Chuyên đề Biện pháp xử lý nợ quá hạn ở Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I 3 HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NỢ QUÁ HẠN Ở CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3 I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3 1. Lịch sử hình thành và phát triển 3 2. Khái niệm và phân loại 6 3. Chức năng của ngân hàng thương mại 8 4. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại 9 II. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 10 1. Khái niệm và phân loại tín dụng ngân hàng 10 2. Vai trò của tín dụng ngân hàng 12 III. NỢ QUÁ HẠN 14 1. Khái niệm 14 2. Phân loại 15 3. Nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn 16 4. Ảnh hưởng của nợ qúa hạn 21 5. Xử lý nợ quá hạn 24 CHƯƠNG II 30 THỰC TRẠNG NỢ QUÁ HẠN Ở SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG 30 NÔNG NGHIỆP 30 I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP 30 1. Sự ra đời của Sở giao dịch 30 2. Chức năng của Sở giao dịch 30 3. Chức năng của các phòng ban 31 4. Kết quả hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch 34 II. THỰC TRẠNG NỢ QUÁ HẠN Ở SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP 41 1. Hoạt động cho vay của Sở giao dịch 41 2. Tình hình nợ quá hạn ở Sở giao dịch 44 III. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN Ở SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP 57 1. Những mặt làm được trong công tác xử lý nợ quá hạn ở sở giao dịch 57 2. Những mặt còn tồn tại trong công tác xử lý nợ qúa hạn ở Sở giao dịch 59 3. Nguyên nhân 60 CHƯƠNG III 64 GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 64 I. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ KINH DOANH VÀ ĐỊNH HƯỚNG XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN CỦA SỞ GIAO DỊCH 64 1. Mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh 64 2. Định hướng xử lý nợ qúa hạn của Sở giao dịch 66 II. GIẢI PHÁP XỦ LÝ NỢ QUÁ HẠN 67 1. Tổ chức phân tích nợ qúa hạn theo định kỳ 67 2. Thành lập và duy trì hoạt động của tổ thu nợ 69 3. Thực hiện các biện pháp đôn đốc, thu hôi thích hợp với từng khoản vay 69 4. Thực hiện các biện pháp xử lý nợ thích hợp 71 5. Xử lý, khai thác các tài sản đảm bảo nợ vay 72 6. Xử lý bằng quỹ dự phòng bù đắp rủi ro 74 7. Xử lý những khoản nợ tồn đọng theo đề án cơ cấu lại nợ các ngân hàng 75 III. KIẾN NGHỊ 76 1. Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước Việt Nam 76 2. Kiến nghị đối với Chính phủ 79 KẾT LUẬN 85

doc87 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1616 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Biện pháp xử lý nợ quá hạn ở Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợ; tài sản đảm bảo tiền vay có nhiều tranh chấp, phát mại khó khăn. -Trong năm 2001 phát sinh khoản nợ qúa hạn của xí nghiệp xây lắp đường dây và trạm điện thoại 7,13 tỷ đồng (cho vay từ năm 1999), khó thu hồi nợ. -Các khoản nợ qúa hạn được khoanh chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nợ qúa hạn trên bảng cân đối kế toán: năm 2000: 123,544 tỷ đồng; năm 2001: 128, 406 tỷ đồng; năm 2002: 7,1 tỷ đồng. Nợ qúa hạn đựoc khoanh lớn là một dấu hiệu không tốt, bởi vì biện pháp khoanh nợ đối với các khoản nợ khó đòi không có tác dụng làm lành mạnh hoá hoạt động tín dụng, thực chất tài sản bị mất nhưng chưa được xử lý, điều này thực sự đe doạ thu nhập của Sở giao dịch nếu Chính phủ không tìm được nguồn bf đắp. Hơn nữa, việc khoanh nợ có thể ảnh hưởng tiêu cực, gây tâm lý ỷ lại, không chịu trả nợ của khách hàng (kể cả khách hàng chưa có nợ qúa hạn). Ngoài ra, việc đôn đóc, xử lý của ngân hàng cũng sẽ bị hạn chế hơn kkhi khoản nợ đã được khoanh. Mặt khác, biện pháp khoanh nợ làm phát sinh chi phí trích rủi ro các khoản nợ khoanh, từ đó làm giảm thu nhập của Sở giao dịch.Như năm 2001, do chi phí trích rui ro các khoản nợ khoanh phát sinh đột xuất trong năm 001, nên kết quả chenh lệch thu chi nội bảng đạt kết ủa thấp so với kế hoạch được giao. -Các khoản nợ qúa hạn xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro cũng không phải là nhỏ: năm 2001: 6,212 tỷ đồng; năm 2002: 0,08 tỷ đồng và 66,197 USD. Quỹ dự phòng rủi ro dùng để bù đắp các khoản nợ qúa hạn không có khả năng thu hồi, làm lành mạnh hoá hoạt động kinh doanh.Tuy nhiên, cũng giống như các khoản nợ qúa hạn được khoanh, các khoản nợ qúa hạn xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro Sở giao dịch chưa thể thu hồi ngay được. Do đó,các khoản nợ qúa hạn xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro càng lớn, thì phần vốn kinh doanh của Sở giao dịch tồn đọng trong các khoản nợ qúa hạn này càng lớn. Việc tồn đọng trong các khoản nợ qúa hạn sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, làm giảm khả năng thanh toán, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch . -Năm 2002, Sở giao dịch đã phải nhờ đến pháp luật để thu hồi nợ: đó là việ khởi kiện 2 đơn vị là Công ty Phương Đông, Xí nghiệp xây lắp đường dây và trạm điện thoại. Đây là biệ pháp mà ngân hàng không muốn áp dụng, vì nó quá khắc nghiệt với người vay, mặt khác các thủ tục pháp lý rắc rối, chi phí lớn và mất thời gian. Ngư vậy, công tác xử lý nợ qúa hạn của Sở giao dịch đang gặp phải không ít khó khăn, vướng mắc. Do đó để những năm tới công tác xử lý nợ qúa hạn được thực hiện tốt hơn, Sở giao dịch cần phải tiến hành xây dựng và thực hiện các biện pháp xử lý nợ qúa hạn tốt hơn nữa. 3. Nguyên nhân Có nhiều nguyên nhân gây ra những vướng mắc, tồn tại trong công tác xử lý nợ qúa hạn của Sở giao dịch. Nhưng, nhìn chung chúng đựoc tập trung vào những nguyên nhân chính sau đây: -Nền kinh tế Việt nam chuyến đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường chưa đựoc bao lâu, nên có một số doanh nghiệp Việt nam- là khách hàng của Sở giao dịch- chưa thích ứng được với cơ chế thị trường. Điều này dẫn dến tìn trạng nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, phá sản gây ra các khoản nợ khó đòi phải xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro. -Bên cạnh những khách hàng làm ăn có hiệu quả, Sở giao dịch vẫn có một số khách hàng làm ăn yếu kém, không hiệu quả. Khả năng quản lý kinh doanh của khách hàng kém, không đán giá, phân tích những biến động và xu hướng phát triển của thị trường nên không tranh thủ thời cơ và bị động trước sự thay đổi của môi trường kint tế, không tìm ra hướng đi cho doanh nghiệp của mình. Doanh nghiệp không có chiến lược cạnh tranh hợp lý, không nắm bắt được nhu cầu thị trường, do đó doanh nghiệp không đứng vững được trong cạnh tranh. Tất cả những điều đó làm cho doanh nghiệp bị thua lõ, phá sản. Từ đó làm cho những khoản nợ qúa hạn phải xử lý bằng quỹ dự phaòng rui ro cảu Sở giao dịch tăng lên. -Một số khách hàng của Sở giao dịch gpự rủi ro trong kinh doanh. Cá doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh được chuẩn bị đầy đủ, tính toán một cách chi tiết, khoa học, đầy đủ đến mức tối đa, nhưng vẫn bị thua lỗ do những thay đổi bất ngờ ngoài ý muốn và bất khả kháng trong các diều kiện sản xuất kinh doanh như: + Thị trường cung cấp biến động: thiếu nguyên liệu phù hợp với dây chuyền công nghệ sẵn có của doanh nghiệp , vì vậy phải sử dụng các nguyên vật liệu khác để thay thế , không thích ứng với dây chuyền công nghệ . + Khối lượng sản phẩm sản xuất ra không phù hợp với nhu cầu thị trường dẫn đến dư thừa , ứ đọng , làm doanh nghiệp không thu hồi vốn đúng thời hạn . + Chất lượng sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu thị trường dẫn tới doanh nghiệp phải hạ giá bán hoặc phải tăng chi phí quảng cáo , tiếp thị , bảo hành… cả hai hướng giải quyết này đều làm doanh nghiệp bị thiệt hại. Doanh nghiệp bị thua lỗ đã làm phát sinh các khoản nợ qúa hạn cho Sở giao dịch. Sở giao dịch đã phải nhờ đến cơ quan pháp luật để thu hồi nợ( khởi kiện các doanh nghiệp ), hoặc xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro nếu khoản nợ qúa hạn của doanh nghiệp không thể thu hồi được. -Một số cán bộ của Sở giao dịch thực hiện không đầy đủ quy trình nghiệp vụ, đánh giá về người vay , khoản vay chưa đúng mức hoặc quá chủ quan tin tưởng vào người vay, quá coi trọng tài sản thế chấp . Do đó, đã làm phát sinh những khoản nợ khó đòi hoặc không thể thu hồi được mà phải xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro . -Do ngân hàng Nhà nước cho phép một khách hàng , một doanh nghiệp được vay vốn nhiều ngân hàng thương mại hoặc nhiều chi nhánh của một ngân hàng thương mại nhưng khác tỉnh , cho nên đã xẩy ra trường hợp tranh chấp tài sản thế chấp giữa Sở giao dịch và các ngân hàng mà khách hàng của Sở giao dịch vay vốn khi khách hàng không trả được nợ . -Trong thời gian vừa qua, Nhà nước có chính sách sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước bằng các biện pháp như : sáp nhập , giải thể , cổ phần hoá … việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước không đồng bộ với việc chuyển và nhận các món nợ ngân hàng sang đơn vị mới nên đã gây ra các món nợ khó đòi cho Sở giao dịch. Sở giao dịch phải xử lý các khoản nợ qúa hạn này bằng biện pháp khoanh nợ vì vậy mà trong những năm qua các khoản nợ qúa hạn được khoanh của Sở giao dịch khá cao. -Do Sở giao dịch là sở đầu mối của hệ thống ngân hàng nông nghiệp nên thường là nơi cho vay theo chỉ thị của Chính phủ. Trong số các khoản cho vay đó , có rất nhiều khoản cho vay khó đòi , không thể thu hồi được . Khi chính phủ chưa có biện pháp giải quyết, chúng vẫn tồn tại trên bảng cân đối của Sở giao dịch , trở thành tài sản “ảo”.Sở giao dịch xử lý các khoản nợ qúa hạn này bằng cách khoanh nợ chờ Chính phủ tìm nguồn bù đắp. -Sở giao dịch đã tăng cường tổ chức kiểm tra , kiểm soát khách hàng sử dụng vốn. Nhưng do việc kiểm tra , kiểm soát chưa được chặt chẽ cho nên có một số khách hàng vẫn thoát khỏi sự kiểm tra , kiểm soát của ngân hàng sử dụng vốn sai mục đích, không đảm bảo an toàn , gây lãng phí , thậm chí mất vốn . Điều này gây ra các khoản nợ qúa hạn khó đòi cho Sở giao dịch , buộc Sở giao dịch phải dùng đến biện pháp thanh lý hoặc thậm chí phải xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro . Trên đây là một số nguyên nhân chính gây ra những tồn tại vướng mắc trong công tác xử lý nợ qúa hạn của Sở giao dịch. Để giảm những tồn tại trong công tác xử lý nợ qúa hạn , Sở giao dịch cần phải dựa vào những nguyên nhân đã tìm ra để đề ra và thực hiện những biên pháp giải quyết thích hợp . CHƯƠNG III GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ I. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ KINH DOANH VÀ ĐỊNH HƯỚNG XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN CỦA SỞ GIAO DỊCH 1. Mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh * Mục tiêu ,nhiệm vụ kinh doanh : Phấn đấu đạt chỉ tiêu kế hoach kinh doanh năm 2003: -Nguồn vốn đạt 3874 tỷ đồng , tăng trưởng 19% so với 31/12/2002 . -Dư nợ đạt 1330 tỷ đồng , tăng trưởng 47% so với 31/12/2002 . Trong đó : tỷ trọng dư nợ ngắn hạn chiếm 23% trong tổng dư nợ . -Tỷ lệ nợ qúa hạn dưới 1% tổng dư nợ . -Kết quả tài chính: đảm bảo kinh doanh có lãi , chênh lệch quỹ thu nhập đạt 150 tỷ đồng (bằng 15% so với năm 2002). Đảm bảo quỹ tiền lương theo quy đinh. -Chênh lệch lãi suất đầu ra - đầu vào: 0,3% /tháng . -Tỷ trọng thu dịch vụ trong tổng thu chiếm 25% * Biện pháp thực hiện: -Chủ động tham mưu kịp thời với Trụ sở chính trong các nghiệp vụ đấu thầu tín phiếu kho bạc, hoạt động trên thị trường mở, thị trường liên ngân hàng, dự trữ ngoại tệ hợp lý trong giới hạn trạng thái ngoại tệ cho phép để sẵn sàng thực hiện nghiệp vụ Swap khi có yêu cầu đảm bảo dự trữ bắt buộc và vốn thanh toán của toàn hệ thống . -Tiếp tục thực hiện tốt đề án kinh doanh năm 2002 – 2005 trên địa bàn Hà nội và các giải pháp thực hiện , đặc biệt là giải pháp về đào tạo cán bộ và giải pháp về công nghệ tin học . -Các biện pháp huy động vốn : + Đối với tiền gửi dân cư : tiếp tục bám sát diễn biến lãi xuất trên thị trường để điều chỉnh kịp thời đảm bảo khả năng cạnh tranh và có lợi cho kinh doanh. Tăng cường hiệu quả công tác quảng cáo , thông tin tiếp thị. Tiếp tục thực hiện tốt đề án huy động tiết kiệm ngoại tệ (USD) trung dài hạn , đề án huy động tiết kiệm đồng EUR… + Đối với tiền gửi của các tổ chức : thực hiện tốt cơ chế ưu đãi khách hàng , củng cố và phát triển tốt quan hệ với các đơn vị có tiền gửi lớn như : Kho bạc Nhà nước , Quỹ hỗ trợ phát triển , Bảo hiểm tiền gửi … để duy trì và thu hút thêm các nguồn tiền gửi . + Chủ động tiếp cận các Ban quản lý dự án đang triển khai , ngân hàng Nhà nước VIệt nam , các ban tại Trụ sở chính để được chỉ định làm ngân hàng phục vụ các dự án vay vốn ODA. + Tích cực mở rộng , đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, tăng cường áp dụng công nghệ tin học vào công tác thanh toán để thu hút khách hàng , thu hút các nguồn tiền gửi tạm thời nhàn rỗi. -Các biện pháp mở rộng tín dụng: +Tiếp tục nâng cao hiệu lực công tác chỉ đạo điều hành bằng các quy trinh, quy chế nghiệp vu. Bám sát chỉ tiêu định hướng của ngân hàng nông nghiệp Việt nam đã đề ra để chỉ đạo thực hiện , tăng cường mở rộng tín dụng đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng . + Tăng cường hoạt động chăm sóc khách hàng truyền thống và mở rộng số lượng khách hàng vay vốn bằng những biện pháp cụ thể : chủ động tiếp cận các Tổng công ty và đơn vị thành viên hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định , hiệu quả để thiết lập quan hệ tín dụng. Bám sát các đơn vị đang có quan hệ tín dụng để chủ động nắm bắt nhu cầu vốn, đầu tư cho vay đảm bảo an toàn , hiệu quả . + Tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của Trụ sở chính để tiếp tục tiếp cận các dự án lớn . + Tiếp tục mở rộng cho vay theo hạn mức tín dụng để xử lý các món nợ vay nhanh chóng, thuận tiện đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng nhưng vẫn đảm bảo chấp hành đúng , đầy đủ quy trình nghiệp vụ . + Tăng cường cho vay các doanh nghiệp dân doanh , doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh ổn định, có hiệu quả , các đối tượng vay nhu cầu đời sống. -Nghiên cứu mở rộng các dịch vụ tiện ích ngân hàng mới như mở rộng dịch vụ rút tiền tự động qua máy ATM , dịch vụ ngân quỹ , nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ … -Tăng cường công tác kiểm tra , kiểm toán nội bộ nhằm phát hiện tồn tại thiếu sót để khắc phục kịp thời. Tiếp tục thực hiện chấn chỉnh sửa sai sau thanh tra theo những kiến nghị của thanh tra ngân hàng Nhà nước đã nêu . Tiếp tục xử lý nợ qúa hạn của Công ty trách nhiệm hữu hạn Phương Đông , xí nghiệp xây lắp đường dây và trạm điện. Đồng thời tích cực đôn đốc thu hồi nợ của công ty 89 , công ty thiết bị điện tử giao thông vận tải , công ty nguyên liệu vật tư thiết bị, doanh nghiệp Đức Phương … -Tiếp tục nghiên cứu , hoàn thiện những cơ chế quy định về nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, từng bước mở rộng hoạt động có hiệu quả về nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ đầu cơ , nghiệp vụ kinh doanh vốn trên thị trương mở , thị trường liên ngân hàng, nghiệp vụ quản lý tài sản Có … 2. Định hướng xử lý nợ qúa hạn của Sở giao dịch Trong năm vừa qua , Sở giao dịch đã có những thành công trong công tác ngăn ngừa và hạn chế nợ qúa hạn. Tuy nhiên, để hoạt động kinh doanh ngày càng tốt hơn, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện công tác ngăn ngừa và hạn chế nợ qúa hạn , Sở giao dịch còn phải có những biện pháp tích cực hơn để xử lý các khoản nợ qúa hạn. Do vậy, Sở giao dịch đã xây dựng định hướng xử lý nợ qúa hạn trong những năm tới như sau: -Thực hiện phân công cán bộ tín dụng và lãnh đạo phòng trực tiếp phụ trách các doanh nghiệp có nợ qúa hạn (kể cả nợ qúa hạn đã được xử lý rủi ro ), thường xuyên bám sát, đưa ra các biện pháp kiên quyết khai thác các nguồn thu, xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ qúa hạn tồn đọng. -Hạn chế xử lý nợ qúa hạn bằng biện pháp khoanh nợ và quỹ dự phòng rủi ro. Bởi khi xử lý nợ qúa hạn bằng hai biện pháp này, Sở giao dịch chưa thu hồi vốn ngay được, vốn bị tồn đọng trong các khoản nợ làm giảm khả năng thanh toán , giảm hiệu quả sử dụng vốn của Sở giao dịch . -Khuyến khích khách hàng tự bán tài sản thế chấp của mình để thanh toán nợ vay , tránh trường hợp phải khởi kiện khách hàng để thu hồi nợ. -Đa dạng hoá các biện pháp xử lý nợ qúa hạn : bên cạnh các biện pháp đang áp dụng, Sở giao dịch bước đầu thử nghiệm áp dụng các biện pháp mới mà trong một số trường hợp tạo ra có hiệu quả trong việc xử lý nợ qúa hạn như sau: +Biện pháp “nuôi nợ” : đó là việc Sở giao dịch tiếp thêm vốn để khách hàng “vượt cạn” trong những giai đoạn khó khăn để giải quyết tài chính tạm thời . Trong những trường hợp như thế nay, việc Sở giao dịch giám tiếp tục tài trợ thêm cho khách hàng đã giúp khách hàng của mình vượt qua cơn “bĩ cưc” sẽ góp phần làm lành mạnh hoá khoản nợ . +Xử lý nợ qúa hạn bằng đồng tài trợ: Có một số khoản nợ qúa hạn mà khả năng của Sở giao dịch không đủ hoặc không hiệu quả để giải quyêt, mà cần có sự phối hợp giữa Sở giao dịch và các ngân hàng theo dạng đồng tài trợ để xử lý nợ qúa hạn. Việc Sở giao dịch tham gia đồng tài trợ hay hợp vốn để xử lý nợ qúa hạn tạo ra thế mạnh như: mỗi ngân hàng có hệ thống khách hàng quen thuộc , có lĩnh vực am hiểu tường tận hoặc nói cách khác, có thế mạnh riêng. Do vậy, việc đồng tài trợ sẽ tập trung và bổ sung thế mạnh , hạn chế mặt yếu, tạo sự kiểm soát đồng bộ về khách hàng, bổ sung vốn, bổ sung nghiệp vụ và học hỏi lẫn nhau nghiệp vụ . II. GIẢI PHÁP XỦ LÝ NỢ QUÁ HẠN Để từng bước nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, bên cạnh việc ngăn ngừa, hạn chế nợ qúa hạn thì việc tổ chức xử lý nợ khó đòi tồn đọng cũ ở Sở giao dịch là vô cùng quan trọng. Ngoài việc phải hoàn thiện các biện pháp đang áp dụng, Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp cần nghiên cứu , áp dụng các giải pháp chung của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Trên cơ sở nghiên cứu các giải pháp chung đó , Sở giao dịch vận dụng một cách hợp lý vào hoạt động kinh doanh của mình tuỳ vào từng giai đoạn, thời kỳ , thời điểm. Đồng thời phải nghiên cứu , áp dụng thêm nhiều biện pháp cụ thể khác. Tôi xin đề xuất một số giải pháp chính cần tập trung thực hiện sau đây: 1. Tổ chức phân tích nợ qúa hạn theo định kỳ Việc phân tích các khoản nợ qúa hạn có ý nghĩa rất quan trọng. Nó giúp Sở giao dịch nắm được thực trạng nợ qúa hạn chung của cả ngân hàng và thực trạng của từng loại cho vay , từng nhóm khách hàng và từng khách hàng cụ thể , trên cơ sở đó mới có thể xử lý nợ một cách thích ứng và có hiệu quả cao. -Việc phân tích nợ qúa hạn trước hết phải đạt đươc các yêu cầu sau: +Phải tiến hành thường xuyên hàng tháng, hàng quý, từ đó luôn luôn phục vụ tốt cho việc xử lý các khoản nợ qúa hạn . +Phải phân tích rõ nguyên nhân và thực trạng nợ qúa hạn của từng loại khách hàng, từng loại cho vay và từng khoản vay, tránh thực hiện chung chung , chiếu lệ . +Từng phòng tổ và từng cán bộ tín dụng đều phải tiến hành phân tích các khoản nợ qúa hạn do mình phụ trách . -Việc phân tích nợ qúa hạn phải thực hiện theo nhiều cách, dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau như: +Phân loại theo thành phần kinh tế (doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hợp tác xã , tư nhân …) -Phân loại theo hình thức cho vay (cho vay trực tiếp , cho vay qua tổ nhóm …) +Phân loại theo thời gian quá hạn (dưới 180 ngày , từ 180 ngày đến 360 ngày , nợ khó đòi- trên 360 ngày ) . +Phân loại theo nguyên nhân quá hạn : *Chủ quan : do quản trị điều hành , do không tổ chức kiểm tra , kiểm soát khách hàng sử dụng vốn vay; do cán bộ Sở giao dịch không thực hiện đúng quy chế, quy trình nghiệp vụ; do cán bộ của Sở giao dịch thoái hoá biến chất . *Khách quan : do bất khả kháng về cơ chế chính sách ;do thiên tai địch hoạ ; do sắp xếp lại doanh nghiệp , giải thể doanh nghiệp ; do thay đổi cơ chế chính sách; do chỉ định hoặc quyết định của cấp trên. Do nguyên nhân từ phía khách hàng của Sở giao dịch ; do kinh doanh thua lỗ ; do sử dụng vốn không đúng mục đích ; do khách hàng vay có chủ ý lừa đảo hoặc do khách hàng vay bị phá sản . +Phân tích theo tài sản đảm bảo (có đảm bảo, không có đảm bảo, giá trị tài sản đảm bảo, khả năng xử lý tài sản…) +Phân tích khả năng thu hồi của các khoản nợ qúa hạn … -Thông qua phân tích nợ , phải đề ra được hướng giải quyết và biện pháp xử lý thích hợp đối với từng nhóm khách hàng và từng món vay cụ thể . Các biện pháp xử lý nợ phả i dựa trên cơ sở chính sách , chế độ, các quy định của pháp luật và tình hình thực tế trong từng thời kỳ. 2. Thành lập và duy trì hoạt động của tổ thu nợ Việc xử lý, thu hồi nợ quá hạn là công việc rất phực tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, do đó việc thành lập các tổ thunợ là rất cần thiết, đặc biệt là trong những trường hợp, những thời điểm có nợ qúa hạn cao trên 3%. -Thành phần và tổ chức của các tổ thu nợ phải đảm bảo có đủ khả năng, thẩm quyền giải quyết. -Tổ thu nợ phảiđược giao nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn ró ràng (bao gồm cả tổ và tới từng thành viên), phải có kế hoạch, chương trình hành động cụ thể trong từng thời kỳ, phân công, phân trách nhiệm rõ ràng. -tổ thu nợ phải trực tiếp thm gia phân tích nợ quá hạn và trực tiếp thực hiện các biện pháp nợ qúa hạn đã được đề ra một cách đều đặn, có hiệu quả. Đối với các khoản nợ qúa hạn bình thường, tổ thu nợ đề ra biện pháp và chỉ đạo cán bộ tín dụng thực hiện. Đối với các khoản nợ lớn, phức tạp, khó đòi, tổ thu nợ phải trực tiếp tham gia xử lý. -Định kỳ, tổ thu nợ phải tiến hành sơ kết, rút kinh nghiệm và báo cáo kết quả thực hiện, đề xuất các vấn đề cần thiết. Sở giao dịch phải đánh giá kết quả hoạt động của thu nợ, từ đó xem xét trách nhiệm, quyền lợi vật chất của các thành viên, nâng cao hiệu quả hoạt động, tránh hiện tượng hình thức, hoạt động không có hiệu quả. 3. Thực hiện các biện pháp đôn đốc, thu hôi thích hợp với từng khoản vay Trên cơ sở phân tích nợ định kỳ cần áp dụng các biện pháp đôn đốc thu hồi thích hợp với thực trạng từng khoản nợ quá hạn nhằm đạt hiệu quả thu hồi cao nhất, thời gian ngắn nhất và chi phí xử lý nợ thấp nhất. -Đối với các khoản nợ qúa hạn bình thường: Cán bộ tín dụng phải tăng cường đôn đốc, thu hồi nợ kết hợp với việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn, tình hình tài chính, tài sản đảm bảo…Đồng thời cần có biện pháp thích hợp để giúp đỡ khách hàng giải quyết khó khăn về tài chính, trả nợ ngân hàng: Giải quyết sản phẩm tồn kho, thu hồi công nợ, tạm hoãn thu lãi định kỳ… -Đối với các khoản nợ qúa hạn trên 6 tháng, nợ khó đòi, có nguy cơ rủi ro cần thực hiện việc đôn đốc thu hồi nợ qua nhiều bước. +Tăng cường quản lý tài chính, giảm sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của khách hàng, đặc biệt là quản lý chặt chẽ tài khoản tiền gửi tại Sở giao dịch. +Thương lượng với khách hàng các biện pháp, các bước xử lý thích hợp. Đây là biện pháp tương đối có hiệu quả, đặc biệt là khi các khách hàng có khả năng khôi phục, duy trì sản xuất kinh doanh, các khách hàng có tư cách tốt… Biện pháp thương lượng phải gắn chặt với cơ chế, chính sách, thực trạng khoản vay, gắn liền với các biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ cần thiết với khách hàng. +Đôn đốc khách hàng thực hiện các biện pháp đã thương lượng một cách nghiêm túc, đặc biệt phải tăng cường đôn đốc thực hiện kế hoạch trả nợ. Trong quá trình đôn đốc, phải lập đầy đủ các biên bản, cam kết để làm cơ sở xử lý sau này. +Thông báo tình hình nợ qúa hạn và cam kết của khách hàng cho người bảo lãnh, cơ quan chủ quản để phối hợp xử lý. +Thực hiện việc thu nợ thích hợp với từng khoản vay: Có thể xem xét cho thu nợ gốc trước, lãi sau, tạm hoãn việc trả lãi… +Nhỡ các cơ quan hữu quan và chính quyền địa phương phối hợp, giúp đỡ thu hồi nợ. Đối với tư nhân, hộ sản xuất: Cần sao kê danh sách cụ thể, nhờ chính quyền địa phương xử lý. Đối với hộ sản xuất vay qua tổ nhóm: yêu cầu các tổ chức đoàn thể đã đứng ra bảo lãnh bằng tín chấp đôn đốc, xử lý. Đối với các khoản nợ khó đòi: Cần kí hợp đồng cụ thể nhờ các cơ quan pháp luật (công an, toà án, Viện kiểm sát) thu nợ hộ có chi hoa hồng thoả đáng căn cứ vào kết quả thu nợ và quy định của ngân hàng Nông nghiêp Việt Nam. Đối với các xã, phường, các tổ chức đoàn thể tín chấp, nếu nợ qúa hạn cao, xử lý chậm, phải ngừng quan hệ tín dụng để yêu cầu xử lý. +Đối với những khách hàng chây ì, không chịu trả nợ hoặc vi phạm cam kết, việc thực hiện các biện pháp trên không có hiệu quả, Sở giao dịch cần chủ động lập hồ sơ khởi kiện khách hàng để xử lý, thu hồi nợ theo quy định của pháp luật. -Đối với các khoản nợ qúa hạn do chủ quan của cán bộ Sở giao dịch: cần tiến hành kiểm tra, xác minh và quy trách nhiệm, buộc phải bồi hoàn, nếu không thực hiện được phải xử lý nghiêm túc, nếu nghiêm trọng phải truy tố trước pháp luật. -Đối với các khoản nợ qúa hạn do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng: Trong quá trình đôn đốc, thu nợ phải tiến hành xác minh lập biên bản kịp thời xác định rõ nguyên nhân, mức độ thiệt hại…để làm căn cứ xử lý nợ sau này. 4. Thực hiện các biện pháp xử lý nợ thích hợp Song song với việc đôn đốc, thu hồi nợ, Sở giao dịch cần xem xét thực hiện các biện pháp xử lý nợ thích hợp đối với từng khoản vay. Đây là những biện pháp được áp dụng nhằm giúp các khách hàng có nợ qúa hạn khắc phục khó khăn tài chính, khôi phục, duy trì sản xuất kinh doanh, trả được nợ cho Sở giao dịch. Các biện pháp xử lý nợ theo quy định của ngân hàng Nông nghiệp hiện nay bao gồm: -Gia hạn nợ: Trường hợp khách hàng không trả được nợ đến hạn do nguyên nhân khách quan, Sở giao dịch có thể xét cho gia hạn nợ để tạo điều kiện cho khách hàng trả được nợ theo chế độ quy định về thời gian được gia hạn. -Giãn nợ: trường hợp khách hàng gặp khó khăn khách quan, đã được gia hạn nợ nhưng vẫn chưa trả hết nợ, Sở giao dịch có thể xem xét tiếp tục cho giãn nợ, từ đó có điều kiện khắc phục khó khăn, trả nợ cho Sở giao dịch. -Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ: trường hợp khách hàng có nợ qúa hạn hoặc không trả được nợ đến hạn do các khoa khăn khách quan, khó khăn trong sản xuất kinh doanh hoặc do Sở giao dịch định kỳ hạn nợ quá ngắn, đối tượng trung dài hạn nhưng cho vay ngắn hạn…, nếu xác định lại kỳ hạn nợ, khách hàng có thể ổn định lại sản xuất, trả được nợ thì Sở giao dịch có thể xem xét, điều chỉnh lại kỳ hạn. -Miễn giảm lãi tiền vay đối với các khách hàng bị tổn thất tài sản hình thành từ vốn vay do các nguyên nhân khách quan, nhằm giảm bớt khó khăn về tài chình cho khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng trả được nợ gốc và phần lãi còn lại, có điều kịên lập lại quan hệ tín dụng bình thường. -Đối với các khách hàng có nợ qúa hạn do nguyên nhân bất khả khág cần vốn để khôi phục sản xuất kinh doanh, Sở giao dịch có thể xem xét trình ngân hàng cấp trên tạm khoanh nợ cũ, cho vay thêm để khách hàng vượt qua khó khăn, có điều kiện trả nợ. 5. Xử lý, khai thác các tài sản đảm bảo nợ vay Tài sản đảm bảo nợ vay là nguồn thu nợ thứ hai của ngân hàng, khi phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng bị phá sản hoặc kém hiệu quả, khách hàng không có khả năng trả nợ. Vì vậy, sau khi thực hiện các biện pháp đôn đốc, xử lý nợ…, khách hàng vẫn không trả được nợ, ngân hàng phải tiến hành xử lý tài sản đảm bảo để thu nợ. Trường hợp cần thiết phải tiến hành ngay việc xử lý tài sản. Đây được coi là một biện pháp quan trọng trong việc xử lý nợ qúa hạn của ngân hàng. Trong thời gian vừa qua, do các quy định về vấn đề nayf chưa đồng bộ, thống nhất, việc sử lý tài sản đảm bảo của các ngân hàng thương mại gặp nhiều vướng mắc, nợ qúa hạn được giải quyết rất chậm. Để xử lý các tài sản đảm bảo tiền vay một cách có hiệu quả, giảm thấp nợ qúa hạn, theo đúng tinh thần Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ, cần tập trung thực hiện các vấn đề sau: -Trước hết, phải rà soát lại toàn bộ hồ sơ, thủ tục đảm bảo tiền vay của các khoản nợ qúa hạn, từ đó có biện pháp bổ sung, hoàn chỉnh, đảm bảo hợp lệ, hợp pháp, đầy đủ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý. Đặc biệt các tài sản thế chấp là nhà, đất trong những năm qua có nhiều thay đổi trong quy định cấp giấy tờ sở hữu, quyền sử dụng, Sở giao dịch lưu giữ rất nhiều loại giấy tờ, do đó cần có biện pháp quản lý, bổ sung khi khách hàng đã xin đổi, cấp lại giấy theo mẫu mới, tránh để xảy ra lợi dụng, lừa đảo hoặc thiếu cơ sở xử lý tài sản. Đồng thời cần tổ chức đánh giá lại hiện trạng, giá trị của các tài sản đảm bảo và tiến hành phân loại các tài sản đó, từ đó đề ra biện pháp xử lý thích hợp. -Tiến hành các bước và các biện pháp xử lý tài sản phù hợp với thực trạng từng trương hợp cụ thể, trên cơ sở các quy định mới của Nghị định 178: + Xử lý tài sản đảm bảo theo các phương thức đã được thoả thuận ghi trong hợp đồng đảm bảo tiền vay. Biện pháp xử lý này phải được khống chế thời gian (60 ngày). + Sở giao dịch có thể giao cho khách hàng tự xử lý tài sản để trả nợ dưới sự kiểm soát của mình (chủ yếu kiểm soát về giá). Biện pháp này có thể áp dụng phổ biến khi khách hàng có tư cách, có thiện chí giải quyết nợ…nhằm đơn giản hoá thủ tục, giải quyết nhanh, chi phí thấp nhưng vẫn có thể đảm bảo được giá bán cao, từ đó giảm bớt thiệt hại cho cả khách hàng và Sở giao dịch. +Nếu các biệnpháp trên không thực hiện được, Sở giao dịch cần tự tiến hành xử lý bằng các biện pháp như: *Bán, chuyển nhượng tài sản trực tiếp cho người mua để thu hồi nợ. *Yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ, bán tài sản của bên bảo lãnh. *Uỷ quyền việc bán tài sản cho trung tâm bán đấu giá tài sản hoặc các doanh nghiệp bán đấu tài sản theo quy định của pháp luật. *Xiết nợ, thu giữ tài sản để thay thế cho nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. Các tài sản thu giữ, Sở giao dịch có thể sử dụng vào hoạt động kinh doanh hoặc sử dụng để góp vốn liên doanh, liên kết… Các trường hợp Sở giao dịch tự xử lý, nếu không thoả thuận được về giá thì Sở giao dịch tự định giá để xử lý. +Nếu khách hàng cố tình không giao tài sản cho Sở giao dịch xử lý theo các biện pháp trên, không thực hiện các yêu cầu chính đáng của Sở giao dịch, cố tình tranh chấp, chây ì…., Sở giao dịch cần khởi kiện ra toà án và xử lý tài sản theo bản án có hiệu lực pháp luật của toà. -Việc xử lý tài sản đảm bảo cần tiến hành khẩn trương, kiên quyết nhằm nhanh chóng giải qyết vốn vay bị khê đọng. Trong thời gian chưa xử lý được tài sản, Sở giao dịch cần có biện pháp thích hợp để thu giữ, khai thác, sử dụng các tài sản đó nhằm tạo nguồn thu nợ (đưa tài sản vào kinh doanh, cho thuê…). Số tiền thu được, sau khi trừ các chi phí cần thiết trong việc sử dụng tài sản được dùng để thu hồi nợ. -Cần đề ra các biện pháp xử lý thích hợp trong các trường hợp tài sản đã được xử lý xong nhưng không đủ thu hồi nợ. Về phía khách hàng Sở giao dịch phải yêu cầu khách hàng nhận nợ số tiền còn thiều và phải cam kết, lập kế hoạch trả nợ cụ thể. Trường hợp khách hàng không chịu nhận nợ, phải xử lý theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, trong các trường hợp tài sản định giá quá cao do chủ quan của cán bộ ngân hàng dẫn tới tổn thất, phải quy trách nhiệm nhiệm bồi hoàn. -Trong quá trình xử lý tài sản, ngân hàng cần tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng (đặc biệt là cơ quan địa chính, toà án…). Để dảm bảo cho việc xử lý tài sản nhanh, đúng luật, có hiệu quả, các thủ tục chuyển nhượng, sang tên được tiến hành nhanh với chi phí thấp. 6. Xử lý bằng quỹ dự phòng bù đắp rủi ro Xử lý rủi ro trong hoạt động tín dụng bằng quỹ dự phòng rủi ro là một trong những biện pháp quan trọng để làm lành mạnh hoá hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Tại Việt Nam, biện pháp này mới được thực hiện từ năm 1999, sau khi ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành quyết định số 48/1999/QĐ-NHNN5 ngày 8/2/1999. Đối với các đối tượng khách hàng vay vốn không còn khả năng và tài sản trả nợ do gặp rủi ro bất khả kháng (thiên tai, dịch bệnh, hoả hoạn, Nhà nước thay đổi cơ chế chính sách) hoặc các pháp nhân bị giải thể, phá sản, cá nhân bị chết, mất tích, bị kết án tù dài hạn. Từ ngày 27/11/2000 áp dụng Quyết định 488/2000/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với tổ chức bị phá sản, giải thể. Những khoản vay đã quá hạn từ 721 ngày trở lên đối với cho vay có đảm bảo tài sản, từ 361 ngày trở lên đối với cho vay không có tài sản đảm bảo, các giấy tờ có giá quá hạn từ 91 ngày trở lên. Biện pháp xử lý bù đắp rủi ro chỉ được áp dụng sau khi ngân hàng đã áp dụng triệt để các biện pháp tận thu hồi vốn như: -Xử lý hết tài sản đảm bảo. -Yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ này. -áp dụng các biện pháp khác theo quy định của pháp luật. Để thực hiện đúng đối tượng, có hiệu quả biện pháp này, Sở giao dịch cần quan tâm thực hiện một số vấn đề sau: -Thực hiện nghiêm túc và chính xác việc phân loại tài sản Có, trích lập quỹ dự phòng để xử lý rủi ro theo đúng quy định. -Rà soát kỹ các khoản nợ khó đòi có khả năng tổn thất để xác định các khoản nợ thuộc đối tượng được xử lý bù đắp rủi ro, áp dụng triệt để các biện pháp tạm thu. -Lập hồ sơ xử lý đảm bảo đầy đủ chính xác, hợp pháp hợp lệ, đặc biệt là các hồ sơ chứng minh nguyên nhân rủi ro và khả năng tài chính của khách hàng. Việc lập và hoàn thiện hồ sơ phải tiến hành thường xuyên trong suốt quá trình quản lý, xử lý các khoản nợ qúa hạn. -Xử lý bù đắp rủi ro theo đúng quy định và thẩm quyền giải quyết của từng cấp. 7. Xử lý những khoản nợ tồn đọng theo đề án cơ cấu lại nợ các ngân hàng Đây là chủ trương của Chính phủ nhằm lành mạnh hoá tài chính của các ngân hàng thương mại, chuẩn bị điều kiện để hoà nhập theo thông lệ quốc tế. Nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại được phân thành 3 nhóm: -Nhóm 1: Nợ tồn đọng có tài sản đảm bảo thì giao cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản bán để thu hồi vốn hoặc sử dụng để cho thuê. -Nhóm 2: Nợ khoanh không có tài sản đảm bảo được Chính phủ xét để xoá nợ. -nhóm 3: Nợ tồn đọng không có tài sản đảm bảo nhưng nguồn vay còn tồn tại thì thực hiện mua bán nợ giữa các tổ chức tín dụng để thu hồi dần. III. KIẾN NGHỊ Vấn đề nợ quá hạn hiện nay đang được các ngân hàng dồn toàn tâm, toàn lực để giải quyết. Bên cạnh việc hạn chế ngăn ngừa nợ qúa hạn, công tác xử lý nợ qúa hạn cũng quan trọng không kém. Tuy nhiên, để xử lý được tốt các khoản nợ qúa hạn đòi hỏi không chỉ những nỗ lực của từng ngân hàng mà còn có sự chỉ đạo của Chính phủ và sự phối hợp đồng bộ của nhiều cấp, nhiều ngành có liên quan. 1. Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1.1. Kiến nghị về cơ chế chính sách Trong thời gian qua ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy mới nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật. Tuy nhiêm, việc làm này không phải đơn giản mà thường xuyên phát sinh mâu thuẫn mới cần khắc phục. Đứng trên cấp độ nhằm xử lý nợ qúa hạn, tôi xin có ý kiến sau: -Về việc phân loại tài sản Có và trích lập sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng: Theo quy định về phân loại tài sản Có và trích lập sử dụng quỹ dự phòng xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng (ban hành kèm theo Quyết định số 488/2000/QĐ-NHNN ngày 27/11/2000 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước) tại Điều 6 khoản 2, số tiền trích dự phòng phụ thuộc vào tài sản Có và tỷ lệ dự phòng tương ứng của loại tái sản đó. Trong nhóm của hoạt động tín dụng các khoản tín dụng được phân vào đây chỉ được dựa vào một tiêu thức duy nhất là chưa đến hạn thanh toán. Hơn nữa điều đáng nói ở đây là nhóm này có tỷ lệ trích dự phòng là 0% mà một khoản tín dụng chưa đến hạn thanh toán, thì tổn thất của khoản tín dụng này chưa xảy ra những không có nghĩa là không thể xảy ra. Chẳng hạn một khoản tín dụng dù chưa tới hạn song nếu tổ chức tín dụng xác định được rằng, người đi vay đã hoàn toàn mất khả năng thanh toán, đồng thời tổ chức tín dụng cũng không có biện pháp nào để thu hồi nợ thì cho dù khoản tín dụng này chưa tới hạn thanh toán cũng có thể thấy được rằng nợ không bao giờ được thanh toán. Đó là chưa kể mặc dù chưa tới hạn thanh toán song đối với các khoản tín dụng khác nhau thì khả năng thanh toán của chúng khi đến hạn cũng khác nhau. Do vây, việc trích lập quỹ dự phòng cho tất cả các khoản tín dụng chưa đến hạn thanh toán với tỷ lệ giống nhau là 0% là quá cứng nhắc. Trong nhóm 2, nhóm 3 và nhóm 4 của hoạt động tín dụng việc phân lại cần có căn cứ vào nhiều tiêu thức hơn, gồm: có đảm bảo tín dụng hay không và thời gian nợ qúa hạn. Cho dù đây là yếu tố làm ảnh hưởng đến khả năng tổn thất của các khoán tín dụng, nhưng nếu chỉ căn cứ vào tiêu thức này để phân lại các tài sản có của hoạt động tín dụng thì chưa thuyết phục. Chúng ta chưa đủ cơ sở để nói rằng các khoản tín dụng thuộc nhóm 2 ít tốn thất hơn các khoản tín dụng thuộc nhóm 3, nhóm 4. Hơn nữa các khoản tín dụng của từng nhóm cũng không có gì đảm bảo là có cùng khả năng tổn thất. Vì thế, khó có thể xác định được một cách cứng nhắc rằng trong mọi trường hợp dự phòng rủi ro cho các khoản tín dụng thuộc nhóm 2 là 20%, nhóm 3 là 50% và nhóm 4 là 100%. Mặt khác căn cứ để trích lập quỹ là các món nợ qúa hạn đã phát sinh kỳ trước được phân loại theo thời gian. Việc dựa trên cơ sở thực trạng nợ qúa hạn năm trước đề phòng ngừa rủi ro, vì diễn biến tình hình nợ qúa hạn năm nay có thể khác đi. Hơn nữa, theo Điều 3 của Quy định, trong vòng 25 ngày đầu tiên của mỗi năm tổ chức tín dụng thực hiện phân loại tài sản Có và trích lập dự phòng để xử lý rủi ro. Như vậy thì chỉ có giá trị các tài sản Có đã được ngân hàng thực hiện và tồn tại trên sổ sách kế toán của các tổ chức tín dụng trong vòng 25 ngày đầu tiên thực hiện của mỗi năm mới được trích lập quỹ dự phòng. Vì vậy mà đối với các tổ chức tín dụng, cơ cấu và các khoản mục trên tài sản Có có thể ổn định một cách tương đối trong suốt cả năm, nhưng cũng có nhiều tổ chức tín dụng khác lại có cơ cấu cũng như giá trị các khoản mục trên tài sản Có bị biến động liên tục theo chu kỳ kinh tế, tính thời vụ…trong năm. Do vây, việc phân loại và trích lập dự phòng ở đầu năm để xử lý rủi ro cho cả năm là hơi cứng nhắc nên chăng nên tiến hành định kỳ thường xuyên trong năm. Ngoài ra theo quy định tại điều 10, các trường hợp sử dụng dự phòng chỉ là các trường hợp các tổ chức tín dụng bị tổn thất do rủi ro bất khả kháng, khách quan mà thôi. Tuy nhiên trong hoạt động tín dụng, ruor chủ quan do khách hàng cố tình không trả nợ do biến cố khách quan, bất khả kháng. Do vậy, nên chăng khi khách hàng cố tình không thực hiện nghĩa vụ của họ một cách chủ quan thì tổ chức tín dụng được sử dụng, cũng có quyền sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro. -Về thời gian gia hạn nợ vay: Việc gia hạn nợ vay thuộc thẩm quyền của ngân hàng Nhà nước theo quy định tại khoản 4 điều 54 Luật các tổ chức tín dụng về thời gian gia hạn nợ. Việc quy định này là quá cứng nhắc không tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý môi trường hoặc phát sinh từ thực tiễn đòi hỏi phải có sự quy định linh hoạt trong chính sách như trường hợp khách hàng bị thua lộ trong hai, ba năm do các nguyên nhân bất khả kháng. -Về thời hiểu khởi kiện : Quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế 6 tháng đối với hoạt động ngân hàng là qúa ngắn hạn, vì các khoản nợ vay của khách hàng khi đáo hạn mà chưa chả cho ngân hàng, ngân hàng thường phải thương lượng với các khách hàng để tìm ra giải pháp tốt nhất để thu nợ tránh phải đưa ra kiện tung tranh chấp trước toà án, do đó đã mất một khoảng thời gian dài. Nếu khách hàng biết được quy định này cố tinỳh không xác nhận nợ trong thời hạn 6 tháng, thì ngân hàng không thể khởi kiện do hết thời hiệu khởi kiện nên quyền lợi chính đáng của ngân hàng không được bảo vệ. Do vậy, thiết nghĩ nên kéo dài thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp có liên quan dến hoạt động ngân hàng. 1.2.Kiến nghị về xử lý nợ quá hạn -Ngân hàng Nhà nước cần tập trung nghiên cứu kinh nghiệm thực tế , theo dõi, đánh giá và tham khảo các giải pháp xử lý nợ quá hạn khó đòi của các nước trên thế giới và khu vực, triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học …,từ đó xây dựng và ban hành giải pháp, cơ chế xử lý nợ quá hạn chung cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, chỉ đạo các ngân hàng thương mại thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả. Các biện pháp xử lý nợ chủ yếu là : Cho gia hạn nợ, giãn nợ, xác định lại kỳ hạn nợ, thu gốc trước lãi sau, miễn giảm lãi quá hạn, xử lý tài sản chưa đủ thủ tục hoặc có liên quan đến vụ án… -Đề xuất Chính phủ chỉ đạo các ngành: Bộ tư pháp , Bộ công án, Toà án nhân dân tối cao, Tổng cục địa chính …thực hiện mối liên hệ chẵt chẽ, triển khai thống nhất và đồng bộ cấc vấn đề liên quan đến xử lý nợ qúa hạn của hệ thống ngân hàng thương mại. -Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của các công ty mua bán nợ và khai thác tài sản, từ đó giúp các ngân hàng thương mại giải toả có hiệu quả các khoản nợ qúa hạn khê đọng, các tài sản đảm bảo khó phát mại hoặc chưa xử lý được ngay, từ đó làm lành mạnh hoá chất lượng tín dụng, giải phóng nguồn vốn kinh doanh bị tồn đọng để tiếp tục đưa vào hoạt đông kinh doanh. Các công ty trên có thể trực thuộc ngân hàng nhà nước, được Nhà nước cấp vốn hoạt động, có quy chế và điều lệ hoạt động rõ ràng. Từng công ty phải xây dựng được mạng lưới các chi nhánh rộng khắp trên toàn quốc, từ đó có thể hoạt động một cách thuận lợi, có hiệu quả. Đồng thời ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam cần chủ động phối hợp với các cơ quan nghiên cứu, đào tạo lập chương trình kế hoạch và đầu tư thích đáng để tăng cường đào tạo một cách toàn diên cho đội ngũ cán bộ trong hệ thống. Ngoài ra, cần có chính sách đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng như: Trang bị phương tiện làm việc, quy định phụ cấp trách nhiệm trong lương, chế độ công tác phí…Thực hiện tốt những biện pháp trên, ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam sẽ xây dựng được đội ngũ cán bộ vững vàng về nghiệp vụ, tâm huyết với nghề nghiệp, tạo điều kiện nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh, tín dụng. 2. Kiến nghị đối với Chính phủ Để tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, giúp các ngân hàng thương mại mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng, đề nghị Nhà nước: -Hoàn thiện và ổn định các chính sách phát triển kinh tế xã hội, trên cơ sở đó tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh nói chung hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng. Một trong các nguyên nhân gây khó khăn cho san xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, giảm hiệu quả sử dụng vốn dẫn đến khó khăn trong trả nợ vay ngân hàng là môi trường kinh tế không ốn định, các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước có thay đổi đang trong quá trình điều chỉnh, đổi mới và hoàn thiện. Các doanh nghiệp phải chuyển hướng, điều chỉnh hoạt động, không theo kịp sự thay đổi cơ chế chính sách dẫn tới kinh doanh thua lỗ, ứ đọng hàng hoá, mất khả năng thanh toán, phát sinh nợ qúa hạn. Vì vậy Nhà nước cần có biện pháp, chính sách tạo ra môi trường ốn định và thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, trong đó có các ngân hàng thương mại. Trong quá trình điều chỉnh cơ chế, chính sách cần có những bước đệm hoặc những biện pháp tháo gỡ khó khăn xuất hiện do thay đổi cơ chế. Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách, biện pháp bảo vệ sản xuất kinh doanh trong nước, điều chỉnh và tăng cường hiệu lực pháp lý của các chính sách thuế, quản lý ngoại hối, ngăn chặn hàng nhập lậu…, bảo đảm tác dụng tích cực của hệ thống cơ chế chính sách. Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước cũng cần có các chính sách nhằm phát triển nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là xây dựng cơ sở hạ tầng, chính sách khuyến nông, khuyến ngư… -Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý đảm bảo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng thương mại. Đây là một nhân tố rất quan trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực hoạt động tín dụng. Hệ thống luật pháp quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật đảm bảo đầy đủ, đồng bộ hợp lý sẽ tạo ra môi trường lành mạnh, giúp cho việc mở rộng và nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn cho các hoạt động kinh doanh, từ đó hạn chế được rủi ro và nợ qúa hạn của các ngân hàng thương mại. Trong lĩnh vực ngân hàng, hiện nay Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng, cùng với các bộ luật khác đã được ban hành tạo ra hành lang pháp lý hết sức quan trọng. Tuy nhiên Nhà nước cần chỉ đạo việc ban hành, triển khai thực hiện các nghị định, thông tư hướng dẫn một cách nhanh chóng, đồng bộ giữa các cấp, các ngành, tránh gây ách tắc, không hình sự hoá, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các ngân hàng thương mại… -Kiên quyết đạ các ngân hàng thương mại vào đúng vị trí, chức năng của nó. Các ngân hàng thương mại phải thật sự được tự chủ về hoạt đông kinh doanh và tài chính, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng. Nhà nước cần có biện pháp xử lý kiên quyết các hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tín dụng cuat ngân hàng thương mại, tạo ra sức ép phi kinh tế và không chính thức cho các ngân hàng thương mại. Đồng thời, cần bổ sung tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại nhằm tăng tiềm lực tài chính, tăng cường khả năng cạnh tranh và sức đề khảng của hệ thống ngân hàng trước những biến động của thị trường. -Nhà nước cần sớm xây dựng và triển khai thực hiện hệ thống kiểm soát từ phía Nhà nước đối với hệ thống ngân hàng. Chính phủ cần tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động ngân hàng, thường xuyên phân tích, đánh giá chất lượng hoạt động của từng ngân hàng thương mại. Hệ thống ngân hàng phải đi đầu trong việc công khai hoá tài chính và có chế độ báo cáo định kỳ hàng năm, tuyệt đối không để tình trạng không rõ ràng, vừa làm giảm lòng tin vừa gây khó khăn cho việc quản lý, củng cố, lành mạnh hoá quan hệ hoạt động. Ngoài ra, Chính phủ cần thiết lập hệ thống cảnh báo sớm các nguy cơ có thể xảy ra và xây dựng, hoàn thiện hệ thống các giải pháp giải quyết, tháo gỡ các vấn đề phát sinh trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. -Sớm thành lập và đưa ngân hàng chính sách đi vào hoạt động: Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, ở nước ta hiện nay có rất nhiều hoạt động, chương trình tín dụng, chính sách: tín dụng ưu đãi hộ nghèo, tín dụng ưu đãi cho đầu tư phát triển theo kế hoạch nhà nước, tín dụng ưu đãi cho vùng núi cao, hải đạo, các vùng bị thiên tai, tín dụng cho các chương trình kinh tế: đánh cá xa bờ, trồng rừng, tạo công ăn việc lam, tôn nền làm sàn nhà trên cọc… Các hoạt động tín dụng này rất đa dạng, khác biệt nhau, đan xen nhau, do nhiều tổ chức thực hiện: Các ngân hàng thương mại, Kho bạc Nhà nước, Quỹ hỗ trợ phát triển… Chính vì vậy, việc quản lí các chương trình này gặp nhiều khó khăn, gây nhiều ảnh hưởng thiếu tích cực và kém hiệu quả. Các ngân hàng thương mại tham gia thực hiện tín dụng chính sách gặp rất nhiều khó khăn: quá tải trong hoạt động, khó quản lý khách hàng, tăng chi phí, bảng cân đối thiếu lành mạnh…Để quả lý thực hiện thống nhất các chương trình tín dụng chính sách, Nhà nước cần sớm thành lập ngân hàng chính sách theo luật các tổ chức tín dụng mà nòng cốt là ngân hàng phục vụ người nghèo. Điều đó sẽ tạo thuận lợi cho các ngân hàng thương mại tập trung vào hoạt động kinh doanh, quản lý tốt hoạt động tín dụng, từ đó mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, hạn chế được nợ qúa hạn. -Có chính sách hỗ trợ toàn diện cho ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam: Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam là ngân hàng hàng đầu ở nước ta hoạt động trong lĩnh vực nông nghịêp, nông thôn. So với các ngân hàng khác, ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam khó khăn trong hoạt động kinh doanh vì địa bàn hoạt động rộng và khó khăn, lĩnh vực hoạt động chịu nhiều rủi ro khách quan, chi phí hoạt động cao, thực hiện nhiều chương trình tín dụng, chính sách…Trong khi đó, các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước còn rất hạn chế. Do đó, ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam rất khó khăn trong việc cạnh tranh với các ngân hàng khác. Điều đó tất yếu cũng có tác động đến hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch. Để giúp ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam có đủ thế và lực nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ nặng nề trong phục vụ phát triển nông nghịêp nông thôn, nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thấp rủi ro, ổn định đời sống cán bộ…, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ toàn diện về nguồn vốn kinh doanh, trang bị hoạt động, tăng đơn giá tiền lương, cấp bù cho các chương trình tín dụng chính sách, xử lý rủi ro, hỗ trợ kinh phí, có chính sách cán bộ phù hợp… -Dành vốn ngân sách để xử lý các khoản nợ khó đòi cho các ngân hàng thương mại, đặc biệt là ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Đây là biện pháp quan trọng để giải quýêt tình trạng nợ khó đòi cao của các ngân hàng thương mại hiện nay, giúp các ngân hàng giải phóng được vốn kinh doanh, có điều kiện tập trung sức vào hoạt động kinh doanh, phục vụ tốt cho nền kinh tế phát triển và chính từ đó sẽ tăng nguồn thu cho ngân hàngân sách quốc gia. Biện pháp này cần thực hiện từng bước, phù hợp với khả năng thực tế và trước hết giải quyết các khoản nợ không có khả năng thu, kể cả các khoản nợ đã được khoanh trước đây. Trong điều kiện ngân sách còn khó khăn, nguồn vốn để xử lý nợ có thể sử dụng chính các khoản phải nộp ngân sách từ lợi nhuận của các ngân hàng thương mại trong những năm qua. -Chỉ đạo các ngành, các cấp có liên quan khẩn trương hướng dẫn và triển khai thực hiện các biện pháp xử lý tài sản đảm bảo nợ vay theo nghị định 178 đã được ban hành, đặc biệt là các phương thức xử lý tài sản, chuyển quyền sở hữu, rút ngắn thời gian cấp các giấy tờ chuyển nhượng, xử lý các tranh chấp… -Cần có quy định ưu tiên, miễn giảm các khỏan thuế trước bạ, thuế chuyển quyền sử dụng đất, giảm lệ phí bán đấu giá tài sản theo nghị định 86/CP trong trường hợp các ngân hàng phát mại, xiết nợ các tài sản đảm bảo nợ vay để thu hồi nợ, đặc biẹt là các khoản nợ khê đọng, khó đòi, các khoản nợ có khả năng bị tổn thất do tài sản bị giảm giá… -Chỉ đạo UBND tỉnh, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội và chính quyền các cấp tăng cường sự phối hợp, giúp đỡ ngân hàng xử lý, thu hồi nợ quá hạn, nợ khê đọng để giải phóng vốn kinh doanh, tái đầu tư phục vụ nền kinh tế. Sự phối hợp, giúp đỡ của các ngành, các cấp trước hết là việc thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các chức trách của mình, tập trung xử lý các khoản nợ khê đọng, khó đòi, các khách hàng chây ì thuộc phạm vi có liên quan. Đặc biệt, cơ quan toà án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án…cần giải quyết nhanh các đơn khởi kiện của ngân hàng, giúp xử lý nhanh các tài sản đảm bảo là bất động sản, thực hiện nghiêm việc thi hành án đối với các bản án có hiệu lực, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho ngân hàng. Ngoài ra UBND tỉnh cần chỉ đạo các cấp, các ngành tham gia có hiệu quả vào các tổ thu nợ của ngân hàng. -Đề nghị Chính phủ cho phép ngân hàng được chủ động và trực tiếp xử lý các tài sản còn lại mà thực chất các tài sản này được hình thành chủ yếu từ nguồn vốn vay ngân hàng, nếu xử lý theo trật tự ưu tiên theo luật phá sản sẽ không hợp lý và gây rủi ro lớn cho ngân hàng. -Chỉ đạo Ban xoá đói giảm nghèo các cấp và các ngành cóliên quan rà soát, xoá nợ cho các khoản cho vay xoá đói giảm nghèo giảm nghèo thật sự không còn khả năng thu. Theo quy định của UBND tỉnh, đây là những khoảnh cho vay chủ yếu để tiêu dùng đối với các hộ đói, các hộ thuộc diện chính sách, ngân hàng không thẩm định trước khi cho vay, chỉ thực hiện giải ngân theo danh sách được các ban xoá đói giảm nghèo duyệt. -Đối với các đối tượng vay vốn hiện nay thật sự khó khăn trong sản xuất kinh doanh do các nguyên nhân thiên tai, bất khả kháng như: Nuôi trồng hải sản nước mặn, phương tiện vận tải, đánh bắt cá…, đề nghị Chính phủ, UBND tỉnh chỉ đạo các Sỏ, Ban ngành chỉ đạo, xây dựng phương án khôi phục sản xuất kinh doanh và hỗ trợ bằng một phần vốn ngân sách, nguồn vốn ưu đãi dài hạn…Đối với các khách hàng không có khả năng khôi phục sản xuất, UBND tỉnh cần thu hồi mặt đất, mặt nước để sử dụng vào mục đích khác hoặc giao cho đơn vị khác và tính giá trị đề bù thoả đáng, chuyển cho ngân hàng để thu nợ. Các trường hợp khó đòi do nguyên nhân bất khả kháng khác, cần chỉ đạo việc xác nhận đầy đủ, chính xác từng khoản nợ cụ thể để giúp ngân hàng có đủ cơ sở xử lý bằng quỹ bù đắp rủi ro. KẾT LUẬN Hoạt động ngân hàng là hoạt động quan trọng góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Do đó vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng của các ngân hàng luôn được quan tâm. Trọng tâm của vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng của các ngân hàng là giải quyết tình trạng nợ qúa hạn. Hiện nay, nợ qúa hạn đang là vấn đề bức xúc của các ngân hàng, vì vậy các ngân hàng đang dồn toàn tâm toàn lực để giải quyết. Không nằm ngoài xu hướng đó, Sở giao dịch phấn đấu trong năm 2003 không có nợ qúa hạn mới phát sinh, đồng thời tiếp tục xử lý nợ qúa hạn đã phát sinh từ những năm trước đó. Để làm được điều đó cần có sự tiếp tục tích cực, chủ động, linh hoạt của Sở giao dịch ngân hàng Nông nghịêp và sự hỗ trợ đắc lực của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền từ việc đảm bảo các điều kiện và môi trường cho hoạt động tín dụng. Trong nên kinh tế thị trường đầy rẫy những rủi ro hiện nay thì hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là một hoạt động hàm chứa nhiều rủi ro nhất. Do vậy, việc nghiên cứa xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng là một công việc có ý nghĩa. Với suy nghĩ đó, tôi đã đặt trọng tâm nghiên cứu vào công tác xử lý nợ qúa hạn trong hoạt động tín dụng tại Sở giao dịch. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị giải pháp mong góp một phần nhỏ bé vào công tác xử lý nợ qúa hạn tại Sở giao dịch ngân hàng Nông nghịêp. Hi vọng rằng trên cơ sở những biện phảp đã thực hiện cùng với những định hướng và giải pháp mới, Sở giao dịch ngân hàng Nông nghiệp sẽ có những bước tiến tích cực trong công tác đầu tư tín dụng. Do đề tài nghiên cứu rộng và phức tạp, thời gian nghiên cứu không dài và trình độ hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong muốn được các thầy cô giáo, các bạn và tất cả những ai quan tâm đến những lĩnh vực nay tiếp tục giúp đỡ, đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện, bản thân tôi có điều kiện học hỏi thêm về lý luận và thực tiễn. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNganHang 59.doc
Tài liệu liên quan