Các hệ sinh thái đặc trưng - Cơ sở của phát triển du lịch sinh thái Việt Nam

3.7. Giải pháp về phát triển du lịch nông nghiệp sinh thái Phát triển du lịch cộng đồng gắn với du lịch nông nghiệp sinh thái là loại hình du lịch đưa du khách trở về thiên nhiên, tìm hiểu phong tục tập quán, đời sống sinh hoạt của bà con bản địa. Tuy nhiên, thời gian tới Việt Nam cần tận dụng các nguồn vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng, tích cực tuyên truyền, vận động người dân gìn giữ nét đẹp văn hóa, khôi phục làng nghề, trồng hoa ở các bản du lịch. Hình thành các vùng sản xuất tập trung như cây mắc ca, lúa, rau sạch để các bản làng trở thành điểm đến lý tưởng của du khách. 3.8. Giải pháp về đa dạng hóa các sản phẩm du lịch Một giải pháp hết sức quan trọng mà các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên phải triển khai ngay, để phát huy các tiềm năng sẵn có và tăng cường sự cuốn hút với du khách, đó là phát triển các sản phẩm du lịch sinh thái đặc thù. Tùy theo tiềm năng và điều kiện thực tế, mỗi vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên nghiên cứu, phát triển và xây dựng các sản phẩm phù hợp. Chẳng hạn như các tour xem chim, xem thú, tham quan các hệ sinh thái và cảnh quan đặc trưng, các hoạt động tình nguyện gắn với công tác bảo tồn. Đây là điểm mấu chốt để làm nổi bật hoạt động du lịch sinh thái tại các các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên, song đến nay ngoài một số vườn như Cúc Phương, còn đa số vẫn chưa được thực hiện tốt. 4. KẾT LUẬN Du lịch sinh thái ở Việt Nam là hướng phát triển có nhiều triển vọng dựa trên sự đa dạng và phong phú của các hệ sinh thái đặc trưng, điển hình. Các hệ sinh thái ở nước ta hình thành trong điều kiện đặc thù, tạo bởi hoàn cảnh địa lý, vị trí và lịch sử hình thành của thiên nhiên Việt Nam. Chính điều này đã tạo nên sức hấp dẫn to lớn về mặt sinh thái. Tuy nhiên, để đưa những đặc thù sinh thái thành tiềm năng du lịch đòi hỏi phải có công đoạn nghiên cứu chuyển dạng, chuyển từ tiềm năng tự nhiên sang tiềm năng du lịch sinh thái. Làm sao cho du khách thấy được những gì mà thế giới sinh vật của khu vực có, của châu Á có, ở các hệ sinh thái của chúng ta cũng có như một bức tranh sinh thái nhỏ của toàn khu vực, ngược lại cũng cho họ thấy những gì mà có trong các hệ sinh thái của Việt Nam. Đây chính là tạo nên sức thu hút, hấp dẫn du lịch của du lịch sinh thái Việt Nam.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 356 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các hệ sinh thái đặc trưng - Cơ sở của phát triển du lịch sinh thái Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
107 LIÊN NGÀNH KHOA HỌC TRÁI ĐẤT - MỎ Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018 CÁC HỆ SINH THÁI ĐẶC TRƯNG - CƠ SỞ CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI VIỆT NAM THE TYPICAL ECOLOGICAL SYSTEM - THE BASIS FOR ECOLOGICAL TOURISM DEVELOPMENT IN VIETNAM Nguyễn Thị Thảo Email: nguyenthaosd@gmail.com Trường Đại học Sao Đỏ Ngày nhận bài: 24/01/2018 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 23/9/2018 Ngày chấp nhận đăng: 28/9/2018 Tóm tắt Với ý nghĩa là du lịch thiên nhiên có mức độ giáo dục cao về sinh thái và môi trường, du lịch sinh thái là hoạt động có tác động tích cực đến việc bảo vệ môi trường và văn hoá, đảm bảo mang lại lợi ích cao về tài chính cho cộng đồng địa phương và có đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn. Sự phong phú và đa dạng của hệ động - thực vật là thế mạnh để du lịch sinh thái của nước ta có nhiều triển vọng phát triển. Hệ thống các hệ sinh thái Việt Nam có lịch sử phát triển độc đáo, điều này chi phối đặc điểm chung của các hệ sinh thái là tính phong phú và đa dạng. Đó là những đặc điểm cơ bản tạo nên sự hấp dẫn của du lịch sinh thái Việt Nam. Bài viết này dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá những tiềm năng, lợi thế của các hệ sinh thái đặc trưng, những hạn chế trong phát triển du lịch sinh thái, từ đó đề xuất giải pháp phát triển du lịch sinh thái một cách bền vững tại Việt Nam. Từ khóa: Hệ sinh thái; du lịch sinh thái; sinh thái và môi trường. Abstract With the meaning of natural tourism which has high education level in ecology and environment, ecological tourism is an activity which has positive effect to environment protection and culture, it is also certainly bring high financial benefit for local community and contribute to conservation efforts. The variety and diversity of ecosystem is so strong that our ecological tourism has a lot of development prospects. Each ecosystem is typical by ecological condition and development history. Vietnam ecosystem has unique development history causing the common characteristics of ecosystem which are variety and diversity. These are basic characteristics which make attraction for ecological tourism in Vietnam. This paper is based on analyzing and evaluating the potentials as well as the advantages of typical ecosystems and the disadvantages of ecotourism development, thereby proposing solutions to the sustainable ecotourism development in Vietnam. Keywords: Ecological system; ecological tourism; environment and ecological. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Tiếp cận sinh thái là một hệ phương pháp nghiên cứu dựa trên sự xem xét quan hệ đặc thù giữa sinh vật và môi trường sinh tồn của chúng. Các sinh vật sống và các vật thể vô cơ bao quanh liên kết chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ tương hỗ bền chặt. Mỗi đơn vị sinh thái bất kỳ đều bao gồm tất cả các cơ thể chức năng trong một khu vực nhất định và tác động liên kết với môi trường xung quanh (sinh thái cảnh). Rõ ràng là mỗi hệ sinh thái của nước ta có các đặc trưng sinh vật riêng trong một môi trường sinh tồn nhất định. Môi trường sinh tồn cho sinh vật Việt Nam có đặc thù riêng từ lịch sử hình thành và vị trí của lãnh thổ Việt Nam có vị trí chuyển tiếp trong bình đồ kiến tạo châu Á, là nơi chuyển tiếp từ lục địa xuống đại dương, từ núi cao châu Á (cao nhất hành tinh) xuống vực sâu đại dương (sâu nhất hành tinh), là đới tiếp xúc giữa miền nền Hoa Nam và miền nền Indoxini Đông Dương. Chính vì vậy mà địa hình Việt Nam có cấu trúc thành các dải thung lũng xen kẽ nhau chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Các dòng sông chảy trên địa phận Việt Nam phần lớn theo hướng Tây Bắc - Đông Nam ra biển Đông xuống đại dương. Mặt khác, nước ta có vị trí nằm ở giữa ô gió mùa châu Á, là nơi tiếp xúc của ba khu vực gió mùa châu Á: khu vực Bắc Á, khu vực Nam Á và khu vực Đông Nam Á. Vì vậy, không nơi nào cùng vĩ tuyến lại có mùa đông lạnh như ở phần miền Bắc nước ta. Điểm lý thú khác là Việt Nam vừa là cái nôi của các loài sinh vật bản địa, vừa là nơi tiếp giao của Người phản biện: 1. GS.TSKH. Phạm Hoàng Hải 2. TS. Nguyễn Đăng Tiến 108 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018 các luồng sinh vật từ các khu hệ sinh vật phía Bắc (Hymalaya - Nam Trung Hoa), khu hệ sinh vật phía Nam (Malaysia - Indonesia) và khu hệ sinh vật phía Tây (Ấn Độ - Miến Điện). Những đặc điểm này được in đậm thêm bởi tính chất kế thừa trong lịch sử phát triển lãnh thổ Việt Nam, nghĩa là các cấu trúc lãnh thổ vẫn còn được lưu giữ qua các giai đoạn. Lãnh thổ nước ta không bị ảnh hưởng trực tiếp của các đợt băng hà Đệ Tứ xảy ra trên hành tinh mà chỉ bị ảnh hưởng bởi các đợt lạnh đi của khí hậu xen với các đợt biển tiến thời kỳ tan băng, do vậy, sinh vật nước ta có lịch sử phát triển dài từ Đệ Tam, có những thực vật tàn dư từ Trung Sinh cùng với sự hội nhập qua các đợt đi lên (khí hậu nóng lên vào thời kỳ tan băng) của các sinh vật phía Nam, đi xuống của các sinh vật phía Bắc (thời kỳ lạnh đi khi có băng hà Đệ Tứ) cũng như sự di chuyển của các sinh vật từ đất liền ra hải đảo khi nước biển rút vào thời kỳ băng hà. Chính vì vậy, các hệ sinh thái của nước ta có tính chất pha trộn khá cao, nếu không xem xét kỹ sẽ khó thấy những gì đặc thù và quan trọng hơn là hướng du lịch sinh thái vào chính những nét pha trộn đó để tìm ra các đặc biệt, trong đó nhằm tạo nên sự hấp dẫn trong từng hệ sinh thái nói riêng và trong đặc thù du lịch sinh thái Việt Nam nói chung. Du lịch sinh thái là loại hình du lịch có xu thế phát triển nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới, ngày càng chiếm được sự quan tâm của nhiều người bởi đây là loại hình du lịch tự nhiên có trách nhiệm, hỗ trợ cho các mục tiêu bảo tồn tự nhiên, môi trường và phát triển cộng đồng. Ngoài ý nghĩa trên, sự phát triển của du lịch sinh thái trên cơ sở khai thác các tiềm năng tự nhiên đã và đang mang lại những nguồn lợi kinh tế to lớn góp phần tích cực vào sự phát triển du lịch nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Theo Tổ chức Du lịch sinh thái quốc tế, du lịch sinh thái là du lịch có ý thức và trách nhiệm đối với môi trường thiên nhiên, như bảo tồn môi trường và bảo đảm lối sống lành mạnh cho người dân quanh khu vực. Đây là một loại hình du lịch mà mỗi cộng đồng trong khu vực nên có trách nhiệm bảo tồn tính bền vững, hướng tới mục tiêu tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương, khuyến khích người dân có ý thức bảo vệ môi trường, tạo thuận lợi cho họ làm kinh tế du lịch và bảo vệ môi trường tự nhiên [2]. Mặc dù du lịch sinh thái được xác định là một trong những tiềm năng và thế mạnh đặc thù của du lịch Việt Nam và phát triển du lịch sinh thái là một hướng ưu tiên trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam, song cho đến nay việc khai thác những tiềm năng to lớn này còn nhiều hạn chế. Có thể thấy rằng, các chuyến du lịch đến các khu tự nhiên của Việt Nam hiện nay còn mang tính đại chúng, chưa đích thực là du lịch sinh thái. Du lịch với số đông thường gây nên những tác động tiêu cực đến môi trường tự nhiên và văn hóa, đặc biệt là những khu vực nhạy cảm. Trong khi đó công tác quy hoạch – phân vùng phát triển du lịch sinh thái còn nhiều bất cập do du lịch Việt Nam chưa có chiến lược cụ thể phát triển du lịch sinh thái – một trong bốn dòng sản phẩm chính của du lịch Việt Nam. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản hạn chế phát triển du lịch sinh thái hiện nay. Quy mô và hình thức tổ chức hoạt động sinh thái còn nhỏ lẻ, mờ nhạt. Đầu tư phát triển du lịch sinh thái chưa cao, chủ yếu vẫn là các dự án hỗ trợ của các tổ chức quốc tế mang tính chất bảo tồn và nâng cao năng lực cộng đồng tham gia vào du lịch sinh thái tại một số vườn quốc gia và khu bảo tồn. Chưa có các nghiên cứu thị trường bài bản nên việc xác định thị trường mục tiêu, các phân đoạn thị trường khách du lịch sinh thái chưa rõ ràng, cùng với đó là xúc tiến, quảng bá du lịch sinh thái còn yếu dẫn đến việc chưa thu hút, hấp dẫn khách đến với dòng sản phẩm du lịch sinh thái. Mặt khác, một phần do hạn chế của công tác quản lý, một phần do ý thức du khách và người dân chưa cao nên những hiện tượng tiêu cực vẫn xảy ra tại các khu bảo tồn thiên nhiên như: chặt phá rừng bừa bãi, săn bắn động vật trái phép, xả rác không đúng nơi quy định, khắc đẽo thân cây Thiếu sự đầu tư về kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật đặc thù cho phát triển du lịch sinh thái hoặc lại xây dựng bừa bãi, không tuân thủ các nguyên tắc phát triển du lịch sinh thái, gây phá vỡ cảnh quan môi trường. Những trung tâm giáo dục và diễn giải môi trường cho cả khách du lịch và dân cư địa phương tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn còn rất hạn chế. Điều bất cập hơn nữa là vai trò của cộng đồng địa phương chưa được coi trọng, lợi ích từ du lịch hầu như chưa đến được với họ. Để góp phần tạo cơ sở ban đầu cho phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam, việc nghiên cứu đánh giá tiềm năng của các hệ sinh thái đặc trưng nhằm phát triển loại hình du lịch này ở nước ta là quan trọng và cần thiết. Điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt lí luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong công tác quy hoạch phát triển du lịch sinh thái ở các khu bảo tồn tự nhiên, phát triển các tuyến điểm du lịch sinh thái trên phạm vi cả nước phù hợp với đặc điểm tài nguyên, kinh tế - xã hội và 109 LIÊN NGÀNH KHOA HỌC TRÁI ĐẤT - MỎ Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018 góp phần hạn chế những tác động tiêu cực tiềm ẩn của du lịch sinh thái đến môi trường tự nhiên, văn hóa mà nhiều nước trong khu vực và trên thế giới đã phải trả giá khi phát triển loại hình du lịch hấp dẫn này. 2. CÁC HỆ SINH THÁI ĐẶC TRƯNG Tính chất đặc thù của thiên nhiên Việt Nam là mức độ cao của đa dạng sinh học xuất phát từ đặc điểm hình thành đã nêu. Giới sinh vật Việt Nam có số lượng loài rất lớn. Về thực vật, có tới 14.624 loài thuộc gần 300 họ, trong đó có 1.009 loài và phân loài chim, 265 loài thú, 346 loài bò sát lưỡng cư, 2.000 loài cá biển, hơn 500 loài cá nước ngọt và hàng ngàn loài tôm, cua, nhuyễn thể và thủy sinh vật khác [1]. Loài cổ xưa và hiếm có như Tuế phát triển từ Đại trung sinh, các loài có giá trị kinh tế gồm hơn 1.000 loài lấy gỗ, 100 loài có dầu, 90 loài có sợi, 70 loài có nhựa, 100 loài có chất chát, hơn 1.000 loài cây thuốc, 15 loài có bột, 100 loài quả rừng ăn được [1]. Việt Nam là một trong những cái nôi của cây nông nghiệp. Trên thế giới có 8 trung tâm cây trồng thì 3 trung tâm tập trung ở khu vực Đông Nam Á với 270 loài cây nông nghiệp, trong đó trung tâm lớn nhất là Nam Trung Hoa có 136 loài. Tính sơ bộ ở Việt Nam đã có hơn 200 loài cây trồng, trong đó có tới 90% cây trồng thuộc Trung tâm Trung Hoa, 70% cây trồng thuộc trung tâm Ấn, Miến. Đây là tiền đề cho tổ chức du lịch sinh thái canh nông [4]. Giới động vật Việt Nam có 10 loài đặc trưng nhiệt đới: cheo, đồi, chồn bay, cầy mực, culi, vượn, tê tê, voi, heo vòi, tê giác. Tuy số lượng loài rất phong phú song số lượng cá thể mỗi loài lại thấp. Vì vậy, trong quần thể độ bắt gặp của các cá thể thường nhỏ, nhiều khi nhỏ hơn chỉ số bắt gặp các loài khác nhau. Các hệ sinh thái tự nhiên điển hình đặc trưng gồm: 2.1. Hệ sinh thái san hô Hệ sinh thái san hô ở Việt Nam khá giàu về thành phần loài, tương đương với các khu vực giàu san hô khác ở Tây Thái Bình Dương, trong đó: - Vùng ven bờ phía Bắc bước đầu đã định tên 95 loài thuộc 35 giống,13 họ. - Vùng ven bờ phía Nam có 255 loài thuộc 69 giống. - Vùng giàu san hô trên thế giới chỉ có số lượng là 75 loài [5]. Các rạn san hô ở phía Bắc là các rạn san hô riềm bờ. San hô tạo rạn thường mọc trên các sườn ngầm của các đảo hoặc trong các bãi tùng áng ven đảo phân bố từ vùng triều thấp tới độ sâu 10 m, trong đó có các rạn trong vùng kín điển hình ở vùng Vạn Bội, Vạn Hà ở Đông Nam đảo Cát Bà, các rạn ở eo biển hay lạch triều phân bố điển hình ở phía ngoài Cát Cò, ở lạch triều gần Vạn Hà, ở Đông Bắc đảo Cô Tô và Tây Nam đảo Thanh Lân, các rạn ở mũi nhô hay quanh đảo tách biệt thấy được ở phía ngoài đảo Ba Mùn, phía ngoài hòn Vành, phía Đông Nam đảo Thân Lân và đảo Cô Tô. Trong các rạn san hô phía Bắc quần tụ nhiều loài sinh vật khác nhau, thường gặp là nhóm thân mềm, nhiều đặc sản như tu hài, sò lông, trai ngọc, bào ngư, bàn cuốc có số lượng khá lớn, các loài trai ốc đẹp như ốc nón, ốc bảo bối chỉ gặp ở các rạn quanh quần đảo Cô Tô. Nhóm giáp xác cũng phong phú, trong đó có nhiều loài kinh tế như tôm hùm, ghẹ, cua Các loài da gai như hải sâm, sao biển Nhiều loài có màu sắc sặc sỡ. Xen vào đó là các loài cá, rắn, rùa biển. Thực vật sống trên cạn với số lượng phong phú là tảo vôi, tảo lục, tảo nâu, trong đó rong mỡ là loài kinh tế. Tính chất đặc thù của tự nhiên cũng thể hiện trong tính đa dạng của các loài san hô ở Việt Nam. Trong mỗi hệ sinh thái san hô đều phong phú thành phần loài, thường là hơn 100 loài, trong hệ sinh thái đều có thể thấy sự có mặt của hầu hết các dạng san hô ở các vùng khác. Sự phân bố của các rạn san hô theo hai miền liên quan đến các điều kiện khí hậu - hải văn trên vùng Biển Đông, đặc biệt là các vùng biển ven bờ mà nguyên nhân là hoạt động của các loài hoàn lưu gió mùa, chủ yếu là không khí lạnh NPc vào mùa đông ở các vùng biển phía Bắc nước ta. Tác động của hoàn lưu ảnh hưởng mạnh đến nhiệt độ nước biển, sóng, dòng chảy, do vậy mà các hệ sinh thái san hô ở vùng biển phía Bắc kém phát triển, nghèo về thành phần loài và kém đa dạng về cấu trúc, độ lớn và độ che phủ của các rạn. Mặt khác, do vùng biển ven bờ phía Bắc hàng năm tiếp nhận một lượng cát bùn, phù sa lớn từ hệ thống các sông ngòi trên lục địa như hệ thống các sông Hồng, Thái Bình, Mã, Cả, đã ảnh hưởng đến sự phát triển của các hệ sinh thái san hô. Tuy vậy, sự đa dạng về thành phần loài, về cấu trúc các rạn san hô của Việt Nam có ý nghĩa lớn về du lịch sinh thái. Để tăng sức hấp dẫn, cần có các hoạt động quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng về hệ sinh thái san hô của Việt Nam. Đây chính là thực hiện yêu cầu cơ bản thứ hai của du lịch sinh thái. Các loại hình du lịch sinh thái có thể được khai thác dựa trên hệ sinh thái san hô là du lịch mạo hiểm, du lịch lặn biển, du lịch tham quan nghiên cứu 110 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018 2.2. Các hệ sinh thái đất ngập nước Cũng như các hệ sinh thái san hô, các hệ sinh thái đất ngập nước điển hình trên thế giới có thể tìm thấy trên lãnh thổ nước ta. Các hệ sinh thái đất ngập nước ở các vùng có những đặc thù riêng, trong đó nổi bật là các hệ sinh thái ngập mặn ven biển. Ở đồng bằng Đông Nam Bộ, trên châu thổ sông Cửu Long phân bố một diện tích lớn các hệ sinh thái đất ngập nước, chủ yếu là các hệ sinh thái ngập mặn và các hệ sinh thái đất ngập phèn (hệ sinh thái đầm lầy nội địa). Hệ sinh thái ngập mặn ven biển từ Vũng Tàu đến Cà Mau là 191.800 ha, chiếm 76,11% tổng diện tích rừng ngập mặn ven biển toàn quốc. Trong số 51 loài thực vật trong các vùng rừng ngập mặn toàn quốc thì rừng ngập mặn ở đất Mũi có 21 [6]. Trong các hệ sinh thái ngập mặn thì các hệ sinh thái rừng ngập mặn châu thổ sông Cửu Long nuôi dưỡng một số lớn diệc, cò tại đây có các sân chim lớn của Việt Nam. Rừng ngập mặn là nơi sinh sản, cư trú của nhiều hải sản, chim nước, chim di cư và các loài động vật có ý nghĩa kinh tế lớn như khỉ, lợn rừng, kì đà, chồn, trăn Nếu hệ sinh thái rừng ngập mặn ở Việt Nam có thành phần loài khá phong phú so với các nước khác ở khu vực Đông Nam Á thì đa dạng này tập trung chủ yếu ở các rừng ngập mặn châu thổ sông Cửu Long, điều này được giải thích bởi sinh thái cảnh ở đây rất thuận lợi với nền nhiệt cao, ổn định quanh năm, cùng với sự trao đổi nước hai mùa: mùa lũ – nước từ lục địa đổ ra, mùa khô – nước biển tràn vào. Không chỉ vậy, khi triều cường và triều rút cũng tác động đến lưu thông nước tạo nên nguồn thức ăn phong phú cho động vật và điều kiện thuận lợi cho thực vật phát triển. Vì vậy mà các vùng ngập mặn ở châu thổ sông Cửu Long có sức hấp dẫn cao. Đứng sau rừng ngập mặn ven biển châu thổ sông Cửu Long về diện tích là các rừng ngập mặn ven biển khu vực Đông Bắc (Quảng Ninh) với diện tích 39.400 ha (15,6% tổng diện tích rừng ngập mặn). Mức độ phong phú và đa dạng của hệ sinh thái rừng ngập mặn Quảng Ninh kém hơn nhiều so với ở ven biển Nam Bộ, song các hệ sinh thái này có đặc trưng riêng của sinh thái cảnh, chịu ảnh hưởng của mùa đông lạnh với các loài chim di cư hàng năm đến đấy với số lượng lớn. Vì thế, việc nghiên cứu quy hoạch các điểm du lịch sinh thái rừng ngập mặn ở Đông Bắc cần được đầu tư, xem xét trong hệ thống tuyến du lịch Quảng Ninh nói riêng và Đông Bắc nói chung. Một dạng hệ sinh thái đất ngập nước điển hình khác là các đầm lầy nội địa, trong đó có các hệ sinh thái rừng tràm U Minh, Đồng Tháp (tứ giác Long Xuyên) của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long là rất nổi tiếng. Các hệ sinh thái này gắn liền với các sinh thái cảnh thấp, trũng của các đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng, với chế độ ngập nước thường xuyên hoặc ngập nước theo mùa do ảnh hưởng của chế độ lũ của các hệ thống sông tạo châu thổ. Nguồn nước lũ hàng năm là nguồn cung cấp các chất dinh dưỡng và tạo chế độ thay nước định kỳ cho các vùng đầm lầy nội địa. Các hệ sinh thái đầm lầy nội địa kết hợp với các vùng sình lầy của sông tạo nên các vùng đất ngập nước lớn ở hai châu thổ, nơi có số lượng lớn chim cư trú và chim di cư hàng năm cùng với nguồn lợi hết sức quý là mật ong rừng. Một dạng đất ngập nước khác là đầm phá ven bờ. Đây là dạng đất ngập nước đặc biệt điển hình của các cửa sông vùng cồn cát miền Trung, hình thành do cửa sông bị cát chắn theo chu kỳ. Trong các đầm phá nổi tiếng là đầm Cầu Hai và phá Tam Giang nằm trong tổng thể của quần thể du lịch Huế. Nhiều đầm phá miền Trung nằm trong quần thể có bãi biển dài, nước khá trong, độ dốc thoải trong mùa nắng, nhiệt độ vừa phải (mùa khô ở Thuận An) là đặc trưng của mô hình du lịch 3S: Sun, Sea, Sand (nắng, biển và cát). Các đầm phá ở miền Trung trong điều kiện sinh thái khá ổn định và có mùa mưa lệch pha (từ tháng 8 đến tháng 1) làm cho nguồn lợi sinh vật phong phú, tạo những hấp dẫn lớn cho du lịch sinh thái [5]. 2.3. Hệ sinh thái vùng cát ven biển Hệ sinh thái vùng cát ven biển của nước ta đa dạng với hơn 60 vạn ha, tập trung chủ yếu ở ven biển miền Trung (30% tổng diện tích). Các nhóm hệ sinh thái cát hình thành trên các loại cát khác nhau: hệ sinh thái vùng cồn cát trắng vàng, hệ sinh thái vùng đất cát biển, hệ sinh thái vùng đất cát đỏ. Trong ba nhóm trên, nhóm hệ sinh thái cồn cát trắng vàng phân bố ở hầu hết các tỉnh nhưng tập trung ở vùng biển Nam Trung Bộ với các cồn cát di động, sạch thuần khiết có ý nghĩa lớn cho du lịch, nhất là trong điều kiện ven biển miền Trung nơi mùa mưa ngắn và dịch về thu đông (từ tháng 9 đến tháng 12). Nhóm 2, nhóm đất cát có độ mùn thấp 1% nhưng thuận lợi cho phát triển nông nghiệp sinh thái trên đất cát, tập trung ở Nam Trung Bộ và Khánh Hòa. Nhóm 3, đất cát đỏ có khoảng 77.000 ha, tập trung ở hai tỉnh cực Nam Trung Bộ, là nhóm cát 111 LIÊN NGÀNH KHOA HỌC TRÁI ĐẤT - MỎ Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018 đặc biệt do tỷ lệ sắt cao, oxit silic có hàm lượng khá cao (85-90%) có độ thuần khiết lớn. Đặc biệt lớn là khối cát đỏ Tây Bắc Phan Thiết. Các cồn cát đỏ do gió tác động thành các cồn cát di động nên có khả năng vừa sử dụng trực tiếp các cồn cát đỏ cho du lịch sinh thái, vừa có thể tạo sinh thái canh nông trên đất cát (trồng hoa màu, dưa hấu, đào lộn hột) tạo nên sức thu hút lớn du khách trong và ngoài nước. 2.4. Các hệ sinh thái rừng nhiệt đới Đặc trưng của các hệ sinh thái này là hệ thống các vườn quốc gia, nơi lưu trữ các nguồn gen quý hiếm của nước ta phân bố ở khắp các miền từ Nam ra Bắc, từ đất liền đến các hải đảo. Mỗi đơn vị vườn quốc gia và hệ thống rừng đặc dụng có đặc điểm tự nhiên đặc thù, trong đó có các loài động, thực vật quý hiếm cũng như sự khác biệt về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, các đặc điểm nhân văn do vậy là những địa điểm có ý nghĩa lớn cho công tác nghiên cứu khoa học, cho hoạt động tham quan thiên nhiên, trở về cội nguồn. Trong các hệ sinh thái rừng nhiệt đới có các dạng đặc thù là hệ sinh thái núi cao, hệ sinh thái rừng khô hạn và hệ sinh thái rừng mưa. Đặc trưng của các hệ sinh thái núi cao Việt Nam là hệ sinh thái núi cao Fanxipang với đỉnh Fanxipang cao 3.143 m. So với núi cao khác thì khu vực Fanxipang không phải là cao quá, song do địa hình hiểm trở, do thời tiết không mấy khi thuận lợi nên việc chinh phục đỉnh núi này cũng không dễ dàng. Mặt khác đây là khối núi cao nhất Đông Nam Á, trên đó sự phân hóa sinh thái phức tạp giữa sườn Đông và sườn Tây, giữa các dạng địa hình, giữa các đá sinh vật trên núi với rừng rêu, rừng đỗ quyên, rừng trúc lùn trên các sống phân thủy, các đỉnh núi, đặc biệt trong điều kiện không có dòng chảy từ độ cao trên 2400÷2600 m đã thu hút nhiều hoạt động du lịch sinh thái. Vùng núi cao Fanxipang nằm trong khu Bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên Sơn với nhiều loài gen quý hiếm như pơmu, tùng La hán, dương xỉ cây Đa dạng sinh học của vùng núi cao Fanxipang và khu nghỉ mát trên núi cao Sa Pa, là quần thể du lịch đặc sắc, trong đó có hướng du lịch sinh thái đang hứa hẹn nhiều triển vọng. Ngoài ra còn có các vùng sinh thái núi cao khác như Đà Lạt, Tam Đảo, Ba Vì, mỗi vùng có sắc thái riêng đang chờ khai thác theo hướng du lịch sinh thái. Hệ sinh thái rừng khô hạn là loại hình đặc trưng ở Đông Nam Á, tập trung ở khu vực Tây Nguyên. Đây là các hệ sinh thái hình thành trong điều kiện mùa mưa tập trung và mùa khô kéo dài đến bảy tháng. Vì vậy, vào mùa mưa các hệ sinh thái này đôi khi ngập đến 1 m ở các vùng trũng, mùa khô đất nứt nẻ do thiếu nước. Thực vật đặc trưng của các cây họ dầu có nhiều dầu nhựa cùng với các loại gỗ quý khác. Hệ động vật khá phong phú và đặc sắc với các loài nhiệt đới khô đặc trưng như voi, tê giác, bò rừng Hệ sinh thái rừng khộp lưu giữ nhiều nguồn gen quan trọng không chỉ riêng đối với nước ta mà còn đối với thế giới. Trong số 51 loài động vật quý hiếm ở Đông Dương thì trong hệ sinh thái rừng khộp phát hiện được 39 loài [6]. Du lịch trong rừng khộp trên lưng voi là một bản sắc với sức hấp dẫn kì diệu. 3. GIẢI PHÁP NHẰM KHAI THÁC CÓ HIỆU QUẢ CÁC HỆ SINH THÁI ĐẶC TRƯNG CHO PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở VIỆT NAM 3.1. Giải pháp về cơ chế chính sách Để phát triển du lịch theo hướng thân thiện với môi trường thì việc tạo cơ chế, chính sách phát triển du lịch sinh thái bền vững là rất quan trọng. Điều này tạo ra một hành lang pháp lý cho hoạt động du lịch sinh thái nhằm làm cơ sở cho việc giám sát chặt chẽ hoạt động du lịch và quản lý nguồn tài nguyên. Bên cạnh đó, cần giáo dục nâng cao ý thức thực hiện luật bảo vệ môi trường cho mọi người dân. Việc này không chỉ dừng lại ở du khách, cộng đồng dân cư địa phương mà còn phải tiến hành cả ở các cấp quản lý, các đơn vị và đối tượng kinh doanh tại các điểm du lịch sinh thái bằng nhiều hình thức, như tổ chức cuộc vận động, phổ biến văn bản hướng dẫn, phát hành ấn phẩm, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, phổ biến những video clip về cảnh quan du lịch sinh thái hay thông qua việc thuyết minh về bảo vệ môi trường của các hướng dẫn viên du lịch Cần đổi mới cơ chế, chính sách, tạo điều kiện phát triển du lịch sinh thái rộng rãi trên nhiều vùng miền của đất nước. Cần có những quy hoạch hợp lý, chính sách và dự án tối ưu trong phát triển du lịch nhằm giảm thiểu các tác động đến môi trường, trong đó gồm cả môi trường du lịch tự nhiên, môi trường du lịch nhân văn, môi trường du lịch kinh tế - xã hội. Phải có được các cơ chế chính sách đồng bộ khuyến khích việc khai thác các tiềm năng du lịch sinh thái, đặc biệt ở các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên. Điều này được thể hiện qua các 112 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018 thông tư liên bộ giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính và Tổng cục Du lịch về vấn đề này. Tạo môi trường thuận lợi với những cơ chế cụ thể có tính khuyến khích để mọi thành phần kinh tế có thể đầu tư phát triển các khu du lịch sinh thái. Điều này đặc biệt có ý nghĩa bởi việc thu hút vốn đầu tư các dự án này thường dài và khả năng rủi ro cao. 3.2. Giải pháp về thị trường Cần đầu tư cho những nghiên cứu chuyên đề về thị trường du lịch sinh thái để xác định rõ yếu tố cầu đối với loại hình du lịch này. Việc giải quyết tốt vấn đề này sẽ tạo cơ sở vững chắc cho các kế hoạch phát triển một cách bền vững có hiệu quả cả về kinh tế và xã hội Có đầu tư thỏa đáng cho công tác xúc tiến quảng bá du lịch sinh thái góp phần tạo thị trường đối với loại hình du lịch hấp dẫn này. 3.3. Giải pháp về quy hoạch Căn cứ vào những đánh giá có tính tổng quan của những nghiên cứu về du lịch sinh thái, cần tập trung xúc tiến việc quy hoạch chi tiết phát triển các khu du lịch sinh thái ở các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên làm cơ sở cho các dự án đầu tư, đảm bảo sự phát triển bền vững ở những khu vực này. Trong quá trình quy hoạch chi tiết, lập các dự án khả thi, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa chuyên gia quy hoạch du lịch với các chuyên gia ở những lĩnh vực liên quan, ban quản lý các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, đặc biệt với chính quyền và cộng đồng địa phương. 3.4. Giải pháp về đào tạo Hoạt động du lịch sinh thái còn là lĩnh vực mới đối với du lịch Việt Nam, nên đội ngũ các nhà quản lý, kinh doanh và lực lượng lao động trực tiếp còn thiếu kinh nghiệm cả về lí luận và thực tiễn. Chính vì vậy, việc đào tạo một cách có hệ thống các nhà quản lý và đội ngũ lao động trong lĩnh vực này là rất quan trọng. Thực tế cho thấy các nhân viên, hướng dẫn viên du lịch sinh thái của các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên còn thiếu và yếu về chuyên môn. Có tới 88% cán bộ chưa có đủ năng lực về xây dựng kế hoạch và triển khai du lịch sinh thái, 73% chưa có năng lực tốt về diễn giải môi trường Cần gấp rút tiến hành đào tạo đội ngũ quản lý trực tiếp các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên về du lịch sinh thái để có thể phối hợp với các nhà tổ chức có hiệu quả hoạt động du lịch sinh thái ở những khu vực này. Có một chương trình đặc biệt đào tạo các hướng dẫn viên du lịch sinh thái. Cần chú ý đến việc đào tạo những người địa phương có năng lực để họ có thể trở thành những hướng dẫn viên phục vụ cho hoạt động du lịch sinh thái trên mảnh đất của họ. 3.5. Giải pháp về phát triển cơ sở hạ tầng Trước tiên, phát triển du lịch kéo theo việc xây dựng kết cấu hạ tầng khách sạn và các công trình dịch vụ du lịch, tất yếu dẫn đến việc xâm lấn những diện tích đất đai vốn trước đây dành cho trồng trọt và chăn nuôi, vừa làm giảm đi quỹ đất nông nghiệp vừa gây ô nhiễm môi trường sống, làm mất đi cảnh quan tự nhiên, thậm chí làm tổn hại nghiêm trọng đến đa dạng sinh học cũng như sức khỏe của con người. Cụ thể là việc sử dụng đất đai, xây dựng các cơ sở dịch vụ du lịch và các hoạt động liên quan đến việc vận hành và bảo dưỡng các công trình du lịch cần thiết để duy trì các hoạt động giải trí cho du khách có nhiều tác động tiêu cực trước mắt và lâu dài, như việc thải bừa bãi các vật liệu xây dựng, đất đá và các vật liệu nạo vét, đặc biệt là những nơi chặt phá rừng ngập mặn, làm cho chất lượng nước giảm đi rất nhiều. Việc giải phóng mặt bằng và san ủi đất để xây dựng các công trình và làm đường có thể đã gây ra xói mòn, sụt lở đất, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nước mặt. Việc đổ rác bừa bãi, việc thải một lượng xăng dầu nhất định trong quá trình vận hành các thiết bị xây dựng làm cho chất lượng nguồn nước kém đi, vừa ô nhiễm nước mặt vừa ảnh hưởng lâu dài đến chất lượng nước ngầm do nước thải không được xử lý đúng quy trình. Việc tăng cường sử dụng giao thông cơ giới là nguyên nhân đáng kể gây nên bụi bặm và ô nhiễm không khí. Do đặc điểm các khu vực có tiềm năng du lịch sinh thái thường nằm ở vùng sâu, vùng xa, vì vậy hiện nay điều kiện tiếp cận còn rất nhiều khó khăn. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác các tiềm năng phục vụ phát triển du lịch sinh thái. Chính vì vậy, việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đến những khu vực này không chỉ có ý nghĩa kinh tế - xã hội mà còn có ý nghĩa đặc biệt đảm bảo cho sự phát triển bền vững của du lịch sinh thái. 3.6. Giải pháp về xã hội Du lịch là tổng thể của những hiện tượng và những mối quan hệ phát sinh do tác động qua lại giữa khách du lịch, người kinh doanh du lịch, chính quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương, do đó du lịch có tác động không nhỏ tới cộng đồng dân cư sở tại. Du lịch tạo cơ hội về việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân. Đồng thời chính lòng hiếu khách, phong tục tập quán, bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng dân cư cũng 113 LIÊN NGÀNH KHOA HỌC TRÁI ĐẤT - MỎ Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018 là yếu tố hấp dẫn du khách. Vì vậy, phát triển du lịch mà vẫn bảo vệ được môi trường sống, làm phong phú thêm môi trường tự nhiên và bảo tồn, phát huy được những đặc sắc văn hóa bản địa là xu hướng tất yếu để bảo đảm sự bền vững. Nâng cao nhận thức và khuyến khích cộng đồng dân cư địa phương tích cực tham gia vào các hoạt động du lịch. Sự tham gia của cộng đồng vào phát triển du lịch có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khai thác các hệ sinh thái điển hình. Lồng ghép nâng cao nhận thức cho cộng đồng về phát triển du lịch vào các chương trình dự án. Phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật, nâng cao dân trí, nâng cao hiểu biết về phát triển du lịch bền vững cho cư dân địa phương. Khuyến khích cộng đồng địa phương tham gia tích cực vào hoạt động du lịch, vào nỗ lực bảo vệ, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch. Bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa của các dân tộc ít người nhằm phát triển du lịch một cách bền vững, góp phần giảm thiểu sự xâm hại của cộng đồng dân cư địa phương vào các hệ sinh thái điển hình. 3.7. Giải pháp về phát triển du lịch nông nghiệp sinh thái Phát triển du lịch cộng đồng gắn với du lịch nông nghiệp sinh thái là loại hình du lịch đưa du khách trở về thiên nhiên, tìm hiểu phong tục tập quán, đời sống sinh hoạt của bà con bản địa. Tuy nhiên, thời gian tới Việt Nam cần tận dụng các nguồn vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng, tích cực tuyên truyền, vận động người dân gìn giữ nét đẹp văn hóa, khôi phục làng nghề, trồng hoa ở các bản du lịch. Hình thành các vùng sản xuất tập trung như cây mắc ca, lúa, rau sạch để các bản làng trở thành điểm đến lý tưởng của du khách. 3.8. Giải pháp về đa dạng hóa các sản phẩm du lịch Một giải pháp hết sức quan trọng mà các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên phải triển khai ngay, để phát huy các tiềm năng sẵn có và tăng cường sự cuốn hút với du khách, đó là phát triển các sản phẩm du lịch sinh thái đặc thù. Tùy theo tiềm năng và điều kiện thực tế, mỗi vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên nghiên cứu, phát triển và xây dựng các sản phẩm phù hợp. Chẳng hạn như các tour xem chim, xem thú, tham quan các hệ sinh thái và cảnh quan đặc trưng, các hoạt động tình nguyện gắn với công tác bảo tồn. Đây là điểm mấu chốt để làm nổi bật hoạt động du lịch sinh thái tại các các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên, song đến nay ngoài một số vườn như Cúc Phương, còn đa số vẫn chưa được thực hiện tốt. 4. KẾT LUẬN Du lịch sinh thái ở Việt Nam là hướng phát triển có nhiều triển vọng dựa trên sự đa dạng và phong phú của các hệ sinh thái đặc trưng, điển hình. Các hệ sinh thái ở nước ta hình thành trong điều kiện đặc thù, tạo bởi hoàn cảnh địa lý, vị trí và lịch sử hình thành của thiên nhiên Việt Nam. Chính điều này đã tạo nên sức hấp dẫn to lớn về mặt sinh thái. Tuy nhiên, để đưa những đặc thù sinh thái thành tiềm năng du lịch đòi hỏi phải có công đoạn nghiên cứu chuyển dạng, chuyển từ tiềm năng tự nhiên sang tiềm năng du lịch sinh thái. Làm sao cho du khách thấy được những gì mà thế giới sinh vật của khu vực có, của châu Á có, ở các hệ sinh thái của chúng ta cũng có như một bức tranh sinh thái nhỏ của toàn khu vực, ngược lại cũng cho họ thấy những gì mà có trong các hệ sinh thái của Việt Nam. Đây chính là tạo nên sức thu hút, hấp dẫn du lịch của du lịch sinh thái Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Lê Huy Bá (2016). Du lịch sinh thái. NXB Đại học Quốc gia, TP. Hồ Chí Minh. [2]. Phạm Việt Hà (2016). Phát triển du lịch sinh thái ở nước ta hiện nay. Tạp chí Cộng sản số 879. [3]. Phạm Trung Lương (2002). Du lịch sinh thái những vấn đề về lí luận và thực tiễn phát triển ở Việt Nam. NXB Giáo dục, Hà Nội. [4]. Phạm Trung Lương (2000). Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam. NXB Giáo dục, Hà Nội. [5]. Nguyễn Minh Tuệ (2012). Địa lý du lịch Việt Nam. NXB Giáo dục, Hà Nội. [6]. Tuyển tập báo cáo Hội thảo về du lịch sinh thái và phát triển bền vững ở Việt Nam (1998). Viện nghiên cứu phát triển du lịch, IUCN, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcac_he_sinh_thai_dac_trung_co_so_cua_phat_trien_du_lich_sinh.pdf
Tài liệu liên quan