Bước đầu nghiên cứu dòng hải lưu Tây Bắc Thái Bình Dương bằng mô hình số

Tồn tại dòng xiết phía tây bắc Thái Bình Dương chảy liên tục từ bắc xuống nam đi dọc từ vùng biển phía đông bờ Đài Loan – Trung Quốc xuống dọc bờ biển Việt Nam và dòng xiết từ vùng biển phía đông Đài Loan xuống vùng biển phía đông Philippin đi xuống phía nam. Dòng xiết phía tây Biển Đông không đi vào vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan và dòng xiết ở Biển Đông ngư dân Việt Nam thường gọi là dòng bắc nam. Xuất hiện và tồn tại nhiều vực xoáy ở các vùng khác nhau ở vùng phía tây bắc Thái Bình Dương với đường kính có thể lên tới hàng trăm kilômet và vực xoáy có điểm chung là phần phía tây vực xoáy thường là dòng hải lưu mạnh phía tây tạo nên. Do khó khăn về đường truyền Internet và hạn chế về cấu hình của máy tính nên việc truy cập số liệu cả vùng Thái Bình Dương là rất khó khăn. Do vậy, trong nghiên cứu này tác giả chỉ nghiên cứu dòng hải lưu trong phạm vi (3 - 40)0 N và (98 - 129)0 E. Các kết quả nghiên cứu có giá trị tham khảo cho các nghiên cứu hàng hải, cứu hộ, nghiên cứu phát triển nguồn điện năng từ dòng chảy và các nghiên cứu khác ở vùng biển tây bắc Thái Bình Dương. Lời cảm ơn. Tác giả xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp phòng Vật lý biển đã có những đóng góp ý kiến cho công trình nghiên cứu này được hoàn thiện.

pdf11 trang | Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 511 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu nghiên cứu dòng hải lưu Tây Bắc Thái Bình Dương bằng mô hình số, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
21 Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2015, tập 21, số 1: 21-31 BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU DÒNG HẢI LƯU TÂY BẮC THÁI BÌNH DƯƠNG BẰNG MÔ HÌNH SỐ Phạm Xuân Dương Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam Tóm tắt Bài báo trình bày các kết quả nghiên cứu bước đầu về dòng hải lưu tây bắc Thái Bình Dương bằng mô hình số (ROMS). Sử dụng công nghệ OpeNDAP (Open-source Project for a Network Data Access Protocol) truy cập lấy số liệu toàn cầu ở khu vực nghiên cứu làm đầu vào cho mô hình. Các kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy: Tồn tại dòng hải lưu mạnh (dòng xiết phía tây) chảy liên tục sát bờ tây Biển Đông và bờ đông Philippin. Tốc độ dòng hải lưu bờ đông Philippin thường lớn hơn tốc độ dòng hải lưu bờ đông Việt Nam. Xuất hiện nhiều vực xoáy ở các vùng khác nhau ở vùng phía tây bắc Thái Bình Dương với đường kính có thể lên tới 50 km đến hàng trăm kilômet. So sánh dòng hải lưu do tính toán ở phía tây Biển Đông với tài liệu của Bộ tư lệnh Hải quân năm 1985, về hướng di chuyển của vật nổi cho thấy có sự phù hợp. THE INITIAL STUDY ON CIRCULATION AT NORTH-WEST PACIFIC BY NUMERICAL MODEL Pham Xuan Duong Institute of Oceanography, Vietnam Academy of Science & Technology Abstract This paper shows the results of the initial study on circulation at North-West Pacific by numerical model (ROMS). Using OpeNDAP (Open-source Project for a Network Data Access Protocol) access to global data obtained in the study area as input to the model. The first results showed that there were strong currents flowing continuously near the west coast of the East Sea and the east coast of the Philippines. The velocity of circulation at the east coast of Philippines was often greater than that at the west coast of Vietnam. In the North-Western Pacific, there was more turbulence appeared in the different regions with diameter of 50 kilometers to hundreds of kilometers. Calculation on the circulation in the West of East Sea compared with the documents of the Naval Command in 1985 showed that the direction of movement of floating objects was similar. I. MỞ ĐẦU Dòng chảy đóng vai trò to lớn trong đời sống đại dương, làm tăng khả năng trao đổi nước, phân bố lại nhiệt độ và độ muối, làm biến đổi bờ biển, di chuyển bùn cát..., nó cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoàn lưu khí quyển và khí hậu ở các vùng khác nhau của Trái Đất. Phía tây bắc Thái Bình Dương có rất nhiều biển lớn như biển Hoàng Hải, Hoa Đông, biển Philippine, biển Nhật Bản, Biển Đông, biển Sulu, biển Tasman, 22 và eo biển Malacca nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Các nghiên cứu dòng hải lưu phía tây bắc Thái Bình Dương tương tác với dòng hải lưu Biển Đông cũng chưa thật nhiều vì vùng Đại Dương này quá lớn, số liệu ngoài Biển Đông nhất là về dòng chảy hầu như chúng ta còn thiếu nhiều. Do vậy việc áp dụng mô hình số trị ROMS để nghiên cứu dòng hải lưu tây bắc Thái Bình Dương hiện nay là cần thiết để cho chúng ta có được những hiểu biết nhiều hơn nữa về tính chất, quy luật, hình thái của các dòng hải lưu Thái Bình Dương cả về mặt định tính cũng như định lượng có tác động tới dòng hải lưu Biển Đông như thế nào. Sử dụng ROMS (Regional Ocean Modeling System) trong nghiên cứu vì các lí do sau: Do tính hiệu quả, nên ROMS là một trong số mô hình hoàn lưu đại dương được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng khoa học những năm gần đây đặc biệt tại các nước và các cơ quan nghiên cứu có năng lực tính toán thấp. Là một mô hình mang tính cộng đồng được sử dụng với nhiều qui mô không gian và thời gian khác nhau, từ dải ven bờ tới các đại dương thế giới, cho phép triển khai một cách hiệu quả các tính toán có độ phân dải cao. ROMS cho phép nhiều lựa chọn về sơ đồ đối lưu, gradient áp suất, khép kín rối, điều kiện biên và thậm chí cả sơ đồ đồng hóa dữ liệu. ROMS sử dụng hệ tọa độ Sigma có mô phỏng được ảnh hưởng của địa hình tới dòng chảy trung thực hơn các mô hình sai phân thông thường. Đặc biệt ROMS không phải là phần mềm thương mại mà là mã nguồn mở và nó còn tích hợp với công nghệ OpeNDAP (Open-source Project for a Network Data Access Protocol) truy cập lấy số liệu toàn cầu cho khu vực cần nghiên cứu. Vậy dùng ROMS để nghiên cứu khu vực rộng lớn của Đại Dương ở đây là khu vực tây bắc Thái Bình Dương là cần thiết và hợp lý. II. CƠ SỞ VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Hệ phương trình chi phối ROMS là mã nguồn mở của mô hình hoàn lưu đại dương được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng khoa học, lượng người nghiên cứu sử dụng và phát triển tăng nhanh. Minh chứng cho việc này, trước đây ở Việt Nam chỉ có Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường sử dụng và phát triển mã nguồn mở ROMS chạy trên hệ điều hành Linux. Bây giờ phát triển ra rất nhiều Viện, Trường nghiên cứu về Hải dương học sử dụng như: Viện Hải dương học, Viện Tài nguyên Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Tp. Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Thủy lợi, Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội... Độ tin cậy của mô hình ROMS được đánh giá cao trong các mô hình nghiên cứu Đại Dương. Cơ sở nghiên cứu, tính toán dòng hải lưu tây bắc Thái Bình Dương là triển khai áp dụng và phát triển mô hình ROMS. Các phương trình chi phối của ROMS được thiết lập dựa trên ba hệ tọa độ: Đề Các - Sigma - Cong trực giao. Hệ tọa độ Đề Các; với x tăng theo hướng đông, y tăng theo hướng bắc và z tăng theo hướng thẳng đứng từ dưới lên. Bề mặt tự do của biển được xác định tại vị trí z = ζ (x,y,t) và đáy tại vị trí z = - H(x,y). Trong đó, vr là vector vận tốc theo phương ngang với các thành phần (u, v), w là thành phần thẳng đứng, T-S là thành phần nhiệt - muối và ∇ là toán tử gradient theo phương ngang. Khi đó ROMS đưa ra bảy phương trình: Phương trình liên tục đối với chất lỏng không nén được, hai phương trình động lượng theo phương ngang, phương trình động lượng theo phương thẳng đứng, phương trình trạng thái, phương trình khuếch tán nhiệt đô, phương trình khuếch tán độ muối (Phạm Xuân Dương, 2014). Đáy biển ở Thái Bình Dương có các khu vực sâu thẳm với độ sâu trung bình khoảng 4.270 m và xen kẽ ở khu vực lòng chảo là các ngọn núi dưới mặt nước độ dốc lớn và đỉnh bằng. Phần phía tây của nền gồm các rặng núi mọc lên trên mặt biển tạo thành các hòn đảo, như đảo Solomon và New Zealand, và các vực sâu, như vực Mariana, vực Philippine, và vực Tonga. Hầu hết các vực nằm sát với rìa ngoài của thềm lục địa phía tây rộng lớn. Vì vậy để 23 tránh những khó khăn gặp phải khi sử dụng phương pháp tính toán dòng chảy theo các tầng đẳng sâu có thể bị đổ vỡ bài toán khi gặp địa hình có tính chất phức tạp, biến đổi đột ngột, sử dụng hệ tọa độ không thứ nguyên Sigma sẽ loại trừ được bất lợi đó. Bằng cách biến đổi từ tọa độ Đề Các (x, y, z) sang hệ tọa độ không thứ nguyên (Sigma) theo phương thẳng đứng (x’, y’, σ ), sau đó sử dụng các toán tử xx =' , yy =' , ζ ζ σ + − = H z (z =ζ “σ = 0”, z =-H “σ =-1”), chúng ta thực hiện các phép biến đổi hệ tọa độ Đề Các sang hệ tọa độ Sigma ở mặt biển z = ζ đến đáy biển z = -H có tọa độ không thứ nguyên σ = 0 và σ = -1. Hệ phương trình trong hệ tọa độ Sigma có dạng: ( ) ( ) ( ) 0= ∂ Ω∂ + ∂ ∂ + ∂ ∂ + ∂ ∂ s H y vH x uH t H zzzz (1) uu D+F+ x ζg x z ρ gρ x φ =uv{ +fv t u ∂ ∂ − ∂ ∂       − ∂ ∂ −∇− ∂ ∂ 0 . r (2) vv DFy g y zg y vvfu t v ++ ∂ ∂ − ∂ ∂       − ∂ ∂ −=∇++ ∂ ∂ ζ ρ ρφ 0 . r (3) ),,( PSTρρ = (4)       − = ∂ ∂ 0ρ ρφ zgH s (5) TT DFTvt T +=∇+ ∂ ∂ . r (6) SS DFSvt S +=∇+ ∂ ∂ . r (7) Ở đây: ( )Ω= ,,vuvr , sy v x uv ∂ ∂Ω+ ∂ ∂ + ∂ ∂ =∇.r , ( ) ( )       ∂ ∂ − ∂ ∂ − ∂ ∂ +−=Ω y z v x z u t sw H tsyx z ζ11,,, và zHy z v x z u t z w Ω+ ∂ ∂ + ∂ ∂ + ∂ ∂ = Các kí hiệu trong 7 phương trình chi phối của ROMS trong hệ tọa độ Sigma (Arakawa và Lamb, 1977). Trong hệ tọa độ cong trực giao, bằng cách sử dụng các toán tử ξ, η vuông góc và các biên của miền tính trùng với các đường đẳng ξ, η, khi hàm ánh xạ được xác định thì các hệ số đo ( )ηξ ,m , ( )ηξ ,n cũng được xác định. Các hệ số đo m và n của hệ tọa độ cong trực giao liên kết các khoảng cách sai phân theo hướng ξ, η với các cung thực tế, thay thế và biến đổi các phương trình của ROMS trong hệ tọa độ Đề Các sẽ được 7 phương trình tương ứng trong hệ tọa độ cong trực giao (Marchesiello và cs., 2001). - Tại bề mặt biển z = ( )tyx ,,ζ , sử dụng điều kiện biên: ( ) ( ) ( ) ( );1 ;;,,;,, 00 ref T PP T z m z my s z mx s z m TT dT dQ cc Q s T H K SPE s S H K tyx s v H K tyx s u H K −+= ∂ ∂ −= ∂ ∂ = ∂ ∂ = ∂ ∂ ρρ ττ (8) 24 - Tại đáy biển z = ( )tyxH ,, , ( )tyx s u H K x b z m ,,τ= ∂ ∂ , ( )tyx s v H K y b z m ,,τ= ∂ ∂ , 0= ∂ ∂ s T H K z T , 0= ∂ ∂ s S H K z S (9) Biên lỏng phía biển sử dụng công thức độ dâng mực nước biển có dạng: ( )[ ]∑ = +++= n i iiiiii tptqFHH 1 0 cos ϕζ (10) Biên lỏng phía sông sử dụng biểu thức: D QV CuaSong = (11) (Q – lưu lượng, D – diện tích mặt cắt ướt ngang sông). (Phạm Xuân Dương, 2013; 2. Nguồn số liệu Số liệu nhiệt muối ở Thái Bình Dương được sử dụng lấy từ các số liệu phân tích NOMADS (NOAA Operational Model Archive and Distribution System) do Trung tâm Dữ liệu Khí hậu Quốc gia (NCDC), Trung tâm Dự báo Môi trường Quốc gia (NCEP) và Phòng Thí nghiệm Thủy động lực (GFDL) cùng phối hợp xây dựng. Mục tiêu chính của NOMADS là tạo điều kiện cho mọi người truy cập vào các mô hình số trị dự báo thời tiết (NWP) cũng như hoàn lưu đại dương (GCM), phát triển mối liên kết giữa các cộng đồng nghiên cứu mô hình và hợp tác cộng đồng giữa các nhà khoa học biển, thời tiết và khí hậu. Số liệu gió được lấy thông qua mô hình khí quyển (COAMPS) và từ số liệu vệ tinh scatterometers (QuikSCAT). Chuỗi số liệu gió bề mặt được trích từ bộ số liệu Khí quyển – Đại dương tổng hợp (The Comprehensive Ocean – Atmospheric Data Set – COADS). Đây là cơ sở dữ liệu được xây dựng và duy trì tại Mỹ bởi Trung tâm Nghiên cứu Khí quyển Quốc gia (NCAR) và Cục Khí quyển – Đại dương Quốc gia (NOAA), đặc biệt là Trung tâm Chẩn đoán Khí hậu (Climate Diagnostics Center CDC), Viện hợp tác Nghiên cứu các Khoa học Môi trường (Cooperative Institute for Research in Environmental Sciences - CIRES) thuộc trường Đại học Tổng hợp Colorado và Trung tâm Dữ liệu Khí hậu Quốc gia (National Climatic Data Center – NCDC). Tại biên lỏng số liệu thủy triều được tính từ mô hình thủy triều toàn cầu TPXO7.1. Mô hình TPXO7 sử dụng dữ liệu từ TOPEX / Poseidon toàn cầu phiên bản 7.1 (TPXO7.1), đây là một mô hình thủy triều đại dương toàn cầu rất hữu ích cho nghiên cứu đại dương thế giới. Trong mô hình này các sóng thành phần sẽ được tính toán và nội suy cho các điểm lưới của vùng Thái Bình Dương (Da Silva và cs., 1994). Thông lượng nước ngọt bề mặt (freshwater flux), nhiệt độ, lượng bay hơi, lượng mưa, hệ số sức căng bề mặt biển theo suốt thời gian trong năm được lấy từ COADS. Biên lỏng hướng sông không được sử dụng, vì độ sâu nhỏ nhất trong miền tính được lấy là hmin = 30 m. III. KẾT QUẢ Trong nghiên cứu dòng hải lưu Thái Bình Dương được tính toán bằng mô hình ROMS cho khoảng thời gian dài hàng năm. Kết quả tính toán, dữ liệu dòng chảy, nhiệt độ, độ muối, dao động mực nước cho toàn vùng nghiên cứu được ghi vào một file có đuôi .nc (thaibinhduong_his_0001.nc) liên tục 06 giờ một lần (từ 0 giờ ngày 1/1/2013 – 31/12/2013). Việc đọc và xử lý lấy số liệu của file thaibinhduong_his_0001.nc cho từng thời điểm cũng khá dễ dàng bằng matlab hoăc bằng cách lập trình gọi ra. Ví dụ, trong một năm, 6 giờ một lần ghi vậy máy tính sẽ lưu 1.460 lần (time). Vậy nếu cần biết dòng chảy vào thời điểm 6 h/31/5 thì ta lấy times = (31+28+31+30+30)x4 + 1. Các điều kiện thời tiết Thái Bình Dương tại những thời điểm cụ thể trong quá khứ, đã sử dụng số liệu về điều kiện biên khai thác 25 được từ các mô hình và cơ sở dữ liệu toàn cầu (OGCM). Tại biên lỏng sử dụng các số liệu từ Atlas biển toàn cầu, với các biên lỏng có thủy triều (mực nước và dòng triều) được tính từ mô hình thủy triều TPXO7.1. Các kết quả nghiên cứu được thể hiện qua bản đồ phân bố trường vector dòng chảy thể hiện dòng hải lưu có tốc độ trên 50 cm/s và dưới 50 cm/s (nhằm mục đích xem trường dòng chảy được rõ xu thế hơn). Do hạn chế về đường truyền Internet và hạn chế về cấu hình của máy tính nên việc truy cập số liệu cả vùng Thái Bình Dương là rất khó khăn. Do vậy, trong nghiên cứu dòng hải lưu tây bắc Thái Bình Dương, tác giả chỉ nghiên cứu dòng hải lưu trong phạm vi 3 - 400 N và 980 - 1290 E chia thành 118 x 162 điểm nút với kích thước bước lưới dx dao động trong khoảng 21,27 - 27,75 km và dy khoảng 21,36 - 27,74 km. Địa hình đáy biển được nội suy từ số liệu địa hình đáy biển toàn cầu ETOPO-2 có độ phân dải 2’ và được chia thành 7 lớp theo hệ tọa độ Sigma [hệ tọa độ Sigma (Arakawa và Lamb, 1977)]. 7 lớp Sigma được kí hiệu như sau: Lớp đáy - Z1, lớp trên của lớp đáy - Z2, lớp ngay dưới lớp giữa - Z3, lớp giữa - Z4, lớp ngay trên lớp giữa - Z5, lớp dưới sát lớp mặt - Z6, lớp mặt - Z7 (Z7 = 0m- độ sâu/7, Z6 = độ sâu /7 - 2x độ sâu /7...) (Hình 1-7). Từ kết quả, bước đầu cho phép nhận định trường dòng chảy tây bắc Thái Bình Dương có đặc điểm như sau: Tồn tại dòng hải lưu mạnh chảy liên tục từ bắc xuống nam đi dọc từ vùng biển phía đông bờ Đài Loan – Trung Quốc xuống dọc bờ biển Việt Nam xuất hiện ở các tầng mặt xuống tầng sát đáy. Ở các tầng sâu từ Z5 – Z2, dòng hải lưu mạnh này còn phân hóa rõ rệt thành hai nhánh. Nhánh thứ nhất, đi từ vùng biển phía đông Đài Loan đi sang phía tây nam Đài Loan đi men bờ phía nam Trung Quốc qua bờ Hải Nam và men theo đường bờ Việt Nam chảy xuống phía nam. Nhánh thứ hai, đi từ vùng biển phía đông Đài Loan men theo bờ phía đông Philippin xuống phía nam. Các kết quả nghiên cứu, phù hợp với nghiên cứu của Stomel về hiện tượng cường hóa bờ phía tây Đại Dương và ông đã giải bài toán này cho Đại Dương giả định, một chiều xấp xỉ bằng bán kính trái đất và một chiều 10.000 km. Kết quả của ông đã vẽ ra được đường xiết dòng chảy bờ phía tây. Theo thời gian dòng hải lưu mạnh phía tây biến đổi không nhiều, dòng hải lưu luôn nằm trong một dải và có hướng tập trung (dòng xiết bờ phía tây). Dòng hải lưu nhánh thứ nhất ở Biển Đông ngư dân Việt Nam thường gọi là dòng bắc nam (chảy từ bắc xuống nam). Theo tính toán tốc độ của dòng hải lưu nhánh thứ nhất có tốc độ nhỏ hơn dòng hải lưu nhánh thứ hai. Xuất hiện và tồn tại nhiều vực xoáy ở các vùng khác nhau ở vùng phía tây bắc Thái Bình Dương với đường kính có thể lên tới 50 km đến hàng trăm kilômet, theo thời gian các xoáy nước này dịch chuyển sang ngang, lên và xuống. Nhiều (không phải tất cả) vực xoáy xuất hiện đều có điểm chung; phần phía tây vực xoáy thường là dòng hải lưu mạnh phía tây tạo nên. Các vực xoáy lớn có thể kể đến là các vực xoáy xuất hiện ở vùng biển Đài Loan – Philippin, vùng biển phía đông Philippin nằm trong khoảng vĩ độ 14 - 17,50N, vực xoáy phía đông bắc đảo Hải Nam và các vực xoáy ở Biển Đông và các vực xoáy thể hiện rõ nét hơn khi ở các tầng sâu (Hình 3-6). So sánh kết quả tính toán với các công bố quỹ đạo vật nổi Xem xét các kết quả bước đầu nghiên cứu dòng hải lưu tây bắc Thái Bình Dương có phù hợp với thực tế hay không. Chúng tôi so sánh kết quả trường vector dòng chảy ở Biển Đông so với quỹ đạo của vật nổi ở Đông, Tây, Bắc, Nam đảo Hải Nam (quỹ đạo vật nổi được KS. Doãn Mạnh Dũng đăng trên trang web index.php?option=com_content&view=arti cle&id=796:s-hinh-thanh-y-tng-qmay-phat- in-bng-dong-hi-luq-&catid=123:nng-lng- dong-hi-lu-&Itemid=27 được ông trích từ tài liệu của Bộ tư lệnh Hải quân năm 1985 khi thả các vật nổi ở Đông, Tây, Bắc, Nam đảo vật nổi). Các kết quả so sánh giữa hai hình 8a (tính toán) và 8b (quỹ đạo vật nổi thả trôi) cho thấy là có sự phù hợp. 26 Hình 1. Phân bố trường dòng chảy ở tây bắc Thái Bình Dương tại Z7 (tầng mặt) Fig. 1. Distribution of current field in the North-Western Pacific at Z7 (surface layer) Hình 2. Phân bố trường dòng chảy ở tây bắc Thái Bình Dương tại tầng Z6 Fig. 2. Distribution of current field in the North-Western Pacific at Z6 layer 27 Hình 3. Phân bố trường dòng chảy ở tây bắc Thái Bình Dương tại tầng Z5 Fig. 3. Distribution of current field in the North-Western Pacific at Z5 layer Hình 4. Phân bố trường dòng chảy ở tây bắc Thái Bình Dương tại tầng Z4 (tầng giữa) Fig. 4. Distribution of current field in the North-Western Pacific at Z4 layer (middle layer) 28 Hình 5. Phân bố trường dòng chảy ở tây bắc Thái Bình Dương tại tầng Z3 Fig. 5. Distribution of current field in the North-Western Pacific at Z3 layer Hình 6. Phân bố trường dòng chảy ở tây bắc Thái Bình Dương tại tầng Z2 Fig. 6. Distribution of current field in the North-Western Pacific at Z2 layer 29 Hình 7. Phân bố trường dòng chảy ở tây bắc Thái Bình Dương tại tầng Z1(tầng đáy) Fig. 7. Distribution of current field in the North-Western Pacific at Z1 layer (bottom layer) Tru ng Qu oác V ieät N a m Thaùi Lan M alaixia M ala ixi a P h il ip p in 3 o 40 o 98 o 129 o Chuù giaûi < 50 cm/s => 50 cm/s Hình 8a Hình 8b . Hoàng Sa Trường Sa Côn Đảo Phú Quốc Hoàng Sa Trường Sa Côn Đảo Phú Quốc 30 Hình 8c Hình 8. Bức tranh so sánh giữa tính toán (8a), bức tranh quỹ đạo của vật nổi thả trôi ở Biển Đông của Bộ tư lệnh Hải Quân (8b) và bức tranh dòng chảy của Jianyu Hu và cs., 2000 (8c) Fig. 8. Comparison between calculation (8a), orbit picture of floating object in the East Sea of Navy Command (8b) and current picture of Jianyu Hu et al., 2000 (8c) IV. KẾT LUẬN Tồn tại dòng xiết phía tây bắc Thái Bình Dương chảy liên tục từ bắc xuống nam đi dọc từ vùng biển phía đông bờ Đài Loan – Trung Quốc xuống dọc bờ biển Việt Nam và dòng xiết từ vùng biển phía đông Đài Loan xuống vùng biển phía đông Philippin đi xuống phía nam. Dòng xiết phía tây Biển Đông không đi vào vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan và dòng xiết ở Biển Đông ngư dân Việt Nam thường gọi là dòng bắc nam. Xuất hiện và tồn tại nhiều vực xoáy ở các vùng khác nhau ở vùng phía tây bắc Thái Bình Dương với đường kính có thể lên tới hàng trăm kilômet và vực xoáy có điểm chung là phần phía tây vực xoáy thường là dòng hải lưu mạnh phía tây tạo nên. Do khó khăn về đường truyền Internet và hạn chế về cấu hình của máy tính nên việc truy cập số liệu cả vùng Thái Bình Dương là rất khó khăn. Do vậy, trong nghiên cứu này tác giả chỉ nghiên cứu dòng hải lưu trong phạm vi (3 - 40)0 N và (98 - 129)0 E. Các kết quả nghiên cứu có giá trị tham khảo cho các nghiên cứu hàng hải, cứu hộ, nghiên cứu phát triển nguồn điện năng từ dòng chảy và các nghiên cứu khác ở vùng biển tây bắc Thái Bình Dương. Lời cảm ơn. Tác giả xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp phòng Vật lý biển đã có những đóng góp ý kiến cho công trình nghiên cứu này được hoàn thiện. TÀI LIỆU THAM KHẢO Arakawa A. and Lamb V. R., 1977. Computational design of the basic dynamical processes of the UCLA general circulation model. Meth. Computat. Phys., 16: 173-263. Da Silva A., C. Young, and S. Levitus, 1994. Atlas of surface marine data 1994, vol. 1-5. NOAA Atlas NESDIS, 6-10. U.S. Gov. Printing Office, Washington, D.C. Jianyu Hu, Hiroshi Kawamura, Huasheng Hong and Yiquan Qi, 2000. A review on the currents in the South China Sea: Seasonal circulation, South China Sea warm current and Kuroshio intrusion. Journal of Oceanography, 56: 607 - 624. Hoàng Sa Trường Sa Côn Đảo Phú Quốc 31 Marchesiello P., J.C. McWilliams, and A. Shchepetkin, 2001. Open boundary conditions for long-term integrations of regional oceanic models. Ocean Modelling, 3: 1-20. Phạm Xuân Dương, 2013. Mô hình hóa trường dòng chảy tại cửa sông Đồng Bò (Nha Trang) dưới tác động của công trình lấn biển. Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế “Biển Đông 2012”, tập 2, trang 9 - 16. Phạm Xuân Dương, 2014. Nghiên cứu dòng hải lưu Ấn Độ Dương bằng mô hình số trị. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển, tập 14, số 3, tr 204-211.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf04_phamxuanduong_trang21_31_8817_2070854.pdf
Tài liệu liên quan