Bảo đảm quyền tiếp cận việc làm của người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam

Thứ ba, các quy định pháp luật thuế nên bổ sung các hỗ trợ tài chính cho NKT khởi nghiệp như miễn thuế, giảm thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho NKT tiếp cận các khoản vay để thành lập doanh nghiệp tham gia kinh doanh, tự tạo dựng việc làm cho mình và NKT khác. Thứ tư, cần tăng cường hỗ trợ tài chính cho các hoạt động và chương trình liên quan tới NKT. Hỗ trợ tài chính có thể rót vào các tổ chức hỗ trợ NKT. Để đảm bảo rằng sự hỗ trợ tài chính đến đúng đối tượng, cần phải nâng cao trách nhiệm giải trình và giám sát. Ngoài ra, hỗ trợ tài chính có thể trực tiếp đến trực tiếp chính NKT bằng cách trợ cấp cho những người đã hoàn thành chương trình đào tạo nghề hoặc có kế hoạch khả thi về khởi nghiệp kinh doanh. Thứ năm, đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về NKT trong xã hội và tuyên truyền, giáo dục kiến thức pháp luật về quyền tiếp cận việc làm của NKT cho cả người sử dụng lao động và NKT. Để làm được điều này, cần có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa cơ quan quản lý nhà nước với cộng đồng doanh nghiệp và các Hiệp hội của NKT.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 112 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo đảm quyền tiếp cận việc làm của người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 3/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 33 BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Tạ Thị Thu Hường1 Tóm tắt: Từ năm 1998, Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh người tàn tật và luôn nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý cũng như thực hiện các chính sách nhằm chống lại sự phân biệt đối xử ở nơi làm việc và tiến tới bình đẳng về cơ hội tiếp cận việc làm đối với người khuyết tật. Tuy nhiên, mặc dù hệ thống pháp luật và chính sách tương đối đầy đủ và tiến bộ, người khuyết tật vẫn tiếp tục phải đối mặt với nhiều rào cản trong việc tiếp cận việc làm. Do đó, bài viết “Bảo đảm quyền tiếp cận việc làm của người khuyết tật trong pháp luật Việt Nam hiện nay” tập trung nghiên cứu quyền tiếp cận việc làm của người khuyết tật dưới góc độ quyền con người, quyền công dân gắn với các chính sách và quy định trong pháp luật Việt Nam hiện nay. Từ khoá: Người khuyết tật, Tiếp cận việc làm, quyền tiếp cận việc làm của người khuyết tật. Ngày nhận bài: 10/3/2017; Ngày hoàn thành biên tập: 10/5/2017; Ngày duyệt đăng: 1/6/2017 Abstract: Since 1998, Viet Nam has issued Decree on the Disable and lots of effots have been made to finalize legal frame as well as policies have been implemented to prevented the discrimination against the disable in the working environment and aimed to reach equality of accessing to work for the disable. However, though legal system has full and advanced policies, the disable are still facing with lots of obstacles in accessing to work. Therefore, this article focuses on studying the right to access to work for the disable under viewpoint of human rights, citizen rights attached with policies and regulations in the current law of Viet Nam. Keywords: the disable; access to work, the right to access to work of the disable. Received: Date of receipt: 10/3/2017; Date of revision: 10/5/2017; Date of approval: 1/6/2017 Tiếp cận việc làm là một trong những quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hoá được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và các khuyến nghị của Tổ chức lao động thế giới (ILO). Đối với người khuyết tật (sau đây gọi là NKT), tiếp cận việc làm là một quyền đặc biệt quan trọng, giúp họ có cơ hội lao động với một việc làm ổn định để nuôi sống bản thân, giúp họ cảm thấy tự tin, không còn mặc cảm với gia đình và xã hội. Nếu như trước đây, quyền của người khuyết tật chỉ được quan tâm ở mức độ đảm bảo cho họ có được mức sống tối thiểu và được chăm sóc về y tế, thì hiện nay, trong điều kiện kinh tế, xã hội phát triển hơn, việc chăm lo đến quyền của người khuyết tật chính là việc chống phân biệt đối xử và phải tạo điều kiện thuận lợi cho người khuyết tật được thực hiện bình đẳng các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong đó có quyền tiếp cận việc làm, giúp họ phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống, hòa nhập cộng đồng và tham gia các hoạt động văn hóa, xã hội. Với truyền thống nhân đạo, đoàn kết của dân tộc và chủ trương xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm tới chính sách đối với NKT nói chung và quyền tiếp cận việc làm của NKT nói riêng. Tháng 10/2007, Việt Nam đã ký kết tham gia Công ước quốc tế về quyền của NKT và đã hoàn tất thủ tục phê chuẩn vào tháng 11 năm 2014. Ngày 17/6/2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật NKT đầu tiên trên cơ sở Pháp lệnh người tàn tật năm 1998. Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật lao động năm 2012 cũng bổ sung rất nhiều chính sách và quy định đối với lao động là người khuyết tật. Với sự trợ giúp đắc lực của chính sách và pháp luật của Nhà nước, trong thời gian qua, nhiều người khuyết tật đã nỗ 1 Thạc sỹ, Giảng viên Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội 34 2 Văn phòng tổ chức lao động quốc tế (2004), Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp luật, Tài liệu hướng dẫn, trang 13. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP lực vươn lên trong học tập văn hóa, học nghề, tạo dựng việc làm, có thu nhập bảo đảm cuộc sống cho bản thân và gia đình, tham gia hoạt động văn hóa, thể dục thể thao. Tuy nhiên, bảo đảm quyền tiếp cận việc làm của người khuyết tật ở Việt Nam là công tác gặp nhiều khó khăn do chưa có cơ chế pháp lý hữu hiệu, nhận thức của người dân còn kém và thiếu hụt các nguồn lực hỗ trợ về tài chính. Mặc dù Nhà nước và xã hội đã cố gắng đưa ra các chương trình trợ giúp người khuyết tật về đào tạo nghề và tạo công ăn việc làm nhưng những nỗ lực này vẫn còn chưa đủ. 1. Quan niệm về quyền tiếp cận việc làm của người khuyết tật và bảo đảm quyền tiếp cận việc làm của người khuyết tật Trải qua một thời gian dài, người khuyết tật được coi là thuộc nhóm yếu thế và dễ tổn thương trong xã hội, họ được cho là không có khả năng tự chăm sóc, mưu sinh và do đó cần được hỗ trợ từ cộng đồng. Với cách tiếp cận người khuyết tật từ góc độ là đối tượng của phúc lợi xã hội, vô hình chung người khuyết tật không phải là chủ thể độc lập có các quyền riêng chưa nói đến quyền được tiếp cận việc làm. Và như vậy, người khuyết tật phải gánh chịu các định kiến xã hội và của chính bản thân, khiến họ trở lên mặc cảm, không có được đầy đủ các quyền của mình kể cả quyền có việc làm xứng đáng. Hiến chương và các công ước về quyền con người được các nước phê chuẩn từ giữa những năm 1940 cho đến cuối những năm 1960 đều không đề cập đến người khuyết tật. Mãi đến những năm 1970, chính những bất lợi mà người khuyết tật phải đối mặt, tình trạng họ bị tách biệt khỏi xã hội, cũng như tình trạng họ bị phân biệt đối xử mới được nhận thức rõ ràng hơn và đã được nêu thành một vấn đề về quyền của người khuyết tật. Việc thay đổi từ cách tiếp cận phúc lợi xã hội sang cách tiếp cận dựa vào quyền con người được thể hiện thông qua việc đề cập một cách cụ thể về người khuyết tật trong các hiến chương, các công ước và các sáng kiến về quyền con người được phê chuẩn từ những năm 1980. Những chuyển biến theo hướng tương tự từ cách tiếp cận phúc lợi xã hội sang cách tiếp cận từ quyền con người đã diễn ra cả ở cấp khu vực và quốc gia, thể hiện thông qua việc ngày càng có nhiều các quy định về quyền con người được sửa đổi, bổ sung nội dung về quyền của người khuyết tật, hoặc ngày càng có nhiều các văn bản luật pháp mới, kể cả pháp luật mang tính tổng quát và văn bản chuyên về người khuyết tật được thông qua2. Các văn kiện trên đều thống nhất rằng bất bình đẳng trong cơ hội tiếp cận việc làm là một trong những trở ngại chính cho sự phát triển kinh tế xã hội đối với NKT. Điều 23 Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế năm 1948 tuyên bố rằng “Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp. Mọi người đều có quyền được trả công ngang nhau cho những công việc như nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào”. Tương tự như vậy, Khoản 1 Điều 27 Công ước quốc tế về Quyền của Người Khuyết tật năm 2007 quy định rằng các quốc gia thành viên phải công nhận quyền lao động của NKT trên cơ sở bình đẳng với những người khác, quyền này bao gồm cả quyền có cơ hội tự kiếm sống bằng hình thức lao động do người lao động chọn hoặc chấp nhận trên thị trường lao động và trong môi trường lao động mở, dễ tiếp cận đối với người khuyết tật đồng thời các quốc gia thành viên phải ban hành các quy định pháp luật nhằm cấm phân biệt trên cơ sở sự khuyết tật trong mọi vấn đề liên quan đến việc làm, bao gồm điều kiện tuyển dụng, sự thuê mướn và tuyển dụng, tiếp tục được tuyển dụng, thăng tiến nghề nghiệp và điều kiện làm việc an toàn và bảo đảm sức khỏe. Công ước quốc tế về Quyền của Người Khuyết tật 2007 yêu cầu các quốc gia thành viên tạo điều kiện cho người khuyết tật tiếp cận các chương trình kỹ thuật và hướng nghiệp chung, các dịch vụ việc làm, đào tạo nghề và đào tạo tiếp tục, thúc đẩy cơ hội việc làm và thăng tiến nghề nghiệp cho người khuyết tật trên thị trường lao động, cũng như thúc đẩy hỗ trợ tìm kiếm việc làm, duy trì và quay trở lại làm việc; Quy tắc số 7 của Quy chế Tiêu chuẩn của Liên hiệp quốc về Cơ hội bình đẳng (SREO) đối với người khuyết tật năm 1993 cũng công nhận nguyên tắc Soá 3/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 35 3 Chrispas Nyombi and Alexander Kibandama (2014), Access to employment for persons with disabilities in Uganda, Labor Law Journal, Winter 2014, trang 249. 4 Palmer M, Groce N, Mont D, Nguyen OH, Mitra S (2015), The Economic Lives of People with Disabilities in Vietnam, PLoS ONE 10(7): e0133623. doi:10.1371/journal.pone.0133623, trang 1; 5 Mont D, Nguyen CV, Disability and poverty in Vietnam,The World Bank Economic Review. 2011; 25 (2):323–59; 6 Điều 30, 35 Hiến pháp năm 2013; 7 Điều 59, 61 Hiến pháp năm 2013; người khuyết tật phải được tạo điều kiện để thực hiện quyền con người của mình, đặc biệt là trong lĩnh vực việc làm. Do vậy, các quốc gia thành viên được yêu cầu phải thực hiện các điều kiện thuận lợi cho NKT có thể tiếp cận việc làm. Thiếu cơ hội việc làm cho người khuyết tật thường dẫn đến nghèo đói. Báo cáo Khảo sát Y tế của Liên hiệp quốc (UNHS) năm 2006 cho thấy gần 80% trong tổng số NKT sống dưới mức nghèo khổ. Điều này là đáng báo động vì nghèo đói đã được đề cập đến như là một nhân tố thúc đẩy một môi trường phân biệt kỳ thị, chăm sóc y tế không đảm bảo và tội phạm. Hơn nữa, Báo cáo khảo sát này của Liên hiệp quốc cũng cho thấy rằng hơn 46% NKT tuyên bố rằng họ đã bị tước cơ hội tiếp cận việc làm vì lý do khuyết tật của chính mình3. Việt Nam là một quốc gia có số người khuyết tật lớn. Theo số liệu điều tra dân số, 7,8% dân số Việt Nam tương đương 6,7 triệu người là NKT trong năm 20094. Con số này có thể còn thấp số người khuyết tật thật sự ở trong nước. Người khuyết tật ở Việt Nam có tỷ lệ đói nghèo cao hơn so với phần đông dân số Việt Nam nếu tính thêm các chi phí cho người khuyết tật5. Do đó bảo đảm quyền tiếp cận việc làm của NKT chính là chìa khoá để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội và chống đói nghèo cho chính bản thân những NKT. Theo quy định tại Hiến pháp năm 2013, công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc; Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao độngNhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động6. Nhà nước cũng cam kết tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hộicó chính sách trợ giúp người khuyết tật; tạo điều kiện để người khuyết tật được học văn hoá và học nghề7. Như vậy, quyền tiếp cận việc làm của NKT theo pháp luật Việt Nam vừa là một quyền con người và đồng thời là quyền công dân. Các quy định nói trên của Hiến pháp năm 2013 là sự thể chế hoá tinh thần của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (được bổ sung, phát triển năm 2011), theo đó: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”. Bảo đảm quyền tiếp cận việc làm của NKT là việc tạo ra các tiền đề, các điều kiện về chính trị, kinh tế, pháp lý, xã hội, cơ chế và tổ chức để NKT có thể thực hiện được quyền tiếp cận việc làm mà Nhà nước đã cam kết. Trong các điều kiện tiền đề để thực hiện quyền tiếp cận việc làm của NKT thì các bảo đảm pháp lý là đặc biệt quan trọng, có tính chất là sự thể chế hoá các bảo đảm chính trị, kinh tế, xã hội, chính sách, tổ chức thành các chuẩn mực pháp lý bắt buộc đối với tất cả các chủ thể trong xã hội phải thực hiện như là một nghĩa vụ để đảm bảo quyền của NKT. Các bảo đảm pháp lý này trước tiên là sự thừa nhận quyền tiếp cận việc làm của NKT trong hệ thống pháp luật liên quan, đến việc tạo điều kiện, cơ chế, tổ chức bộ máy chuyên trách để thực thi quyền này trên thực tế và sau cùng là xác định các biện pháp và cơ chế pháp lý để bảo vệ quyền này khi bị xâm phạm từ phía các cơ quan nhà nước, hay bất kỳ chủ thể nào khác nhằm khôi phục quyền tiếp cận việc làm của NKT đã bị xâm phạm. Bảo đảm quyền tiếp cận việc làm của NKT được bảo đảm bằng cả hệ thống pháp luật từ luật công đến luật tư, từ luật hiến pháp, luật hành chính, luật người khuyết tật đến luật dân sự, luật lao động... Vì vậy, việc nghiên cứu bảo đảm quyền tiếp cận việc làm của NKT sẽ được xem xét dưới đây ở một số quy định của lĩnh vực pháp luật điển hình có liên quan. 2. Các quy định pháp luật của Việt Nam hiện hành về quyền tiếp cận việc làm của người khuyết tật 36 8 Điều 1 Công ước quốc tế về quyền của NKT; 9 Văn phòng tổ chức lao động quốc tế (2004), Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp luật, Tài liệu hướng dẫn, trang 18. 10 Điều 8 Bộ luật lao động năm 2012 HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP Việt Nam đã là thành viên ký kết Công ước quốc tế về quyền của NKT và thành viên của Chiến lược Incheon khu vực Châu Á Thái Bình Dương (từ 2013 – 2022) nhằm hiện thực hoá quyền cho khoảng 650 triệu NKT khu vực này. Trên cơ sở đó, Việt Nam đã ban hành một loạt các văn bản quy phạm pháp luật nhằm nội luật hoá các cam kết quốc tế về bảo đảm các quyền của NKT trong đó có quyền tiếp cận việc làm. Bộ luật Lao động, Bộ luật Hình sự, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Người khuyết tật, Luật Bình đẳng giới, Luật việc làm quy định quyền về việc làm nói chung đã cơ bản tuân thủ các điều ước quốc tế. Tuy nhiên, những văn bản quy phạm pháp luật này còn bộc lộ một số điểm hạn chế khiến việc thực hiện quyền tiếp cận việc làm của NKT chưa thực sự hiệu quả trên thực tế. Thứ nhất, khái niệm về người khuyết tật được quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật người khuyết tật như sau: “ Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. Khái niệm này đã tiếp cận người khuyết tật theo mô hình khuyết tật dưới góc độ y tế, theo đó người khuyết tật là người có khiếm khuyết về mặt sức khoẻ, chính vì vậy một người chỉ được công nhận là NKT và được hưởng các quyền của NKT khi trải qua các thủ tục xác nhận khuyết tật, được Hội đồng xác nhận mức độ khuyết tật hoặc Hội đồng giám định y khoa đánh giá và được cấp Giấy xác nhận khuyết tật theo quy định của Luật người khuyết tật. Cách tiếp cận này không phải cách tiếp cận của Công ước Quốc tế về quyền của NKT, Công ước này đã tiếp cận theo mô hình xã hội về khuyết tật theo đó Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác8. Như vậy vấn đề khuyết tật được cho là bắt nguồn từ nguyên nhân môi trường vật thể và môi trường xã hội không đáp ứng được những nhu cầu của cá nhân hoặc nhóm đối tượng cụ thể. Theo mô hình xã hội về khuyết tật này, xã hội tạo ra con người khuyết tật do đã công nhận chuẩn mực lý tưởng về con người hoàn hảo về thể chất và tinh thần và dựa theo đó để tổ chức xã hội. Mô hình xã hội về NKT có thể giải quyết được những nguyên nhân sâu xa của nạn kỳ thị và phân biệt đối xử với NKT9. Với cách tiếp cận này của Luật người khuyết tật, rất nhiều dạng khuyết tật khác trong xã hội bị loại trừ và không được tiếp cận các điều kiện và môi trường làm việc phù hợp. Thứ hai, Điều 34 Luật người khuyết tật quy định cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp Tiếp đó, khoản 4 Điều 4 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi 2013 quy định “Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp có từ 30% số lao động bình quân trong năm trở lên là người khuyết tật, người sau cai nghiện, người nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) và có số lao động bình quân trong năm từ hai mươi người trở lên, không bao gồm doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, kinh doanh bất động sản” được miễn thuế. Như vậy theo quy định hiện hành, các doanh nghiệp không bị bắt buộc phải tuyển dụng NKT theo một tỷ lệ nhất định mà việc nhận NKT vào làm việc chỉ là một quy định mang tính chất khuyến nghị. Tuy nhiên, Bộ luật lao động năm 2012 có quy định nghiêm cấm phân biệt đối xử về khuyết tật10. Do đó nếu doanh nghiệp từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội tiếp cận việc làm của NKT là vi phạm pháp luật lao động và sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính về việc phân biệt đối xử về khuyết tật theo quy định tại Điều 4a Nghị Soá 3/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 37 11 Chrispas Nyombi and Alexander Kibandama (2014), Tlđd, trang 252; định 88/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng : “Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, màu da, thành phần xã hội, tình trạng hôn nhân, tín ngưỡng, tôn giáo, nhiễm HIV, khuyết tật trong tuyển dụng, sử dụng và quản lý lao động”. Bộ luật lao động không có định nghĩa cụ thể về hành vi phân biệt đối xử về khuyết tật. Luật về người khuyết tật quy định tại khoản 3 Điều 2 về phân biệt đối xử người khuyết tật, theo đó phân biệt đối xử người khuyết tật là hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó. Định nghĩa này là tương đối hẹp so với khái niệm về phân biệt đối xử trên cơ sở khuyết tật và từ chối tạo điều kiện hợp lý theo quy định tại Điều 2 Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật. Các hành vi phân biệt đối xử theo thông lệ là các hành vi phân biệt đối xử trực tiếp hoặc gián tiếp. Phân biệt trực tiếp là hành vi mà một người (A) phân biệt đối xử với người khác (B) nếu, vì lý do giới tính, tôn giáo, khuyết tật của B, A đối xử với B ít thuận lợi hơn so với việc A đối xử hoặc sẽ đối xử với người khác. Ví dụ, nếu doanh nghiệp tuyển dụng một người nam chứ không phải người nữ bởi vì doanh nghiệp cho rằng phụ nữ không có đủ điều kiện sức khoẻ để làm việc, điều này sẽ là một hành vi phân biệt giới tính trực tiếp. Hoặc nếu một người bán hàng Hồi giáo từ chối phục vụ một người phụ nữ Hồi giáo vì cô ấy kết hôn với một người Cơ đốc giáo, điều này sẽ là sự phân biệt đối xử trực tiếp về tôn giáo hoặc phân biệt tín ngưỡng trực tiếp dựa trên mối liên hệ của cô ấy với chồng mình. Phân biệt đối xử gián tiếp là trường hợp A áp dụng cho B một điều khoản, tiêu chuẩn hoặc thông lệ có tính phân biệt. Ví dụ, một người sử dụng lao động sa thải một người công nhân bởi vì người này đã có 3 tháng nghỉ phép vì ốm đau. Người sử dụng lao động biết rằng người lao động đó bị bệnh đa xơ cứng và hầu hết thời gian nghỉ ốm của anh ấy là liên quan đến bệnh tật này. Như vậy, quyết định sa thải của người sử dụng lao động không phải vì lý do khuyết tật của bản thân người lao động mà vì những nguyên nhân xuất phát từ hậu quả của tình trạng khuyết tật của người lao động11. 3. Một số giải pháp nhằm bảo đảm quyền tiếp cận việc làm của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay Quyền tiếp cận việc làm là một bộ phận quan trọng của quyền con người nói chung, quyền của NKT nói riêng. Có được việc làm, NKT có khả năng chăm lo cuộc sống của mình từ đó mới có thể tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá, thể thao. Nếu không có cam kết và biện pháp mạnh mẽ hơn trên thực tế thì NKT sẽ vẫn bị gạt ra bên lề xã hội và không thể có được sự bình đẳng trong cơ hội tiếp cận việc làm và trong công việc.Vì vậy, để bảo đảm quyền tiếp cận việc làm của NKT cần phải thực hiện triệt để một số giải pháp sau đây: Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật về người khuyết tật cho phù hợp với Công ước quốc tế về người khuyết tật như khái niệm người khuyết tật, khái niệm phân biệt đối xử trên cơ sở khuyết tật; Thứ hai, cần tìm ra các biện pháp hữu hiệu hơn để tăng khả năng tiếp cận việc làm cho NKT. Mặc dù các chính sách, đề án trợ giúp NKT tiếp cận việc làm đã được thực hiện, nhưng với quy định mang tính chất khuyến nghị về việc tuyển dụng NKT vào làm việc như hiện nay thì rất khó thuyết phục các doanh nghiệp nhận NKT vào làm việc. Các quy định về miễn thuế cho người sử dụng lao động có từ 30% số lao động bình quân trong năm trở lên là người khuyết tật và có số lao động bình quân trong năm từ hai mươi người trở lên như hiện nay đã tỏ ra không thành công vì trên thực tế rất ít các nhà tuyển dụng nộp đơn xin miễn thuế. Do đó, nhà nước nên đưa ra các biện pháp mới như nâng mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi phân biệt đối xử trên cơ sở khuyết tật trong tuyển dụng, sử dụng và quản lý lao động; thậm chí, Bộ luật hình sự cần phải bổ sung vào phạm vi trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại các hành vi phân biệt đối xử trên cơ sở khuyết tật trong tuyển dụng, sử dụng và quản lý lao động. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 38 khi xây dựng Luật Phá sản năm 2014. Các chính sách hỗ trợ có thể là về mặt tài chính (như miễn giảm thuế; Nhà nước tạo điều kiện về vốn vay ưu đãi trên cơ sở đánh giá tính khả thi của phương án phục hồi hoạt động kinh doanh); ưu đãi đầu tư, kinh doanh Hai là, việc triển khai thi hành Luật Phá sản còn chậm nên rất cần sự quan tâm, hướng dẫn và chỉ đạo của Tòa án nhân dân tối cao đối với toàn ngành tòa án trong thời gian tới, để bảo đảm các vụ việc phá sản được các Tòa án kịp thời tiếp nhận và có giải pháp khả thi trong phục hồi hoạt động DN, HTX. Sớm có nghị quyết chuyên đề hướng dẫn về thủ tục, quy trình phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản. Ba là, đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến mục đích, nội dung pháp luật về phá sản DN, HTX để nâng cao nhận thức trong các cơ quan tòa án và các tổ chức kinh doanh, đầu tư, tạo cơ chế hỗ trợ xã hội tốt hơn nữa đối với các DN, HTX lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ, như cơ chế mua bán nợ, cơ chế giãn nợ trước và trong quá trình thực hiện thủ tục phá sản và phục hồi DN, HTX./. Tài liệu tham khảo 1. Luật Phá sản năm 2004 2. Luật Phá sản năm 2014 3. Thông tư số 01/2015/TT-CA quy định về Quy chế làm việc của các Tổ Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, có hiệu lực kể từ ngày 26/11/2015 4. Nghị quyết số 03/2016/NQ-HĐTP ngày 26/8/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phá sản 5. Báo cáo số 55/BC-TANDTC ngày 23/9/2013 của Tòa án nhân dân tối cao tổng kết thi hành Luật Phá sản năm 2004 PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP PHÁ SẢN NHÌN TỪ MỤC TIÊU (Tiếp theo trang 32) Thứ ba, các quy định pháp luật thuế nên bổ sung các hỗ trợ tài chính cho NKT khởi nghiệp như miễn thuế, giảm thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho NKT tiếp cận các khoản vay để thành lập doanh nghiệp tham gia kinh doanh, tự tạo dựng việc làm cho mình và NKT khác. Thứ tư, cần tăng cường hỗ trợ tài chính cho các hoạt động và chương trình liên quan tới NKT. Hỗ trợ tài chính có thể rót vào các tổ chức hỗ trợ NKT. Để đảm bảo rằng sự hỗ trợ tài chính đến đúng đối tượng, cần phải nâng cao trách nhiệm giải trình và giám sát. Ngoài ra, hỗ trợ tài chính có thể trực tiếp đến trực tiếp chính NKT bằng cách trợ cấp cho những người đã hoàn thành chương trình đào tạo nghề hoặc có kế hoạch khả thi về khởi nghiệp kinh doanh. Thứ năm, đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về NKT trong xã hội và tuyên truyền, giáo dục kiến thức pháp luật về quyền tiếp cận việc làm của NKT cho cả người sử dụng lao động và NKT. Để làm được điều này, cần có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa cơ quan quản lý nhà nước với cộng đồng doanh nghiệp và các Hiệp hội của NKT./. Tài liệu tham khảo 1. Văn phòng tổ chức lao động quốc tế (2004), Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp luật, Tài liệu hướng dẫn; 2. Chrispas Nyombi and Alexander Kibandama (2014), Access to employment for persons with disabilities in Uganda, Labor Law Journal, Winter 2014; 3. Palmer M, Groce N, Mont D, Nguyen OH, Mitra S (2015), The Economic Lives of People with Disabilities in Vietnam, PLoS ONE 10(7): e0133623. doi:10.1371/journal.pone.0133623, trang 1; 4. Mont D, Nguyen CV, Disability and poverty in Vietnam,The World Bank Economic Review. 2011; 25 (2):323–59;

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbao_dam_quyen_tiep_can_viec_lam_cua_nguoi_khuyet_tat_theo_ph.pdf
Tài liệu liên quan