượng. - Làm thủ tục thanh toán cho bên xuất khẩu nếu không có vướng mắc gì về lô hàng đó. Nhưng khác với các doanh nghiệp khác, trong phần thực hiện hợp đồng, việc giao nhận hàng hoá nhập khẩu của Công ty được chia thành 2 loại: giao nhận hàng hoá nhập khẩu kinh doanh và giao nhận hàng hoá nhập khẩu uỷ thác. * Đối với giao nhận hàng hoá nhập khẩu kinh doanh : Khi nhận được thông báo tàu đã cập cảng, Công ty nhanh chóng thực hiện mọi thủ tục liên quan đến giao nhận hàng hoá nhằm giảm chi phí lưu kho, lưu bãi. Việc giao nhận hàng hoá nhập khẩu với ga cảng được Công ty thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp bằng cách uỷ thác cho đơn vị thành viên thực hiện. Khi được uỷ thác giao nhận thì Công ty sẽ làm thủ tục giao nhận và vận chuyển hàng hoá về kho bãi của mình, bảo quản rồi bán cho khách hàng. Khi uỷ thác giao nhận thì đều có sự theo dõi, giám sát của Cán bộ Công ty để thực hiện các yêu cầu kiểm tra, giám định, kiếu nại của các bên có trách nhiệm. * Đối với giao nhận hàng hoá nhập khẩu uỷ thác: Khi hàng hoá về cảng thì Công ty lập lệnh giao hàng đồng thời chuyển bộ chứng từ hàng hoá cho khách hàng uỷ thác để họ thực hiện việc giao nhận hàng hoá với ga cảng (việc giao nhận này có sự theo dõi giám sát của nhân viên Công ty ). Khi giao nhận nếu có sự tổn thất, tranh chấp về hàng hoá thì Công ty có trách nhiệm đứng ra thay mặt khách hàng uỷ thác yêu cầu giám định, khiếu nại đến các bên có liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi cho bê uỷ thác. Sau khi giao nhận xong thì hàng hoá thuộc toàn quyền quyết định của bên uỷ thác . Có trường hợp bên uỷ thác nhập khẩu hàng hoá yêu cầu Công ty thực hiện giao nhận hàng hoá với cảng rồi mới giao cho mình ngay tại cảng hoặc vận chuyển đến một địa điểm nào đó để bàn giao. Khi đó Công ty phải đứng ra thực hiện giao nhận rồi mới giao cho khách hàng hoặc vận chuyển tới địa điểm đã thoả thuận. 3.7>. Tổ chức bán hàng nhập khẩu. Đây là khâu quan trọng nhất của hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá. Với mục tiêu là thu được lợi nhuận, Công ty cần bán được hàng hoá và phải bán được nhiều mới có khả năng thu doanh lợi cao, đứng vững và phát triển trên thị trường. hàng hoá không bán được sẽ dẫn đến thua lỗ, phá sản. Trước đây khâu này thường tách bạch với hoạt động nhập khẩu dù rằng có thông qua tổ chức trung gian là phòng kế hoạch. Nhưng hiện nay, tại Công ty phòng kinh doanh kiêm cả chức năng này. Vì thế hoạt động bán hàng trở thành quen thuộc và bắt buộc đối với những người làm công tác kinh doanh nhập khẩu hàng hoá. Có nhiều hình thức bán hàng đang được thực hiện ở Công ty như: - Bán buôn: Bán với số lượng lớn cho các nhà sản xuất, các cửa hàng, các thương nhân bán lẻ. Hình thức này thường được áp dụng cho các hợp đồng nhập khẩu với số lượng lớn và hàng hoá là những vật tư nguyên liệu cho sản xuất. - Bán lẻ: Bán tới tận tay người tiêu dùng, sản xuất thông qua hệ thống các cửa hàng của Công ty - Bán qua đại lý: hàng hoá nhập về, Công ty giao cho các đại lý của mình bán theo giá Công ty quy định và trả phần trăm hoa hồng đại lý trên doanh số họ bán ra. Để giúp hoạt động bán hàng nhập khẩu đạt hiệu quả, Công ty đã thực hiện các hoạt động xúc tiến bán hàng như thăm dò, tiếp cận khách hàng, trình bày giới thiệu hàng hoá, in ấn phát hành các tài liệu về hàng hoá, xử lý các thông tin phản hồi từ phía khách hàng,.. ý thức được tính chất đặc biệt của hàng hoá nhập khẩu, Công ty đã đẩy mạnh dịch vụ sau bán hàng để hỗ trợ cho hoạt động bán hàng. Đáp ứng nhu cầu khách hàng, Công ty đã thực hiện dịch vụ lắp đặt tại đơn vị sử dụng, sửa chữa, bảo dưỡng, bảo hành, bán phụ tùng thay thế, dịch vụ gia công, tái chế,.. Với việc thực hiện các biện pháp này, doanh số bán hàng nhập khẩu của Công ty đã tăng lên một cách đáng kể. Điều này thúc đẩy hoạt động nhập khẩu hàng hoá kinh doanh của công ty. Đây là bàn đạp cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty . 3.8>. Chi phí kinh doanh. Trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty, chi phí kinh doanh thường được xác định theo hai loại: - Chi phí cố định: gồm tiền lương, tiền khấu hao TSCĐ, cửa hàng, máy móc,.. là một khoản chi phí đáng kẻ trong hoạt động kinh doanh của công ty, không phụ thuộc vào mức lưu chuyển hàng hoá - Chi phí biến đổi: phụ thuộc vào mức lưu chuyển hàng hoá như chi phí mua bán, chi phí vận tải, bốc dỡ hàng hoá, giao nhận, hải quan, kiểm định, lưu kho bãi, lãi suất ngân hàng, chênh lệch tỷ giá, thuế nhập khẩu, thuế VAT, của từng loại hàng hoá mà Công ty nhập. 4>. Đánh giá chung hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty Máy và Phụ tùng. Đánh giá hoạt động kinh doanh nhập khẩu nhằm giúp Công ty có thể khai thác, tận dụng triệt để những thế mạnh của mình cũng như đề ra các chủ trương, biện pháp hành động hạn chế ảnh hưởng của mặt yếu trong kinh doanh. Mặt khác, qua việc đánh giá này giúp Công ty phát hiện và nắm bắt được những cơ hội và thách thức trong kinh doanh. 4.1>. Những thành tựu đạt được. (1). Với bề dày 50 năm kinh nghiệm, với những mối quan hệ rộng rãi, Công ty vẫn đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường. Mặc dù các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất trong nước đã được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp nhưng họ vẫn cộng tác với Machino, nhập khẩu uỷ thác qua Machino. Đó là do Machino đã xây dựng được một thị trường lớn trong và ngoài nước, có uy tín làm ăn lâu năm, được nhiều bạn hàng tin cậy. (2). Công ty có một đội ngũ kinh doanh XNK nắm vững nghiệp vụ, năng động, đồng thời có các nguyên tắc làm việc tập trung dân chủ. Vì là Công ty kinh doanh trong lĩnh vực XNK nên cán bộ kinh doanh XNK của Công ty không những nắm vững nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ mà còn có những hiểu biết về các ngành KHKT khác. (3). Machinoimport là Công ty XNK được Nhà nước quan tâm, hỗ trợ, các mặt hàng chủ lực vẫn nhập khẩu qua công ty. Ngoài ra, Nhà nước tiếp tục tạo môi trường pháp lý quốc tế thuận lợi cho các doanh nghiệp nói chung và cho Machino nói riêng bằng việc mở rộng diện các nước kí hiệp định thương mại với Việt Nam, đàm phán, tranh thủ các ưu đãi về thuế và thị trường cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. (4). Công ty đã đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh, ngoài các mặt hàng truyền thống về máy móc, thiết bị phụ tùng Công ty còn phát triển kinh doanh xuất khẩu các mặt hàng như: cao su, gạo, sắt thép, hàng dệt may, gốm sứ, hàng thực phẩm, hoa quả tươi, thuỷ sản… (5). Công tác quản lý điều hành đã từng bước được cải thiện, tạo sự thống nhất phối hợp chặt chẽ từ Công ty đến các đơn vị thành viên, chỉ đạo công việc được sát sao, sự phối hợp giữa các phòng ban chức năng có hiệu quả hơn. (6). Có mạng lưới kinh doanh rộng khắp trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam và đặc biệt ở các thành phố lớn. (7). CTy đã tạo ra công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động và đem lại cho họ một nguồn thu nhập ổn định phù hợp với sức lao động mà họ cống hiến góp phần vào sự ổn định kinh tế xã hội của đất nước. 4.2>. Những mặt còn tồn tại cần khắc phục ở Machinoimport Thực tế cũng cần phải thẳng thắn nhìn nhận, Công ty Máy và Phụ tùng Machinoimport cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào luôn tồn tại những mặt còn yếu kém của mình. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để khai thác, tận dụng mọi thế mạnh, hạn chế tối đa ảnh hưởng của các mặt yếu. Để làm được điều đó, thì việc dũng cảm, trung thực, đánh giá đúng những mặt yếu kém còn tồn tại sẽ là điều kiện tiên quyết giúp cho Công ty phát triển vững mạnh. (1). Môi trường cạnh tranh Cần phải kể đến sự cạnh tranh của các đơn vị ngoài ngành tham gia nhập khẩu máy móc thiết bị. Trong cơ chế thị trường, hệ thống các Công ty tư nhân rất phát triển, mặc dù kinh doanh về lĩnh vực máy và phụ tùng họ chưa có nhiều kinh nghiệm như các Công ty của Nhà nước: Technoimport, Công ty lắp máy Việt Nam LILAMA, Công ty XNK và chuyển giao công nghệ VINAGIMEX, Machinoimport . Do cơ chế thoáng, họ đã nhập uỷ thác, nhập trực tiếp, lậu thuế…tạo thành sự cạnh tranh gay gắt về giá và một sự cạnh tranh gay gắt đáng sợ hơn là cơ chế thưởng, gửi giá…bất chấp mọi quy chế tài chính mà Công ty phải chấp hành đầy đủ. Ngoài các Công ty tư nhân, cần phải kể đến các Công ty khác của Nhà nước được phép nhập khẩu và đổi hàng lấy máy móc, thiết bị, các liên doanh xây dựng được phép nhập khẩu miễn thuế cũng tạo nên một thị trường kinh doanh khó kiểm soát. Trong nền kinh tế thị trường có lãi thì họ làm chứ không mang chức năng điều hoà, phát triển sản xuất kinh doanh trong nước. (2). Tồn tại thứ hai cần được đề cập ở đây là sự yếu kém của một số đơn vị thuộc khối lưu thông, đầu mối tiêu thụ máy móc thiết bị nhập khẩu của CTy. Do hầu hết các Công ty máy móc, thiết bị, phụ tùng vẫn còn bị ảnh hưởng bởi cơ chế quản lý tập trung, chưa chủ động tìm kiếm khách hàng thị trường, thị phần bị rơi vào tay các Công ty tư nhân. Hàng của Công ty thường kêu giá cao song kiểm tra thực tế thì nhiều khi không hẳn như vậy mà thấy lợi trước mắt thì khai thác hàng nhập khẩu của các đơn vị ngoài ngành hoặc bán hàng của Công ty dùng vốn quay vòng. (3). Thị trường nhập khẩu truyền thống của Công ty là Nga và Ucraina luôn có những biến động về kinh tế và chính trị, hơn nữa khoảng cách địa lý khá xa nhiều khi hợp đồng không thực hiện được hoặc chậm thực hiện hợp đồng. Thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc tuy gần nhưng chất lượng không cao, chỉ đáp ứng được những công trình có giá trị không lớn hoặc những máy móc phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, chế biến nông sản. Hệ thống thông tin tìm hiểu bạn hàng, thị trường, tình hình kinh doanh hàng nhập khẩu về các đơn vị ngoài ngành của Công ty còn chưa được chú ý. (4). Vốn kinh doanh Một khó khăn lớn của Công ty là nguồn vốn kinh doanh hạn hẹp. Ví dụ: năm 2002 Bộ Tài chính giao cho Công ty 215 tỷ đồng trong đó vốn lưu động là 125 tỷ nhưng riêng lượng hàng tồn kho của Công ty tính đến 31/12/2001 đã chiếm tới 137 tỷ đồng. Vậy nên, việc kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay ngắn hạn là hết sức khó khăn. Mặt khác, Công ty phải tiếp tục đảo nợ đến hạn để tránh phải chịu lãi suất quá hạn cho một số hợp đồng. Để trả nợ ngân hàng đúng hạn thì việc bán hàng và thu hồi vốn theo các hợp đồng đã ký và đang thực hiện phải hết sức khẩn trương. Vốn kinh doanh của Công ty quá ít so với nhu cầu. Có hợp đồng nhập khẩu nên tới hàng chục triệu USD, để thực hiện được hợp đồng, Công ty đã huy động mọi nguồn vốn ngân sách Nhà nước, vay vốn gọi vốn đầu tư từ các cơ sở kinh tế, liên doanh hợp tác với nước ngoài, kể cả dùng tín chấp của mình để vay ngân hàng. Nhiều khi đã ký được hợp đồng, đến giai đoạn thực hiện hợp đồng chỉ vì nguyên nhân thiếu ngoại tệ mà hợp đồng không thực hiện được. Khó khăn lớn nhất đối với người làm kinh doanh nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng là thiếu vốn. Việc thiếu vốn cơ bản, thiếu vốn để đầu tư, mở rộng, cải tạo và trước mắt là thiếu vốn kinh doanh là vấn đề bức xúc của Công ty. (5). Nhân sự Số lượng cán bộ công nhân viên trong Công ty rất lớn gần 2000 người nhưng khối lượng công việc đảm nhiệm chưa nhiều, trong đó phần lớn là những người đã lớn tuổi, có nhiều năm đã cống hiến nhưng trình độ lại không đáp ứng được những yêu cầu của nhiệm vụ mới, đòi hỏi phải nhanh nhạy và có kiến thức chuyên môn sâu, có ngoại ngữ và thích ứng với cơ chế thị trường. Về khâu tổ chức, đào tạo và bố trí cán bộ một thời gian dài chậm đổi mới và chưa có định hướng, trong khi yêu cầu về tổ chức lại và phát triển là một thực tế đòi hỏi cấp bách. (6). Chiến lược Marketing của Công ty còn chung chung và chưa kết hợp đồng bộ các hoạt động hỗ trợ. Việc lập kễ hoạch tiêu thụ chưa theo sát được với thị trường gây khó khăn cho công tác phân phối. Việc tổ chức bán hàng còn thụ động, chưa có biện pháp rà soát đánh giá hiệu quả công tác bán hàng dẫn tới hàng tồn kho nhiều gây ứ đọng vốn. Giá bán còn tương đối cao so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường. Chưa tận dụng hết nguồn lực của CTy, cũng như chưa khai thác được thị trường tiêu thụ rộng lớn. Sự chuẩn bị để đối phó với đối thủ cạnh tranh của Công ty còn yếu. Sự phối hợp đồng bộ giữa các khâu trong hoạt động kinh doanh, công tác xây dựng kế hoạch chưa đạt hiệu quả cao. Các phòng ban trong Công ty chưa liên kết chặt chẽ để tạo thành một hệ thống sức mạnh trong bước đi mới. (7). Cơ chế Là một doanh nghiệp kinh doanh XNK nên biểu thuế xuất nhập khẩu theo kiểu vừa đơn giản vừa phức tạp như của Việt Nam làm cho Công ty gặp không ít khó khăn. Trong việc tính thuế, làm thủ tục thông quan, thủ tục giao nhận hàng. Vì danh mục thuế chỉ có một cột với một tỷ lệ áp dụng cho một nhóm, không đủ chi tiết để xác định gây khó khăn cho việc định mức thuế XNK cho những hàng hoá không ghi trong bảng mã thuế quan. Phức tạp vì biểu thuế có tới 36 mức thuế. Nhìn chung, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty Machinoimport chưa được phát huy mạnh. Các thiết bị toàn bộ chủ yếu do Machino Hà Nội thực hiện và số lượng chỉ mới tăng lên trong vài năm gần đây đặc biệt là từ năm 2001. Nếu so sánh trị giá của máy móc thiết bị toàn bộ mà Machino nhập khẩu với giá trị các máy móc thiết bị của các Công ty khác con số này còn khá khiêm tốn. Kết luận Trong quá trình nghiên cứu và học hỏi tại Công ty máy và phụ tùng, em đã học hỏi và tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm, nhưng vẫn còn hạn chế vì thời gian thực tập ngắn. Nhưng em cảm thấy thực tế và lý thuyết khác nhau rất nhiều em cần phải có thời gian để học hỏi. Em xin cảm ơn các cô, các bác và các anh chị tại phòng kinh doanh của Công ty đã giúp đỡ em rất nhiều và em xin cảm ơn bác Vương Văn Tịnh đã giúp đỡ em và chỉ bảo cho em những số liệu để em hoàn thành chương trình thực tập tại Công ty. Em xin chúc các cô các bác tại Công ty mạnh khoẻ. Em xin cám ơn các thầy, cô đã hướng dẫn em hoàn thành chương trình thực tập. Sinh viên Trần Văn Thành Mục lục Phần I>. Sự hình thành và phát triển của công ty Máy và phụ tùng 1 1>.Khái quát quá trình hình thành và phát triển của công ty Máy & phụ tùng 1 2>. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty. 4 3>.Chức năng ,nhiệm vụ của công ty. 11 4- Bộ phận trong Công ty và sinh viên thực tập 12 Phần II>. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty máy và phụ tùng 13 1>. Đặc điểm về vốn sản xuất kinh doanh. 13 2>. Đặc điểm mặt hàng. 14 3>. Đặc điểm thị trường nhập khẩu. 15 4>.Đặc điểm về nhân lực. 16 Phần III>. Tình hình kinh doanh nhập khẩu hàng hoá của Công ty trong thời gian qua. 18 1>. Kết quả kinh doanh . 18 1.1>. Tổng doanh thu lợi nhuận 19 1.2>. Nộp ngân sách mức lương bình quân. 21 2>.Phương thức kinh doanh nhập khẩu hàng hoá của của Công ty máy & phụ tùng 21 2.1>. Kim ngạch nhập khẩu. 21 2.2>. Phương thức nhập khẩu. 22 3>. Các nghiệp vụ kinh doanh nhập khẩu hàng hoá. 25 3.1>. Nghiên cứu thị trường 26. 3.2>. Lựa chọn đối tác. 27 3.3>. Xác định mức giá nhập khẩu. 28 3.4>. Lập phương án kinh doanh . 28 3.5>. Đàm phán và ký kết hợp đồng. 29 3.6>. Thực hiện hợp đồng. 30 3.7>. Tổ chức bán hàng nhập khẩu. 31 3.8>. Chi phí kinh doanh . 32 4>. Đánh giá chung hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty. 33 4.1>. Những thành tựu đạt được. 33 4.2>. Những tồn tại cần khắc phục. 34 Kết luận…………………………………………………………………………….37 Công ty máy & phụ tùng – MACHINOIMPORT Hà Nội, ngày 24 tháng 11 năm 2004 Xác nhận của đơn vị thực tập Kính gửi: Ban chủ nhiệm Khoa Kinh tế Viện Đại học Mở Hà Nội Tôi thay mặt Công ty xác nhận em Trần Hải Long đã hoàn thành tốt quá trình thực tập và học hỏi tại Công ty Máy và phụ tùng _ MACHINOIMPORT. Trong quá trình thực tập tại Công ty, em Trần Hải Long đã thực hiện hoàn thành tốt trách nhiệm của bản thân cũng như tích luỹ và hỏi nhiều kinh nghiệm cho mình. Đã hoàn thành chương trình thực tập tại Công ty T/M Công ty Máy và phụ tùng MACHINOIMPORT Phó giám đốc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34814.doc
Tài liệu liên quan