Chẩn đoán trước sinh bệnh di truyền cho thai ở 27 cặp vợ chồng mang gen Thalassemia tại bệnh viện phụ sản Mê Kông

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ phát hiện đột biến gen globin của thai là 59,26%, khác với tỉ lệ di truyền theo lý thuyết là 75%. Không có trường hợp nào đồng hợp tử. 4/27 trường hợp chẩn đoán trước sinh (chiếm 14,8%) có tình trạng dị hợp tử kép 2 đột biến cùng loại hay khác loại (cả đột biến α và β globin). Nghiên cứu của Nguyễn Khắc Hân Hoan năm 2011 với cỡ mẫu lớn (290 trường hợp thai được chẩn đoán trước sinh) có kết quả: 71,4% thai có mang gen đột biến, trong đó 21,4% thai có kiểu gen bệnh nặng gồm HbBart, HbH và β thalassemia thể nặng. Sự khác biệt về tỉ lệ di truyền có thể do nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trong thời gian ngắn nên có cỡ mẫu nhỏ. Chúng tôi phát hiện có 20 alen gây thalassemia trong mẫu xét nghiệm dịch ối do 8 loại đột biến gây ra. Đột biến α và β thalassemia đều chiếm 10 alen cho mỗi loại. Đột biến ‐‐SEA thường gặp nhất trong các alen α thalassemia (60%), còn lại là –α3.7 và –α4.2. Trong số các alen β thalassemia, đột biến thường gặp nhất là HbE (40%), kế đến là đột biến codon 41/42‐TCTT và codon 71/72. Sự phân bố tần suất các loại đột biến của thai cũng tương tự như của cha mẹ. Trong nghiên cứu của Nguyễn Khắc Hân Hoan, tỉ lệ alen α gấp 2 lần alen β và 2 loại đột biến thường gặp nhất là ‐‐SEA và HbE tương tự như trong nghiên cứu của chúng tôi. Trong 5 trường hợp có tiền căn con trước bệnh thalassemia, có 4 trường hợp thai lần này không mang gen đột biến và trường hợp còn lại thai có đột biến ‐‐SEA dạng dị hợp tử. Mục đích của đề tài giúp phát hiện tình trạng mang gen của thai nhi như thế nào trước khi sinh ra. Nếu thai bị bệnh thể nặng cặp vợ chồng sẽ được tư vấn chấm dứt thai kỳ. Nếu thai không bị bệnh hoặc chỉ là người mang gen, cặp vợ chồng yên tâm dưỡng thai đến ngày sinh. Đối với trường hợp thai có mang gen dị hợp tử kép 2 loại đột biến β0/β+, đối tượng đã được tư vấn di truyền về khả năng thai bị bệnh thể nặng. Tuy nhiên, trường hợp này không đồng ý chấm dứt thai kỳ.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 153 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chẩn đoán trước sinh bệnh di truyền cho thai ở 27 cặp vợ chồng mang gen Thalassemia tại bệnh viện phụ sản Mê Kông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 126 CHẨN ĐOÁN TRƯỚC SINH BỆNH DI TRUYỀN CHO THAI   Ở 27 CẶP VỢ CHỒNG MANG GEN THALASSEMIA   TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN MÊ KÔNG  Nguyễn Thị Thanh Hà*, Lê Thị Phương Uyên*  TÓM TẮT  Mở đầu: Thalassemia là bệnh thiếu máu tán huyết di truyền thường gặp và có tỉ lệ khá cao tại Việt Nam.  Việc điều trị khó khăn, chi phí cao và kém hiệu quả khiến Thalassemia trở thành một gánh nặng cho bệnh nhân,  gia đình và toàn xã hội. Vì vậy, sàng lọc người mang gen, tham vấn di truyền và chẩn đoán trước sinh là biện  pháp kiểm soát bệnh và làm giảm tỉ lệ thalasemia có hiệu quả nhất.  Mục tiêu: 1. Phát hiện các trường hợp thai bệnh thể nặng để tư vấn trước sinh. 2. Xác định tỉ lệ các đột  biến gen thường gặp. 3. Mô tả đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm huyết học của người mang gen.  Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 27 thai với tuổi thai từ 15,5 ‐ 23 tuần của 27 cặp vợ chồng mang  gen thalassemia phát hiện qua chương trình sàng lọc tại Bệnh viện Phụ sản Mê Kông được chọc ối tìm đột biến  gen globin từ 01/08/2012 đến 31/05/2013.  Kết quả: Phát hiện 1 thai có tiên lượng bệnh thể nặng: dị hợp tử kép 2 đột biến β⁺/ β⁰. 16 thai mang gen dị  hợp tử. Đột biến α nhiều hơn đột biến β 1,5 lần ở cặp vợ chồng và như nhau ở thai, SEA và HbE là hai đột biến  thường gặp nhất. Tất cả cặp vợ chồng là người mang gen dị hợp tử và không có biểu hiện lâm sàng. 40,74% thai  phụ và 7,4% chồng thiếu máu trên huyết đồ. 92,6% có MCV < 80 fl và/hoặc MCH < 27 pg.  Kết luận: Chẩn đoán trước sinh bệnh thalassemia là phương pháp phòng ngừa hiệu quả và giúp nâng cao  chất lượng dân số.  Từ khóa: chẩn đoán trước sinh, thalassemia, di truyền, người mang gen  ABSTRACT  PRENATAL DIAGNOSIS OF THALASSEMIA IN 27 PREGNANCIES   WITH THALASSEMIA CARRIER PARENTS AT MEKONG O&G HOSPITAL  Nguyen Thi Thanh Ha, Le Thi Phuong Uyen  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 126 ‐ 131  Background:  Thalassemia  is  a  common  inherited  haemolytic  anaemic  condition, with  high  incidence  in  VietNam. The management of the condition is difficult, expensive, with limited efficacy, making Thalassemia a  large  burden  for  the patients,  their  family  and  the  society  in general. As  a  result,  screening  for Thalassemia  carriers,  genetic  consultation  and  prenatal  diagnosis  is  a  disease‐controlling  strategy  in  order  to  reduce  Thalassemia rates, and has been proven to be the most efficacious approach.   Aim:  1.  To  detect  severe  fetal  cases  for  prenatal  consultation;  2.  To  identify  rates  of  common  genetic  mutations; 3. To describe clinical characteristics and haematological laboratory values of Thalassemia carriers.  Study subjects and method: 27 pregnancies with gestational ages within 15.5‐23 weeks of 27 couples who  were identified as Thalassemia carriers through the screening program conducted in the MeKong O&G hospital  by prenatal diagnostic amniocentesis to detect globin mutations from 01/08/2012 to 31/05/2013.   * Bộ môn Sản Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh  ** Bệnh viện Phụ Sản Mê Kông  Tác giả liên lạc: Lê Thị Phương Uyên  ĐT: 0945886006  E‐mail: ph_uyen79@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 127 Results: We identify one fetal Thalassemia case with severe prognostic pattern: combined heterogenous  mutations with β⁺/ β⁰. 16 fetal cases are identified with heterogenous mutations. Mutations  in the α‐genes  occurred 1.5 times more often than those  in the β‐genes  in the couples studied, and similar mutation rates  identified within the fetuses. SEA and HbE are the two most common mutations in this study. All couples  are heterogeneous carriers with no clinical manifestations. 40.74% of the pregnant mothers and 7.4% of the  husbands have anaemia identified through full blood count results. 92.6% of all couples have MCV < 80 fl  and/or MCH < 27 pg.   Conclusions: Prenatal  diagnosis  of Thalassemia  is  an  effective  preventive  strategy  in  order  to  improve  quality of the population.   Key words: Prenatal diagnosis, Thalassemia, Inheritance, Gene carriers.   ĐẶT VẤN ĐỀ  Thalassemia là một nhóm bệnh lý huyết học  di truyền gây ra bởi sự khiếm khuyết trong tổng  hợp chuỗi globin, dẫn đến tán huyết và tạo hồng  cầu  không  hiệu  quả  tại  tủy  xương. Nhiều  thể  bệnh  thalassemia  đã  được mô  tả,  thường  gặp  nhất  là α và  β  thalassemia. Bệnh  tìm  thấy  trên  hơn  60  quốc  gia,  khoảng  7%  dân  số  thế  giới  mang gen bệnh và chiếm khoảng 4,4/10.000  trẻ  sinh  sống(1,9). Việt Nam  có  khoảng  hơn  5  triệu  người mang gen bệnh, khoảng hơn 20.000 bệnh  nhân cần điều  trị và mỗi năm có khoảng 2.000  trẻ sinh ra bị bệnh(2).  Người mang gen thalassemia thường không  có biểu hiện triệu chứng và không cần điều  trị.  Tuy nhiên, những người này có 50% khả năng  truyền gen bệnh cho con. Nếu cả cha và mẹ đều  mang gen bệnh thì 25% trường hợp con sinh ra  bị  bệnh  thalassemia  thể  nặng.  Điều  trị  bệnh  thalassemia  là một việc khó  khăn  và  tốn  kém.  Phòng bệnh là chiến lược giải quyết cho vấn đề  thalassemia.   Ở Việt Nam, các nghiên cứu sinh học và di  truyền  phân  tử  để  ứng  dụng  vào  chẩn  đoán  bệnh Thalassemia, nhất là chẩn đoán trước sinh  đã  được  thực  hiện  tại  bệnh  viện Từ Dũ,  bệnh  viện Nhi Trung ương đã phát hiện và hạn chế  nhiều  trường hợp  thai bị bệnh  thalassemia  thể  nặng  được  sinh  ra.  Cùng  với  mục  đích  trên,  chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Chẩn đoán trước  sinh bệnh di truyền cho thai ở những cặp vợ chồng bị  Thalassemia thể dị hợp tử tại Bệnh viện Phụ sản Mê  Kông” nhằm phát hiện các đột biến gen gây bệnh  thalassemia,  chẩn  đoán  trước  sinh  các  trường  hợp  thai  có  nguy  cơ  bị  bệnh  thalassemia  thể  nặng và tư vấn hướng xử trí.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Trong thời gian từ tháng 08/2012 đến tháng  05/2013,  chúng  tôi  thực  hiện  nghiên  cứu  hàng  loạt ca tiến cứu trên 27 cặp vợ chồng mang gen  thalassemia  thể  dị  hợp  tử  khám  thai  tại  Bệnh  viện Phụ sản Mê Kông.  Thu thập số liệu  Thai  phụ  được  tư  vấn  làm  bộ  xét  nghiệm  khám  thai  cơ  bản  (trong  đó  có  huyết  đồ  và  Ferritin  huyết  thanh)  ngay  trong  3  tháng  đầu  hoặc trong lần khám đầu tiên.   Khi  kết  quả  MCV  <  80  fl  và/hoặc  MCH<27pg và Ferritin huyết thanh ≥ 12 ng/ml,  thai phụ sẽ được  tư vấn  làm xét nghiệm điện  di Hb cùng với sàng lọc bệnh thalassemia cho  chồng thai phụ.   Nếu  cặp vợ  chồng  đều  là người mang gen  thì sẽ được tư vấn về khả năng thai mắc bệnh và  chẩn đoán cho thai bằng cách chọc ối tại Đơn vị  Chẩn đoán tiền sản để thực hiện xét nghiệm tìm  đột  biến  gen  globin  cho  thai  tại  phòng  xét  nghiệm Nam Khoa Biotek (đột biến gen α phát  hiện  bằng  xét  nghiệm MLPA,  đột  biến  gen  β  phát hiện bằng xét nghiệm PCR‐ELISA).  Số  liệu  thống  kê  được  xử  lý  bằng  phần  mềm SPSS 16.   Đề cương nghiên cứu được Bộ môn Sản và  Hội đồng Y Đức Đại học Y Dược Thành phố Hồ  Chí Minh thông qua.   Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 128 KẾT QUẢ  Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu  Đặc điểm Kết quả Tỉ lệ Tuổi Thai phụ 33,4 ± 4,4 Chồng 36,2 ± 3,8 Nơi cư trú TP. HCM 21/27 cặp 77,78% Long An 2/27 cặp 7,4% Lâm Đồng 2/27 cặp 7,4% Bà Rịa – Vũng Tàu 1/27 cặp 3,7% Khánh Hòa 1/27 cặp 3,7% Dân tộc Kinh 54/54 100% Trình độ học vấn Cấp 1 – 2 7,41% Cấp 3 16,67% Đại học – Cao đẳng – Trung cấp 75,92% Nghề nghiệp Nội trợ 11 20,37% Buôn bán 12 22,22% Nhân viên văn phòng 21 38,89% Y tá-Giáo viên-Kỹ sư-Bác sĩ- Dược sĩ 8 14,81% Nghề khác 2 3,71% Tuổi thai 17,5 ± 1,73 tuần Nhận xét: Đa  số  các  cặp  vợ  chồng  sống  tại  thành phố Hồ Chí Minh. Hầu hết các đối tượng  là lao động trí óc, trong đó nhóm nhân viên văn  phòng chiếm đa số.  Trình độ văn hóa của nhóm nghiên cứu chủ  yếu là > 12.  Đa số  (72%)  tuổi  thai nằm  trong khoảng  từ  16 ‐ 18,5 tuần.  Đặc điểm về tiền căn y khoa, sản khoa  Tiền căn Tần suất Tỉ lệ Tiền căn y khoa Biết có bệnh thalassemia trước đây 5/27 18,5% Biết có bệnh trong lần mang thai này 22/27 (81,5%) Tiền căn sản khoa Tiền thai Con so 13/27 48,15% Con rạ Con thứ 2 Con thứ 3 14/27 8/27 6/27 51,85% 29,63% 22,22% Tiền sử mang thai/ sinh con bệnh thalassemia 5/27 18,5% Nhận  xét:  Nhóm  con  so  và  con  rạ  tương  đương nhau,  tỉ  lệ con  thứ 3 khá cao. 18,5% cặp  vợ chồng từng mang thai hoặc sinh con bị bệnh  thalassemia  nên  biết  bản  thân  là  người mang  gen trước khi mang thai lần này. 64,28% trường  hợp con  rạ và  tất  cả  trường hợp  con  so không  biết  bản  thân  là  người mang  gen  vì  không  có  biểu hiện lâm sàng.  Đặc điểm huyết đồ và ferritin huyết thanh  Tỉ lệ thiếu máu  ‐ Thai phụ: 11/27 (40,74%)  ‐ Chồng: 2/27 (7,4%)  Chỉ  số MCV  <  80  fl và/ hoặc MCH  <  27  pg:  50/54 (92,6%).   Nhận xét: Tỉ  lệ  thiếu máu  của  thai phụ  cao  hơn nhiều so của chồng.  Đa số có chỉ số hồng cầu nhỏ nhược sắc. Tuy  nhiên, vẫn có 7,4% (4 trường hợp) có chỉ số hồng  cầu ở mức bình  thường. 4  trường hợp này vẫn  được  chọn vào mẫu nghiên  cứu vì  có  tiền  căn  sinh  con  là người mang gen hoặc  có biểu hiện  bệnh thalassemia.  Đặc điểm điện di Hb  Điện di Hb Tần số Tỉ lệ Bình thường α thalassemia 31/54 31 57,4% Bất thường β thalassemia HbE α thalassemia + HbE 23/54 16 4 3 42,6% 29,6% 7,4% 5,6%) Hb A2 ≥ 3,5% β thalassemia HbE 15/16 2/4 93,75% 50% Hb bất thường: HbE 7/7 100% Nhận  xét:  Tỉ  lệ  kết  quả  điện  di  Hb  bình  thường  nhiều  hơn,  tương  ứng  với  kết  quả  xét  nghiệm sinh học phân  tử đột biến gen α nhiều  hơn  đột  biến  gen  β.  Có  3  trường  hợp  α  thalassemia có kết quả điện di bất thường do kết  hợp với HbE dị hợp tử.   Phần lớn kết quả điện di Hb bất thường là β  thalassemia,  còn  lại  là  bệnh  HbE  và  α  thalassemia/HbE.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 129 Đa  số  trường  hợp  β  thalassemia  có HbA2  tăng > 3,5%.  Hb bất thường thường gặp nhất là HbE.  Về các đột biến gen globin thường gặp  Đột biến gen α : 31/54 trường hợp.  Đột  biến  gen  β  globin:  20/54  trường  hợp,  trong đó có 4 trường hợp là đột biến codon 26  (HbE).  Có 3/54 trường hợp mang cả đột biến α và β  globin (SEA/HbE).  Trong các đột biến α, thường gặp nhất  là  ‐‐ SEA  (22/34), kế đến  là  ‐α3.7 và –α4.2, 1  trường  hợp Hb Constant Spring.  Trong  các  đột biến  β,  thường gặp nhất  là  codon  41/42  (6/20),  kế  đến  là  codon  71/72  và  HbE.  Nhận xét: Đột biến gen  α  cao hơn  đột biến  gen β trong mẫu nghiên cứu 1,5 lần.  Đột biến gen α đa số  là đột biến mất đoạn,  tất cả đột biến gen β là đột biến điểm.  Về kết quả xét nghiệm tìm đột biến gen globin của thai  Kết quả Tần số Tỉ lệ% Không phát hiện đột biến gen 11 40,74% Phát hiện đột biến gen globin: α thalassemia: Đột biến --SEA dạng dị hợp tử Đột biến -α3.7 dạng dị hợp tử Đột biến -3.7/-4.2 dạng dị hợp tử β thalassemia: Đột biến codon 35 dạng dị hợp tử Đột biến codon 41/42-TCTT dạng dị hợp tử Đột biến codon 26 (HbE) dạng dị hợp tử Dị hợp tử kép: đột biến β thalassemia -28AG và codon 41/42-TCTT Kết hợp α, β thalassemia và HbE: Đột biến SEA dạng dị hợp tử + dị hợp tử HbE Đột biến SEA dạng dị hợp tử + dị hợp tử codon 71/72 Đột biến codon 71/72 dạng dị hợp tử + dị hợp tử HbE 16 8 4 3 1 5 1 1 2 1 3 1 1 1 59,26% 29,63% 14,81% 11,11% 3,7% 18,52% 3,7% 3,7% 7,4% 3,7% 11,11% 3,7% 3,7% 3,7% Nhận xét  40,74%  thai  được  chẩn  đoán  không mang  gen đột biến.  Không phát hiện trường hợp thai mang gen  đột biến thể đồng hợp tử.  Trong 59,26%  có mang gen  đột biến  thể dị  hợp tử:  ‐  Đột  biến  gây  bệnh  α  thalassemia  gặp  nhiều hơn β thalassemia 1,6 lần.   ‐ Đột biến ‐‐SEA là đột biến thường gặp nhất  trong  số  các  đột  biến  phát  hiện  được  ở  thai  (37,5%).   ‐ Alen gây α thalassemia thường gặp nhất  là: ‐‐SEA.  ‐ Alen gây β  thalassemia  thường gặp nhất  là: HbE.  Có 5 trường hợp mang gen đột biến dị hợp  tử kép:   ‐ 1 trường hợp dị hợp tử kép mất 2 gen α (‐ α3.7/‐α4.2).  ‐  1  trường  hợp  dị  hợp  tử  kép  β0/β+  thalassemia (‐28AG và cd41/42=TCTT).  ‐ 2 trường hợp dị hợp tử α và β thalassemia.  ‐ 1 trường hợp dị hợp tử β thalassemia/HbE.  Trường hợp dị hợp tử kép 2 đột biến β0/β+ có  tiên lượng thể hiện kiểu hình bệnh thể nặng.  BÀN LUẬN  Chúng  tôi  chọn  thiết  kế nghiên  cứu mô  tả  hàng loạt ca tiến cứu là thiết kế phù hợp để khảo  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 130 sát thai kỳ có nguy cơ bị bệnh nặng của từng cặp  vợ chồng mang gen dị hợp  tử. Các xét nghiệm  huyết học để sàng lọc người mang gen là các xét  nghiệm phổ biến, diễn giải  tương đối đơn giản  phù hợp với nhân viên y tế không thuộc chuyên  ngành huyết học. Các xét nghiệm sinh học phân  tử để chẩn đoán trước sinh đã được áp dụng và  chứng minh có giá trị cao tại bệnh viện Từ Dũ,  bệnh viện Nhi Trung ương   Đối tượng  trong mẫu nghiên cứu đa phần  là nhóm lao động trí thức có trình độ văn hóa  cao,  có  nhiều  cơ  hội  tiếp  cận  thông  tin.  Tuy  nhiên,  phần  đông  không  biết  trước  về  bệnh  thalassemia cũng như không biết bản  thân và  chồng  là  người  mang  gen,  có  khả  năng  di  truyền  bệnh  cho  con.  Điều  này  phản  ánh  đa  phần  người  dân  chưa  tiếp  cận  được  chương  trình  tuyên  truyền  phòng  ngừa  bệnh  thalassemia.  Chỉ  khi  người  mang  gen  được  thăm khám tại các cơ sở được trang bị đầy đủ  thiết bị‐ kỹ thuật có thể tầm soát và chẩn đoán  bệnh hoặc đến khi sinh  ra con bệnh  thể nặng  thì mới biết về bệnh  thalassemia. Tương  tự 2  trường  hợp  trong mẫu  nghiên  cứu:  1  trường  hợp biết là người mang gen khi mang thai đến  25  tuần  bị  phù  nhau  thai,  còn  1  trường  hợp  phát hiện bệnh cho cha mẹ và con đầu sau khi  con thứ 2 biểu hiện thiếu máu nặng.  Chỉ  số hồng  cầu nhỏ nhược  sắc  trong mẫu  nghiên  cứu  giúp  phát  hiện  được  92,6%  người  mang  gen.  Trong  một  báo  cáo  của  tác  giả  Nguyễn Khắc Hân Hoan năm 2012 về giá trị của  MCH  và MCV  trong  tầm  soát  trước  sinh  cho  thấy: tỉ lệ phát hiện của MCH là 95,6% cao hơn  so  với  MCV  (88,9%),  kết  hợp  MCH  và/hoặc  MCV cho  tỉ  lệ phát hiện cao hơn: 96,4%(6). Việc  bỏ sót người mang gen bệnh do không ghi nhận  chỉ số MCV, MCH  thấp có  thể do đột biến gen  nhẹ gây bệnh thể ẩn hoặc có thể do hiện tượng  MCV, MCH trong khi mang thai hơi tăng hơn so  với lúc chưa mang thai và trong tam cá nguyệt 2  tăng hơn so với các giai đoạn khác của thai kỳ(8).  Tỉ lệ kết quả điện di Hb bình thường nhiều  hơn so với kết quả điện di bất thường và phù  hợp với kết quả xét nghiệm sinh học phân  tử  là đột biến gen α globin. Trong sàng  lọc bệnh  thalassemia, khi kết quả điện di Hb không có  bất thường thì cũng không  loại trừ chẩn đoán  vì  các  thành  phần Hb  không  thay  đổi  trong  bệnh α  thalassemia.Trong mẫu nghiên cứu có  3 trường hợp α thalassemia có kết quả điện di  bất  thường  là  do  α  thalassemia  kết  hợp  với  bệnh HbE dị hợp tử.  Trong mẫu nghiên cứu đối tượng  là cặp vợ  chồng,  chúng  tôi  phát  hiện  ra  57  alen  gồm  10  loại đột biến gây thalassemia. Các đột biến gen α  gấp 1,5 lần đột biến gen β, khác với trong nghiên  cứu  của  tác  giả Nguyễn  Khắc Hân Hoan  ghi  nhận đột biến gen α gấp 2 lần đột biến gen β(6).  Sự khác biệt này có thể do cỡ mẫu của chúng tôi  nhỏ  trong khi nghiên cứu  tại bệnh viện Từ Dũ  có cỡ mẫu rất lớn (1500 alen). Tuy nhiên, tỉ lệ đột  biến gen  thường  gặp nhất  trong  2 nghiên  cứu  phù hợp với nhau: đột biến ‐‐SEA đối với gen α  và đột biến codon 26 (HbE) đối với gen β, khác  với ở miền Bắc Việt Nam, đột biến thường gặp  nhất  trong  β  thalassemia  là  codon  17  AAGTAG(3).   Về các alen β thalassemia, một nghiên cứu  của Svasti năm 2002  trên quần  thể người Việt  Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tìm thấy  95% bệnh  β  thalassemia  là do 8  loại  đột biến  gây  ra  tương  tự như nghiên cứu của Nguyễn  Khắc  Hân  Hoan:  98,2%(6,7).  Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  phát  hiện  ra  6  loại  đột  biến  gen,  trong đó có 4 loại phù hợp vói 2 tác giả trên và  2 loại đột biến khác. Chúng tôi chỉ phát hiện ra  4  trong  số  8  loại  đột  biến  thường  gặp  đó  nhưng  4  đột biến này  cũng  chiếm  đến  91,3%  các alen β  thalassemia. Trong nghiên cứu của  Svasti  và  cs,  HbE  gặp  trong  hơn  60%  các  trường hợp dị hợp  tử  kép  cùng  với  đột  biến  gen  β globin nhưng không  được  tính vào các  loại đột biến gen β thalassemia như của chúng  tôi và các tác giả còn lại.   Về các alen α thalassemia, 4 loại đột biến: ‐‐ SEA,  ‐α3.7,  ‐α4.2  và  αCS  chiếm  100%  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  đây  là  các  đột  biến  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 131 thường gặp  tại Việt Nam, phù hợp với  tác giả  Nguyễn Khắc Hân Hoan  (98,7%) và Ngô Diễm  Ngọc (2012)(4).  Trong nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tỉ  lệ phát  hiện đột biến gen globin của thai là 59,26%, khác  với tỉ lệ di truyền theo lý thuyết là 75%. Không  có trường hợp nào đồng hợp tử. 4/27 trường hợp  chẩn  đoán  trước  sinh  (chiếm  14,8%)  có  tình  trạng  dị  hợp  tử  kép  2  đột  biến  cùng  loại  hay  khác loại (cả đột biến α và β globin). Nghiên cứu  của Nguyễn Khắc Hân Hoan năm  2011 với  cỡ  mẫu  lớn  (290  trường hợp  thai  được chẩn  đoán  trước sinh) có kết quả: 71,4%  thai có mang gen  đột biến,  trong đó 21,4%  thai có kiểu gen bệnh  nặng  gồm HbBart, HbH  và  β  thalassemia  thể  nặng. Sự khác biệt về  tỉ  lệ di  truyền  có  thể do  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  thực hiện  trong  thời  gian ngắn nên có cỡ mẫu nhỏ.  Chúng  tôi  phát  hiện  có  20  alen  gây  thalassemia trong mẫu xét nghiệm dịch ối do 8  loại đột biến gây ra. Đột biến α và β thalassemia  đều chiếm 10 alen cho mỗi loại. Đột biến ‐‐SEA  thường  gặp  nhất  trong  các  alen  α  thalassemia  (60%), còn lại là –α3.7 và –α4.2. Trong số các alen  β thalassemia, đột biến thường gặp nhất là HbE  (40%), kế đến  là đột biến codon 41/42‐TCTT và  codon  71/72.  Sự  phân  bố  tần  suất  các  loại  đột  biến  của  thai  cũng  tương  tự  như  của  cha mẹ.  Trong nghiên cứu của Nguyễn Khắc Hân Hoan,  tỉ  lệ alen  α gấp 2  lần alen  β và 2  loại  đột biến  thường gặp nhất là ‐‐SEA và HbE tương tự như  trong nghiên cứu của chúng tôi.  Trong  5  trường  hợp  có  tiền  căn  con  trước  bệnh  thalassemia, có 4  trường hợp  thai  lần này  không mang gen đột biến và trường hợp còn lại  thai có đột biến ‐‐SEA dạng dị hợp tử. Mục đích  của đề  tài giúp phát hiện  tình  trạng mang gen  của thai nhi như thế nào trước khi sinh ra. Nếu  thai bị bệnh  thể nặng cặp vợ chồng sẽ được  tư  vấn chấm dứt  thai kỳ. Nếu  thai không bị bệnh  hoặc chỉ  là người mang gen, cặp vợ chồng yên  tâm dưỡng thai đến ngày sinh.   Đối với trường hợp thai có mang gen dị hợp  tử kép 2 loại đột biến β0/β+, đối tượng đã được tư  vấn di truyền về khả năng thai bị bệnh thể nặng.  Tuy nhiên, trường hợp này không đồng ý chấm  dứt thai kỳ.  KẾT LUẬN  Thalassemia là bệnh lý di truyền và hiện nay  vẫn chưa có cách điều trị bệnh hiệu quả. Do đó,  phòng ngừa trẻ bệnh thalassemia thể nặng được  sinh ra là chiến lược quan trọng toàn cầu nhằm  giảm gánh nặng về bệnh tật và tâm lý cho toàn  xã hội. Bệnh di  truyền  theo gen  lặn nên không  được quan tâm cho đến khi có trẻ bị bệnh nặng  được  sinh  ra. Chúng  tôi  tiến hành nghiên  cứu  này góp một phần nhỏ cùng với 2 đơn vị đứng  đầu lĩnh vực này tại Thành phố Hồ Chí Minh là  Từ Dũ và Hùng Vương thực hiện “Đề án nâng  cao chất  lượng dân  số  thông qua  tuyên  truyền  vận động phát hiện – can thiệp sớm tật, bệnh ở  thai  nhi  và  sơ  sinh,  giai  đoạn  2011  –  2015  tại  thành phố Hồ Chí Minh”.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. David  J. Weatherall  (2010).  The  Thalassemias:  Disorder  of  Globin  Synthesis.  Williams  Hematology  Eighth  Edition,  McGraw‐Hill.  2. Hội tan máu bẩm sinh Việt Nam (2012). Thalassemia, Hà Nội,  Nhà xuất bản Y học.  3. Lý Thị Thanh Hà và cs (2012). Chẩn đoán di truyền trước sinh  bệnh  Beta‐thalassemia  tại  Bệnh  viện Nhi  Trung  ương.  Tạp  chí  nghiên cứu Y học số 1, Đại học Y Hà Nội.  4. Ngô Diễm Ngọc và cs (2012). Ứng dụng kỹ thuật sinh học phân  tử  trong  phát  hiện  đột  biến  trên  gen  α  globin  của  bệnh  α  thalassemia. Tạp chí Nhi khoa tập 3, số 3&4, trang 337‐342.  5. Nguyễn Khắc Hân Hoan,  Phạm Việt  Thanh,  Trương  Đình  Kiệt, Lâm Thị Mỹ (2011). Chẩn đoán trước sinh bệnh thalassemia  trên 290 trường hợp thai. Tạp chí nghiên cứu Y học số 3.  6. Nguyễn Khắc Hân Hoan  (2012). Giá trị MCV và MCH trong  tầm soát trước sinh thalassemia. Hội thảo sàng lọc trước sinh và  sau sinh ngày 15/12/2012.  7. Svasti ML  et  al  (2002). Molecular  analysis  of  β‐thalassemia  in  South Vietnam. American Journal of Hematology, 71, 85‐88.  8. Tameika  RJ  (2008).  Are  published  standards  for  haematological  indices in pregnancy applicable across populations: an evaluation in  healthy  pregnant  Jamaican  women.  BMC  Pregnancy  and  Childbirth, 8:8.  9. Thalassaemia  International  Federation  (2008).  Guidelines  for  the clinical management of thalassaemia 2nd revised edition.  Ngày nhận bài báo:       30/11/2013  Ngày phản biện nhận xét bài báo:   02/12/2013  Ngày bài báo được đăng:     05/01/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchan_doan_truoc_sinh_benh_di_truyen_cho_thai_o_27_cap_vo_cho.pdf
Tài liệu liên quan