Các biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở công ty sản xuất và xuất nhập khẩu bao bì

Mục lục Mục lục 1 Lời mở đầu 3 Chương I: Lý luận chung về hoạt động kinh doanh nhập khẩu 5 I. Sự cần thiết phải có thương mại quốc tế 5 1. Khái niệm thương mại quốc tế: 5 2.Vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển của mỗi quốc gia 5 II. Hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế quốc dân 8 1. Vai trò của hoạt động nhập khẩu 8 2. Các hình thức nhập khẩu chủ yếu 9 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu 11 4. Nội dung của hoạt động nhập khẩu: 14 Chương II: Thực trang hoạt động nhập khẩu của công ty sản xuất và xuất nhập khẩu bao bì- Bộ Thương Mại 31 I. Giới thiệu khái quát về công ty sản xuất và xuất nhẩu Bao bì 31 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty sản xuất và xuất nhập khẩu bao bì 31 2. Chức năng nhiệm vụ của công ty 33 3. Cơ cấu tổ chức của công ty PACKEXIM 34 4. Các điều kiện kinh doanh của công ty 39 5. Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua 42 II. Thực trạng hoạt động nhập khẩu của công ty PACKEXIM 43 1. Tổ chức hoạt động nhập khẩu hàng hoá tại công ty PACKEXIM 43 2. Tình hình kinh doanh nhập khẩu của công ty PACEXIM trong những năm gần đây 47 2. Những kết quả hoạt động nhập khẩu cho sản xuất và kinh doanh của công ty PACEXIM 50 3. Đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty PACKEXIM: 58 III. Đánh giá hoạt động nhập khẩu tại PACKEXIM: 62 1. Những thành tựu: 62 2. Những khó khăn và tồn tại trong hoạt động nhập khẩu của PACKEXIM: 63 Chương III: Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu của công ty PACKEXIM 70 I. Phương hướng cho hoạt đồng nhập khẩu trong thời gian tới 70 1. Định hướng nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian tới: 70 2. Phương hướng của công ty trong thời gian tới: 71 II. Các giải pháp góp phần hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại công ty PACKEXIM 75 1. Nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả của đội ngò cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu 75 2. Không ngừng tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, nắm bắt kịp thời những biến động của thị trường để có biện pháp thích ứng tốt nhất 76 3. Mở rộng các hình thức huy động vốn cho nhập khẩu và đẩy mạnh tốc độ chu chuyển của vốn: 80 4. Đa dạng hoá hình thức nhập khẩu và đa dạng hoá phương thức thanh toán: 82 5. Nâng cao hiệu quả công tác giao nhận nhằm hoàn thiện các nghiệp vụ kinh doanh nhập khẩu: 83 6. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu: 83 III. Một số kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan chức năng: 86 1. Hoàn thiện cơ chế xuất nhập khẩu: 86 2. Hỗ trợ về thông tin: 88 3.Đầu tư để phát triển ngành vận tải: 89 4. Tăng cường quản lý và nâng cao chất lượng bao bì: 89 Kết luận 91

doc88 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2026 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở công ty sản xuất và xuất nhập khẩu bao bì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a đất nước và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. + Dành ngoại tệ nhập khẩu vật tư cho sản xuất trong nước xét thất có lợi, nhanh chóng phát huy tác dụng đẩy mạnh sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân. - Nhập khẩu thiết bị kỹ thuật hiện đại: Việc nhập khẩu thiết bị máy móc và chuyển giao công nghệ kể cả thiết bị theo con đường đầu tư phải nắm vững phương châm đi tắt đón đầu, đi thẳng và tiếp thu công nghệ hiện đại. Nhập khẩu phải hết sức chọn lọc, tránh nhập những loại công nghệ lạc hậu nà các nước đang tìm cách thải ra. Đây là bài học rót ra từ những năm đổi mới ở nước ta. - Bảo về và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tăng nhanh xuất khẩu: Trong điều kiện các ngành công nghiệp còn non kém của Việt Nam giá hàng nhập khẩu thường rẻ hơn, phẩm chất tốt hơn sản xuất trong nước. Nhưng chỉ nhập mà không chú tới sản xuất sẽ làm cho công nghiệp trong nước không phát triển được. Vì vậy cần tính toán và tranh thủ các lợi thế của nước ta trong từng thời kỳ để bảo hộ và mở rộng sản xuất trong nước vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa vừa tạo ra được nguồn hàng xuất khẩu mở rộng thị trường ngoài nước. Quán triệt chủ trương, chính sách của Nhà nước công ty PACKEXIM đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ về mọi mặt trong đó có hoạt động nhập khẩu với phương châm mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và thực hiện triệt để chính sách Nhà nước đề ra. 2. Phương hướng của công ty trong thời gian tới Về cơ bản hoạt động nhập khẩu của công ty trong thời gian tới theo những định hướng cơ bản sau: Thứ nhất: Đẩy mạnh công tác xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nguyên liệu nói riêng trên cơ sở lấy sản xuất làm trung tâm phục vụ hiệu quả cho sản xuất. Thực tế cho thấy PACKEXIM đang gặp không Ýt khó khăn đó là: Nguy cơ thị trường bị thu hẹp do không còn sản phẩm độc quyền, nhịp độ phát triển chưa vững chắc, lại đi lên trong điều kiện vốn đầu tư hạn hẹp, thị trường cạnh tranh gay gắt, nguy cơ tụt hậu về mặt thiết bị công nghệ nếu không nhanh chóng đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ mới tạo ra sản phẩm chất lượng cao theo đòi hỏi cuả thị trường. Nguy cơ tác động xấu của mặt trái cơ chế thị trường là nạn tham nhòng, quan liêu, công ty còn thiếu cán bộ giỏi về quản lý, sản xuất kinh doanh, ngoại ngữ. Tuy nhiên, PACKEXIM cũng có những thuận lợi nhất định: Ảnh hưởng tích cực của sự phát triển công nghệ thông tin, đội ngò nhân viên nhiệt tình, đoàn kết, gắn bó sâu sắc với đơn vị. Trong những năm đổi mới công ty đã xây dựng được một số bạn hàng truyền thống, xu hướng mở rộng quan hệ quốc tế về liên kết, hợp tác thu hót vốn, kỹ thuật của nước ngoài, đem lại cho công ty nguồn lực quan trọng. Để giảm bớt khó khăn, đẩy lùi ảnh hưởng tiêu cực của nó và phát huy lợi thế công ty phải không ngừng đẩy mạnh công tác nhập khẩu trên tất cả các phương diện: Thị trường, mặt hàng, nghiệp vụ… Nhưng PACKEXIM là doanh nghiệp đi lên từ sản xuất bao bì, có nhiều ưu thế trong ngành này nên hoạt động nhập khẩu phải lấy sản xuất bao bì làm trọng tâm. Hơn nữa cùng với sự phát triển kinh tế, văn minh nhân loại nhu cầu bao bì ngay mét gia tăng về số lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã… mà sản xuất trong nước vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ nên PACKEXIM phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài là chủ yếu. Dự báo nhu cầu thị trường trong nước về bao bì vào năm 2001 của Bộ Thương Mại như sau: PACKEXIM có ưu thế lớn so với các doanh nghiệp khác ở phía Bắc ở chỗ công ty có quan hệ tín nhiệm, truyền thống với nhiều khách hàng có kinh nghiệm trong sản xuất, có hệ thống máy móc thiết bị vào loại hiện đại nhất ở miền Bắc. Các khách hàng lớn như Hải Châu, Hải Hà, Công ty may xuất khẩu, Xí nghiệp cơ điện, VINATEA, Công ty rượu Hà Nội. Gần đây, một số liên doanh sản xuất, lắp ráp ti vi điện tử (DAEWOO, HANEL…), các hãng bột giặt, dầu gội đầu như Dimension, Clear… bắt đầu tìm đến sản phẩm của công ty. Giá trị sản lượng của công ty đã tăng và ổn định trong các năm qua. Tóm lại, sản xuất vẫn là quan trọng nhất của PACKEXIM và cũng là ngành có triển vọng nhất của công ty. Bộ phận kinh doanh xuất nhập khẩu tuy mới đi vào hoạt động được gần 10 năm (1992) nhưng đã có những tiến bộ rõ rệt có tiềm năng để phát triển nguồn nguyên liệu được nhập một cách có hiệu quả là một trong những nguyên nhân quan trọng đối với sự thành công của PACKEXIM. Mặc dù hoạt động xuất nhập khẩu của công ty mang lại nguồn thu rất lớn nhưng mục tiêu sản xuất vẫn là chính và hoạt động xuất nhập khẩu hỗ trợ cho sản xuất và thúc đẩy hoạt động của công ty. Thứ hai: Coi trọng và mở rộng xuất nhập khẩu theo ngành hàng công ty có lợi thế trước hết là phục vụ đắc lực cho sản xuất đồng thời mở rộng thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm mục tiêu lùa chọn các thương vụ nhập khẩu, hiện đại hoá thiết bị công nghệ, đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng quốc gia, tạo công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động. Đây là định hướng có tính chủ đạo về phương châm thực hiện công tác xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng. Xuất thân từ một doanh nghiệp sản xuất bao bị PACKEXIM có lợi thế trong việc kinh doanh nguyên liệu bao bì. Trải qua nhiều năm vừa hoạt động vừa tìm tòi sáng tạo công ty đã có cán bộ công nhân viên am hiểu sâu về lĩnh vực bao bì và nguyên liệu bao bì. Mặt khác công ty cũng xây dựng được một hệ thống bạn hàng khá rộng rãi trong và ngoài nước. Hơn nữa bao bì là một mặt hàng có tiêu chuẩn kỹ thuật đòi hỏi chính xác, chất lượng cao do đó không có nhiều người biết đến. Đây là lợi thế lớn của PACKEXIM so với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu khác. Do vậy trong thời gian trước mắt công ty cần duy trì nguyên liệu bao bì và mặt hàng nhập khẩu chính trước hết là để phục vụ cho sản xuất sau là để cung cấp cho các đơn vị khác có nhu cầu. Bên cạnh đó, từng bước mở rộng mặt hàng nhập khẩu, tích cực tìm hiểu nhu cầu để mở rộng thị trường, tăng nguồn thu, nâng cao thu nhập cho người lao động. Thứ ba: Không ngừng mở rộng thi trường trong nước, tăng cường mở rộng thi trường nước ngoài. Thị trường trong nước là thị trường đầu ra cho sản phẩm bao bì của công ty và cũng là thị trường đầu ra cho hàng nhập khẩu, nó là nơi thực hiện công đoạn cuối cùng của công đoạn sản xuất kinh doanh nhưng lại quan trọng nhất và cần được tiến hành nghiên cứu đầu tiên. Trong điều kiện nền kinh tế thi trường có sự cạnh tranh gay gắt hàng hoá đa dạng, phong phú, người tiêu dùng có nhiều cơ hội lùa chọn. Để tồn tại và phát triển được hơn bao giê hết không ngừng nghiên cứu tìm ra biện pháp để duy trì thị trường truyền thống và mở rộng ra thị trường mới. Song song với thị trường trong nước là thị thị trường nước ngoài. Với sự khác biệt về lợi thế so sánh thì giá cả, chất lượng của sản phẩm cũng khác nhau. Vì vậy cùng với các yếu tố khác về chính trị phong tục tập quán doanh nghiệp cần tìm cho mình thị trường phù hợp nhất. Với PACKEXIM ngoài việc tăng cường mối quan hệ với các thị trường truyền thống hiện nay như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan… cần khôi phục, phát triển quan hệ với các thị trường Đông Âu, Liên Xô và mở rộng ra thị trường mới như Mỹ. Thứ tư: Thực hiện quay vòng vốn, cố gắng giảm thời gian từng phương án kinh doanh so với dự kiến để tránh tác động xấu do biến động của thị trường trong và ngoài nước. Ngoài ra hoạt động nhập khẩu cũng phải liên hệ với hoạt động nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật bao bì. Sự liên hệ này sẽ giúp phòng xuất nhập khẩu nắm bắt được nhu cầu thông số của bao bì, nguyên liệu sản xuất bao bì từ đó có định hướng cho chủng loại nguyên liệu nhập khẩu. Phấn đấu tới cuối năm công ty hoàn thành việc cổ phần hoá. Tới lúc đó mọi hoạt động của công ty nói chung và của nhập khẩu nói riêng sẽ hoạt động theo cơ chế mới một cơ chế nhằm tới tính hiệu quả hơn. Thứ năm: Nâng cao tính tích cực, chủ đạo của doanh nghiệp và khai thác triệt để trợ giúp của các cơ quan Nhà nước và các doanh nghiệp khác: Trải qua 27 năm xây dựng và phát triển có được như ngày hôm nay là nhờ công lao cuả hàng ngàn cán bộ công nhân viên thuộc nhiều thế hệ đã đóng góp công sức và nhiều chí tuệ. Có thể nói rằng doanh nghiệp đã phát huy cao nhất khả năng và nỗ lực của bản thân vượt qua nhiều thử thách, khó khăn xứng đáng là một đơn vị dẫn đầu của ngành sản xuất bao bì Việt Nam. Đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu là một lĩnh vực khá mới mẻ đối với công ty và có sự cạnh tranh gay gắt nhưng với tinh thần không ngại vượt khó cán bộ công nhân viên của công ty không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, đúc kết kinh nghiệm nên đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường thì khó khăn luôn theo đuổi những bước đi của doanh nghiệp. Trước tình hình này các nhà lãnh đạo đưa ra chủ trương : Chấn an, khích lệ, khơi dậy năng lực tiềm tàng của mỗi cá nhân đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp của tập thể, không ngừng nâng cao tính tích cực chủ động sáng tạo để tạo ra một sức bật bên trong giúp doanh nghiệp đi lên. Bên cạnh đó cũng không thể không nói đến sự giúp đỡ nhiều mặt của Bộ Thương Mại và các cơ quan chức năng của Nhà nước trong những thời điểm khó khăn nhất của công ty. Không phải là những trợ giúp về mặt vật chất mà cả những chỉ đạo định hướng đào tạo đội ngò cán bộ kinh doanh. Dĩ nhiên, trong điều kiện đất nước còn khó khăn về mọi mặt thì không thể đòi hỏi nhiều mà phải biết nắm bắt những cơ hội do chính sách của Nhà nước tạo ra và khai thác có hiệu quả nhất. Có những doanh nghiệp có những vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của PACKEXIM. Đó là bạn hàng tiêu thụ sản phẩm và các nhà cung cấp đầu vào cho sản xuất cần triệt để khai thác trợ giúp của doanh nghiệp trên. Trên cơ sở phân tích tình hình kinh doanh năm 2000 và những năm trước đó, đánh giá môi trường kinh doanh trong và ngoài doanh nghiệp công ty PACKEXIM đã xây dựng kế hoạch nhập khẩu năm 2001 với các chỉ tiêu cụ thể sau: - Kim ngạch nhập khẩu năm 2000 đạt 9.204 triệu USD. Kế hoạch đặt ra cho 2001 là 11 triệu USD. Mục tiêu nhập khẩu năm 2001 là kinh doanh những mặt hàng phục vụ sản xuất bao bì, tiêu dùng, nhập khẩu công nghệ phục vụ sản xuất; - Phấn đấu đạt doanh thu 300 tỷ VNĐ cho năm 2001 (năm 2000 là 164.881.000 VNĐ); - Thu nhập bình quân đầu người năm 2001 đạt 800.000đồng/1người/1tháng; - Tăng tỷ trọng cán bộ có trình độ đại học và trên đại học. Các cán bộ làm nghiệp vụ phải giỏi chuyên môn và giao tiếp được bằng ngoại ngữ; - Đáp ứng các nhu cầu sản xuất, kinh doanh, hợp tác, đầu tư, liên doanh, liên kết qua việc nhập các đơn hàng của Nhà nước; - Kết hợp chặt chẽ các tổ chức sản xuất kinh doanh trong nước tạo ra sản phẩm để xuất khẩu hoặc bao bì có chất lượng cao thay thế hàng nhập khẩu, tiến tới xuất khẩu bao bì. Đây là chiến lược lâu dài của ngành bao bì nói chung và của PACKEXIM nói riêng. Tóm lại, trong những năm tới công ty tiếp tục xây dựng và tổ chức hoàn thiện chiến lược sản xuất kinh doanh cuả công ty, gắn sản xuất với kinh doanh thương mại. Coi sản xuất là trọng tâm kết hợp với việc kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu để hỗ trợ cho nhau làm cho kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng hiệu quả hơn xác định mặt hàng chiến lược để phát triển sản xuất, đầu tư theo chiều sâu, đưa kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng cải tiến mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm để tăng năng lực cạnh tranh. Ngoài ra, công ty cần kết hợp chuyên doanh với kinh doanh tổng hợp, xuất nhập khẩu với kinh doanh nội địa để tăng cường khả năng cạnh của công ty trên thị trường II. Các biên pháp góp phần hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại công ty PACKEXIM Qua tìm hiểu tình hình thực tế, những tồn tại và thành tựu trong hoạt động nhập khẩu của công ty cùng những thuận lợi và khó khăn mà công ty đã đang phải đối phó, tôi xin đề xuất một số biện pháp góp phần hoàn thiện hoạt nhập khẩu ở công ty sản xuất và xuất nhập khẩu bao bì. 1. Nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả của đội ngò cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu Đào tạo, xây dựng đội ngò cán bộ có năng lực quản lý, có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, phẩm chất đạo đức ngang tầm với nghiệp vụ của đơn vị tiến tới tiêu chuẩn hoá chức danh cho từng nghiệp vụ, tổ chức sát hạch cho từng cán bộ công nhân viên theo tiêu chuẩn chức danh để ra là công việc cần làm ngay và duy trì thường xuyên liên tục. Sở dĩ như vậy vì nhân sự là yếu tố quyết định sự thành bại của công bất kỳ một tổ chức nào. Hơn nữa, kinh doanh nhập khẩu là một công việc rất phức tạp đỏi hỏi cán bộ kinh doanh phải có trình độ cao và khả năng phản xạ nhạy bén trước các biến động của thị trường. Tuy nhiên, không chỉ yêu cầu đơn thuần về trình độ mà còn các yếu tố khác như kinh nghiệm, khả năng giao tiếp, ngoại ngữ… Thực tế hiện nay tại PACKEXIM: Đội ngò kinh doanh xuất nhập khẩu chủ yếu là các cán bộ mới chuyển từ các bộ phận khác sang cộng với một số cán bộ tuyển thêm. Với tổng số khoảng 25 người là số không nhỏ, nhưng hiệu quả làm việc chưa cao. Những người có kinh nghiệm thì lại hạn chế về khả năng ngoại ngữ, những nhân viên trẻ thì lại thiếu kinh nghiệm thực tế. Để không ngừng hoàn thiện đội ngò các bộ kinh doanh xuất nhập khẩu công ty có thể áp dụng một số biện pháp sau: - Thường xuyên đào tạo và đào tạo lại cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu cho phù hợp với yêu cầu và tình hình mới. Công ty có thể cử cán bộ kinh doanh đi tập huấn học các líp học ngắn hạn về trình độ nghiệp vụ, tạo điều kiện và khuyến khích họ tham gia các líp học về ngoại ngữ, vi tính…Công ty nên hỗ trợ một phần hay toàn bộ kinh phí học tập. Tổ chức các buổi họp, tổng kết những ưu nhược điểm sau những thương vụ nhập khẩu mà có nhiều điểm đáng quan tâm (cả tốt và chưa tốt) hay sau mét quý, 6 tháng. Qua đây cán bộ kinh doanh sẽ rót ra được những kinh nghiệm cần thiết, họ có thể bàn bạc, trao đổi với nhau về công việc, cách thức tiến hành công việc sao cho tốt nhất; - Để cán bộ kinh doanh thực sự làm việc năng động, linh hoạt thì công ty cần quan tâm nhiều hơn đến kết quả thực hiện công việc của họ, khiển trách họ khi không làm tốt hay khen thưởng kịp thời (cả vật chất lẫn tinh thần) để khuyến khích họ làm việc. Đồng thời không ngừng cải thiện môi trường làm việc. Tạo ra môi trường có sự quan hệ mật thiết, gần gũi trong công ty. Cấp trên đối xử với cấp dưới dùa trên sự tôn trọng và ân cần chỉ bảo, không có thái độ chuyên quyền độc đoán. Luôn coi cán bộ cấp dưới là một tài sản quan trọng của công ty, làm cho họ gần gũi gắn bó với công ty và không bao giê có ý định “bỏ đi”; - Công ty cần tuyển chọn và sắp xếp cộng việc phù hợp với trình độ chuyên môn, khả năng làm việc của cán bộ kinh doanh để phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi cá nhân. Đồng thời phải chú ý tới khả năng phối hợp công việc giữa các cán bộ kinh doanh, các bộ phận có thể là một cán bộ có kinh nghiệm đi kèm với cán bộ trẻ có năng lực nhưng thiếu kinh nghiệm để họ bù đắp, hỗ trợ cho nhau cùng tiến. 2. Không ngừng tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, nắm bắt kịp thời những biến động của thị trường để có biện pháp thích ứng tốt nhất Nghiên cứu thị trường là công việc cần thiết và có ý nghĩa thiết thực đối với hoạt động kinh doanh của PACKEXIM. Thông qua nghiên cứu thị trường công ty sẽ nắm bắt được các thông tin như: Tình hình cung cầu của thị trường, cơ cấu chủng loại mà thị trường cần, mức giá và khả năng biến động, các đối thủ cạnh tranh, tỷ giá hối đoái, lãi suất, lạm phát… để từ đó có cơ sở để đưa ra quyết định đúng đắn và kịp thời nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh được an toàn và tận dụng khai thác được các cơ hội có thể có. Công ty cần triển khai tổ chức hoạt động nghiên cứu thị trường một cách cụ thể mà trong đó việc tổ chức và hoàn thiện bộ máy nghiên cứu, xây dựng chiến lược nghiên cứu. Bộ máy nghiên cứu thị trường có chức năng tham mưu cho lãnh đạo trong việc đưa ra quyết định phối hợp điều chỉnh các hoạt động của công ty trong điều kiện hiện nay. Công ty cũng cần có những cán bộ chuyên sâu có chuyên môn nghiệp vụ giỏi, có khả năng phân tích và đưa ra những quyết định chính xác trên cơ sở đó lập kế hoạch về nhu cầu làm cơ sở cho kế hoạch nhập. Bên cạnh đó công ty cần xác lập mạng lưới cộng tác viên ở các đơn vị cơ sở với nhiệm vụ cung cấp thông tin cho phòng nghiên cứu, trong điều kiện tài chính eo hẹp có thể áp dụng hình thức trao đổi thông tin và tận dụng khai thác nguồn thông tin từ các đơn vị chuyên trách của Bộ Thương Mại, đài, báo… Mục tiêu của nghiên cứu thị trường là: + Phải xác định mình cần loại hàng hóa gì số lượng quy cách chủng loại, đặc điểm tính chất như thế nào (căn cứ vào nghiên cứu nhu cầu khách hàng) trên cơ sở đó đưa ra kế hoạch nhập; + Phải nghiên cứu xác định được chu kỳ sống của sản phẩm chúng ta đang kinh doanh. Bởi những sản phẩm hiện tại đang bán rất chạy (giai đoạn phát triển) nhưng khi mình nhập về thì có thể không bán được nữa (giai đoạn bão hoà) để từ đó nên kế hoạch nhập hay không nhập, nếu nhập thì số lượng bao nhiêu là hợp lý, trong giai đoạn tiếp theo cần thay thế bằng mặt hàng gì. + Dù đoán được xu thế biến động của tỷ gía hối đoái, tỷ lệ lạm phát và tác động của nó đến giá cả hàng hoá; + Xác định được khả năng hiện tại và các động thái trong tương lai của đối thủ cạnh tranh, các tác động của các động thái này đối với hoạt động kinh doanh của công ty; + Dù đoán được các biến động của môi trường chính trị, văn hoá xã hội khoa học kỹ thuật và tác động của nó đối với hoạt động kinh doanh của công ty. Quá trình nghiên cứu thị trường nhất định phải được tiến hành đúng trình tù : Thu thập thông tin, xử lý và ra quyết định trong các giai đoạn đó cần phải quyết định các vấn đề sau: 2.1.Thu thập thông tin Ngày nay trên cả thực tiễn và lý luận đều đã chứng minh thông tin là một hàng hoá đặc biệt, là không thể thiếu được trong cơ chế thị trường. Đối với các doanh nghiệp nếu không có các thông tin chính xác về thị trường về đối thủ cạnh tranh thì không thể kinh doanh có hiệu quả. Người nào có được thông tin trước người đó thắng trong cạnh tranh. Ở các doanh nghiệp Việt Nam nói chung việc thu thập và xử lý thông tin còn rất chậm, qua nhiều khâu. Vì thế thường không đầy đủ và chính xác nên hay bỏ lỡ cơ hội làm ăn. Thị trường cũng như cơ chế thị trường đều có quy luật riêng của nó. Vì vậy để tiếp cận, hoà nhập vào thị trường quốc tế, công tác thông tin tiếp cận thị trường phải được thực hiện tốt đảm bảo cho hoạt động kinh doanh tận dụng các cơ hội, tránh rủi ro và mang lại lợi nhuận cao nhất. Do đó để đứng vững trong cạnh tranh, để tồn tại và phát triển, PACKEXIM cần phải nâng cao hiệu quả thu thập và xử lý thông tin. Việc thu thập và xử lý thông tin cần phải được tiến hành liên tục thường xuyên và toàn diện. Cần phải thu thập và xử lý thông tin về tất cả các yếu tố có liên quan đến việc kinh doanh như cung cầu giá cả, đối thủ cạnh tranh. Ä.Thông tin về nhu cầu Hoạt động trong thời kỳ nền kinh tế nước ta chuyển đổi mạnh mẽ sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, công ty đã sớm nhận thức được vai trò của thông tin trong hoạt động kinh doanh, tuy vậy việc thu thập và xử lý thông tin vẫn còn mang tính máy móc, hình thức và thụ động, không được tiến hành thương xuyên nên bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh. Với vai trò là cầu nối trung gian giữa người mua ở trong nước và người bán ở nước ngoài đỏi hỏi công ty phải có thông tin về cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, để thành công trong kinh doanh thì phải biết cách đáp ứng nhu cầu một cách tốt nhất. Muốn vậy trước hết phải nhận biết nhu cầu một cách sớm nhất. Vấn đề quan trọng ở đây là phải thu thập được các thông tin về chúng một cách đầy đủ và chính xác nhất. Để có thông tin về nhu cầu nguyên vật liệu cũng như các mặt hàng công ty kinh doanh có thể tập trung và các nguồn sau: - Thông tin từ nội bộ ngành: Đây là các kênh thông tin rất quan trọng và hữu hiệu. Các cơ sở sản xuất của công ty, các cơ sở sản xuất bao bì khác sử dụng nguyên vật liệu của công ty. Họ sẽ cung cấp cho công ty định mức nhu cầu; - Các phương tiện thông tin đại chúng: Đây là một trong những nguồn thông tin cần thiết. Công ty nên thường xuyên theo dõi trên các tạp chí chuyên ngành, tin tức do Bộ Thương Mại, Bộ Công Nghiệp, Tổng cục thống kê cung cấp. Kênh thông tin này tuy không cung cấp một cách chính xác về nhu cầu nhưng lại giúp công ty có cái nhìn tổng quát về thị trường; - Thông tin từ trung tâm tư vấn: Công ty thường Ýt sử dụng thông tin từ nguồn này một phần do phải mất chi phí cao. Tuy nhiên, nó cũng có ưu điểm là cung cấp thông tin chính xác, tin cậy kịp thời. - Thông tin từ khách hàng: Trong hoạt động kinh doanh độ thoả mãn của khách hàng về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp là thước đo chính xác nhất, nó phản ánh đầy đủ kết quả kinh doanh, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy công ty nên sớm xây dựng và hoàn chỉnh kênh thông tin này. Để làm được điều đó công ty có thể sử dụng các biện pháp như: Lập phiếu điều tra, cử cán bộ trực tiếp liên hệ với khách hàng. Trong quá trình thu thập thông tin, công ty cần sử dụng các nguồn một cách linh hoạt phải biết phối hợp các nguồn thông tin với nhau để có được thông tin chính xác. Việc thu thập thông tin nên được tiến hành thường xuyên, liên tục có như vậy mới có thể nắm được các diễn biến trên thị trường, thấy được thãi quen cũng như sự thay đổi trong thãi quen tiêu dùng để kịp thời điều chỉnh hoạt động kinh doanh đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng, tạo uy tín kinh doanh. Ä. Thu thập thông tin về thị trường nhập khẩu Sau khi nắm bắt được nhu cầu công ty phải tìm đối tác nước ngoài có thể xuất khẩu loại mặt hàng yêu cầu để tiến hành hoạt động mua bán. Việc nghiên cứu thị trường cung cấp là hết sức quan trọng mặc dù rất phức tạp và tốn kém. Bởi đây là nơi chứa đựng nhiều cơ hội kinh doanh nhưng cũng không Ýt rủi ro. Ví dụ với cùng một loại mặt hàng và cùng một chất lượng như nhau nhưng ở các thị trường khác nhau hay các đối tác khác nhau có những giá cả khác nhau. Trên thực tế có trường hợp công ty PACKEXIM nhập hàng với giá cả cao hơn mức mà công ty có thể nhập của đối tác khác. Vấn đề đặt ra là công ty phải nâng cao hiệu quả hoạt động tìm nguồn nhập khẩu. Trong khi nghiên cứu nên chú ý tới các hãng sản xuất, hạn chế sản xuất hạn chế giao dịch qua trung gian để hạ giá thành. Thiết nghĩ công ty nên áp các nghiệp vụ marketing vào nghiên cứu dữ liệu thông tin, thành lập một hệ thống thông tin đầy đủ về các nhà cung cấp hiện tại và tiềm năng. Có thể tham khảo thông tin về các nhà cung cấp qua các nguồn sau: - Quảng các trực tiếp của hãng gửi cho công ty qua các catalogue, đơn chào hàng; - Quảng cáo của các hãng trên tạp chí chuyên ngành, trên các phương tiện thông tin đại chúng; - Các khách hàng đã và đang tiêu dùng sản phẩm của hãng mà công ty đang quan tâm. Thông qua các thông tin thu được từ hoạt động tiếp cận thị trường công ty sẽ phải xây dựng được thị trường trọng điểm cho hoạt động nhập khẩu của mình. Vì thị trường nhập khẩu có ưu thế là có thể nhập khẩu với số lượng hàng hoá lớn thường xuyên và giá cả ổn định, độ tin cậy cao thanh toán thuận lợi. Đối với thị trường quan trọng, công ty cần phải có đại diện thường xuyên cung cấp các thông tin về những biến động trên các thị trường đó. Trong những năm qua, PACKEXIM chủ yếu nhập khẩu từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc… Nói chung thì đây là các đối tác rất tốt làm ăn nghiêm túc và chưa xảy ra trở ngại nào đáng kể nhưng trong những năm tới công ty không nên sao nhãng trong theo dõi tình hoạt động của họ. Cần xây dựng kênh trao đổi thông tin giữa công ty với các công ty nước ngoài mà công ty có quan hệ làm ăn buôn bán. Ä. Thông tin về đối thủ cạnh tranh Đối thủ cạnh tranh là các doanh nghiệp có lợi Ých đối nghịch với lợi Ých của công ty. Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh sẽ giúp công ty tránh được thất bại trong khâu tiêu thụ. Nó giúp công ty đánh giá, cân nhắc đối tượng cung cấp trên thị trường nội địa, từ đó có những kết luận đúng đắn nhằm thay đổi đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên cần phải có quan hệ bình đẳng với đối thủ để lùa chọn, phân chia thị trường kinh doanh nhằm khai thác lợi thế của hai bên. Công ty cần tạo lập mối quan hệ tốt giữa cán bộ công nhân viên với bên ngoài, lấy đó làm xuất phát điểm để kết hợp hài hoà lợi Ých của các bên trong quá trình kinh doanh. 2.2. Xử lý thông tin và ra quyết định Sau khi thu thập được các thông tin bộ phận nghiên cứu sẽ tiến hành phân loại để đánh gía sơ bộ chất lượng thông tin, loại bỏ các thông tin nhiễu. Sau đó sẽ tiến hành xử lý thông tin bằng các phương pháp khác như sử dụng chuyên gia, máy vi tính… Sau khi có được các thông tin chính xác công ty sẽ tiến hành xây dựng các phương án kinh doanh cụ thể kèm theo luận chứng về tính hiệu quả của các phương án đã chọn. 3. Mở rộng các hình thức huy động vốn cho nhập khẩu và đẩy mạnh tốc độ chu chuyển của vốn Hiện nay, trong hoạt động nhập khẩu của công ty còn gặp nhiều khó khăn do vốn còn hạn hẹp. Điều này nhiều khi làm lỡ mất cơ hội kinh doanh đem lại lợi nhuận cao cho công ty, mà chỉ có thể ký kết các hợp đồng có giá trị nhỏ, bị đánh giá là bạn hàng nhỏ và không gây được cảm tình, uy tín đối với khách hàng. Các bộ kinh doanh sẽ thụ động trong việc đàm phán ký kết hợp đồng, làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty. Để chủ động về vốn nhập khẩu, công ty phải có chính sách và biện pháp huy động được nguồn vốn dồi dào và phong phú. Công ty có thể huy động vốn từ những nguồn sau: - Từ cán bộ công nhân viên, kêu gọi mọi người trong công ty tham gia góp vốn và sẽ được trả với lãi xuất cao, tức là khuyến khích vật chất cùng vào việc chung và cùng có lãi; - Tạo lập uy tín trong quan hệ với các nước xuất khẩu, bằng uy tín của mình để thoả thuận trong việc thanh toán chậm, đỡ phải trả tiền hàng sớm, kéo dài thời hạn chờ cho việc tiêu thụ đạt hiệu quả thu hồi vốn thì sẽ không phải vay ngân hàng để trả, giảm được lãi xuất ngân hàng; - Đẩy mạnh xuất khẩu: Xuất khẩu lẽ ra phải được xem là nguồn vốn chính quan trọng nhất. Bởi nó không chỉ giúp công ty tạo ra nguồn ngoại tệ ổn định cho nhập khẩu, chủ động trong nhập khẩu mà còn cân đối cán cân thanh toán, loại bớt rủi ro do biến động tỷ giá hối đoái. Nhưng thực tế PACKEXIM chưa làm được điều này xuất khẩu còn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Vì vậy công ty cần có biện pháp để đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa. - Tìm các đối tác có vốn nhàn rỗi để liên doanh, liên kết (các doanh nghiệp trong và ngoài nước); - Vay ngân hàng là nguồn vốn lớn nhất hiện nay của PACKEXIM. Để duy trì nguồn này công ty phải không ngừng xây dựng mối quan hệ tốt với hệ thống ngân hàng, tạo và duy trì được niềm tin đối với nhân viên ngân hàng bằng các hoạt động cụ thể như: Trả lãi vốn vay đúng hạn, cung cấp cho ngân hàng những thông tin lành mạnh về tài chính… Thiết lập được mối quan hệ tốt với ngân hàng sẽ càng trở nên quan trọng với công ty khi chuyển sang hình thức công ty cổ phần. Các ngân hàng ở nước ta hiện nay còn e dè khi cho các công ty không phải là doanh nghiệp nhà nước vay vốn. Khi tạo lập được uy tín công ty sẽ dễ dàng trong vay vốn hay được các ngân hàng bảo lãnh khi vay vốn ở các tổ chức tín dụng khác. Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn là một biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thực hiện tốt công việc này thì với số vốn không lớn lắm cũng có thể đem lại lợi nhuận cao. Hiện nay, tiến độ thực hiện công việc (hầu hết các khâu trong hoạt động nhập khẩu) ở công ty rất chậm, ứ đọng vốn trong nhiều khâu thời gian thu hồi vốn kéo dài. Công ty cần chú ý khắc phục ở một số khâu chủ yếu mà trong thời gian qua còn quá chậm: Lập và xét duyệt phương án kinh doanh, làm thủ tục vay vốn, thu hồi nợ trong tiêu thụ hàng hóa, đôn đốc bạn hàng giao hàng sớm. Thời gian giao hàng bao giê cũng là một khoảng thời gian nên cán bộ kinh doanh cần hoàn thành các công việc nhanh chóng. Sau đó đôn đốc bạn hàng giao hàng càng sớm càng tốt. Khi hàng hoá được giao sớm thì nếu có rủi ro trên đường vận chuyển thì cũng có một khoảng thời gian đệm tránh việc hàng về cảng quá chậm ảnh hưởng tới các khâu công việc sau. 4. Đa dạng hoá hình thức nhập khẩu và đa dạng hoá phương thức thanh toán 4.1. Đa dạng hoá hình thức nhập khẩu Mỗi hình thức nhập khẩu có những ưu và nhược điểm khác nhau, công ty cần tuỳ từng trường hợp mà áp dụng từng loại sao cho hiệu quả nhất. Cho đến nay PACKEXIM mới chủ yếu tiến hành hai hình thức nhập khẩu trực tiếp và nhập khẩu uỷ thác. PACKEXIM nên thử nghiệm để áp dụng các hình thức nhập khẩu khác để không ngừng phát huy nhân tố mới và khai thác được các thế mạnh của công ty như nhập khẩu đổi hàng, nhập khẩu liên doanh. Nhập khẩu đổi hàng rất có lợi hơn nữa nó phù hợp với PACKEXIM vì công ty cũng có một số mặt hàng xuất khẩu. Đây là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, thanh toán không dùng tiền mà dùng hàng hóa. Mục đích không chỉ là nhập khẩu hàng hoá cần thiết mà còn là để tiêu thụ hàng xuất khẩu và đỡ phải đi vay ngoại tệ. Dùng hình thức này doanh nghiệp được tính cả kim ngạch nhập khẩu và kim ngạch xuất khẩu. Nhập khẩu liên doanh sẽ tận dụng được vốn góp của bên liên doanh để không bỏ lỡ cơ hội nhất là các hợp đồng lớn trong điều kiện công ty đang thiếu vốn lưu động. Việc đẩy mạnh các phương thức nhập khẩu sẽ tạo cho công ty khai thác tốt nguồn hàng đồng thời tạo ra sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước với công ty ngày càng được củng cố và phát triển vững mạnh. 4.2. Đa dạng hoá phương thức thanh toán Trong mua bán ngoại thương, việc sử dụng hợp lý các phương thức thanh toán cũng góp phần làm tăng hiệu quả kinh doanh. Việc lùa chọn phương thức thanh toán phụ thuộc vào điều kiện giao hàng, mối quan hệ bạn hàng lâu dài hay chỉ trong thời gian ngắn, đồng tiền thanh toán, thời hạn thanh toán. Phương thức thanh toán chủ yếu của công ty hiện nay là thanh toán bằng L/C trả ngay. Phương thức này tuy có ưu điểm là bảo đảm an toàn cho cả người mua và người bán nhưng khá phức tạp, dễ gặp sai sót. Người bán chỉ được thanh toán khi thực hiện đầy đủ các quy định trong L/C còn người mua phải ký quỹ một số tiền nhất định (thường 25% giá trị hợp đồng) cho ngân hàng trong khoảng thời gian nhất định trước khi giao hàng dẫn đến ứ đọng vốn. Nên đôi khi phương thức này bộc lé sự thiếu linh hoạt. Thiết nghĩ, trong trường hợp bạn hàng đã có quan hệ tín nhiệm lẫn nhau hợp đồng nhỏ nên sử dụng các phương thức thanh toán khác phù hợp như: Phương thức chuyển tiền, phương thức ghi sổ, phương thức nhờ thu. 5. Nâng cao hiệu quả công tác giao nhận nhằm hoàn thiện các nghiệp vụ kinh doanh nhập khẩu Trong việc giao nhận hàng phải tiến hành nhanh gọn và an toàn cho hàng hoá. Hiện nay, các hãng đại lý tàu biển chỉ cho phép hàng được lưu tại bến cảng trong vòng 5 ngày, ngoài thời gian này thì việc lưu hàng sẽ chịu chi phí lưu kho, lưu bãi tại cảng. Cho nên trong một thời gian ngắn như vậy cán bộ của công ty phải tiến hành hàng loạt các thao tác. Nếu một trong các thao tác gặp trục trặc sẽ làm chậm tiến độ nhận hàng. Ví dụ như chứng từ về chậm hơn hàng về, chứng từ không ăn khớp với giấy tờ hải quan, hàng thừa hoặc thiếu, hàng chưa có giấy giám định trước khi mở tờ khai…những sai sót này trong việc giao nhận hàng công ty thường mắc phải. Hiện nay, thủ tục hành chính ở các cơ quan chức năng của ta còn rất rườm rà, nhiều giấy tờ. Do vậy nếu các bộ đi giao nhận hàng không biết sắp xếp kế hoạch cụ thể thì công tác giao nhận hàng sẽ không đạt kết quả mong muốn và làm tổn thất đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Vì thế các cán bộ làm công tác giao nhận hàng nên chú ý đến các công việc sau: - Khi nhận được các chứng từ nhận hàng, việc kiểm tra chi tiết cần đối chiếu với yêu cầu của các chứng từ mua hàng; - Trong quá trình giao nhận hàng, việc giao nhận phải thường xuyên ở hiện trường để cập nhật số liệu từng giê, từng ca, từng ngày. Kịp thời phát hiện các sai sót để có biện pháp xử lý thích hợp, chất lượng hàng có phù hợp với hợp đồng hay không. 6. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu Ngoài việc nghiên cứu thị trường một công việc tất yếu để cung cấp được những hàng hoá phù hợp với nhu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng, thị hiếu, tính thời vụ… và đưa ra mức giá có tính cạnh tranh cao thì những công cụ sau đây được coi là hoạt động bổ trợ nhưng không kém phần quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh cho công ty. - Kiểm soát chặt chẽ và cắt giảm chi phí một cách hợp lý. Để chủ động với công cụ cạnh tranh giá thì các biện pháp cắt giảm chi phí kinh doanh là rất cần thiết. Công ty cần kiểm soát chặt chẽ chi phí trong quá trình nhập khẩu với một số biện pháp: xúc tiến công tác tiêu thụ hàng nhập khẩu, giảm lượng hàng tồn kho, thu hồi vốn nhanh, tìm kiếm các bạn hàng cung cấp với giá cả hợp lý để giảm bớt giá hàng nhập, thống kê đầy đủ và kịp thời các chi phí phát sinh để theo dõi và điều chỉnh thích hợp. - Tăng cường hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán: Quảng cáo và xúc tiến bán đều nhằm mục đích làm cho khách hàng biết, chú ý đến doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp. Khi họ có nhu cầu họ sẽ nhớ ngay đến sản phẩm của doanh nghiệp. Đây là những công cụ rất quan trọng trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Nhiều đối thủ cạnh tranh của công ty đã nhận thức được điều đó và họ bỏ ra chi phí không nhỏ cho hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán hàng trong khi đó PACKEXIM chó ý Ýt và chưa hiệu quả. Công ty chưa đầu tư thích đáng cho nó. Chính vì vậy, Công ty chỉ tạo được hình ảnh của mình trên thị trường miền Bắc còn những khách hàng ở miền Trung, miền Nam và nước ngoài chưa biết đến hình ảnh và sản phẩm của công ty. Để tồn tại và đứng vững được trong thời gian tới Công ty phải tích cực và thường xuyên tổ chức các hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán hàng nhằm thúc đẩy quá trình và nhu cầu của khách hàng. Với loại hàng hoá nhập khẩu của Công ty thì hình thức quảng cáo hữu hiệu nhất là gửi các bản thông tin về Công ty, hàng hoá kinh doanh tới đơn vị sản xuất, kinh doanh đã quen biết, mới quen biết, chưa quen biết. Ngoài ra có thể sử dụng các phương tiện khác nhau như đài, báo, tạp chí, ti vi…các quảng cáo này phải chuyển tải được những ưu thế mà Công ty có thể mang lại cho khách hàng nhiều hơn so với các doanh nghiệp khác về chủng loại, chất lượng hàng hoá, thời gian giao hàng các dịch vụ kèm theo…Trong các hoạt động dịch vụ, khách hàng rất quan tâm tới việc vận chuyển và bốc xếp hàng hoá. Với quy mô như hiện nay nếu khách hàng có nhu cầu về dịch vụ này thì công ty phải thuê các đơn vị vận tải thực hiện. Do đó Công ty phải tìm hiểu kỹ thuật về các đơn vị đó để lùa chọn được người vận tải có uy tín với chi phí hợp lý, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động của mình. Về lâu dài, với những nỗ lực để phát triển hoạt động kinh doanh, công ty có thể khôi phục lại đội xe vận tải trước kia để chủ động thực hiện dịch vụ này đồng thời tăng doanh thu. Để tăng cường hoạt động xúc tiến bán hàng công ty có thể: + Thường xuyên tham gia hội chợ triển lãm trong và ngoài nước. Đây là một biện pháp giúp công ty gặp gỡ trực tiếp với khách hàng, tìm hiểu nhu cầu của họ và kích thích nhu của họ đối với sản phẩm của công ty; + Thường xuyên tổ chức và tham gia các cuộc hội thảo hội nghị với khách hàng, các doanh nghiệp trong và ngoài nước để từ đó có được những bạn hàng mới; Khi thực hiện hoạt động trên công ty cần lập chương trình khuyếch trương và yểm trợ cho hoạt động bán hàng. Công ty cần tổ chức những đợt bán hạ giá, bán kèm tặng phẩm, khuyến mãi…để lôi cuốn khách hàng. Đối với những khách hàng cũ công ty phải tạo uy tín bằng chất lượng sản phẩm phải tôn trọng lợi Ých của hai bên, không vì lợi Ých trước mắt mà bỏ đi quan hệ lâu dài. Ngoài ra có thể tăng cường mối quan hệ với khách hàng cũ bằng các hình thức như tăng lệ phí phần trăm hoa hồng khi thực hiện các hợp đồng mua bán lớn, nhận phần vận chuyển… - Đảm bảo chất lượng hàng hoá nhập khẩu: Để đảm bảo chất lượng cho hàng hoá nhập khẩu, khâu bảo quản hàng hoá ở kho giữ vị trí quan trọng. Hàng hoá nhập khẩu của công ty chủ yếu được bảo quản ở các kho của công ty, các kho này đều có thời gian hoạt động khá lâu, cơ sở hạ tầng xuống cấp, các trang thiết bị phục vụ cho bảo quản hàng hoá còn sơ sài, lạc hậu mà hàng hoá của công ty lại là những loại có yêu cầu cao về bảo quản (về mặt kỹ thuật) công ty cần có kế hoạch nâng cấp nhà kho, trang bị các thiết bị hỗ trợ đảm bảo yêu cầu thì mới bảo quản tốt được hàng hoá. Bên cạnh đó các phương tiện phục vụ cho bốc xếp cần phải trang bị đầy đủ để tạo điều kiện bốc xếp nhanh chóng, tránh những rủi ro trong quá trình bốc xếp. Chất lượng hàng hoá còn phụ thuộc và nguồn cung cấp. Đây là điều kiện quyết định chất lượng hàng nhập. Do đó khi lùa chọn nhà cung cấp, cùng với yếu tố chi phí (chủ yếu là giá cả) là yếu tố chất lượng hàng hoá phải được chú trọng. Công ty cần lùa chọn bạn hàng có chất lượng cao, ổn định. - Mở rộng mạng lưới phân phối hàng hoá. Bên cạnh những chi nhánh hiện có (tại Hải Phòng và Nghệ An) công ty cần nghiên cứu và phát triển thêm mạng lưới phân phối của mình ở một số tỉnh khác: Quảng Ninh, Nam Định. Đó là những thị trường có tiềm năng tiêu thụ và hiện tại mới chỉ có một số Ýt các đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực này hoạt động ở đó. Mặt khác hàng hoá hầu hết được đưa về tổng kho mà việc bán hàng lại cho nhiều các đơn vị ở nhiều tỉnh khác nhau. Vì vậy, chi phí vận chuyển thường cao, giảm lợi thế cạnh tranh của hàng hoá. Khắc phục điều này ngoài việc mở thêm chi nhánh công ty có thể tìm đối tác liên doanh liên kết hay thuê kho ở những vị trí tập trung nhiều đơn vị tiêu thụ hay thuận tiện cho những bạn lớn để giảm chi phí vận chuyển cho khách hàng (nhưng phải tính toán cân nhắc để những chi phí này nhỏ hơn chi phí vận chuyển trước kia thì mới thực hiện biện pháp này). III. Một số kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan chức năng Để nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu, không chỉ cần sự cố gắng của bản thân công ty mà còn phải có sự giúp đỡ, tạo điều kiện của các cơ quan chức năng. Những chính sách phù hợp sẽ giúp công ty thực hiện tốt các mục tiêu đề ra. Từ khi đổi mới, Nhà nước luôn sửa đổi hoàn thiện hệ thống chính sách nói chung và chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng, đã tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn trước nhiều. Tuy nhiên, các doanh nghiệp còn gặp khó khăn, đòi hỏi Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế và chính sách hơn nữa. 1. Hoàn thiện cơ chế xuất nhập khẩu Cho đến nay mặc dù đã cố gắng để dần hoàn thiện cơ chế xuất nhập khẩu nhưng vẫn còn nhiều tồn tại do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Các điều chỉnh về cơ chế quản lý xuất nhập khẩu nói chung và quản lý nhập khẩu nói riêng tỏ ra thiếu chiến lược lâu dài, hầu hết các mặt hàng quản lý còn hạn chế. - Về quy chế: Các quy chế của Nhà nước vẫn chưa phù hợp với thực tế. Chẳng hạn như thời gian hàng được phép lưu kho sẽ không bị phạt từ 7 ngày xuống còn 5 ngày. Xét về mặt lý thuyết thì quy định như vậy là hợp lý. Song hiện nay do các cơ quan hải quan nhiều lúc còn gây khó khăn nên thực tế hàng hóa luôn bị phạt gây thiệt hại cho công ty. Hơn nữa, theo quy định của tổng cục hải quan thì thời gian để giải quyết các thủ tục hải quan là 24 giê nhưng thực tế thời gian để nhận được tất cả các giấy tờ từ hải quan từ 3 - 4 ngày. Thậm chí có trường hợp thời gian này còn kéo dài nhiều hơn do tính chất kỹ thuật của hàng hoá vượt trình độ kiểm hoá của cán bộ hải quan hay do sự thiếu trách nhiệm của cán bộ hải quan. Thêm vào đó thời gian để nhận được giấy phép của Bộ Thương Mại là 3 ngày. Như vậy thời gian để hoàn tất thủ tục là 6 - 7 ngày chứ không chỉ 24 giê. Một ví dụ nữa là bất hợp lý trong việc giám định hàng hoá: Trong thời gian qua tổng cục hải quan đã có quyết định số 1810 (ngày 2 tháng 8 năm 1995) quy định các chủ hàng phải có xác nhận của cơ quan giám định hàng hoá để tính thuế. Song theo các cán bộ hải quan tại cảng TP HCM và cảng Hải Phòng cho biết “ những hợp đồng được phê chuẩn là thiết bị thì khi nhận hàng hoá phải được cơ quan có thẩm quyền giám định để tính thuế ”. Nhưng đây lại là văn bản nội bộ trong ngành hải quan, không gửi cho các doanh nghiệp để thực hiện và trong văn bản không ghi rõ cơ quan nào có thẩm quyền giám định, phi giám định. Do đó, trong thực tế các doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn và phiền phức trong khâu này. Do đó để trong thời gian tới có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì ngay bây giê Nhà nước cần phải nhanh chóng khắc phục những bất hợp lý trong quy chế, chính sách liên quan đến xuất nhập khẩu. Phải công khai hoá và luật pháp hoá các quy định của Nhà nước chỉ nên có hiệu lực sau khi đã được đăng trên công báo. Hiện nay, luật đã quy định về vấn đề này nhưng chỉ quy định chung là phải đăng “cần đặt vấn đề theo hướng chỉ có hiệu quả khi đã đăng” mới đảm bảo các quy định đến được với doanh nghiệp một cách kịp thời. Ngoài ra cần gấp rút ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những mảng trống trong kinh doanh xuất nhập khẩu để các doanh nghiệp không bị trở ngại trong kinh doanh xuất nhập khẩu do các cơ quan hữu trách thiếu cơ sở pháp lý để nhận định hành vi của họ. Đồng thời xử lý một cách nghiêm minh đối với cán bộ đòi hỏi hạch sách, gây phiền hà trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của họ. - Về thủ tục hành chính: Thủ tục hành chính đôi khi còn rườm ra, cứ phải chạy hết cơ quan này đến cơ quan khác. Trước hết là các thủ tục giấy tờ đối với ngành hải quan như: Các loại hồ sơ, giấy tờ, thủ tục và thời gian kiểm hoá, áp mã thuế, hoàn thuế… làm mất đi tính chủ động trong hoạt động nhập khẩu của công ty, thường bị sai phạm với khách hàng về thời gian giao hàng làm ảnh hưởng tới uy tín của công ty đối với khách hàng, hơn nữa mất đi cơ hội kinh doanh nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay. Cần phải có quy định đơn giản hoá các thủ tục xuất nhập khẩu, cải cách một bước thủ tục hành chính thuộc lĩnh vức công tác hải quan nhằm chống phiền hà, tạo thông thoáng cũng đồng thời cần tránh các sơ hở không đáng có. Vấn đề không nằm ở chỗ có giấy phép hay không có giấy phép mà là chế độ cấp giấy phép có được công khai hay không, có dễ hiểu hay không và dễ thi hành hay không và có lé trình để loại bỏ nó trong tương lai hay không. Nếu có cơ sở vững chắc để duy trì giấy phép chế độ cấp lại rõ ràng đầy đủ, thủ tục cấp lại đơn giản, không phiền hà thì không có lý do gì để bãi bỏ chế độ đó. - Về thuế nhập khẩu: Đây là vấn đề làm nhức nhối đối với ban lãnh đạo công ty. Biểu hiện ở: Khung thuế rộng, quyền hạn thay đổi thuế xuất của ngành hành pháp lại lớn lên thuế xuất thay đổi luôn, nhiều khi 3 tháng mội lần. Sự thay đổi nhiều đến nỗi cho đến nay không ai có một biểu thuế hoàn chỉnh và chính xác, trừ các chuyên viên làm việc tại các cơ quan ban hành chế độ thuế và chịu trách nhiệm thu thuế. Việc làm đó vừa gây khó khăn cho doanh nghiệp trong tính toán hiệu quả kinh doanh, vừa làm triệt để khả năng định hướng của công cụ thuế. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn gặp phải các lệnh cấm có hiệu lực ngay lập tức các lệnh ngừng tam thời và vô thời hạn, các thay đổi chính sách có hiệu lực hồi tố gây rất nhiều khó khăn thắc mắc. Để phát triển ngoại thương, tạo dựng các doanh nghiệp lớn, cần hết sức chú ý khắc phục tình trạng này. Một trong số các biện pháp nâng cao tính ổn định là đưa các vấn đề có tầm quan trọng quốc gia như danh mục hàng cấm, danh mục hàng quản lý số lượng, thuế xuất cụ thể của thuế nhập khẩu về thuộc thẩm quyền của Quốc hội, không để thuộc thẩm quyền của cơ quan hành pháp như hiện nay. Nếu vấn đề thuộc thẩm quyền của cơ quan hành pháp thì phải có luật quy định các điều kiện cần và đủ để thực thi quyền này tránh tình trạng tùy tiện. Ngoài ra Nhà nước cần sử dụng có hiệu quả thuế nhập khẩu để điều tiết nhập khẩu, cụ thể là áp dụng mức thuế xuất thấp đối với các mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất như các loại vật liệu để sản xuất phục vụ CNH-HĐH, những mặt hàng cần thiết cho đời sống văn hóa, xã hội mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng xã hội. 2. Hỗ trợ về thông tin Trong điều kiện hiện nay, thông tin đóng vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Nó không chỉ đơn thuần là việc truyền tải thông tin mà nó còn chưa đựng cả cơ hội kinh doanh. Để kinh doanh thành công, doanh nghiệp cần rất nhiều thông tin chính xác về thị trường, đối thủ cạnh tranh, cung cầu hàng hóa, giá cả, sự thay đổi sự thay đổi chính sách của chính phủ. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp ở Việt nam đang trong tình trạng thiếu thông tin do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng một trong những nguyên nhân đó là cơ sơ hạ tầng còn yếu kém. Vì vậy, Nhà nước cần phát triển hệ thống thông tin liên lạc bằng nhiều hình thức khác nhau như báo chí, truyền thanh, truyền hình, bưu chính viễn thông. Trong chính sách xưa có câu “Biết người biết ta trăm trận đánh trăm trận thắng”. Điều này cũng đúng trong kinh doanh. Kinh nghiệm cho thấy, nếu nắm bắt được các thông tin cần thiết một cách chính xác và xử lý các thông tin đó một cách kịp thời, đúng đắn thì sẽ được lợi thế lớn hơn trong cạnh tranh. Để hỗ trợ cho doanh nghiệp sử dụng đúng thông tin có Ých và loại trừ các thông tin thất thiệt, Nhà nước nên: + Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại; + Định hướng thị trường; + Cung cấp các thông tin cần thiết cho doanh nghiệp như: mặt hàng thị trường giá cả, phương thức thanh toán, phong tục tập quán giao tiếp trong kinh doanh; + Thành lập các trung tâm tư vấn chuyên trách công tác tư vấn giải quyết khó khăn, vướng mắc, kiến nghị của doanh nghiệp. Làm được điều này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động chủ động, năng động hơn và thúc đẩy nền ngoại thương việt Nam phát triển hơn. 3.Đầu tư để phát triển ngành vận tải Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu nhập khẩu bằng giá CIF nhượng quyền thuê tàu và mua bảo hiểm cho bên bán. Điều này là không có lợi. Các doanh nghiệp Việt Nam mất thế chủ động trong xác định giá cả. Các cơ quan bảo hiểm, các hãng vận tải trong nước mất đi doanh thu. Tuy nhiên, trong một thương vụ thì bên nào có ưu thế hơn thì họ sẽ dành được quyền thuê tàu và mua bảo hiểm. Việc mua bảo hiểm cho hàng nhập khẩu ở Việt Nam không còn là khó khăn vì bây giê ngoài các công ty bảo hiểm trong nước đã có các công ty bảo hiểm của nước ngoài hoạt động ở Việt Nam như FRUDENTIAL, CHIFON, AIA. Doanh nghiệp sẽ tiến đến nhập khẩu theo giá CFA rồi đến FOB để được quyền thuê tàu và mua bảo hiểm. Vấn đề ở chỗ Nhà nước cần đầu tư phát triển các phương tiện vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Làm được như vậy không chỉ có PACKEXIM các doanh nghiệp khác sẽ thu được hiệu quả kinh doanh cao hơn rất nhiều đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cho đất nước. 4. Tăng cường quản lý và nâng cao chất lượng bao bì Bao bì là bộ phận cấu thành của hầu hết các loại hàng hóa, nó là sự cần thiết tất yếu của qúa trình lưu thông từ nơi sản xuất tới tay người tiêu dùng làm cho quá trình đó an toàn và thuận lợi. Theo thống kê của hiệp hội bao bì thế giới hiện nay khoảng 90% hàng hóa đóng gói phải có bao bì. ở các nước công nghiệp phát triển thì tỷ trọng bao bì tham gia cấu thành sản phẩm không dưới 40%. Ở các nước khác tỷ lệ này cũng là trên dưới 30%. Riêng ở nước ta khoảng 12-15%. Điều đó đã minh chứng cho tầm quan trong của nó. Tuy nhiên, đến nay sản xuất bao bì trong nước vẫn được coi như là một mảnh đất hoang, mạnh ai lấy làm các cơ sơ bao bì mọc ra như nấm sau mưa, đầu tư tràn lan, thiếu sự quản lý của Nhà nước, không có định hướng phát triển một cách khoa học, chưa hình thành và xây dựng được hệ thống tiêu chuẩn cho sản phẩm bao bì, năng lực sản xuất nơi thừa nơi thiếu, lãng phí vốn đầu tư do phát triển bề rộng một cách tự phát dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, tiêu cực chỉ coi trọng thị phần, lợi nhuận mà không chú ý đến đầu tư cho chất lượng và các yêu cầu tiêu chuẩn của hàng hóa, không đảm bảo được an toàn hàng hóa, mỹ quan kém, không hấp dẫn người mua, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường quốc tế. Vì vậy, Nhà nước cần phải thiết lập ngay “Hiệp hội bao bì Vịêt Nam” đây là nguyện vọng của các doanh nghiệp sản xuất bao bì nhằm mục đích: - Bảo hộ quyền lợi người sản xuất bao bì; - Chống cạnh tranh không lành mạnh; - Đầu tư có hiệu quả; - Cải tiến kỹ thuật sản xuất, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn bao bì Việt Nam từng bước tiến lên theo kịp trình độ bao bì quốc tế; - Quy hoạch và phân công sản xuất hợp lý giữa các doanh nghiệp và các vùng kinh tế. Ngoài ra Nhà nước cần có chính sách ưu đãi thuế quan đối với nhập khẩu nguyên liệu sản xuất bao bì mà trong nước chưa sản xuất được như giấy dulex, giấy crap, các loại nhựa và hóa chất. Kết luận Đối với các nước đang phát triển như nước ta thì bên cạnh xuất khẩu, nhập khẩu cũng là con đường để thực hiện CNH-HĐH nhanh nhất. Cũng như các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế công ty sản xuất và xuất nhập khẩu bao bì Hà Nội (PACKEXIM) mong muốn họat động xuất nhập khẩu của công ty mình ngày càng phát triển, đem lại doanh thu và lợi nhuận. Thực tế trong những năm qua công ty đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, góp phần vào quá trình lưu thông hàng hóa của nền kinh tế quốc dân, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của sản xuất và tiêu dùng về hàng hóa mà nền kinh tế trong nước chưa sản xuất được hay sản xuất không hiệu quả đặc biệt là cho ngành bao bì. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn do các yếu tố chủ quan và khách quan nhưng công ty vẫn làm ăn có lãi và được Bộ Thương Mại đánh giá là một trong các doanh nghiệp loại một trong ngành bao bì. Để có được kết quả đó là do sự nỗ lực của mỗi cá nhân, sự lãnh đạo tài tình của ban lãnh đạo công ty cũng như sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Bên cạnh đó, họat động nhập khẩu của công ty còn gặp nhiều khó khăn như: công tác nghiên cứu thị trường còn yếu, trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ kinh nghiệm chưa đáp ứng được yêu cầu nên đôi khi rất lúng túng trước những tình huống phức tạp và phải chịu thiệt thòi. Nhận thức được được vấn đề này với tư cách là sinh viên thực tập tại công ty PACKEXIM tôi đã cố gắng phân tích và đánh giá về họat động nhập khẩu của công ty PACKEXIM để từ đó rót ra các biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động này. Tuy nhiên, do thời gian cũng như khả năng trong vận dụng lý luận vào thực tiễn không tránh khỏi sai sót. Vì vậy tôi rất mong sự đóng góp của thầy cô cùng các bạn để luận được hoàn chỉnh hơn. Một lần nữa tôi xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy Trần Văn Bão, các thầy cô giáo cùng toàn thể các cán bộ công nhân viên trong công ty PACKEXIM đã giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 68.doc
Tài liệu liên quan