Chuyên đề Bảo hiểm xã hội cho nông dân: Thực trạng và giải pháp

Trong điều kiện nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường hiện nay thì BHXH là một trong những nhân tố quan trọng quyết định của sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Là một bộ phận của hệ thống bảo đảm xã hộinó thể hiện chính sách bảo vệ người lao động của Đảng và Nhà nước ta. Mọi người lao động đều có quyền tham gia BHXH và BHXH là người bảo trợ đắc lực trong cuộc sống cũng như trong sinh hoạt của mọi người. Do vậy mà BHXH có tầm quan trọng đặc biệt đối với mỗi người lao động. Nông dân và lao động nông thôn nước ta cũng cần có BHXH. Thực tế cho thấy nhu cầu và khả năng tham gia BHXH của họ ngày càng cao, do vậy việc tiến hành BHXH cho nông dân là chính đáng và qua thực tiễn đó chứng minh đó là chính sách phù hợp với lòng dân và phù hợp với sự phát triển của xã hội. Đời sống của người nông dân ở nước ta hiện nay còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, việc xây dựng hệ thống BHXHđối với nông dân là cần thiết. Tuy nhiên, qua thực tiễn triển khai BHXH tự nguyện ở nước ta trong thời gian qua cho thấy, hệ thống BHXH tự nguyện còn biểu hiện nhiều yếu điểm cả về mặt tổ chức quản lý lẫn tính thực tế. Để khắcphục được nhược điểm này và từng bước hoàn thiện chính sách BHXH tự nguyện cho người nông dân nhằm tạo ra hành lang pháp lý cho chính sách này đòi hỏi nhiều công sức nghiên cứu và tìm tòi của các chuyên gia về BHXH, nhằm đưa chính sách này trở nên phổ biến hơn trong thời gian tới ở khu vực nông thôn nước ta.

doc60 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1741 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Bảo hiểm xã hội cho nông dân: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản 23,3% Côngnghiệp 37,7% Dịch vụ 39% Với đặc tính của nền kinh tế thị trường,tỷ trong nông nghiệp ngày càng giảm trong các ngành kinh tế thay vào đó là ngành công nghiệp dịch vụ tănglên. Do đó có thể tỷ trọng đóng góp của ngành nông nghiệp vào GDP có thể giảm đi, nhưng tổng giá trị của ngành nông nghiệp vẫn tăng lên qua các năm. Theo viện khoa học xã hội thìhiện nay có 10% nông dân làm thêm các ngành phụ khác như tiểu thủ công nghiệp, xậy dựng, dịch vụ… Đặc tính của nông nghiệp là phụ thuộc vào thời tiết khí hậu và mang tính thời vụ. Do vậy những lúc nông nhàn,luông người từ khu vực nông thôn ra thànhthị ngày càng đông để tìm những công việc phụ không đòi hỏi trình độ tay nghề để kiếm thêm thu nhập cho bản thân và gia đình. Điều này vừa gâya ảnh hưởng xấu đến trật tự đô thị của những nơi họ đến mặt khác cũng tạo ra nhưngx lợi ích không nhỏ. Như vậy người nông dân nước ta không chỉ có đóng góp vào sản xuất và phát triển nông nghiệp mà còn đóng góp vào các ngành nghề khác trong xã hội. Do vậy người nông dân có một vai trò rất quan trọng đốivới sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế quốc dân. 2. Thu nhập của người nông dân và lao động nông thôn. Năm 2001, thu nhập bình quân đầu người của nước ta là khoảng 650.000đ. Tuy nhiên thu nhập của người nông dân còn thấp so với thu nhập bình quân của cả nước, tuy rằng đó là kết quả tốt nhất từ trước đến nay. Thu nhập bình quân nhân khẩu của các hộ nông thôn: Dưới 100.000đ/tháng/người: 18,7% Dưới 150.000đ/tháng/người: 33,9%. Từ 400.000 – 1000.000đ/người/tháng chiếm 30,74%. Trên 1.000.000 đ/người/tháng chiếm 3,36%. (Nguồn: tạp chí LĐ & XH 5/2001) Thu nhập bình quân củamột người lao động một tháng tham gia hoạt động kinh tế chia theo nhóm hộ (nguồn: điều tra của Bộ LĐTB & XH). + Vùng duyên hải miền trung: Vùng, khu vực Nhóm hộ Nhóm 1 Nhóm 2 Nông thôn đồng bằng 280 323 Nông thôn ven biển 333 361 Nông thôn miền núi 268 310 + Vùng Bắc Trung Bộ: Vùng, khu vực Nhóm hộ Nhóm 1 Nhóm 2 Nông thôn đồng bằng 174 193 Nông thôn ven biển 194 195 Nông thôn miền núi 162 183 - Nhóm 1: nông nghiệp thuần: gồm các hộ trong 12 tháng trong nămn chỉ thuần tuý hoạt động về trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản. - Nhóm 2: Nông nghiệp kiêm các ngành khác. Gồm các hộ ngoài hoạt động chính là sản xuất nông lâm thuỷ sản còn tham gia thêm một số hoạt động kinh tế thuộc các ngành, lĩnh vực khác không phân biệt là ổn định hay không ổn định. Như vậy, so với những năm trước thì thu nhập bình quân của dân cư nông thôn đã tănglênmột cách rõ rệt. Ngoài việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ncày họ bắt đầu có tích luỹ (dù còn thấp) và quan tâm đến các nhu cầu xã hội khác, trong đó có nhu cầu về BHXH. Đây là điểm rất quan trọng là tiền đề và cơ sở để tiến hành BHXHtự nguyện cho người nông dân. 3. Nhu cầu được BHXH của người nông dân. Trong lịch sử nước ta, ở thời kỳ kinh tế chậm phát triển, điều kiện sống gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ chết cao, tuổi thọ trung bình của dân số chỉ 40 đến 50 tuổi, do đó chỉ những người trên 50 tuổi là được gọi là “lão”, những người trên 70 tuổi thì gọi “nhân sinh thất thập cổ lai hy” tức là ít có. Hiện nay, nhờ những thành tựu trong y học và kinh tế đemlại nên tỷ lệ chết giảm nhanh và tuổi thọ trung bình tăng lên. Bộ luật lao động của nước ta đã xác định trên 55 tuổi đối với nữ và trên 60 tuổi đối với nam mà vẫn hoạt động kinh tế thuộc nhóm lao động là người cao tuổi. Liên hiệp quốc dự báo thế kỷ 21 là thế kỷ già hoá. Tại nhiều nước đang phát triển rất quan tâm đến vấn đề già hoá dân số và đang tìm biện pháp để giảm những ảnh hưởng tiêu cực của nó. Năm 1995, tỷ lệ người cao tuổi trên thế giới là 9%, thì vào năm 2015 quỹ dân số LHQ dự báo sẽ là 14%. ở Việt Nam , theo số liệu điều tra năm 1989 trong số 64 triệu dân thì có 7,2% dân số từ 60 tuổi trở lên. Đến năm1999 thì tổng số dân là 78 triệu người thì có tới hơn 10% dân số từ 60 tuổi trở lên, như vậy người già tăng nhanh cả về số lượng và tỷ lệ, đặc biệt là từ năm1989 đến nay, do đất nước ta thực hiện tốt chiến lược dân ố – kế hoạch hoá gia đình làm giảm đáng kể tỷ lệ sinh con và đã gián tiếp làm tăng tỷ lệ người cao tuổi. Theo nhiều chuyên gia thì mô hình biến động dân số ở Việt Nam khá giống với Trung Quốc và Hàn Quốc. Đó lànhững quốc giamà dân số chuyển từ loại”trẻ” sang “già” chỉ trong gần 20 năm. Như vậy có thể trong vài năm tới tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam sẽ tăng lên rất nhanh. Khác với các nước phát triển, người cao tuổi Việt Nam hiện nay hầu hết đã trải qua các cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Hoà bình lập lại, họ trở về với cuộc sống hàng ngày và phải đối phó với nhièu khó khăn về kinh tế, xã hội chịu đựng tình trạng suy dinh dưỡng, những bệnh phổ biến như sốt rét, lao và những bệnh dịch hiện tại như HIV, AIDS, ung thư, tim mạch… Hơn nữa, hầu hết những người cao tuổi trong số họ họ đều ở nông thôn. Do vậy mà cuộc sống hiện tại của họ gặp nhiều khó khăn nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Cơ chế thị trường bên cạnh mặt tích cực còn có mặt tiêu cực là làm cho quan hệ người già người trẻ, thế hệ trước thế hệ sau, thậm chí quan hệ gia đình, dòng họ phần nào cũng bị tiền tệ hoá… Do vạy, nếu Nhà nước không chủ động nhận thức được các nhu cầu, các tính biến dạng của xã hội tthì khó giải quyết tốt nhiệm vụ xã hội trong nước. Hiện nay, nhu cầu BHXH cho người nông dân là cần thiết, là nguyện vọng khát khao của người dân. Thực tế hình thức sơ khai của loại hình BHXH đã xuất hiện dưới dạng cácquỹ, hội ở nông thôn với tính chất tương trợ, tương hỗ lẫn nhau. Hàng bao đời nay, họ đều phảu tự bảo hiểm cho mình thông qua nhiều hình thức phong phú, đa dạng trở thành nếp văn hoá truyền thống của dân tộcta (con cái có nghĩa vụi chăm sóc cha mẹ, hàng xóm đùmbọc giúp đỡ lẫn nhau khi khó khăn…). Trước đây, trong co chế bao cấp, xã viên hợp tác xã khi về già gặp khó khăn đều được hợp tác xã trợ giúp từ quỹ phúc lợi hoặc mua thóc điều hoà với giá thấp. Cùng với cơ chế thị trường năng động, linh hoạt vàmèm dẻo thì sự giúp đỡ này không còn, do vậy nếu nhà nước thực hiện chính sách BHXH cho nông dân thì người nông dân sẽ yên tâm hơn lkhi cuộc sống về già không phải lo lắng đối phó với ốm đau bệnh tật tuổi già vì đã có sự bảo trợ an toàn, đáng tin cậy là BHXH. Để xác định nhu cầu tham gia BHXH của người nông dân và lao động nông thôn đã có một số cuộc điều tra ở các địa bàn khác nhau. Kết quả khảo sát cho thấy trong số những nông dân và lao động nông thôn, số người ở nhóm tuổi từ 25 – 55 tuổi chiếm đại đa số. Đây là nhóm người đang là lựclượng lao động chủ chốt của các gia đình nông thôn. Đồng thời, những người này cũng sẽ là nhóm chủ yếu tham gia BHXH và có nguyện vọng tham gia rất cao. Nhu cầu tham gia BHXH không chỉ cho chính bản thânngười lao động nông thôn mà còn đối với các thành viên khác trong gia đình. Đây là một đặc điểm trong truyền thống gia đình Việt Nam. Qua số liệu một số cuộc điều tra của Bộ LĐTB & XH ta thấy rằng nhu cầu nội tại BHXH của người lao động nông thôn là rất lớn: - Sự cần thiết phải có chính sách BHXH: 89,40%. - Mong muốn tham gia BHXH: 86,30%. - Sẵn sàng tham gia BHXH: 51%. - Chế độ BHXH muốn tham gia: + Hưu trí: 81,42%. + Tử tuất: 35,78%. + BHYTế (ốm đau): 54,74%. 4. Khả năng tham gia BHXH của người nông dân. Khả năng tham gia BHXH của người lao động nông thôn thường biẻu hiện qua tình trạng làm việc và khả năng tạo thu nhập của họ. Hiện nay, người nông dân ngoài các công việc chính là làm ruộng, chăn nuôi, trông cây công nghiệp, cây ăn quả… thì còn một tỷ lệ khá lớn làm thêm các nghề phụ như thủ công nghiệp, mỹ nfgghệ…Như vậy sự đa dạng hoá công việc ở nông thôn đã tạo ra khả năng lớn hơn cho người nông dân nông thôn có thêm thu nhập. Công việc làm thêm có sự khác biệt giữa các nhóm lao động, những người trồng lúa có thêm nghề phụ nhiều hơn so với nhóm lao động khác. Từ lao động sản xuất người lao động nông thôn đã tạo ra thu nhập và đã đóng góp đáng kể vào tổng thu nhập của gia đình. Tính bình quân mỗi lao động nông thôn có thu nhập là 651.oođ/tháng trong đó thu nhập từ các công việc chính chiếm 71,93%. Thu nhập của bản thân người lao động có sự khác biệt giữa các nhóm lao động điều này cho thấy khả năng tham gia BHXH tự nguyện của các nhóm lao động có khác nhau. Ta biết rằng, người nông dân chi tiêu khá tằn tiện. Trung bình chi tiêu của một gia đình ở nông thôn là khoảng 10,68 triệu đồng/năm. Trong đó chi cho ăn uông chiếm 54,21%, các sinh hoạt khác khoảng 40%. Do vậymà họ đã tích luỹ được ở một mức nhất định. Điều này không có nghĩa là họ khá giả mà chẳng qua là họ để dành để chi dùng vào những việc khác của gia đình. Cũng như đối với các đối tượng chưa tham gia BHXH khác, khả năng tham gia BHXH của người nông dân còn rất hạn chế, điều này một phần do thu nhập thực tế của họ còn thấp, mặt khác do nhận thức của người dân lao động trong nông thôn về BHXH còn hạn chế. Chính vì vậy, qua điều tra cho thấy đa số người lao động chỉmuốn tham gia BHXH ở mức từ 150.000 đ/tháng trở xuống (chiếm 68,32%). Trong đó số những người có khả năng đóng BHXH ở mức cao hơn nhưng tỷ lệ này chiếm tỷ lệ không cao nó đại diện cho tàng lớp khá giả ở nông thôn. II. Thực trạng triển khai BHXH tự nguyện cho nông dân ở nước ta. 1. Thực trạng triển khai BHXH tự nguyện. Xuất phát từ tình hình thực tế người lao động ở khu vực nông thôn đã có tích luỹ, có nhu cầu tham gia BHXH đồng thời cũng thấy được sự cần thiết, lợi ích của việc tiến hành thí điểm ở một số tỉnh, thành trong cả nước và bước đầu đã được đông đảo người dân đón nhận tham gia. Người nông dân Việt Nam với đặc thù là ã thủ công,phụ thuộcmùa vụ, thời tiết nên năng suất lao động thấp thu nhập cũng bấp bênh không ổn định do vậy cuộc sống của họ cũng không phải slà sung túc mà nhiều khi rất khó khăn. Điều này càng thể hiện rõ khi người nông dân về già, họ không có một nguồn thu nhập nào sẵn để trang trải những chi phí cho cuộc sống họ phải nhờ cậy vào sự phụng dưỡng của con cái mà tâm lý người Việt Nam lại không muốn thế. Do vậy, việc triển khai loại hình BHXH cho người nông dân tập trung chủ yếu vào chế độ hưu trí là đáp ứng được tốt nhất nhu cầu trên. Từ đó, người nông dân có thể yên tâm khi về già có sự trợ cấp của BHXH, họ không còn phải lo lắng cho cuộc ống khi về già,lại giảm nhẹ gánh nặng cho con cái. Do vậy BHXH đã tạo niềm tin cho họ. Một diển hình cho công tác triển khai BHXH cho người nông dân ở nước ta là tỉnh Nghệ An. Từ năm 1982 đến tháng 12 năm 1997, Nghệ An có 172 hội nông dân cấp xã, tổ chức quỹ (hưu nông dân) với giá trị gần 6 tỷ đồng, tuy mức trợ cấp thấp, những đemlại cho họ niềm vui, phấn khởi sự hăng hái hoạt động công tác xã hội.Xuất phát từ đòi hỏi của hơn 90% lao động ở nông thôn Nghệ An, trong đó có trên 60% lao động có mức tthu nhậpbình quân hàng tháng từ 100.000 đ trở lên và hàng ngàn chủ trang trại sản xuất hàng hoá có mức thu nhập hàng trăm triệu một năm. Do đó, thắng 12/1997, Hội nông dân Nghệ An đã báo cáo, đề xuất với thường trực tỉnh uỷ vấn đề BHXH đối với nông dân và ngày 28/4/1998 UBND tỉnh đã quyết định thànhlập BHXH nông dân Nghệ An trực thuộc hội nông dân tỉnh. Theo cục thống kê nghệ an, thì chúng ta xác định được số lao động không thuộc diện tham gia BHXHbắt buộc.Đây chính là nhu cầu hiện hữu của BHXH tự nguyện. Lao động không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc ở Nghệ An. TT Địa phương 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số 1.262.619 1.287.873 1.309.877 1.332.493 1.367.643 % tổng số dân 45,86% 46,14% 46,28% 46,62% 46,69% I Vùng đồng bằng 800.008 813.969 827.848 841.631 852.172 1 Diễn Châu 126.892 129.329 131.879 133.934 134.667 2 Yên Thành 115.554 118.105 120.918 122.818 123.946 3 Quỳnh Lưu 153.793 156.980 159.218 162.108 163.217 4 Nghi Lộc 94.770 97.115 98.358 100.481 102.279 5 Hưng Nguyên 55.289 56.943 57.840 58.547 58.969 6 Nam Đàn 73.497 74.930 75.165 76.204 77.158 7 Đô Lương 85.921 87.924 88.985 90.894 92.673 8 Vinh 74.286 72.300 74.785 75.719 77.841 9 Cửa lò 20.024 20.343 20.670 20.926 21.412 II Vùng miền núi 462.611 473.904 481.999 490.862 515.471 10 Thanh Chương 103.310 105.320 107.162 109.423 112.818 11 Anh Sơn 47.737 48.639 49.104 49.744 50.762 12 Nghĩa Đàn 80.369 83.409 84.609 86.951 89.769 13 Tân Kỳ 56.244 57.320 58.439 59.205 64.203 14 Quỳ Châu 21.415 21.966 22.381 22.657 25.038 15 Quỳ Hợp 50.020 51.506 52.846 53.735 56.709 16 Quế Phong 24.612 25.027 25.367 25.664 27.472 17 Con Cuông 26.813 27.342 28.167 28.465 30.170 18 Tương Dương 29.406 29.902 30.051 30.606 32.161 19 Kỳ Sơn 22.685 23.473 23.873 24.412 26.414 Từ những số liệu trên cho thấy số người thuộc đối tượng của BHXH tự nguyện là rất lớnvà tăng lên hàng năm theo mức tăng của dân số ở Nghệ An. Thực tế trong việc triển khai BHXH tự nguyện đối với lao động nông nghiệp và nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An cho thấy: nhu cầu nội tại BHXH của người lao động nông thôn là rất lớn. Có số liệu về dân số trong độ tuổi lao động của nghệ an (người) TT Địa phương Tổng số % tổng số dân I Vùng đồng bằng 1 Diễn Châu 2 Yên Thành 3 Quỳnh Lưu 4 Nghi Lộc 5 Hưng Nguyên 6 Nam Đàn 7 Đô Lương 8 Vinh 9 Cửa lò II Vùng miền núi 10 Thanh CHương 11 Anh Sơn 12 Nghĩa Đàn 13 Tân Kỳ 14 Quỳ Châu 15 Quỳ Hợp 16 Quế Phong 17 Con Cuông 18 Tương Dương 19 Kỳ Sơn Năm 1998, Nghệ An đưa BHXH tự nguyện vào hoạt động this điểm tại 41 xã của huyện Quỳnh Lưu và 3 xã của 3 huyện khác là Diên Thọ (Diễn Châu), Tân Sơn (Đô Lương), và phường Đông Vĩnh Thành phố Vinh. Với các quy định tạm thời như sau: - Đối tượng tham gia gồmld nông thôn gồm các ngành nông nghiệp,lâm nghiệp, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở khu vực nông thôn với hình thức tự nguyện tham gia. - Quy định mức đóng góp bằng tiền với 3 mức 10.000 đ/tháng; 20.000 đ/tháng và 30.000 đ/tháng - Đóng 6 tháng một lần, mỗi năm nộphai lần vào tháng 5 và tháng 11, cũng có thể đóng một lần hay nhiều làn tuỳ theo quy định. - Điều kiện được hưởng: Có thời gian đóngvào quỹ BHXH tự nguyện tối thiểu là 20 năm, tuổi: nam 60 và nữ 55. Nừu đóng trên 21 năm thì sẽ được cộng thêm một phần nhất định vào khoản trợ cấp. Người tham gia BHXH có đủ 2 tiêu chuẩn tuổi và thời gian đóng BHXH thì được hưởng trợ cấp lương hưu hàng tháng với các mức sau: 50.000 đ với mức10.000 đ. 100000 đ với mức 20000 đ. 150.000đ với mức 30.000 Nếu thời gian đóng trên 20 năm thìmỗi năm đóng thêm được hưởng một khoản tiền công vào mức hưởng trên cụ thể: 4000 đ với mức 10.000 đ 8000 đ với mức 20000 đ 12.000 đ với mức 30.000 đ Nếu người tham gia BHXH tự nguyện chuyển đến nơi ở mới mà nơi đó không cóloại hình BHXH này thì đươcj hưởng trợ cấp một lần. Hoặc người đang tham gia BHXH tự nguyện bị chết thì gia đình được trả một lần của số tiền đã nộp và một phần lãi nhất định. Với điều lệ như trên, sau năm đầu tiên thực hiện, tổng số tiền thu được của quỹ hưu nông dân đã lên tới hơn 1 tỷ đồng và tăng trưởng, bảo toàn bằng cách gửi tiết kiệm, mua công trái và trái phiếu. Ngày 5/1/19999 Nghệ An tổ chức sơ kết đợt đầu tiên và có tới 1000 hộ nông dân được giao sổ4 BHXH. Cho đến nay đã có 45 xã của tỉnh được triển khai BHXH nông dân với số lượng người tham gia chiếm một tỷ lệ không nhỏ, riêng huyện Quỳnh vưn con số này là 30%. Nhiều hộ gia đình tham gia hết (tính người lao động). Hiện nay, nhu cầu tham gia BHXH tăng lên rất nhanh. Tuy nhiên do gặp phải một số khó khăn cả chủ quan lẫn khách quan, do đó hiện nay đòi hỏi phải có những chính sách hợp lý cấp bách giải quyết những vấn đề còn tồn đọng để cho loại hình BHXH này tồn tại và phát triển trong những nămtới. 2. Đánh giá chung và thực tiễn hoạt động của BHXH cho nông dân ở nước ta thời gian qua. BHXH tự nguyện áp dụng cho đối tượng là người nông dân đã hoạt động ở nước ta từ cuối thập kỷ 90 thế kỷ 20. Mặc dù cho đến nay chỉ hoạt động được vài năm mà chủ yếu là ở Nghê An, tuy nhiên chúng tacũng rút ra được một số bài học kinh nghiệm từ thực tế trên. + Trước hết, do chưa có tiền lệ, điều lệ BHXH nông dân được xây dựng chưa thật thông thoáng,một số quy định còn cứng nhắc, như thời gian đóng, mức đóng, mức hưởng… Việc này được các cấp có trách nhiệm quan tâm,chỉ đạo thêm và nhất là cần có các chuyên gia nghiên cứu sâu hơn để tìm ra nhữnggiải pháp cho thời gian tới BHXH nông dân có được cơ chế pháp lý hợp lý, phù hợp hơn nhằm thu hút người tham gia. Điều đó đồng nghĩa với việc các quy chế này ngắn gọn, dễ hiểu hơn. + Quy chế thu, chi và các hoạt động quản lý, phân phối chưa được xác định rõ ràng và ban hành thể chế chưa thống nhất, chưa đáp ứng được lòng tin của các thành viên tham gia. Các biện pháp bảo vệ giá trị đồng tiền tham gia BHXH nông dân khi có sự trượt giá kéo dài cũng chưa được tính toán đầy đủ, kỹ lưỡng. + Mức đóng và mức hưởng hiện nay còn thấp so với khả năng và nhu cầu của người lao động. + Công tác tuyên truyền trong thời gian qua còn yếu, đội ngũ cán bộ tuyên truyền năm nội dung chưa vững giải thích chưa đến nơi, đến chốn. Các cơ quan thông tin đại chúng chưa thật sự tham gia vào việc tuyên truyền hoặc tuyên truyền chưa được sâu, rộng và có hiệu quả. Trong quá trình hoạt động ở cơ quan BHXH nông dân chuyên tráchchưa nhận được sự giúp đỡ,lãnh đạo cụ thể của Đảng, chính quyền địa phương. Việc chỉ đạo, một số cấp uỷ chính quyền cơ sở chưa đặt vấn đề này một cách đúng mực trong tổ chức học tập cũng như triển khai vận động. + Việc phân cấp quản lý quy định chưa rõ chức năng, nhiệm vụ ở cấp huyện, xã. Đội ngũ cán bộ chuyên trách yếu về nghiệp vụ trong khi chưa có trung tâm đào tạo, bồi dưỡng mà chủ yếu là vừa học vừa làm. + Hoạt động của BHXH nông dân diễn ra trong điều kiện kinh phí còn hạn hẹp, cơ sở vật chất đáp ứng cho BHXH nông dân còn thiếu. Tuy còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc song tiềm năng phát triển của BHXH tự nguyện cho nông dân và lao động nông thôn là rất lớn. Ngay tại Nghệ An là tỉnh có loại hình BHXH này hoạt động mạnh nhấtcũng chỉ mới thu hút được một tỷ lệ râts nhỏ lượng người lao động tham gia. III. Một số ý kiến đề xuất và việc triển khai BHXHtự nguyện cho nông dân. 1. Phương hướng tiến hành. Hiện nay, BHXH cho người nông dân đã được triển khai thí điểm ởmột số tỉnh, thành trong cả nước và đã đạt được một số kết quả khả quan. Song để làm tốt vấn đề này chúng ta phải điều tra thật kỹ để nắm bắt được nhu cầu, khả năng tham gia BHXH của người lao động nông thôn bởi điều tra chọn mẫu càng lớn thì xác xuất càng cao. Về nhu cầu tham gia BHXH cần nghiên cứu lựa chọn các vấn đề sau: + Vùng nào nên thực hiện làm thí điểm, mẫu trước (đồng bằng, miền núi, trung du…). + Loại hộ gia đình nào nên ưu tiên được thực hiện ngay (gia đình chính sách, hộ giàu, hộ nghèo). + Nên thực hiện thí điểmở mộtvùng rồi rút kinh nghiệm, hoàn thiện các vướng mắc rồi nhân rộng ra. + Thực hiện chế độ nào trước(hưu trí, tử tuất). Đẻ tiến hành triển khai BHXH cho nông dân được thuận lợi phải hội thụ đủ các yếu tố về kinh tế – xã hội – pháp lý – nghiệp vụ từ đó tạo nền tảng cho loại hình này phát triển. - Điều kiện pháp lý: Kinhnghiệm triển khai BHXH tự nguyện ở các nước cho thấy, có hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh là rất quan trọng. Mộthệ thống pháp lý đầy đủ bao gồm các chế tài quy định về đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, mức đóng phí BHXH, điều kiện và mức hưởng chế độ, tổ chức bộ máy của hệ thống BHXH tự nguyện, hoạt động đầu tư của quỹ BHXH tự nguyện, giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia BHXH tự nguyện. Chỉ có hệ thống pháp lý đồng bộ và hoàn chỉnh mới tạo thành hành lang pháp lý thuận tiện cho hoạt động của BHXH tự nguyện. - Điều kiện kinh tế: Mục tiêu của bất kỳ hệ thống BHXH nào cũnglà mục tiêu xã hội nhưng để đạt được mục tiêu đó, hệ thống BHXH phải sử dụng phương tiện về kinh tế. Điều đó có nghĩa là quỹ BHXH phải đảm bảo được năng lực về tài chính phục vụ chi trả chế độ, hay nói cách khác hệ thống BHXH phải cân đối giữa đóng góp của người tham gia BHXH và các khoản thu nhập từ đầu tư voứi các khoản chi trảchế độ BHXH cho những người đủ điều kiện hưởng. - Điều kiện về kinh tế đểthực hiệnchính sách BHXH tự nguyện bao gồm: Khả năng tiết kiệm từ thu nhậpcủa người lao động. Từ những thành tựu phát triển kinh tế của nước ta hơn một thập kỷ qua, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, thu nhập của người lao động liên tục được cải thiện cho phép người lao động có đủ điều kiệnđể tham gia BHXH tự nguyện. + Lợi ích về kinh tế khi tham gia BHXH tự nguyện. Điều này được biểu hiện cụ thể giá trị của khoản lương hưu của họ nhận được sovới giá trị của khoản tiền mà họ đã đóng góp. Ta thấy rằng, nếu như lợi ích về kinh tế khi tham gia BHXH tự nguyện thấp hơn hoặc chỉ ngang bằng với tiền gửi vào ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng thì người lao động chắc chắn sẽ không tham gia BHXH tự nguyện. Do vậy, chính sách BHXH chỉ mang tính khả thi khi đáp ứng được các yêu cầu sau: - Nhà nước bảo hộ quỹ BHXH thông qua cơ chế đầu tư cho quỹ BHXH, có nghĩa là quỹ này phải được phép đầu tư vào các lĩnh vực có lợi nhuận cao nhưng phải đảm bảo an toàn. Đây là điều kiện rất khó thực hiện trong diều kiện nước ta hiện nay khi thị trường tài chính chưa phát triển, hiệu suất đầu tư thấp. Hơn nữa, giá trị của quỹ q BHXH tự nguyện trong giai đoạn đầu, lợi thế về vốn trong đầu tư không cao. - Nhà nước bảo hộ quỹ BHXH thông qua cơ chếhỗ trợ lãi suất ngân hàng, có nghĩa là cho phép quỹ BHXH tự nguyện được hưởng mức lãi suất cao nhất khi gửi vào ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tín dụng. Mức lãi suất này đảm bảo cao hơn lãi suất thông thường và đảm bảo giá trị các khoản đóng góp của người lao động dưới tác động của lạm phát. Các ngân hàng thương mại sẽ chịu các chi phí do lãi trả cao hơn cho quỹ BHXH và nhà nước cấp bù cho ngân hàng các chi phí đó. Khi đó ngân hàng thương mại thay hệ thống BHXH tự nguyện thực hiện các biện pháp đầu tư. Giải pháp này góp phần nâng cao năng lực về tài chính cho ngân hàng thương mại. - Nhà nước có thể phát hành trái phiếu với lãi suất cao để cho BHXH tự nguyện mua hoặc có thể có chính sách hỗ trợ bổ sung vào quỹ này nhằm đảm bảo quyền lợi của những người tham gia. - Điều kiện nghiệp vụ: Để tổ chức thực hiện BHXH tự nguyện có hiệu quả đòi hỏi hệ thống BHXH phải đảm bảo các điều kiện về nhân tó con người và phương tiện phục vụ quản lý. Quản lý quỹ BHXH là quản lý tài sản của người khác, yêu cầu đặt ra là quản lý tài sản của từng người tham gia và hưởng thụ. Trong quá trình chu chuyển tài chính của quỹ BHXH có vô số các giao dịch: Giao dịch giữa quỹ BHXH với người tham gia, giao dịch giữa quỹ BHXHvới người hưởng thụ, Giao dịch giữa quỹ BHXH với ngân hàng…Hơn thế nữa, yêu cầu đặt ralà đảm bảo quỹ BHXH không bị thâm hụt. Do đó nhân tố con người và phương tiện quản lý quỹ BHXH là rất quan trọng. Phương tiện phục vụ quản lý quỹ BHXH đòi hỏi phải ứng dụng những tiến bộ của công nghệ thông tin,có nghĩa là có hệ thốngmáy tính đầy đủ ở các cấp của hệ thống BHXH tự nguyện và các phần mềm quản lý để đảm bảo thực hiệncác biện pháp quản lý quỹ BHXH. Bên cạnh đó, tổ chức BHXH tự nguyệncũng cần có các phương tiện khác như trụ sở, các phương tiện khác. Để có được những phương tiện này, tự bản thân hệ thống BHXH tự nguyện sẽ không đảm bảo được đòi hỏi có sự giúp đỡ, đầu tư của nhà nước. Khi có đủ cácđiều kiện như trên, chúng ta có thể tiến hành triển khai BHXH tự nguyện cho nông dân ở các tỉnh huyện vùng đồng bằng trước vì sẽ dễ dàng hơn trong công tác tuyên truyền, tổ chứcquảnlý, rồi sau đó nhân rộng ra toàn quốc. Đối tượng thời gian đầu tập trung vào số người có thu nhập ổn định và thực hiện chế độ hưu trí trước rồi nhân rộng dần sang các chế độ khác. Với điều kiện kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay, tuy đời sống người dân nông thôn đã được cải thiện song vẫn còn rất nhiều khó khăn và thu nhập còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Do vậy mà người nông dân vẫn còn lạ lẫm với BHXH, họ còn chưa hiểu rõ ràng về nghiệp vụ này. Do vạy, việc chuẩn bị tư tưởng cho người nông dân là rất cần thiết. Bằng các biện pháp thông tin, tuyên truyền, các bài đọc phát trên đài, truyền hình tuyên truyền về BHXH cho người dân thấy được sự cần thiết, thiết thực của BHXH. Bên cạnh đó, có thể mở lớp tuyên truyền ngay tại làng, xã. Có như vậy người nông dân mới hiểu rõ lợi ích lâu dài khi tham gia BHXH góp phần thực hiện tốt các chính sách bảo đảm xã hội của Đảng và Nhà nước ta. 2.Tổ chức quảnlý quỹ BHXH tự nguyện cho người nông dân. a. Quản lý thu BHXH tự nguyện. +Mức tu BHXH tự nguyện. Trongmột hệ thống BHXH có đóng góp, hệ thống các khoản đóng góp có một tầm quan trọng đặc biệt. Các khoản đóng góp là nguồn tài chính mà hệ thống BHXH phụ thuộc vào. Mức thu phải được xây dựng trên cơ sở thu nhập của đối tượng tiềm năng của BHXH. Từ kết quả điều tra, nhiều chuyên gia cho rằng việc thiết kế khung mứcdóng góphợplý là trong phần tiết kiệm từ thu nhập sau khi đã cho dùng các nhu cầu tối thiểu của người lao động. Tất nhiên không thể chiếm phần lớn trong phần tiết kiệm bởi họ còn phải chicho nhiều nhu cầu khác, đặc biệt là đầu tư cho sản xuất. Trong giai đoạn đầu thực hiện BHXH tự nguyện không nên thiết kế mức tthu quá cao, bởi những khó khăn sẽ gặp phải do tác động của nhiều yếu tố, đặc biệt là lạm phát. Hiện nay, mức thuphí BHXH tự nguyện hợplý là từ 10.000đ - 50.000đ/tháng chia ra làm 5 mức. Mức thu phí này cho phép những người có thu nhập trung bình trở lên có thể tham gia. + Quản lý và tổ chức thu phí BHXH tự nguyện. Phần quảnlý của một hệ thống thu thường chiếm một vị trí quan trọng trong một hệ thống BHXH. Những nguyên tắc mang tính hướng dẫn trong việc hình thành hệ thống thu – cả về giác độ của hệ thống vàcủa người đóng góp cần phải đơn giản trong quảnlý. Nừu với mứcđộ thoả đáng về hiệu quả trong việc thu đóng góp quá trình yêu cầu hưởng trợ cấp, khimà những yêu cầu này phụ thuộc vào hồ sơ đóng góp,quản lýquỹ an toàn và tăng trưởng/ Tổ chức thu phí BHXH tự nguyện cần căn cứ vào đặc điểm lao động và tiêu thụ sản phẩm trong các ngành nông nghiệp. Rõ ràng thu nhập của người lao động khu vực nàychỉ có được sau mỗi chu kỳ sản xuất (thời vụ) do vậy khi xậy dựng phương thức thu phí BHXH tự nguyện cũng cần linh hoạt phù hợp với tính thời vụ trong sản xuất của ngành nỳa. Từ những luận cứ trên cho thấy, việc xây dựng phương thức đóng góp của người tham gia BHXH tự nguyện nên chophépngười tham gia BHXH tự nguyện lựa chọn: - Đóng góp thường kỳ theo hàng tháng. - Đóng góp thường kỳ theo hàng quý. - Đđóng góp thường kỳ theo 6 tháng. - Đóng góp thường kỳ theo một năm. - Trong quá trình tổ chức thu BHXH, một khâu rất quan trọng là tổ chức đăng ký ban đầu. Như đốivới mọi hệ thống BHXH để hdcó hiệu quả cần phải có một yêu cầu trọng tâm mỗi thành viên tham gia BHXH tự nguyện phảiđược đăng ký bằng một số vấn đề là tránh được tình trạng trùng lặp đối với các thành viên. Một hệ thống có hiệu quả đòi hỏi tất cả các thànhviênphải đăngký và họ được giữ số đăng ký BHXH này đến suốt đời. Những thông tin đòi hỏi đối với thành viên tại thời điểm đăng ký ban đầu sẽ rất đa dạngđốivới mỗi tổ chức BHXH. Tuy nhiên, khi giải quyết chế độ BHXH thì thông tin đăng ký ban đầubao gồm: + Tên đầy đủ. + Ngày tháng, năm sinh. + Giới tính. + Địa chỉ (nơi cư trú). + Số chứngminh thư. Khi ngườild tham gia BHXH tự nguyện họ phải đóngphí BHXH trên cở tự nguyện của người lao động. Trong quá trình tham gia BHXH tự nguyện, người tham gia BHXH tự nguyện có thể đăng ký các thông tin bổ sung, những thông tin này ảnh hưởng đến việc đóng phí BHXH tự nguyện hay thay đổi nơi cư trú… Những thông tin trên đây cần thiết phải được ghi nhận thông qua tài liệu làm bằng chứng, làm cơ sở khi giảiquyết chế độ và các quyền lợi khác cho người tham gia BHXH tự nguyện. Trong điều kiện nước ta hiện nay cũng như trong thời gian tới, vgiệc sử dụng tài khoản cá nhân trong thanh toán của toàn bộ dân cư là chưa thể thực hiện được, do vậy việc thu phí BHXH tự nguyện chắc chắn là được thực hiện bằng tiền mặt. Xuất phát từ đặc điểm này, nghiên cứu cách thức nộp phí BHXH tự nguyện và quản lý tiền thu phí BHXH tự nguyện là rất quan trọng, đảm bảo sự an toàn cho quỹ BHXH tự nguyện. Chúng ta có thể xây dựng hai cách thức thu nộp phí BHXH tự nguyện như sau: Cách 1: Trườnghợp hệ thống ngân hàngnông nghiệp và phát triển nông thôn phát triển mạng lưới ngân hàng cấp xã, cơ quan BHXH tự nguyện có thể mở tài khoản giaodịch tại ngân hàng cấp xã.Khi đó các khoản thu phí BHXH tự nguyện của người tham gia có thể nộp trực tiếp vào ngân hàng. Sau khi nộp tiền voà tài khoản, người tham gia BHXH tự nguyện sẽ xuất trình giấy nộp tiền để được ghi nhận khoản đóng góp củaminhf vào sổ BHXH tự nguyện. Với cách thức này, công tác quản lý tiền thuphí BHXH tự nguyện dệ dàng hơn, hạn chế những tiêu cực xảy ra, giảm đáng kể những cơ hội có thể bị nhân viên BHXH tự nguyện lợi dụng. Ngoài ra, người tham gia BHXH tự nguyện có thể nộp tiền mặt cho đại diện của cơ quan BHXH tự nguyện cấp huyện tại xã hoặc cơ quan BHXH tự nguyện cấp xã có trách nhiệm nộp các khoản tiền trên vào tài khoản của cơ quan BHXH tự nguyện cấp huyện. Việc quy định định kỳ phải nộp các khoản tiền thu được vào tài khoản ngân hàng là cần thiết, tránh sự lạm dụng tiền thu phí tham gia BHXH tự nguyện của nhân viên BHXh tự nguyện. Chách 2: Trong điều kiện hiện nay, hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chưa phát triển đến từng xã, do đó ta có thểlàm theo cách củab BHXH nông dân nghệ an. Đại diện của cơ quan BHXH tự nguyện cấp huyện tại xã hoặc cơ quan BHXH tự nguyện cấp xã thực hiện việc thu tiền BHXH tự nguyện và ghi phiếu thu tiền của cơ quan BHXH tự nguyện tỉnh phát hành, đồng thời ghi vào sổ BHXH của người tham gia BHXH tự nguyện . Đại diện của cơ quan BHXH tự nguyện cấp huyện tại xã hoặc cơ quan BHXH tự nguyện cấp xã sau 2 ngày thu tiền phải nộp vào tài khoản do cơ quan BHXH tự nguyện cấp huyện mở tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cấp huyện. Định kỳ 10 ngày, cơ quan BHXH tự nguyện cấp huyện chuyển tiền thu phí tham gia BHXH tự nguyện về tài khoản do cơ quan BHXH tự nguyện tỉnh quản lý mở tài khoản tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Một vấn đề trong công tác quản lý thu phí BHXH tự nguyện là công tác theo dõi số tiền đóng góp cuả người tham gia BHXH tự nguyện. Đốivới người tham gia BHXH tự nguyện, họ được cấp sổ BHXH tự nguyện đẻ ghi nhận tổng số tiền họ đã đóng góp vào quỹ BHXH tự nguyện. Đối với cơ quan BHXH tự nguyện, trách nhiệm của họlà theo dõi chi tiết tổng số tiền đóng góp của từng người tham gia BHXH tự nguyện. Đây là công việc rất quan trọng, có liên quan tới việc giải quyết chế độ sau này cho người tham gia BHXH tự nguyện khi có đủ điều kiện. Bền cạnh các giải pháp nêu trên trong công tác quản lý thu BHXH, cần co sự trao đổi giữa người tham gia với cơ quan BHXH tự nguyện, thông tin này có thể nhiều loại nhưng ở đây ta xét đến sự trao đổi thông tin về tổng số tiền đã ddóng góp của người tham gia BHXH tự nguyện. - Khi người tham gia BHXH tự nguyện thay đổi mức đóng phí BHXH tự nguyện, họ phải có đăng ký bổ sung với cơ quan BHXH tự nguyện. - Hàng năm, khi kết thúc năm tài chính cơ quan BHXH tự nguyện cấp tỉnh thông báo bằng văn bản về số tiền mà người tham gia BHXH tự nguyện đã đóng góp trong năm, luỹ kế số đóng góp đến cuối năm tài chính năm đó đến từng người tham gia BHXH tự nguyện. Giải pháp này thực chất là đối chiếu giữa cơ quan BHXH tự nguyện với người tham gia. Thông qua sự đối chiếu này có thể giải quyết các vướng mắc trong việc ghi nhận số tiền đã đóng góp của người tham gia BHXH tự nguyện, tạo thuận lợi cho việc giải quyết chế độ về sau cũng như giúp cho cơ quan BHXH tự nguyện cấp tỉnh kiểm soát ddược hoạt động của cơ quan BHXH tự nguyện cấp dưới. b. Giải quyết chế độ chính sách và quản lý chi BHXH tự nguyện. + Chế độ hưởng BHXH tự nguyện. Trong giai đoạn đầu tổ chức thực hiện BHXH tự nguyện, để hạn chế những rủi ro sai lầm có thể xảy ra, chỉ nên áp dụng chế độ hưu trí. Đây là chế độ mà đông đảo người lao động nông thôn mong muốn được tham gia. + Điều kiện được hưởng chế độ hưu trí. Hệ thống BHXH phải thiết lập được những yêu cầu về điều kiện hưởng chế độ BHXH. NHững yêu cầu này thường liên quan đến hai yếu tố sau: - Tuổi nghỉ hưu tối thiểu: Khi đặt ra tuổi nghỉ hưu tối thiểu, nên xem xét tuổi thọ trung bình của nước ta, đến khả năng đạt đến từng độ tuổi nghỉ hưu khác nhau của đất nước hay của cá nhân người lao động. Cách đặc ra tuổi nghỉ hưu tối thiểu được quyết định trên tỷ lệ thích hợp giữa số năm công tác và số năm nghi hưu với người nghỉ hưu trung bình. Tỷ lệ này càng thấp thì mức tiết kiệm cần cho một người hưởng hưu trung bình chi trả cho chế độ hưu trí càng thấp. Trên thực tế, ở các nước phát triển, tỷ lệ giữa số năm nghỉ hưu và số năm làm việc là 1/2, cong ở các nước đang phát triển, tuổi nghỉ hưu tối thiểu phải liên quan đến độ tuổi mà nhiều người hưởng trợ cấp không thể làm việc được nữa và tỷ lệ giữa số năm nghỉ hưu và số năm làmviệc thấp hơn các nước phát triển. Do vậy, BHXH tự nguyện ở nước ta hiện nay nên quy định tuổi nghỉ hưu ngang bằng với BHXH bắt buộc tức là 55 tuổi đối với nữ và 60 tuổi đối với nam. - Số năm đóng BHXH tự nguyện tối thiểu. Hệ thống BHXH có thể quy định điều kiện được hưởng trợ cấp, đó lf người lao động phải đóng BHXH trong một số năm tối thiểu nào đó. Hệ thống BHXH với mức đóng BHXH xác định, thường không yêu cầu về số năm tham gia BHXH tối thiểu vì những người co số năm đóng BHXH ít nhânj được trợ cấp thấp hơn. Tuy nhiên, để đảm bảo mức trợ cấp nhận được của người tham gia BHXH tự nguyện cũng như đảm bảo thòi gian để thực hiện các biện pháp đầu tư tài chính, đốivới cả hai hệ thống BHXH với mức đóng góp xác định co thể đều yêu cầu phải có số năm đóng góp bảo hiểm tối thiểu được xác định trên cơ sở tuổi bắt đầu lao động, tuổi nghỉ hưu tối thiểu, mối quan hệ giữa thời gian đóng BHXH và thời gian hưởng trợ cấp BHXH,… Từ kinh nghiệm của hệ thống BHXH bắt buộc ở nước ta trên 30 năm qua và kinh nghiệm hệ thống BHXH các nước trên thế giới, chúng ta có thể quy định số năm đóng góp tối thiểu là 20 năm. - Mức trợ cấp: Sau khi xác định các điều kiện hưởng chế độ BHXH tự nguyện, vấn đề đặt ra đối với bất kỳ hệ thống BHXH nào là việc xác định mức trọ cấp. Mức trợ cấp phải bù đắp được các thu nhập bị mất có tính đến trách nhiệm gia đình, ở mức càng cao càng tốt nhưng ảnh hưởng đến khả năng tham gia của người tham gia vì nó gắn liền với mức đóng góp trước đó. Khi xác định mức trợ cấp BHXH các hệ thống BHXH đều áp dụng một trong hai cách sau đây: Cách1: Hệ thống BHXH áp dụng mức trợ cấp xác định. Theo cách này, mức trợ cấp được ấn định theo số năm đóng góp và tỷ lệ đóng góp của người tham gia BHXH. Mửctợ cấp được xác định nhằm đmả bảo sự cân bằng của quỹ BHXH và nó được xác định trên cơ sở giá trị khoản đóng góp của người tham gia BHXH tồn tích đến thời điểm nghỉ hưu và khoản thu nhập từ kết quả đầu tư. Tuy nhiên, trong quá trình đó, giá trị của quỹ lương hưu tại thời điểm người tham gia BHXH tự nguyện nghỉ hưởng chế độ bị thay đổi bởi nhiêù nguyên nhân khác. Sự cân bằng của quỹ BHXH lúc này đã chịu những tác nhân gây sự bất ổn địnhnhư sự không chắc chắn của những khoản thu nhập do đầu tư trong tương lai, tỷ lệ tăng trưởng của thu nhập thực tế và tỷ lệ lạm phát. Từ những đặc điểm của hệ thống có xác định mức trợ cấp xác định cho thấy. Domứclương hưu được ấn định, vì vậy họ không chịu những thâm hụt hay thặng dư của quỹ BHXH tự nguyện. Điều này được xác định trtên cơ sở so sánh giá trị của quỹ BHXH tự nguyện và thu nhập thực tế từ hoạt động đầu tư thấp hơn so với dự tính khi xây dựng mức hưởng lương hưu, ngượclại quỹ BHXH sẽ có được giá trị thặng dư. Trong hệ thống BHXH tự nguyện có mức trợ cấp xác định, sự thâm hụt hay thặng dư đều do người bảo trợ củahệ thống gánh chịu. Tuy nhiên, người tham gia BHXH theo hệ thống BHXH nàylại phải chịu tác động của yếu tốlạm phát do tiền lương danh nghĩa củahọ giảm so với tiền lương thực tế. Trong trường hợp đó, đối với nhiều hệ thống BHXH bắt buộc đã phải điều chỉnh tiền lương hưu nhằm giảm bớt sự thiệt thòi cho người tham gia BHXH. Thực tể nước ta cũng như nhiều nước trên thế giớicho tháy, khi năng lực quỹ BHXH chưa đủ mạnh về khả năng kinh tế thì nhà nước ơphải gánh chịu khoản chi phí này. Từ những phân tích trên và qua thực tiễn hoạt động của hệ thống BHXH ở các nước cho thấy xu hướng đang chuyển dần từ hệ thống BHXH áp dụng mức trợ cấp xác định sang hệ thống BHXH áp dụng mức đóng góp xác định. Cách 2: Hệ thống BHXH áp dụng mức đónggóp xác định. Trong hệ thống BHXH áp dụng mức đóng góp xác định, mức trợ cấp được xác định theo số tiền đóng góp và hiệu quả của đầu tư tăng trưởng, không quy định trước tỷ lệ hưởng hay mức hưởng. Số tiền đóng góp của người lao động, lãi thu được từ đầu tư được thông báo hàng năm đồng thời thông báo mức trợ cấp sẽ được nhận theo số tiền đong góp tương đương. Mức trợ cấp theo dạng này không cố định, phụ thuộc vào đóng góp của người lao động và hiệu quả đầu tư. Rõ ràng hệ thống BHXH áp dụng mức đóng góp xác định, sự thâm hụt của quỹ này không xảy ra. Người bảo trợ hệ thống và hệ thống BHXH không lo tới sự thâm hụt quỹ. Song, hiệuquả của hoạt động đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp tới giá trị lương hưu của người tham gia BHXH khi nghỉ hưu chế độ. Đối với những hệ thống BHXH thiếu khả năng về đầu tư tăng trưởng quỹ. Khi áp dụng xác định trợ cấp theo mức đóng góp xác định thì người tham gia BHXH phải chịu thiệt thòi. Từ nhữngluận cứ trên cho thấy, mức trợ cấp đối với loại hình BHXH tj nguyện ở nước ta nên áp dụng theo dạng mức đóng góp xác đinhj. Tuy nhiên để đảm bảo quyền lợi cho những người tham gia BHXH tự nguyện thì nhà nước với tư cách người bỏ trợ cho hệ thống cần có những cơ chế phù hợp cho hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. Để xác định mức trợ cấp hàng tháng, nên dựa trên cơ sở giá trị các khoản đóng góp của người tham gia BHXH tự nguyện và lãi từ hoạt động đầu tư tồn tích. Nếu thời điểm nghỉ hưu chế độ, người tham gia BHXH tự nguyện có thể lựa chọn mức hưởng. Tuy nhiên, để đảm bảo cuộc sống lâu dài của họ, hệ thông BHXH tự nguyện ở nước ta cũng cần quy định thời ian hưởngtối thiểu và tối đa. Việc xác định thời gian hưởng tối thiểu và tối đa được xác định trên cơ sở tuổi thọ bình quân của nước ta so với tuổi nghỉ hưu tối thiểu (60 tuổi).Theo số liệu điều tra dân số ngày 1/4/1999 cho thấy tuổi thọ bình quân ở nước ta hiện nay là 67 tuổi. Song sự phát triển kinh tế xã hội trong những năm qua, tuổi thọ bình quân ở nước ta có thể đạt tới 70 tuổi trong tương lai. Từ đó chúng ta nên quy định thời gian hưởng tối thiểu là 10 năm và thời gian hưởng tối đa là 15 năm. Điều đó có nghĩa là, mức trợ cấp hàng tháng bằng giá trị các khoản đóng góp của người tham gia BHXH tự nguyện và lãi từ hoạt động đầu tư tồn tích đến thời điểm nghỉ hưu chếđộ chia cho 120 tháng đến 180 tháng tuỳ theo sự lưạ chọn của người hưởng chế độ. Trong trường hợp người hưởng chế độ chết trước khi hết hạn hưởng, thân nhân họ có thể hưởng tiếp hàng tháng cho đến khi hết hạn, hoặc hưởng một lần số tiền lương còn lại tính từ khi người hưởng chế độ chết cho đến khi hết hạn hưởng để lo mai táng cho người chết hưởng chế độ. + Tổ chức chi trả chế độ BHXH tự nguyện. Khi người tham gia BHXH tự nguyện đủ điều kiện nghỉ hưởng chế độ và họ có nhu cầu hưởng trợ cấp, người hưởng chế độ phải có đơn xin hưởng chế độ gửi cơquan BHXH đồng thời phải nộp sổ BHXH cho cơ quan BHXH. Người nghỉ hưởng chế độ phải đăng ký bổ sung các thông tin với cơ quan BHXH, bao gồm: - Thời gian nghỉ hưởng chế độ. - Nơi hưởng chế độ. Họ và tên của những thân nhân theo trật tự ưu tiên. thông tin này đảm bảo cho cơ quan BHXH thuận tiện khi người hưởng chế độ chết thì thân nhân của họ người nào sẽ được hưởng tiếp trong trường hợp người đó không đủ điều kiện để hưởng tiếp thì ngươì nào sẽ được hưởng. Những thân nhân trên cũng phải được khai báo các thông tin cần thiết. Sau khi có đủ các thông tin trên cơ quan BHXH sẽ xác định mức trợ cấp hàng tháng cho người hưởng chế độ. Mức trợ cấp đó làm cở để tổ chức chi trả hàng tháng. Hiện nay, chúng ta nên tổ chức chi trả chế độ BHXH thực hiện bằng tiền mặt. Từ cách thức thu phí BHXH tự nguyện thì chúng ta cũng có thể áp dụng hai cách thức chi trả chế độ BHXH tự nguyện như sau: Cách 1: Trong trường hợp hẹ thống ngân hàng nông nghiệp vàphát triển nông thôn phát triển mạng lưới ngân hàng cấp xã, cơ quan BHXH tự nguyện có thể mở tài khoản giao dịch tại đó, hàng tháng cơ quan BHXH tự nguyện sẽ gửi giấy báo cho người hưởng chế độ trực tiếp nhận tiền tại ngân hàng noong nghiệp và phát triển nông thôn cấp xã nơi người đó cư trú. Với cách thức này, công tác quản lý chi trả chế độ BHXH tự nguyện dễ dàng hơn, hạn chế những tiêu cực xảy ra, giảm đáng kể những cơ hội có thể bị nhân viên BHXH xấu lợi dụng. Ngoài ra, hàng tháng cơ quan BHXH tự nguyện cấp huyện tại xã hoặc cơ quan BHXH tự nguyện cấp xã thông qua ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cấp xã kèm theo danh sách người hưởng chế độ trên địa bàn. Đại diện của cơ quan BHXH tự nguyện cấp huyện tại xã hoặc cơ quan BHXH tự nguyện cấp xã có trách nhiệm chi trả các khoản tiền trêncho các đối tượng trên địa bàn theo danh sách của cơ quan BHXH huyện. Cách 2: Trong điều kiện thực tế ở nước ta hiện nay, hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chưa phát triển đến cấp xã, do vậy ta nên giao cho đại diện của cơ quan BHXH tự nguyện cấp huyện tại xã hoặc cơ quan BHXH tự nguyện cấp xã nhận tiền chế độ cho các đối tượng trên địa bàn và hàng tháng người nàymang đến từng nhà cho người hưởng. 3. Vai trò của nhà nước và tổ chức bộ máy củacơ quan BHXH tự nguyện. a. Vai trò của Nhà nước. Để hệ thống BHXH tự nguyện cho người nông dân hoạt động có hiệu quả thì nhà nước phải thể hiện rõ vai trò hết sức quan trọng của mình qua các hình thức sau đây: + Nhà nước bảo trợ hệ thống BHXH nông dân nằm trong hệ thống BHXH Việt Nam dưới sự quản lý của Bộ lao động thương binh và xã hội. Dựa vào lụat lao động năm 1995 của nước ta, Bộ LĐTB & XH phối hợp với các bộ ngành đề nghị chính phủ ban hành các văn bản pháp quy làm khung pháp lý cho hoạt động của quỹ BHXH tự nguyện, tổ chức bộmáy và các vấn đề liên quan đến BHXH tự nguyện. + Nhà nước thể hiện rõ bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân thông qua sự bảo trợ cho BHXH tự nguyện cho người nông dân, tạo điều kiện cho BHXH tự nguyện phát triển thông qua các chính sách tài chính như: hỗ trợ đầu tư, cung cấp nơi làm việc… + Nhà nước coi BHXH tự nguyện là một tổ chức xã hội hoạt động vì lợi ích xã hội chứ không phải vì mục tiêu lợi nhuận do đó không đánh thuế hay các khoản thu khác tạo điều kiện cho quỹ BHXH tự nguyện đủ khả năng chi trả đầy đủ và kịp thời. + Hàng năm có ban thanh tra nhà nước kiểm tra việc thực hiện BHXH tự nguyện đối với nông dân để tránh những tiêu cực trong đội ngũ cán bộ của cơ quan này. + Nhà nước cũng có thể hỗ trợ BHXH tự nguyện thông qua các chính sách nâng cao đời sống của nông dân để họ có khả năng tham gia BHXH tự nguyện hoặc các cơ quan thông tin của nhà nước như báo chí tuyên truyền về lợi ích khi tham gia BHXH cho người dân hiểu và tham gia. b. Tổ chức bộ máy của cơ quan BHXH tự nguyện. Một hệ thống tổ chức bộ máy của cơ quan BHXH tự nguyện phải xuất phát từ yêu cầu và phương thức quản lý quỹ BHXH tự nguyện. Trở lại vấn đề tài chính cho BHXH tự nguyện, chúng ta đều biét vai trò rất quan trọng của hoạt động đầu tưtăng trưởng, bởi đó là giải pháp để bảo toànquỹ BHXH, đảm bảo cho quỹ BHXH có đủ khả năng về tài chính thực hiện chi trả chế độ. Vai trò của vốn trong hoạt động đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng. Do đó, quỹ BHXH phải được quản lý tập trung để thực hiện đầu tưvào những lĩnh vực, những ngành có hiệu quả cao. Do đó hệ thống BHXH tự nguyện phải được hình thành từ cấp trung ương. Để quản lý thu, chi BHXH tự nguyện có hiệu quả, hệ thống BHXH tự nguyện phải được xây dựng 4 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện, xã. Tuy nhiên, hoạt động BHXH tự nguyện ở nước ta còn rất mới mẻ. Trình độ quảnlýcòn thấp do vậy trong giai đoạn đầu chúng ta chỉ nênông thônổ chức 3 cấp: tỉnh, huyện, xã. Trong bất kỳ giai đoạn nào, đứng đầu hệ thống BHXH tự nguyện cần có hội đồng quản lý. Hội đồng này đảm bảo quyền lợi củacác bên tham gia BHXH tự nguyện trong vấn đề về định hướng sự phát triển của hệ tôngs BHXH và các quyết định các vấn đề quan trọng trong điều hành hoạt động của hệ thống BHXH tự nguyện. 4. Hoạt động đầu tư tăng trưởng. Quỹ BHXH là quỹ tài chính có chức năng đảm bảo nguồn tài chính thực hiện chi trả chế độ BHXH cho nhữngngười tham gia BHXH có nhu cầu hưởng. Để đảm bảo nguồn tài chính vững chăc đảm bảo chi trả trước những tác nhân ảnh hưởng xấu đến mức độ an toàn của quỹ, quỹ BHXH phải thực hiện các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng, do vậy hoạt động đầu tưlà không thể thiếu trong quản lý quỹ BHXH tự nguyện. Vè cơ bản, quỹ BHXH tự nguyện có thể thực hiện các phương thức khác nhau để bảo toànquỹ như các quỹ tài chính khác nhưng để đảm bảo các yêu cầu đặt ra đối với quản lý hoạt động đầu tư tăng trưởng của quỹ BHXH, những phương thức tài chính đối với đầu tư của quỹ có thể bao gồm: - Chứng khoán nhà nước. - Chứng khoán của các tập đoàn hoặc của các tổ chức kinh tế phát hành và được nhà nước bảo đảm. - Công trái của các tập đoàn. - Lãi suất tiền gửi ngân hàng. - Cổ phiếu. - Bất động sản. Trong cácphương thức đầu tư trên có thể nhận thấy rằng tiền gửi ngân hàng là phương thức đầu tư an toàn nhất là khoản đầu tư thích hợp nhất để trang trải những hoạt động hàng ngày của hệ thống. Quỹ có thể được gửi vào ngân hàng trong khi chờ đợi đầu tư hoặc tía đầu tửtong những phương thức đầu tư thích hợp hơn với tỷlệ lãi suất hợp lý, một phần cho vào quỹ dự phòng. Chúng ta đều biết rằng tỷ lệ rủi ro tỷ lệ nghịch với lãi suất đầu tư đem lại do đó quỹ BHXH không được phép đầu tư vào lĩnh vực quá mạo hiểm, dễ gặp rủi ro cho dù có thể thu được lãi cao, điều này nhằm đảm bảo quyền lợi của người tham gia. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải lưu ý rằng giữ tiền mặt quámức cần thiết hoặc gửi ở ngân hàng vớilãi suất thâps sẽ bị mất mát đáng kể thu nhập từ đầu tư và bị giảm giá trị do lạm phát. Tuy đối với hệ thống BHXH áp dụng mức đóng góp xác định, thu nhập từ hoạt động đầu tư không ảnh hưởng tới mức độ an toàncủa quỹ BHXH, song thiệt thòi lại do người tham gia BHXH tự nguyện phải gánh chịu, điều này đi ngược lại với bản chất xã hội của BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng. Thực tế trên cho thấy việc nghiên cứu các phương thức đầu tư của quỹ BHXH tự nguyện ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, cũng như trong giai đoạn trước mắt là một vấn đề quan trọng, nó ảnh hưởng lớn tới tính hấp dẫn của BHXH tự nguyện. Một khi quỹ BHXH tự nguyện chỉ thực hiện biện pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH bằng phương thức đầu tư bằng tiền gửi thì lao động khu vực nông thôn sẽ không dễ dàng gì tham gia BHXH tự nguyện vì hai lý do sau: + Đóng góp của người tham gia BHXH và các khoản thu nhập từ đầu tư còn phải trích một phần chi cho hoạt động của cơ quan BHXH. Khoản chi phí này được lấy từ quỹ BHXH, điều đó ảnh hưởng tới thu nhập của người hưởng chế độ. + Biện pháp đầu tư quỹ BHXH chỉ bằng hình thức tiền gửi thì lao động nông thôn sẽ không cần tới BHXH tự nguyện, vì họ có thể tự bảo hiểm cho mình thông qua hàng tháng, hàng quý gửi tiền đều đặn vào ngân hàng. Khi đó họ có lợi nhiều hơn khi tham gia BHXH tự nguyện bởi toàn bộ tiền lãi trở thành thu nhập của họ. Trong khi tham gia BHXH tự nguyện một phần trích chi phí hoạt động cho hệ thống BHXH tự nguyện. Mặt khác khi tham gia BHXH tự nguyện họ còn phải thực hiện nhiều thủ tục hơn, gây mất nhiều thời gian và công sức hơn. Do vậy, để đảm bảo chi trả đúng hạn, đúng quy định cho người tham gia nên sử dụng quỹ BHXH đầu tư một cách an toàn và góp phần phát triển đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH tự nguyện vcũng phải tuân thủ các quy định hiện hành về tài chính của Nhà nước. Kết luận Trong điều kiện nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường hiện nay thì BHXH là một trong những nhân tố quan trọng quyết định của sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Là một bộ phận của hệ thống bảo đảm xã hộinó thể hiện chính sách bảo vệ người lao động của Đảng và Nhà nước ta. Mọi người lao động đều có quyền tham gia BHXH và BHXH là người bảo trợ đắc lực trong cuộc sống cũng như trong sinh hoạt của mọi người. Do vậy mà BHXH có tầm quan trọng đặc biệt đối với mỗi người lao động. Nông dân và lao động nông thôn nước ta cũng cần có BHXH. Thực tế cho thấy nhu cầu và khả năng tham gia BHXH của họ ngày càng cao, do vậy việc tiến hành BHXH cho nông dân là chính đáng và qua thực tiễn đó chứng minh đó là chính sách phù hợp với lòng dân và phù hợp với sự phát triển của xã hội. Đời sống của người nông dân ở nước ta hiện nay còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, việc xây dựng hệ thống BHXHđối với nông dân là cần thiết. Tuy nhiên, qua thực tiễn triển khai BHXH tự nguyện ở nước ta trong thời gian qua cho thấy, hệ thống BHXH tự nguyện còn biểu hiện nhiều yếu điểm cả về mặt tổ chức quản lý lẫn tính thực tế. Để khắcphục được nhược điểm này và từng bước hoàn thiện chính sách BHXH tự nguyện cho người nông dân nhằm tạo ra hành lang pháp lý cho chính sách này đòi hỏi nhiều công sức nghiên cứu và tìm tòi của các chuyên gia về BHXH, nhằm đưa chính sách này trở nên phổ biến hơn trong thời gian tới ở khu vực nông thôn nước ta. Tuy thực tế hiện nay việc triển khai BHXH tự nguyện cho người nông dân và lao động nông thôn còn gặp một số trở ngại song chúng ta vẫn có thể tin tưởng ở một chính sách BHXH tự nguyện hoàn thiện hơn và phổ iến hơn trong tương lai. Nhằm đưa khu vực nông thôn tiến lên công nghiệp hoá hiện đại hoá cùng với cả nước. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô giáo TH.S. Nguyễn Ngọc Hương các cô chú phòng khoa học BHXH tự nguyện - Trung tâm thông tin khoa học - BHXH Việt Nam đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hoàn thành đề tài này. Vì thời gianvà trình độ có hạn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, em mong có sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các cô chú cơ quan thực tập để em tích luỹ được nhiều kinh nghiệm hơn. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29758.doc
Tài liệu liên quan