Báo cáo thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu khoáng sản - Mimexco

Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu còn dàn trải, không ổn định, không hình thành nên được một cơ cấu hàng hoá kinh doanh để có được một mặt hàng chủ lực và thường xuyên hơn. Do vậy tỷ trọng nhập khẩu quá thấp sẽ không cân đối được kim ngạch dẫn đến sự mất thăng bằng và không phát huy được khả năng cạnh tranh của Công ty. Bên cạnh những thành tích đạt được là những khó khăn tồn tại cần được hạn chế khắc phục giải quyết để Công ty tiếp tục phát triển nhất là trong cơ chế mở thị trường cạnh tranh gay gắt không chỉ trong nội địa mà còn có cả yếu tố nước ngoài trong khi đó Công ty chưa có chính sách chiến lược về thị trường trong và ngoài nước. Trong hoạt động kinh doanh của Công ty các thông tin về thị trường, hàng hoá, giá cả chỉ được thực hiện qua các nhân viên XNK hoặc qua các bản chào hàng khác nhau của các bạn hàng nước ngoài hoặc các Công ty kinh doanh cùng ngành. Do vậy lượng thông tin tản mạn, dừng lại ở phạm vi hẹp lại không kịp thời nên chưa sử dụng có hiệu quả. Ngoài ra Công ty còn gặp nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân khác như: ã Thị trường thế giới vẫn bất lợi đối với nguyên liệu khoáng sản, giá các loại khoáng sản như : thiếc, Ăngtimoan, Volfram, nhìn chung ở mức thấp và có sự biến động nên sản phẩm không bán được hoặc phải ngừng bán chờ lên giá. ã Cơ chế điều hành mới của nhà nước chỉ cho phép các đơn vị có mỏ mới được xuất khẩu khoáng sản, không khuyến khích các đơn vị kinh doanh thương mại xuất khẩu khoáng sản. Việc này đã gây nhiều khó khăn trong việc thu gom nguồn hành và làm xuất hiện nhiều đơn vị cạnh tranh cả ngoài và trong Tổng Công ty. ã Một nguyên nhân lớn nữa làm doanh số nhập khẩu và doanh thu nội địa giảm sút là: Nhà nước đã chấm dứt cho phép đổi hàng xuất khẩu để nhập khẩu xe máy từ thị trường Lào về. ã Công ty MIEXCO là Công ty đã có nhiều năm kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh XNK khoáng sản, nhưng những gì đạt được trong những năm gần đây chứng tỏ sự phát triển của Công ty chưa bền vững. Để hoạt dộng kinh doanh XNK của Công ty vượt qua được khó khăn, thách thức và ngày càng phát triển hơn nữa, Công ty cần xây dựng phương hướng dài hạn, trung hạn, và ngắn hạn mang tính chiến lược cho hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm tới.

doc48 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1408 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu khoáng sản - Mimexco, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhập khẩu tại chỗ mà chỉ khi nào thị trương có nhu cầu thì Công ty mới nhập khẩu vì thế mà rễ để lỡ cơ hội kinh doanh. Công ty nên có những biện pháp thiết thực để việc nhập khẩu được ổn định, có chiến lược hơn. Ngoài những mặt hàng kinh doanh XNK trên hiện nay Công ty còn tham gia vào lĩnh vực đấu thầu, làm dịch vu cho nước ngoài (nhận kiểm tra, thực hiện thanh toán tiền ), nhận thay mặt bên nước ngoài kiểm tra chất lượng, giám sát quá trình thah toán, giao nhận hàng hoá. Công ty còn tổ chức mở một số cửa hàng đại lý kinh doanh như: đại lý kinh doanh sắt thép xây dựng, đại lý kinh doanh đồ gỗ nội thất. Nhưng đều kinh doanh không có hiệu quả cuối cùng phải bỏ. 2: Thị trường hoạt động Bất kỳ Công ty kinh doanh nào thì yếu tố đầu ra là rất quan trọng, đó là thị trường nơi diễn ra trao đổi mua bán tiêu thụ hàng hoá. Tuy mới thành lập nhưng phạm vi hoạt động của Công ty rất rộng lớn do có sự tìm hiểu, phân tích thâm nhập thông qua thông tin thu thập được và qua sự giới thiệu môi giới của các bạn hàng truyền thống. Thị trường chủ yếu của Công ty là thị trường Châu á - Thái Bình Dương trong đó nổi bật là một số thị trrường như: Malayxia, Trung Quốc, Lào, Nhật Bản, Thái Lan . Đó là thị trường truyền thống có mức tiêu thụ khá cáo. Khách hàng ở thị trường này rất ổn định và có độ tin cậy cao tạo nên sự ổn định trong hoạt động kinh doanh của Công ty. Trong tương lai Công ty từng bước thâm nhập vào một số thị trường Châu Mỹ, EU để phân tán rủi ro khi có sự khủng hoảng ở một thị rường nào đó, đây là bài học được giút ra từ bài học của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á - Thái Bình Dương, đồng thời có sự lựa chọn đối tác thích hợp sao cho có hiệu quả nhất. Có thể nói rằng thị trường tiêu thụ của Công ty khá rộng có mối quan hệ mật thiết với hơn 10 Công ty ở các quốc gia khác nhau tạo thế vững chắc và ônt định cho việc xuất khẩu hàng hoá, đồng thời có thể nhập khẩu từ thị trường đó những trang thiết bị hiện đại phục vu cho công cuộc khai khoáng, xây dựng tiêu dùng trong nước. Đối với thị trường xuất khẩu chủ yếu là Malayxia, Trung Quốc hàng năm xuất khẩu sang thị trường này từ 500 - 800 MT thiếc thổi và quặng sắt. ngoài ra còn có thị trường Nhạt Bản, Hà Lan . . . hàng năm tiêu thụ từ 200 - 3000MT. Về thị trưòng nhập khẩu tập trung chủ yếu là Lào, Nhật Bản, Trung Quốc . . . Hàng năm trung bình đạt trên 75000 USD cải thiên cán cân XNK đồng thời thu được một khoản lợi nhuận khá lớn và phục vụ tốt hơn trong việc khai thác khoáng sản. Có thẻ nói thị trường hoạt động của Công ty khá rộng và tương đối ổn định đặc biệt là thị trường đầu ra (thị trường xuất khẩu) trong quá trình kinh doanh XNK của Công ty từ đó tạo sự ổn định về doanh thu và số lượng hàng hoá bán ra hàng năm. 3: Quan hệ đối tác kinh doanh Công ty XNK khoáng sản Việt Nam là một Công ty kinh doanh thương mại không trực tiếp sản xuất , tự thực hiện xuất khẩu hoặc nhận xuất khẩu uỷ thác. Vì vậy với Công ty quan hệ với các nhà cung cấp rất đa dạng . Trong nước là các doanh nghiệp sản xuất khoáng sản như: Công ty Luyện kim mầu Thái Nguyên, Công ty sắt Cao Bằng, Công ty luyện kim mầu Ngệ Tĩnh, Công ty khoán sản I . . . Đây là một số nhà cung cấp lâu năm uy tín đối với Công ty. Tiếp tục đẩy mạnh tìm kiếm nguồn hàng, MIMEXCO tăng cường tìm kiếm nhiều nhà cung cấp có chất lướngẽ là cơ hội tốt cho Công ty , với các đối tác nước ngoài đều là những bạn hàng truyền thống. Thị trường cung cấp lớn nhất là Malaysia và Trung Quốc bên cạnh đó còn có Lào. Tuy nhiên hiên nay một số nhà cung cấp trong nước đã dần dần mất đi do cơ chế thị trường thay đổi, họ có thể tự xuất khẩu mà không cần qua trung gian. Công ty nên có biện pháp và phương hướng tốt trong quan hệ đối tác hiện nay. Ngoài những nhà cung cấp khoáng sản, Công ty còn có quan hệ rất uy tín với nhiều ngân hàng trong nước, trong một số trường hợp Công ty không cần thế chấp tài sản mà vẫn có thể vay vốn kinh doanh được. Công ty đã có quan hệ kinh doanh với 11 Công ty ở các nước trên thế giới ngoài Malaysia, Trung Quốc còn có Nhật Bản, UK, Germany, Lào, Hà Lan, Hồng Kông, Anh, Nga, ý. Cho đến nay nhiều mặt hàng Xuất khẩu đi các nước Châu Âu và Hồng Kông không còn nữa chủ yếu là do Công ty không tìm được nguồn hàng trong nước, nên quan hệ với các đối tác đó tạm nắng suống, Công ty chú trọng vào hai thị trường chính là Malaysa và Trung Quốc. 4: Tình hình cạnh tranh. Là Công ty kinh doanh thương mại mà hoạt động chính là xuất khẩu khoáng sản (chủ yếu là thiếc và quặng sắt) nên các đối thủ cạnh tranh chủ yếu là các Công ty thương mại cùng ngành nghề kinh doanh - đây là điều tất yếu trong nền kinh tế thị trường . Cụ thể là các Công ty kinh doanh khoáng sản thuộc doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp địa phương. Việc cạnh tranh này diễn ra gay gắt trong việc thu thập nguồn hàng xuất khẩu. Từ khi có chính sánh khuyến khích xuất khẩu Nhà nước, các thành phần kinh tế trực tiếp tham gia kinh doanh xuất khẩu ngày càng nhiều, cộng thêm các Công ty trực tiếp sản xuất cũng tham gia Xuất khẩu đây là các đối thủ cạnh tranh rất có thế mạnh bởi họ được hưởng nhiều ưu đãi của nhà Nước như thuế VAT, do họ trực tiếp sản xuất mặt hàng từ nguyên liệu thô chưa qua chế biến nên được miễn thuế. Nhưngbb do trình độ nghiệp vụ ngoại trương còn thấp cộng với chưa có uy tín với các đối tác nước ngoài nên một số Công ty vẫn phải xuất khẩu uỷ thác qua công ty MIMEXCO. Trong lĩnh vực đấu thầu, đây là một lĩnh vực mà Công ty mới tham gia nên khặp rất nhiều khó khăn, không chỉ khó khăn trong việc thiếu am hiểu về sản xuất và máy móc thiết bị mà đặc biệt gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các đối thủ sản xuất trong ngành. Công ty tăng cường mở rộng thị trường mới nhằm đáp ứng các nhu cầu về vật tư nguyên nhiên vật liệu của các đơn vị xản xuất cũng như các nhu cầu về đầu tư công nghệ sản xuất, mà Công ty có thế mạnh đáp cung ứng từ đó xây dựng mạng lưới cung cấp các vật tư nguyên vật liệu, thiết bị công nghệ nói trên cho thị trường trong nước (như: các loại vật tư, nguyên vật liệu như than cốc, các sản phẩm Fero phụ gia cho công nghệ luyện kim, hoá chất phục vụ công nghiệp, các thiết bị vận tải và thiết bị chuyên dùng khác, công nghệ và thiêt bị chế biến khoáng sản luyện kim . . .) Khi tham gia thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cản trở đầu tiên đối với doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh nội địa do họ có sự hỗ trợ của Chính Phủ và tinh thần dân tộc của khách hàng. Bên cạnh đó còn có đối thủ cạnh tranh nước ngoài đang hoạt động trên thị trường đó. Nhà kinh doanh không thẻ trờ đợi một thái độ hợp tác hay những phản ứng thụ động mà ngược lại doanh nghiệp phải đối mặt với những biện pháp ứng phó khi trực tiếp khi gián tiếp , khi thô thiển khi tinh vi với nguồn lực có thể rấtđáng kể có thể chi phí cho cạnh tranh. Các phương thức cạnh tranh của Công ty cũng rất đa dạng và phong phú như cung cấp dịch vụ miên phí về sản phẩm cung cấp một số thông tin thiết thực , thực hiện phương thức thanh toán đơn giản , giao đúng hẹn đúng nơi , đảm bảo chất lượng hàng tốt hơn . . . Đựng trước những yếu tố cạnh tranh Công ty đã đánh giá nhân tố thị trường , phục vụ cho việc hoạch định chiến lược trong quá trình thâm nhập một số thị trường trọng điềm đồng thời Công ty không ngường nghieeen cứu thị trường tiềm năng và các phương thức hoạt động của nó để phục vụ cho quá trình kinh doanh được cao hơn. 5: Môi trường cạnh tranh khác Là một Công ty kinh doanh thương mại thuộc Tổng Công ty khoáng sản Việt Nam và Công ty có cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Công ty còn rât hạn chế, chưa có sự mở rộng, trong khi đó Công ty chưa có chinh sách hỗ chợ của các cơ quan ban ngành trong việc xuất nhập khẩu hàng hoá. Việc vay vồn của Công ty cũng rất hạn hẹp chưa được hưởng chính sách ưu đãi về thuế , lãi suất và một số ưu đãi khác. Đây là những khó khăn rất lớn cho Công ty đặc biệt là vấn đề về vốn trong hoat đông kinh doanh của Công ty. Gần đây theo chỉ thị của thủ tướng Chính Phủ số 01/2003/CT-TTg ngày 16/1/2003 đã quy định chuyển biến sắp xếp đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, trọng tâm là nâng cao hiệu quả kinh doanh của Tổng Công ty và thực hiên cổ phần hoá, giao, bán khoán, kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể phá sản các doanh nghiệp nhỏ thua lỗ và nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn cũng đã tác động không nhỏ tới Công ty. Tuy nhiên trong những năm qua Công ty đã hoạt động có hiệu quả nên không thuộc diên đã nêu trên. Nói đến môi trường tác động vào Công ty kinh doanh quốc tế nói chung và Công ty XNK thương mại nói riêng là chúng ta phải đề cặp đền các môi trường sau; môi trường chính trị; môi trưòng văn hoá; môi trường luật pháp; môi trường kinh tế. Nhưng do đặc thù khác biệt của Công ty MIMEXCO là chuyên kinh doanh hàng khoáng sản Việt Nam nên Công ty hầu như không chựu sự ảnh hưởng các yếu tố của môi trường chính trị, văn hoá, luật pháp tác động tới, nên trong bài viết này em xin không đề cặp đến. Mà chỉ có môi trường kinh tế là tác động tới hoạt động kinh doanh của Công ty, về cụ thể nó tác động tới như thế nào thì sẽ được phân tích ở phần sau. Phần III : đánh giá kết quả hoạt đông của Công ty MIMEXCO trong những năm gần đây 1: Lĩnh vực kinh doanh của Công ty Trong giai đoạn 1999 - 2002 tổng kim ngạch XNK của Công ty được thể hiện qua bảng sau: Bảng 3 : Tổng kim ngạch XNK năm 1999 - 2002 Đơn vị: USD Năm Chỉ Tiêu 1999 2000 2001 2002 Xuất khẩu 9.458.405 6.772.504 7.933.504 4.784.000 Nhập khẩu 1.211.733 491.570 75.019 644.840 Tổng 10.670.138 7.264.074 8.008.523 5.428.840 Nguồn : Báo cáo hoạt động kinh doanh XNK của Công ty (1999 – 2000) Bảng trên cho thấy kim ngạch XNK của Công ty thời kỳ này có sự giảm sút rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu năm 1999 rất cao đạt 9.458.405 USD nhưng sang năm 2000, 2001, 2002 đã có sự giảm sút đáng kể đặc biệt là năm 2002 (4.784.000 USD), chỉ bằng xấp xỉ 1/2 kim ngạch của năm 1999. Không chỉ đổi mới xuất khẩu mà ngay cả kim ngạch nhập khẩu cũng giảm, đặc biệt là vào năm 2001. Điều này cho thấy trong những năm qua (2000 - 2002) Công ty đã có sự khó khăn trong XNK mà nguyên nhân chủ yếu là do có sự thay đổi về điều kiện kinh doanh. Cơ chế quản lý Nhà nước đã xó sự thay đổi lớn với Thông tư 02/2000TT - BCN: chỉ cho phép các đơn vị có mỏ mới được phép xuất khẩu khoáng sản, điều nay trực tiếp gây bất lợi cho Công ty vì không có đủ hàng xuất khẩu đồng thời đối thủ cạnh tranh lại tăng lên càng đưa Công ty vào thế bí, đòi hỏi phải có chiến lược sao cho phù hợp với tình hình mới. Một nguyên nhân nữa làm cho doanh số nhập khẩu giảm là Nhà nước đã chấm dứt cho phép đổi hàng xuất khẩu để nhập xe máy từ thị trường Lào về . . . Có thể nói, trong 3 năm gần đây, Công ty luôn gặp khó khăn cản trở trong hoạt động kinh doanh đặc biệt là trong việc tìm nguồn hàng xuất khẩu. Tuy nhiên nếu nói về chủng loại mặt hàng xuất khẩu của Công ty lại rất đa dạng, điều này được phản ánh qua một số chỉ tiêu sau: 1.1 Về xuất khẩu Các mặt hàng xuất khẩu của Công ty chủ yếu là thiếc thỏi 99,75% , các loại quặng như quặng kẽm, quặng sắt, quặng chì, quặng Cromite, quặng wonframit, quặng Zireon ... Đây là những mặt hàng mà Công ty rất có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước và đó cũng là những mặt hàng truyền thống của Công ty. Những mặt hàng này đã đem lại doanh thu rất lớn cho Công ty và cũng đóng góp một khoản lớn cho ngân sách Nhà nước. Chỉ cần nhìn qua bảng dưới đây ta có thể thấy được tình hình xuất khẩu các loại khoáng sản của Công ty: Bảng 4: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Công ty giai đoạn 1999 – 2000 Đơn vị :USĐ Năm Mặt hàng 1999 2000 2001 2002 Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Thiếc thỏi 5431531 57,4 3168976 46,8 3931380 49.55 2191460 45,8 Cromite 250230 2,6 107215 1,6 105045 1,32 Sắt 3089680 32,7 3275756 48,3 3911150 49,3 2548740 53,27 Fluospar 118776 1,3 129293 1,9 Wolframite 117795 1,48 43800 0,93 Loại khác 568188 6.0 91261 1,4 Tổng 9458405 100 6772504 100 7933504 100 4784000 100 Nguồn: Thống kê hoạt động kinh doanh của Công ty (1999 - 2002) Qua một vài con số thống kê trên, ta có thể thấy rằng trong sỗ các mặt hàng xuất khẩu thì mặt hàng thiếc thỏi 99,75% luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu, chứng tỏ đây là mặt hàng có ưu thế và có vị trí rất quan trọng đối với Công ty. Tuy nhiên qua các năm mặt hàng này lại không tăng đôi khi còn giảm (điển hình là năm 2002 vừa qua) nhưng không vì thế mà có tỷ trọng thấp hơn các mặt hàng khác. Ngoài ra Công ty còn xuất thiếc thỏi 99,95% nhưng với số lượng ít. Về loại khoáng sản thiếc thỏi này đã được khai thác từ nhiều mỏ thiếc ở nhiều vùng khác nhau như Nghệ An, Tây Nguyên, Lâm Đồng, Thanh Hoá, Tam Đảo ( Vĩnh Phúc), Đại Từ (Thái Nguyên) . . . Mặt hàng này ngày càng ít đi do khai thác ở các mỏ giảm dần, hoặc chủ sở hữu ở các mỏ có quyền tự xuất khẩu đây là nguyên nhân chính mà Công ty xuất khẩu giảm dần. Bên cạnh cạnh mặt hàng thiếc thì quặng sắt cũng được coi là mặt hàng chủ lức. Khi thiếc có su hường giảm thì quặng sắt lại tăng lên qua các năm và chiếm một tỷ trọng rất cao (cao hơn cả thiếc). Năm 2002 tăng gần gấp đôi so với năm 1999 và có thể khẳng định mặt hàng này tiếp tục có xu hướng phát triển hơn. Một sự giảm sút rõ rệt là quặng Cromit từ 250.230 (1,6%) năm 1999 xuống còn 105.045 (1.32&) năm 2001 và sang năm 2002 thì không còn Xuất khẩu nữa do lượng khai thác loại quặng này ngày càng ít đi và Công ty không thể tìm được nguồn hàng đó nữa. Hai mặt hàng thiếc thỏi và quặng sắt đã đem lại hơi 80% lợi nhuận cho Công ty và là mặt hàng chủ lực giúp cho Công ty xác định được ưu thế của mình trên thị trường xuất khẩu khai thác được lợi thế cạnh tranh từ đó trở thành bạn hàng chuyền thống đối với các đối tác nước ngoài đồng thời ngày một mở rộng thị trường hơn nữa . Ngoài các mặt hàng trên Công ty còn xuất khẩu một số mặt hàng sau tuy không nhiều nhưng cũng đem lại cho Công ty mức lợi nhuận đáng kể. - Angtimoon thỏi 99,6& Sb trước đây mỗi năm xuất khẩu được 200 tấn, trong các năm tiếp theo do mặt hàng này còn lại rất ít lượng nên mỗi năm Công ty chỉ xuất khẩu khoảng 100 tấn. Angtinoom thỏi 99,6% Sb là loại khoáng sản hiên nay rất hiếm và nó còn được sử dụng cả trong nước nên chữ lượng xuất khẩu rất ít. Quặng kẽm ở Thái Nguyên tồn tại dưới hai dạng : Kẽm Oxit (ZnO) 60% mỗi năm xuất khẩu từ 40 - 50 ngàn tấn. Tuy nhiên sang năm 2002 Công ty không tham gia xuất lhẩu mặt hàng này. ZnS 52% chủ yếu chủ yếu qua chế biến rồi xuất khẩu, mỗi năm được khoảng 1000 tấn. Tóm lại các mặt hàng mà Công ty tham gia xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô chưa qua chế biến, là những mặt hàng được xếp vào loại quý hiếm của Việt Nam. Tình hình lượng khoáng sản xuất khẩu của Công ty giảm đi có thể quy vào một số nguyên nhân sau : Sau khi có QĐ57/CP của Chính Phủ mở rộng diện tích xuất khẩu hàng hoá cho các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất, do vây các đơn vị chế biến đều trực tiếp xuất khẩu hàng hoá của mình mà không cần uỷ thác qua các Công ty thương mại XNK. Tài nguyên khoáng sản tại các vùng mỏ trong nước ngày một cạn kiệt. Các vùng mỏ khác chưa được đánh giá lượng chính xác cho nên dẫn đến ngây rủi ro trong đầu tư xây dựng mỏ vì thế lượng khoáng sản của các mỏ sản xuất ra ngày càng ít đi. Về giá quốc tế mặt hàng thiếc bắt đầu từ cuối năm 2000 giảm liên tục. Có thể tham khảo thị trường thiếc LME Luân Don, là nơi quy định giá quốc tế về kim loại. Từ các nguyên nhân trên đẫn đến tỷ trọng mặt hàng chính thiếc thỏi trong cơ cấu xuất khẩu của Công ty giảm đi cả về số lượng và giá cho nên làm giảm kim ngạch cũng như kết quả kinh doanh của Công ty trong các năm qua. Trên thị trường ngày càng xuất hiện nhiều Công ty cũng tham gia xuất khẩu khoáng sản nện sự cạch tranh diễn ra gay gắt, điều đó có nghĩa là mỗi bên phải chia xẻ một phần thị trường của mình. Chính vì vậy lượng khoáng sản xuất khẩu đi nước ngoài của Việt Nam vẫn tăng nhưng qua Công ty thì có giảm. 1.2 Về nhập khẩu Kể từ khi được thành lập, Công ty có quyền nhập khẩu tất cả các trang thiết bị máy móc đạt yêu cầu về kỹ thuật phục vụ cho khoáng sản và cả ngoài ngành khi thị trường trong nước cần đến. Về nhập khẩu trong ngành và ngoài ngành của Công ty được trình bầy trong bảng thống kê sau: Bảng 5: Giá trị nhập khẩu của Công ty giai đoạn 1999 – 2002 Đơn vị: USD Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Trong ngành 1.121.730 434.768 61.000 343.830 Ngoài ngành 121.830 56.802 14.019 301.010 Tổng 1.243.560 491.570 75.019 644.840 Nguồn: Thống kê hoạt động kinh doanh của Công ty (1999 - 2000) Một điều hiển nhiên thấy rõ là năm 1999 có giá trị nhập khẩu khá cao đạt 1.243560 USD một con số vược bậc cả trong ngành và ngoài ngành. Đến năm 2001 thì giá trị nhập khẩu lại giảm xuống rất nhiều chỉ được ở mức 75019 USD. Điều này một phần cũng do có sự biến động giá cả trên thị trường quốc tế và thị trường nội địa có thể ít sử dụng hơn. Nhưng trên thực tế mặc dù đã đạt được mức độ cao hay thấp Công ty vẫn cố gắng đạt được một mức ổn định và mang lại doanh thu cao cho Công ty. Xét theo khía cạnh từng mặt hàng thì qua các năm sẽ thể hiên rõ hơn những mặt hàng nào được ưa chuộng và những mặt hàng nào đang hạn chế nhập khẩu. Bảng 6: Các mặt hàng nhập khẩu của Công ty giai đoạn 1999 - 2002 Tỷ trọng: % Đơn vị: USD Năm Mặt hàng xuất khẩu 1999 2000 2001 2002 Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kẽm 170700 12,8 Xe máy Honda 1120850 84,3 Suzuki 120CC 111600 22,7 Suzuki 125CC 200400 40,77 301255 46,7 Máy thi công 343830 53,3 Máy xúc bánh lốp 61000 81.3 Thiết bị phụ tùng Tuyển ôtô 14019 18,7 Thiết bị thuỷ điện 122768 2497 Thiết bị tuyển quặng 56802 11,56 Vải địa kỹ thuật 10483 0.8 Quặng nhôm 26400 2.1 Tổng 1328430 100 481570 100 75019 100 645085 100 Nguồn: Tài liệu thống kê hoạt động kinh của Công ty (1999 - 2002). Có thể đánh giá một số nhận định về các mặt hàng nhập khẩu của Công ty như sau : Năm 1999 Do nhu cầu của người tiêu dùng cao nên Công ty nhập khẩu chủ yếu là xe máy Honda chiếm 84.3% đáp ứng được một phần không nhỏ cho thị trường nội địa. Về các phụ tùng máy móc thiết bị phục vụ cho việc khai thác các mặt hàng xuất khẩu đã không được nhập trong năm 1999 có thể do nhu cầu chưa cần thiết và giá thành cao chi phí quá lớn mà vốn Công ty có hạn nên đã không ngập khẩu. Năm 2000 Sang năm nay hàng tiêu dùng vẫn được Công ty chú trọng nhập khẩu nhiều nhất nhưng đã giảm tỷ trong so với năm trước và đạt 63,47%. Tuy nhiên một số mặt hàng phục vụ cho khai thác khoáng sản cũng được nhập khẩu như thiết bị thuỷ điên đạt 24,97%, thiết bị tuyển quặng 11,56%. Đây là một bước tiến của Công ty đã nhập được rất nhiều mặt hàng . Năm 2001. Việc nhập khẩu thiết bị máy móc tăng lên rất nhiều đạt 81,3% co với năm 2000, và phục vụ cho hàng tiêu dùng lại giảm xuống còn 18,7%. Trong năm nằy Công ty chú trọng tới nhập khẩu các máy móc thiết bị phục vụ cho ngành khoáng sản, mặc dù tổng giá trị nhập khẩu lại giảm xuống ( đạt 75019 USD) chỉ bằng 5,56 lần so với năm 1999. Năm 2002 Vẫn ưu tỉên nhập khẩu máy móc nhưng lại giảm chỉ chiếm ở mức 53,3%. Qua các năm 1999 - 2002 Công ty nhập khẩu khá nhiều mặt hàng nhưng lại không đồng đều qua các năm: như năm 1999, 2000 chủ yếu nhập khẩu mặt hàng phục vụ nhu cầu tiêu dùng nhưng đến năm 2001, 2002 thì lại nhập nhiều hàng phục vụ khai thác các sản phẩm xuất khẩu. Nguyên nhân do hai năm gần đây trong nước tự sản xuất được nên thay thế mặt hàng nhập khẩu (với hàng tiêu dùng). Đất nước càng đẩy mạnh công nghiệp hoá thì nhu cầu về thiết bị hiện đại để phục vụ công nghiệp hoá ngày càng tăng, lắm bắt được tình hình đó Công ty đã quyết định chú trọng vào loại sản phẩm này, dựa trên nguyên tắc nhập đúng chất lượng sản phẩm yêu cầu, chánh tình trạng nhập những trang thiết bị quá cũ gây lãng phí cho Nhà nước. Nếu xét tổng gía trị sản phẩm nhập khẩu thì lại không tăng qua các năm đặc biệt năm 2001 lại giảm mạnh cũng có thể do thị trường nhập khẩu biến động trong các năm qua (1999 - 2002) tình hình xuất nhập khẩu của Công ty giảm sút đi rất nhiều đặc biệt là vào năm 2001. Điều này cũng không thể tránh khỏi do có những thay đổi trong nước. Việt Nam ngày càng thúc đẩy quan hệ hợp tác, mở cửa nền kinh tế thông thoáng hơn đây được coi vừa là cơ hội hừa là khó khăn cho Công ty. Trước những khó khăn trên mà điển hình là QĐ 57/CP của chính phủ ban hành với nội dung cho không cho phép các doanh nghiệp không có mỏ được phép xuất khẩu trực tiếp. Trước tình hình đó doanh nghiệp đã chuyển hướng kinh doanh chú trọng sang kĩnh vực đấu thầu cung cấp các trang thiết bị cho các dự án xây dựng và cải tạo nhà máy cụ thể là các dự án như: Dự án nghiền xiêu mịn với giá trị 20 tỷ, dự án xây dựng lò cao luyện ngang giá trị 21 tỷ, dự án luyện thép, dự án cung cấp thiết bị vận tải và thi công . . . tất cả các dự án này đem lại doanh thu hàng chục tỷ đồng cho Công ty. Tuy nhiên bước đầu tham gia vào đấu thầu gặp rất nhiều khó khăn nện lượng dự án còn thấp, giá trị gói thầu không cao, sự hạn chế này không thể tránh khỏi do MIMEXCO là một Công ty kinh doanh thương mại không có sản xuất nên việc tiếp cận tìm hiểu công nghệ sản xuất cung cấp cho các dự án khá khó khăn. Bên cạnh đó một số dự án đã không thể thực hiện được, hoặc triển khai chậm do chủ yếu là chủ đầu tư không có năng lực tài chính, điều này đã gây tổn thất cho Công ty. 2. Thị trường xuất nhập khẩu Đối với bất kỳ công ty kinh doanh XNK nào thì thị trường là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty. Nhận biết được tầm quan trọng của thị trường và cùng với sự chuyển biến tích cực của hoạt động XNK Việt Nam, công ty MIMEXCO đã đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ làm ăn lâu dài với nhiều khách hàng trên nhiều nước khác nhau. Ngoài các thị trường truyền thống, công ty đã trú trọng tìm hiểu và mởi rộng thị trường mới ở hầu hết các nước trong khu vực và trên thế giới. Có thể kể đến thị trường truyển thống của công ty là Malaixia, Trung Quốc, Nhật Bản... Trong tương lai công ty sẽ hướng ra và thâm nhập vào thị trường khu vực Châu á Thái Bình Dương và khu vực ASEAN. Việc đa dạng hoá thị trường giúp công ty tránh được rủi ro do yếu tố kinh tế chính trị văn hoá biến động đồng thời tận dụng được các thông tin mới nhất về giá cả, thị trường, tăng khách hàng cho sản phẩm của mình. 2.1 Về thị trường xuất khẩu, Ta có thể thấy rõ qua bảng số liệu sau: Bảng 7: Giá trị xuất khẩu trên các thị trường giai đoạn 1999 - 2002 Tỷ trọng : % Đơn vị : USD Năm Thị trường 1999 2000 2001 2002 Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Malaysia 3045589 32,2 3057697 45,15 3931380 48,68 2235260 46,72 Trung Quốc 3917300 41,4 3382971 49,95 4027215 49,86 2548740 53,28 Nhật Bản 118776 1,26 129293 1,91 UK 111281 1,64 58781 0.728 Germany 59014 o.732 Lào 1429366 15,1 Hà Lan 91261 1,35 Hồng Kông 103439 1,09 Anh 320110 3,38 Nga 317472 3,38 ý 206344 2,2 Tổng 9458405 100 6772504 100 8076390 100 4784000 100 Nguồn: Báo cáo hoạt động XNK các năm 1999 – 2002 Bảng trên cho thấy, thị trường xuất khẩu của công ty tập trung chủ yếu ở khu vực Châu á Thái Bình Dương. Đặc biệt tập trung ở hai thị trường Trung Quốc và Malaixia. Từ năm 1999 đến 2002 hai thị trường này luôn chiếm tỷ trọng cao và tăng dần qua các năm. Tại Malaixia năm 1999 chiếm 32,2% nhưng đến năm 2001 đạt 49,55%. Tuy nhiên việc xuất khẩu sang thị trường này biến động không đều đó là năm 2002 chỉ chiếm 46,72% thấp hơn so với năm 2001 các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường này chủ yếu là Thiếc thỏi 99,75% chiếm trên 50% tổng kim ngạch. Tại Trung Quốc việc xuất khẩu sang thị trường này tăng đều qua các năm từ 41,4% ( năm 1999) lên 53,28% năm 2002. Thị trương này tiêu thụ chủ yếu hàng của công ty là quặng Cromite, quặng sắt, quặng Mangan. Có thể thấy rằng hai thị trường này tương đối ổn định qua các năm và là thị trường truyền thống của công ty chiếm trên 80% kim ngạch xuất nhập khẩu và các mặt hàng truyền thống. Bên cạnh hai thị trường lớn, công ty còn xuất khẩu sang các thị trường Nhật Bản, UK, Anh, Nga... Tuy tỷ trọng không lớn nhưng cũng là những thị trường có triển vọng lâu dài và đem lại mức doanh thu cao. Nhìn chung năm 1999 là năm mà công ty phát huy đưa tối đa lợi thế thị trường, mặt hàng của công ty đã thâm nhập tới cả thị trường Anh, ý, Nga... làm mức doanh thu tăng trên 9 ngàn USD. Bước sang năm 2002 thì không còn được đa dạng nữa do thiếu hàng hoá hoặc thị trường này không ưu chuộng mặt hàng xuất khẩu nữa do họ tự cung tự cấp được. Trong tương lai, công ty vấn tiếp tục chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu nhiều hơn cùng tham gia vào khu vực toàn câù hoá. 2.2 Đối với thị trường nhập khẩu. Bảng 8: Thị trường NK của công ty các năm 1999 - 2002. Đơn vị: USD Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Trung Quốc 20400 2.18 179570 36,53 14019 18,69 80350 2,46 Korea 81000 81,31 Lào 1174850 96,96 312000 63,47 165000 25,58 Thái Lan 10483 0,86 55660 8,63 Nhật Bản 343830 53,33 Tổng 1211733 100 491570 100 75019 100 644840 100 Nguồn: Báo cáo hoạt động XNK của Công ty các năm 1999 - 2002 So với thị trường XK thì thị trường nhập khẩu của công ty chủ yếu được giới hạn trong phạm vi một số nước Châu á, Trung Quốc vẫn là thị trường chủ yếu cho công ty vừa XK vừa NK. Năm 1999 là năm đánh dấu sự không ngừng của việc khai thác thị trường Lào. Trên thị trương này tỷ trọng NK chiếm 96.96% tổng kim ngạch NK tương ứng với 1174850 USD. Sang đến năm 2000 và 2002 thì tỷ trọng lại giảm xuống đặc biệt năm 2002 chỉ chiếm 25,58% bằng 26,38% so với năm 1999. Thị trường Trung Quốc tuy NK đều qua các năm nhưng tỷ trọng biến động không đều, cao nhất là vào năm 2000 đạt được 36,53%. Ngoài hai thị trường trên còn có thị trường Korea, Thái Lan là hai thị trường phát triển có hệ thống công nghệ cao nên cùng là bạn hàng đối với công ty trong quan hệ đối tác lâu dài vào năm 2002 xuất hiện thêm thị trường NK Nhật Bản chiếm tỷ trọng 53,33% trong tổng kim ngạch NK. Đây là một bước phát triển lớn trong mối quan hệ bạn hàng cũng chính vì điều đó mà tổng giá trị NK năm 2002 đã tăng lên rất nhiều so với năm 2000, 2001 cụ thể bằng 1,3 lần so với năm 2000; 8,6 lần so với năm 2001. 3. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty MIMEXCO. Hiệu quả kinh doanh thể hiện qua doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, hiệu quả sử dụng vốn... MIMEXCO là công ty XNK thương mại thì chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh được thể hiện qua một số chỉ tiêu cơ bản được đánh giá là mức độ thành công của công ty. 3.1. Cách tính lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh XNK Để biết được chính xác lợi nhuận mà công ty đạt được ta phải có đầy đủ các chi phí được cho là hợp lý hợp lệ. Ta có: 3.1.1 Lợi Nhuận Trước Thuế = SDT - SCF a) SDT: Tổng doanh thu từ hoạt động XNK với: Xuất khẩu: Là toàn bộ giá trị hợp đồng đã ký. Nhập khẩu: Là doanh thu từ việc bán hàng NK. b) SCF: Tổng chi phí bao gồm: Gía vốn hàng hoá Khấu hao tài sản cố định Thuế XK hoặc NK, thuế VAT, thuế môn bài, thuế khác. Lệ phí hải quan, bảo hiểm, cảng bốc, cảng dỡ. Chi phí quản lý bán hàng, tiền lương tiền công. Chi phí bốc xếp, vận chuyển, lưu kho, bảo quản, đóng gói. Cước thuê tàu Một số chi phí hợp lý hợp lệ khác. 3.1.2 Lợi nhuận ròng (Lợi nhuận sau thuế) (LNR) LNR = (1 - Thuế suất) x LNTT LNTT: Lợi nhuận trước thuế Để biết được công ty kinh doanh có hiệu quả hay không phải dựa vào chỉ tiêu lợi nhuận. Nếu tổng doanh thu lớn hơn tổng chi phí thì kinh doanh đạt hiệu quả, ngược lại công ty đã làm ăn thua lỗ. Với công ty MIMEXCO ta có thể thấy được qua bảng số liệu sau: Bảng 9: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh XNK qua các năm 1999 - 2002. Đơn vị: 1000 VNĐ Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Tổng doanh thu XNK 35.784.690 15.382.837 5.854.302 10.599.170 Tổng chi phí XNK 35.464.137 14.994.487 7.602.151 10.313.275 Lợi nhuận trước thuế 320.552 388.349 -1.747.848 285.894 Nguồn: Báo cáo kết quản kinh doanh của công ty Lợi nhuận trước thuế của công ty biến động một cách liên tục, lên xuống bất thường, rất khó dự đoán cho các năm tiếp theo. Năm 1999, lợi nhuận đạt 302.552.207 đồng, sang năm 2000 con số này là 388.249.895 tức là tăng 67797688 VND với tốc độ tăng là 21,15%. Đây năm mà công ty đã đạt được mức tăng trưởng khá cao và ổn định, đó cũng là nhờ sự ổn định của thị trường về hàng hoá, giá cả và một số mặt hàng khác. Bước sang năm 2001 là năm đã đem lại thất thu cho công ty. Ta thấy rằng lợi nhuận đã xuống tới con số âm 1.747.848.545 VND. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do thị trường diễn biến xấu giá các kim loại đều giảm, đặc biệt là thiết thỏi. Sụ cạnh tranh trong mua bán diễn ra một cách gay gắt. Các đơn vị trong Tổng công ty khoáng sản Việt Nam xuất bán uỷ thác qua công ty MIMEXCO ngày một ít đi. Vốn lưu động cho kinh doanh của công ty thiếu trầm trọng, phần do không có cấp bù thiếu của ngân sách, phần do bị chiếm dụng của một số đối tác ( Chủ yếu trong TCT khoáng sản Việt Nam), phần khác do cuối năm 2001 bị thua lỗ nặng, nên ảnh hưởng đến vốn kinh doanh của công ty tuy công ty đã có một số cố gắng đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, tìm kiếm việc làm nhằm có thêm doanh th, thu nhập cho người lao động và bù đắp một phần lỗ. Xong kết quả không có gì khả quan. Năm 2001 đã bị thua lỗ tập trung chủ yếu vào sản phẩm thiếc là 2.253.137.508 VND dẫn đến lợi nhuận bị thua lỗ 1.747.848.545 VND. Để thấy rõ việc sản phẩm thiếc bị lỗ như thế nào, ta có thể phân tích một số chỉ tiêu sau đây để làm rõ những khó khăn mà công ty gặp phải vào năm 2001: sản lượng thiếc uỷ thác xuất khảu năm 2001: 962,02 tấn. Trong đó: Sản lượng xuất khẩu năm 2000 sang năm 2001 mới quyết định giá 310,49 tấn. Sản lượng năm 2001 đã quyết định giá 660,53 tấn. Chia ra sản lượng bị lỗ về giá 401,42 tấn, gồm: Công ty kim loại mầu Thái Nguyên lỗ: 60 tấn: 54302,16 USD Công ty kim loại màu Nghệ Tĩnh lỗ : 240,91 tấn; 127.344,85 USD Công ty khoáng sản I là lỗ : 100,51 tấn; 51.115,46 USD Tổng cộng lỗ : 401,42 tấn; 232.762,47 USD Khi quy đổi về động Việt Nam theo tỷ giá 15000 đồng là 3.491437050 đồng Sản lượng được lãi về giá: 500,44 tấn Trong đó: Công ty KLM Thái Nguyên lãi : 220,31 tấn ; 33857,36 USD Công ty KLM Nghệ Tĩnh lãi : 119,81 tấn; 11131,19 USD Công ty khoáng sản I lãi : 140,68 tấn; 6.388,48 USD Tổng cộng 500,44 tấn lãi 65867,26 USD . Quy về đồng Việt Nam theo tỷ giá 15000 đồng là 988.008.900 đồng Sản lượng hoà vốn: 65,87 tấn Trong đó: Công ty KLM Nghệ Tính là 40,08 tấn Công ty khoáng sản I là 20,07 tấn. Bù trừ lỗ lãi về giá thiếc: Tổng giá trị thiếc xuất khẩu vào năm 2001: Cũng từ việc kinh doanh thiếc uỷ thác. Công ty XNK khoáng sản MIMEXCO đã có cố găng tạo ra các khoản chênh lệch có thể được bù đắp một phần lỗ trên đây trong cả năm tổng số là: Bù trù lỗ từ kinh doanh uỷ thác thiếc xuất khẩu còn lại là : Về kết quả kinh doanh còn lại sau khi loại trừ lỗ về giá thiếc trên đây ta được: Về thu nhập hoạt động tài chính thu nhập về hoạt động bất thường Tổng kết kinh doanh năm 2001 lỗ : Một vài chỉ tiêu trên thấy rằng giá thiếc đã biến động liên tục làm doanh thu thiếc lỗ nặng. Nguyên nhân chủ yếu là: Giá thiếc trên thế giới sụt giảm một cách đột biến, liên tục kéo dài từ đầu năm đến hết năm 2001. Vào cuối năm 2000 giá thiếc đã giảm xuống 5200 USD/ Tấn ( Theo giá LMF) đầu năm 2000 là 5825 sang đến năm 2001 chỉ được ở mức từ 25% - 30,77, đã làm cho doanh số về thiếc sụt giảm một cách ghệ ghớm. Một hiện tượng chưa từng có xảy ra trong suốt thời gian20 năm trở lại đây. Chính điều này gây bất ngờ cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thương mại mặt hàng này không kịp xác địn giá vốn hàng đó nên đã gây ra hậu quả ngoài mong muốn của các doanh nghiệp . Nhưng cũng phải kể đến một nguyên nhân quan trọng nữa là công ty đã không thu thập được thông tin về giá cả một cách kịp thời chính xác nên đã có định giá sai so với thực thế khi thầy giá giảm thì ngay lập tức công ty lại chờ cho giá lên rồi mới bán nhưng giá lại tiếp tục giảm kiến công ty vội vàng định giá cho sản phẩm thiếc cuả mình thua lỗ nặng hơn. Do doanh nghiệp chủ quan không thấy đuợc diến biến thị trường thay đổi bất thường đã tạo ra sai làm đáng tiếc. Trong 4 năm 1999-2002 năm 2001 là năm đang tiếc trong khi đó toàn bộ hoạt động XNK đều phụ thuộc vào tổng công ty, lợi nhuận phải kết chuyển lên tổng công ty. Bước sang năm 2002 công ty đã thu được lợi nhuận đáng kể 285.894.902 VND nhưng chỉ bằng 73,62% so với năm 2000, con số này quá thấp so với khoản lỗ vào năm 2001 nhưng công ty cũng đã đem lại kết quả khả quan hơn do đã có những dự đoán và thông tin kịp thời chính xác về giá cả trên thị trường quốc tế. 3.2.1 Tỷ suất lợi nhuận của hoạt động kinh doanh XNK của MIMEXCO Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại a) Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí Dc Chỉ tiêu này được tính bằng công thức sau : Dc = Lợi nhuận từ XNK x 100 Tổng chi phí XNK Chi tiêu này được phản ánh như sau: nếu bỏ ra 100 đồng chi phí thì thu được Dc đồng lợi nhuận. Trong đó lợi nhận được tính là lợi nhuận trước thuế tức là phần còn lại của doanh thu khi đã trừ đi các khoản chi phì hợp lý hợp lệ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Bảng 10: Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí qua các năm 1999 - 2002 Đơn vị: 1000 VNĐ Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Tổng chi phí XNK 36.464.137 14.994.487 7.602.151 10.313.245 Lợi nhuận trước thuế 320.552 388.350 -1.747.848 285.894 Tỷ xuất lợi nhuận (Dc) 0,9% 2,58% - 22,99% 2,77% Nguồn : Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty. Trong 3 năm 1999, 2000, 2002 tỷ suất lợi nhuận theo chi phí tăng đần do chi phí qua các năm đó giảm đi liên tục. Cứ bỏ ra 100 đồng chi phí qua các năm 1999, 2000, 2002 thì lần lượt thu về lợi nhuận trước thuế là 0,9 đồng; 2,58 đồng; 2,77 đồng . Năm 2002 tuy lợi nhuận trước thuế chỉ đạt 285.894.902 VNĐ nhưng lợi nhuận theo chi phí đạt 2,77% đây là mức cao nhất từ trước tới nay, điều đó là nhờ Công ty đã cố gắng làm giảm đối đa các chi phí cho hoạt động kinh doanh XNK của mình. Trải qua hơn 10 năm làm việc toàn thể cán bộ công nhân viên đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý báu trên kinh nghiệm đó Công ty đã biết kinh doanh những mặt hàng gì và làm như thế nào, chi phí bao nhiêu để có hiệu quả nhất, điều đó được thể hiện qua mức sử dụng đồng tiền có hiệu quả hơn. so với năm 1999, năm 2000 mức sử dụng hiệu quả đồng tiền đã tăng nên rất nhiều cụ thể là tăng nên gấp 3 lần. Chứng tỏ Công ty ngày càng chú trọng tới việc làm sao giảm chi phí tới mức tối đa có thể chấp nhận được vì thế đã làm tăng hiệu quả kinh doanh cho Công ty. Tuy nhiên một số chi phí như thu thập thông tin, mở rộng quan hệ với khách hàng, ngoại giao vẫn được chú trọng. Duy chỉ có năm 2001 là năm mà tỷ suất lợi nhuận âm do mức lỗ của Công ty quá cao. Cứ bỏ ra 100 đồng chi phí thì Côngty chịu lỗ mất 22,99 đồng một con số chưa từng sẩu ra trong Công ty suốt hơn 10 năm qua. Điều này do sai lầm của Công ty trong việc thu thập giá . Công ty bị lỗ chủ yếu do giá hàng hoá giảm rất nhiều so với giá vốn của hàng đó dẫn đến chi phí tăng mà doanh thu thu về rất hạn hẹ. Trong thời gian tới Công ty cần trú trọng khảo sát trị trường thật kỹ lưỡngđể tránh khỏi sai lầm gặp phải vào năm 2001. Nhìn chung qua 4 năm hoạt động chỉ có năm 2002 là đạt hiệu quả hơn cả do đã biết cách giảm chi phí . Tuy nhiên việc giảm chi phí là rất moạ hiểm nó được ví như con giao hai lưỡi, đây chỉ là giải pháp tình thế trước mắt nhằm thu lợi nhuận cao để bù đắp khoản lỗ năm trước. Trong tương lai dài Công ty cần vạch cho mình một chiến lược mang tính chất lâu dài. b: Tỷ xuất lợi nhuận theo doanh thu. (Dr) Khác với tỷ suất lợi nhuận theo chi phí, chỉ tiêu tỷ xuất lợi nhuận theo doanh thu cho biết : cứ 100 đồng doanh thu thu được thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận, và chỉ tiêu này được tính như sau. Dr = Lợi nhuận từ XNK x 100% Doanh thu từ XNK Bảng 11 : Tỷ xuất lợi nhuận theo doanh thu của Công ty các năm 1999 - 2002 Đơn vị tính: 1000 VNĐ Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Lợi nhuận từ XNK 320.552 388.350 - 1.747.848 285.895 Doanh thu từ XNK 35.784.690 15.382.837 5854.303 10.599.170 Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu (Dr) O,89% 2.5% - 29,85% 2.697% Nguồn : Báo cáo hoạt động XNK của Công ty Trong 100 đồng doanh thu các năm 1999, 2000, 2002 lần lượt thu được 0,89 đồng; 2,5 đồng, 2,697 đồng lợi nhuận. Qua đó ta thấy rằng năm 2000 tăng 2,8 lần năm 2002 tăng hơn 3 lần so với năm 1999. Trong ba năm đó tuy doanh thu và lợi nhuận giảm nhưng tỷ suất lợi nhuận theoa doanh thu lại tăng là do tốc độ giảm của lợi nhuận chậm hơn tốc độ giảm của doanh thu. Duy chỉ có năm 2001 không được khả quan cho lắm: trong 100 đồng doanh thu thì lại chịu lỗ mất 29, 85 đồng. Mức lỗ này cao hơn rất nhiều so với mức lãi của các năm khác. Ngoại trừ năm 2001 do gặp phải nhiều khó khăn gây thua lỗ thì các năm qua Công ty làm ăn rất hiêu quả, tỷ suất lợi nhuận không ngừng tăng lên, mức doanh thu từ hoạt động kinh doanh XNK có giảm đi qua các năm ( thậm chí còn giảm đi rất nhiều) là do nguồn hàng ngầy càng hiếm, cộng thêm ngày càng xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh cỡ lớn, nhưng bằng những nỗ lực trình độ nghiệp vụ chuyên sâu, Công ty ty đã từng bước len lỏi thị trường một cách có hiệu quả tạo ra mức doanh thu có hiệu quả nhất từng bước bù đăp0s những thiếu hụt mà Công ty gặp phải năm 2001. Năm 2000 vẫn là năm Công ty thu nhiều tháng lợi. 3.2.2: Hiệu quả sử dụng vốn. Bên cạnh đánh giá hiệu quả kinh doanh qua tỷ suất lợi nhuận, và tỷ suât theo chi phí ta cần chú trọng đến hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động kinh doanh. Đồng vốn kinh doanh có đem lại hiệu quả doanh thu hay bị lãng phí là điều rất được quan tâm trong các doanh nghiệp hiện nay. Bảng 12 : Tình hình nguồn vốn kinh doanh của Công ty (1999 - 2002) Đơn vị : 1000 VNĐ Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Số vốn (VNĐ) Tỷ trọng Số vốn (VNĐ) Tỷ trọng Số vốn (VNĐ) Tỷ trọng Số vốn (VNĐ) Tỷ trọng Vốn vay 10.124.219 67,6 4.965.569 52,23 2.656.981 57,15 1.769.077 47,4 Vốn CSH 4.865.581 32,4 4.543.551 47,77 1.992.415 42,85 1.963.599 52,6 Tổng 14.989.780 100 9.509.120 100 4.649.396 100 3.732.676 100 Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty qua các năm 1999 - 2002 Vốn vay của Công ty giảm đi qua các năm và vốn tự có qua các năm tăng nên liên tục. Năm 1999 vốn vay của Công ty là 10.124.219.727 đồng chiếm 67,6% thì đến năm 2000 còn 52,23% và sang năm 2002 còn thấp hơn nữa còn 1.769.077.000 đạt 47,39% tức là vốn vay năm 2002 giảm đi 8.355.142.727 đồng. Trong khi đó vốn tự có của doanh nghiệp tăng lên từ 32,4% năm1999 đến 51,62 năm 2002. Đạt được kết quả này là do hơn 10 năm qua Công ty đã tích luỹ được một lượng vốn đáng kể để bổ sung vào hoạt động kinh doanh. Điều đó đã xây dựng cho Công ty ngày cành độc lập không bị phụ thuộc nhiều vào ngân hàng, giảm bớt các khoản chi phí do phải đi vay. Một điều quan trọng nữa là Công ty biết tiết kiệm các khoản chi không cần thiết để đóng góp vào quỹ phát triển Công ty và huy động vốn cán bộ công nhân viên nhằm tăng vốn kinh doanh. Năm 2001 có giảm là do phải bù đắp những tổn thất kinh doanh mang lại. Tuy nhiên nếu xét về tổng vốn của Cong ty thì qua các năm lại giảm đi rất nhiều. Năm 1999 là 14.989.801.428 đồng đến năm 2000 là 9.509.120.631 đồng, năm 2001 là 4.649.396.246 vầ năm 2002 là 3.732.672.612 đồng tương ứng với mức giảm là 36,56% , 68,9%, 75%. Đây không phải là do Công ty thua lỗ mà là vốn vay của Công ty đã giảm đi rất nhiều so với vốn tự có tăng lên chậm hơn. Nhưng nhừ vào nguồn vốn này hiệu quả kinh doanh của Công ty đã được cải thiên rấtt nhiều cụ thể như sau: Bảng 13: Hiệu quả sử dụng vốn Đơn vị: 1000 VNĐ Năm 1999 2000 2001 2002 Vốn cố định 14.989.801 9.509.120 7.926.800 3.732.676 Vốn lưu động 3.798.417 1.998.720 4.649.396 1.457.040 Tổng vốn 11.191.384 7.510.400 4.649.396 2.275.636 Lợi nhuận trước thuế 320.552 388.450 - 1.747.848 285.895 Hiệu quả sử dụng VLĐ 2,8% 5,2% - 37,9% 12,7% Hiệu quả sử dụng VCĐ 8,4% 19,4% ? 19,6% Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty các năm 1999 - 2002 a: Hiệu quả sử đụng vốn lưu động khả năng sing lời Lợi nhuận trước thuế x100% của vốn lưu động Vốn lưu động Chỉ tiêu trên cho biết từ 100 đồng vốn lưu động bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Như vậy trong 4 năm 1999 – 2002 cứ bỏ ra 100 đồng vốn lưu động thì khả năng sinh lời lần lượt là 2,8 đồng, 5,2 đồng, - 37,9 đồng và 12,7 đồng . trong 3 năm hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng đần , đặc biệt năm 2002 tăng 4,5 lần so với năm 1999 và 2,7 lần so với năm 2000 là do năm 2002 Công ty đã đầu tư một cách có trọng điểm vào những mặt hàng chính và có chiến lược kinh doanh mới phù hợp với tình hình thị trường, không thụ động với sự biến động của thị trường. Tuy vốn lưu động bỏ ra ít song lại rất hiệu quả chỉ riêng năm 2001 là năm Côngty đã dồn toàn bộ vốn lưu động vào để bù đắp sự chênh lệch giá thiếc. Vốn của Công ty không đủ bù đắp ch hậu quả này làm khả năng sinh lời thiếu hụt trầm trọng. Năm 2001 vốn lưu động của Công ty sử dụng không hiệu quả do nhiều nguyên nhân kể trên , Công ty cần có hệ thống thông tin sao cho kịp thời với những dự báo tới mức chuẩn xác để tránh gaay thất thu đáng tiéc này. b: Hiệu quả sử dụng vốn cố định Hiệu quả sử dụng vốn cố định được tính bởi công thức : Khả năng sinh lời Lợi nhuận trước thuế x 100% của vốn cố định Vốn cố định Cũng như cở vốn lưu động, cứ 100 đồng vốn cố định bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Như vậy cứ 100 đồng vốn cố định bỏ ra các năm 1999, 2000, 2002 lần lượt thu được 8,4 đồng, 19,4 đồng và 19,6 đồng lợi nhuận và cũng tăng dần qua các năm. Năm 2001 vốn cố định bằng 0 giá trị hao mòn luỹ kế hao hụt đúng bằng tài sản cố định hữu hình. Vì vậy năm 2001 không hiệu quả đối với tài sản cố định. Nhìn chung thời gian qua tuy hiệu quả không cao nhưng Công ty đã tìm hiểu sao cho sử dụng vốn kinh doanh mang lại lợi nhuận cao nhất. Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động: Được tính bằng doanh thu thuần chia cho vốn lưu động bình quân. Đây là chỉ tiêu phản ánh tốc độ quay của vốn lưu động khi bỏ ra sẽ sử dụng đồng vốn này được bao nhiêu Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động của Công ty MIMEXCO qua các năm 1999 - 2002 được tính ở bảng dưới đây. nhìn vào bảng ta thấy tốc độ luân chuyển của vốn lưu động có su hướng giảm mạnh, đặc biệt là năm 2001. Bảng 14: Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động Đơn vị: 1000 VNĐ Năm 1999 2000 2001 2002 Doanh thu thuần 35.784.690 15.382.837 5.854.303 10.599.170 Vốn lưu động 3.798.417 1.998.720 4.649.396 3.798.417 Tốc độ luân chuyển VLĐ 9,42 7,69 1,26 2,79 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh giai đoạn 1999 - 2002 Thời gian vòng luân chuyển của vốn lưu động được tính bằng Số ngày một vòng luân chuyển Thời gian kỳ phân tích Của vốn lưu động Số vòng quay của vốn lưu động Nếu thời gian sử dụng vốn lưu động ngày càng dài làm hiệu quả kinh doanh càng cao. Nhưng thời gian mỗi một vòng quay vốn càng dài thì hiệu quả kinh doanh càng thấp. Để có được thời gian ngắn Công ty cần kích thích việc tiêu thụ hàng hoá sao cho nhanh chóng có hiệu quả thì đồng vốn bỏ ra tiếp tục sinh lời trong khoảng thời gian tiếp theo. Một vài phân tích ở trên phán đoán ở trên cho thấy Công ty còn đang gập rất nhiều khó khăn về vốn và hiệu quả sử dụng vốn không cao. Cùng với sự cố gắng của cán bộ công nhân viên trong Công ty , tình hình kinh doanh đã gặt hái được kết quả đáng kể trong hoạt động Công ty. 3.3: Đánh giá chung về hoạt động kinh doanh XNK của Công ty. Trong hơn 10 năm hoạt động xây dựng và trưởng thành, toàn Công ty đã phấn đấu để vượt qua nhiều khó khăn bên cạnh những thuận lợi vốn có của mình để hoàn thành cơ bản những mục tiêu đề ra cả về kim ngạch XNK lẫn hiệu quả kinh doanh. Những thành công trên đây của Công ty phải kể đến sự lãnh đạo sáng suốt kịp thời nhậy bén của ban lãnh đạo Công ty cùng với sự cố gắng quyết tâm của toàn thể cán bộ công nhân viển trong Công ty. Biết được tình hình kinh tế thị trường và am hiểu, thông tinh nghiệp vụ của mình. Công ty đã lựa chon mô hình quản lý trực tuyến - chức năng, là mô hình chỉ đạo trực tiếp từ cấp trên xuống đồng thời nhận được thông tin phản hồi chính xác kịp thời. Chỉ với 20 cán bộ nhưng những thành quả mà công ty đạt được là không nhỏ, biểu hiên ở thu nhập của cán bộ công nhân viên được ổn định hơn thế còn không ngừng tăng cụ thể được biểu hiên ở bảng dưới đây. Bảng 15: Thu nhập bình quân cán bộ công nhân viên Đơn vị : 1000 VNĐ Năm 1999 2000 2001 2002 Thu nhập bình quân 1.400 1.500 1.200 1.600 Trong hoạt động kinh doanh, toàn bộ cơ chế quản lý, giao dich phương án ký kêt hợp đồng và thanh toán hợp đồng được thực hiện một cách nề nếp, nghiêm túc và khoa học dẫn đến hiệu quả kinh doanh được an toàn ít gây thất thu cho Công ty và Nhà nước. Thành tích nổi bật trong giai đoạn 1997 -1999 là tốc độ tăng doanh thu liên tục ở mức độ cao và lợi nhuận cũng tăng dần, nâng cao thu nhập cho cán bộ công nhân viên trong công ty đóng góp cho ngân sách nhà nước ngày một nhiều hơn góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá hiên đại háo đất nước , giải quyết công ăn việc làm, ngăn chặn tình trạng lạm phát do giá cả tăng nên. Nhưng bắt đầu từ năm 2000 doanh thu, cũng như tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đã có phần giả sút rõ rệt, được biểu hiên qua chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà nước của Công ty như sau: Bẳng 16: Tình hình nộp ngân sách Nhà nước của Công ty (1998 – 2002) Đơn vị : 1000 VNĐ Năm Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng nộp ngân sách 1.884.766 1.935.403 40.379 4.395 38.762 Nguồn :Từ báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp Hơn nữa Công ty đã đề ra chủ trương và biện pháp cụ thể để đẩy mạnh xuất khẩu, cơ chế thưởng để khuyến khích xuất khẩu, phát huy các phong trào thi đua để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao. Mặt khác do có sự chỉ đạo tập trung sát sao hoạt động kinh doanh XNK nên một số loại khoáng sản đã được duy trì và là những mặt hàng chuyền thống của Công ty như : thiếc thỏi, quặng Cromite, Quặng sắt . . . chẳng những giữ được kim ngạch cao mà còn góp phần đưa kinh ngạch xuất khẩu chiếm tới 90,15% tổng kim ngạch XNK thời kỳ 1999 - 2002 mà còn là biện pháp cân đối ngoại tệ, bảo toàn vốn trong điều kiên tỷ giá biến động mạnh. Công ty có quyền nhập khẩu với phương châm đa dạng hoá mặt hàng nhưng chú trọng hơn cả là máy móc thiết bị . . . phục vụ cho việc khai thác và chế biến hàng xuất khẩu. Do đó hoạt động kinh doanh XNK ngày càng mở rộng. Tuy Công ty mới hoạt động được trong thời gian gắn nhưng đã tạo cho mình một hệ thống bạn hàng trong và ngoài nước đặc biệt là trên thị trường Châu á. Ngoài ra Công ty còn lập mối quan hệ lâu dài với các tập đoàn kinh tế - đó là điều kiện thuận lợi cho Công ty có cơ hội hiểu biết về phương thức kinh doanh và kinh nghiệm quản lý của các Công ty đa quốc gia. Mặc dù, Công ty đạt được nhiều thành tích nhưng cũng đang tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục, giả quyết để Công ty tiếp tục phát triển, nhất là trong điều kiện cơ chế mở cửa hiện nay, thị trường cạnh tranh gay gắt không chỉ trong nội địa mà còn có yếu tố nước ngoài. Trước hết thị trường xuất khẩu của Công ty tập trung ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương, trong đó nổi bật nên là thị trường Trung Quốc, Malaysia, Nhật, Lào. . . Việc khai thác thị trường, mở rộng xuất khẩu và tập trung vào các thị trường Châu á - Thái Bình Dương là phù hợp với tình hình kinh doanh XNK của Việt Nam từ 1998 trở về trước nhưng đến năm 1999 cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính, tiền tệ khu vực bị tác động mạnh, kéo dài. Do vậy, thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam bắt đầu có su hướng chuyển sang thị trường Bắc Mỹ và EU. Đây là thị trường khó tính bởi những tiêu chuẩn phức tạp nhưng đầy tiềm năng, cho nên Công ty cần phải đầu tư nghiên cứu, có kế hoạch cụ thể để ra nhập thị trường này. Mặt khác tỷ trọng doanh thu hàng nhập khẩu chỉ chiếm vị trí rất bé trong doanh thu XNK, cụ thể trung bình chiếm 9,75% trong suốt giai đoạn 1999 - 2002. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu còn dàn trải, không ổn định, không hình thành nên được một cơ cấu hàng hoá kinh doanh để có được một mặt hàng chủ lực và thường xuyên hơn. Do vậy tỷ trọng nhập khẩu quá thấp sẽ không cân đối được kim ngạch dẫn đến sự mất thăng bằng và không phát huy được khả năng cạnh tranh của Công ty. Bên cạnh những thành tích đạt được là những khó khăn tồn tại cần được hạn chế khắc phục giải quyết để Công ty tiếp tục phát triển nhất là trong cơ chế mở thị trường cạnh tranh gay gắt không chỉ trong nội địa mà còn có cả yếu tố nước ngoài trong khi đó Công ty chưa có chính sách chiến lược về thị trường trong và ngoài nước. Trong hoạt động kinh doanh của Công ty các thông tin về thị trường, hàng hoá, giá cả chỉ được thực hiện qua các nhân viên XNK hoặc qua các bản chào hàng khác nhau của các bạn hàng nước ngoài hoặc các Công ty kinh doanh cùng ngành. Do vậy lượng thông tin tản mạn, dừng lại ở phạm vi hẹp lại không kịp thời nên chưa sử dụng có hiệu quả. Ngoài ra Công ty còn gặp nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân khác như: Thị trường thế giới vẫn bất lợi đối với nguyên liệu khoáng sản, giá các loại khoáng sản như : thiếc, Ăngtimoan, Volfram, nhìn chung ở mức thấp và có sự biến động nên sản phẩm không bán được hoặc phải ngừng bán chờ lên giá. Cơ chế điều hành mới của nhà nước chỉ cho phép các đơn vị có mỏ mới được xuất khẩu khoáng sản, không khuyến khích các đơn vị kinh doanh thương mại xuất khẩu khoáng sản. Việc này đã gây nhiều khó khăn trong việc thu gom nguồn hành và làm xuất hiện nhiều đơn vị cạnh tranh cả ngoài và trong Tổng Công ty. Một nguyên nhân lớn nữa làm doanh số nhập khẩu và doanh thu nội địa giảm sút là: Nhà nước đã chấm dứt cho phép đổi hàng xuất khẩu để nhập khẩu xe máy từ thị trường Lào về. Công ty MIEXCO là Công ty đã có nhiều năm kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh XNK khoáng sản, nhưng những gì đạt được trong những năm gần đây chứng tỏ sự phát triển của Công ty chưa bền vững. Để hoạt dộng kinh doanh XNK của Công ty vượt qua được khó khăn, thách thức và ngày càng phát triển hơn nữa, Công ty cần xây dựng phương hướng dài hạn, trung hạn, và ngắn hạn mang tính chiến lược cho hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm tới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC722.doc
Tài liệu liên quan