Chuyên đề Chế độ hưu trí ở tỉnh Thái Bình: Thực trạng và giải pháp

Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế các chế độ chính sách BHXH ở nước ta cũng dần dần được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Kể từ khi ra đời cho đến nay đã hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành các chính sách BHXH đã đáp ứng được nhu cầu và ổn định đời sống của người lao động củng cố lòng tin của người lao động đối với Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên do việc sửa đổi và bổ sung các chế độ chính sách chỉ mang tính giải pháp tình thế ở từng giai đoạn cụ thể, do vậy, trước tình hình mới như hiện nay các chế độ chính sách về BHXH vẫn còn một số những hạn chế, nảy sinh những khúc mắc cần được giải quyết. Song song với phát triển của chính sách BHXH nói chung và chế độ bảo hiểm hưu trí nói riêng ngày càng hoàn thiện hơn đáp ứng nhu cầu của đông đảo người lao động. Đồng thời giải quyết quyền lợi chính đáng của người lao động khi về nghỉ hưu giúp họ ổn định cuộc sống khi có sự thay đổi đột ngột giữa thời gian họ công tác và thời gian họ không còn công tác nữa và trở về nghỉ hưu. Tuy nhiên mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng cùng với việc đổi mới không ngừng của các chế độ chính sách BHXH và công tác quản lý BHXH trong thời gian tới, BHXH Việt Nam nói chung và tỉnh Thái Bình nói riêng chắc chắn sẽ đạt được những thành công của mình trong vấn đề đảm bảo về mặt xã hội đối với người lao động, giúp họ yên tâm hơn và hăng hái tham gia lao động sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, nhằm mục tiêu chung cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đang trên đà phát triển; cần khẩn trương chuẩn bị kỹ lưỡng, dự án luật BHXH trình quốc hội thông qua trong thời gian ngắn nhất./.

doc87 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1899 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Chế độ hưu trí ở tỉnh Thái Bình: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của người về hưu ngày một cao. Tuy nhiên càng về sau số chi này sẽ giảm đi, cùng với nó là nguồn chi do quỹ BHXH đảm bảo ngày một tăng lên qua các năm. Điều này phản ánh được hiệu quả của hoạt động BHXH nói chung BHXH Thái Bình nói riêng ngày càng phát triển. Mặt khác chi cho tới một mức nào đó thì nguồn chi cho các đối tượng nghỉ hưu sẽ do quỹ BHXH đảm bảo, đây cũng là mục tiêu của toàn ngành BHXH Việt Nam đặt ra nhằm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Xét về các năm, ta thấy giữa các năm có sự tăng lên một cách đột biến về tình hình chi trả bảo hiểm hưu trí - năm 2000 là 46.297 triệu đồng, năm 2001 là 179.248 triệu đồng, năm 2002 là 204.315 triệu đồng, năm 2003 là 210.305 triệu đồng, năm 2004 là 211.315 triệu đồng, năm 2005 là 266.951 triệu đồng, năm 2006 là 320.144 triệu đồng. Trong các năm này ta nhận thấy từ năm 2001 với các năm 2002 có sự tăng lên một cách đột biến, việc tăng lên này là do có sự tác động của các chế độ chính sách của Nhà nước về chế độ BHXH thông qua việc Nhà nước nâng mức hưởng lương hàng tháng lên 1,2% (144.000 đồng) mặt khác ở năm 2003 với năm 2002 số chi do ngân sách Nhà nước tăng lên không đáng kể vì năm 2002 BHXH tiến hành giải quyết những tồn tại trước đây chưa giải quyết được cho đối tượng nghỉ hưu (trước năm 2000). Số chi cho đối tượng này được hạch toán chi vào ngân sách Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Do vậy ảnh hưởng về chi trả cho đối tượng nghỉ hưu do chính sách Nhà nước là rất lớn. Nhưng dự báo về số chi này sẽ tăng nhanh. Năm 2005 và năm 2006 có sự điều chỉnh lương hưu theo Nghị định 175/CP và Nghị định 77/CP. Vì có sự biến động về tiền lương, tỷ lệ lạm phát giảm, ngoài ra đến một mức độ nào đó thì số chi này sẽ ổn định vì cùng với việc tăng số người về hưu thì cũng có một số lượng không nhỏ số người đang hưởng lương hưu chết đi. Tóm lại qua kết quả đạt được này đã phản ánh được hiệu quả của việc thực hiện chế độ chính sách BHXH, quá trình này lại xuất hiện một số những tồn tại cần được sửa đổi và bổ sung cho hoàn thiện hơn. - Về tuổi đời theo quy định thì người lao động cần đạt đến một độ tuổi nhất định nào đó mới được nghỉ hưu, nếu họ có đủ thời gian tham gia đóng BHXH. Nếu không theo quy định - thì họ chỉ cần 38 tuổi họ cũng được nghỉ hưu (Nếu có đủ 20 năm tham gia đóng BHXH) có 15 năm làm việc nặng nhọc, độc hại, mất khả năng lao động từ 61% trở lên. - Vẫn còn hiện tượng ghép giữa chế độ bảo hiểm hưu trí với chế độ ưu đãi người có công với cách mạng. - Đối với chế độ hưu chờ, khi người lao động chờ đủ điều kiện nghỉ hưu, quỹ BHXH sẽ thất thu, mặt khác lại tạo ra sự không bình đẳng giữa người về hưu và người chờ hư. - Việc trừ 1% mỗi năm đối với người về hưu trước tuổi theo quy định là hoàn toàn hợp lý vì theo lý thuyết nếu căn cứ vào tình hình thực tế, trong khi giá trị tiền lương còn thấp, cùng với sự mất giá của đồng tiền, tỷ lệ này được trừ là thuận, phản ánh giữa cống hiến và hưởng thụ. Đối với những người về hưu có trên 30 năm tham gia đóng BHXH từ năm thứ 31 trở đi cứ mỗi năm đóng BHXH được trợ cấp một lần bằng 1/2 tháng lương bình quân làm căn cứ tính mức lương nghỉ hưu, nhưng tối đa không quá 5 tháng là hợp lý, nhất là đối với những người nhiều năm cống hiến. Do đó không có tác dụng khuyến khích người lao động trong việc thực hiện nghĩa vụ tham gia đóng BHXH: Bởi vì. - Người lao động đóng 5% tiền lương vào quỹ BHXH để được hưởng các chế độ hưu trí trong đó chủ yếu là hưởng chế độ trợ cấp bảo hiểm hưu trí nhưng họ chỉ được hưởng mức lương ở trên 30 năm còn nếu quá số năm này thì họ chỉ nhận trợ cấp 1 lần theo quy định. Như vậy đối với người có thời gian tham gia BHXH ở năm thứ 40 trở đi sẽ không được hưởng trợ cấp. Trong khi số những người này lại có thời gian tham gia hoạt động trong kháng chiến có nhiều công lao cho cách mạng. - Cách tính lương hàng tháng hoặc một lần như hiện nay theo quy định lấy tròn năm (đủ 12 tháng) tham gia BHXH. Mới được tính tròn 1 năm và không tính tháng lẻ. Trong thực tế rất ít người lao động nghỉ hưu có đủ tháng mà thông thường họ có những tháng lẻ và thiếu có thể là 1,2,... tháng nhưng khi tính lương hưu hay trợ cấp BHXH 1 lần thì họ không được tính tháng lẻ này là thiệt hại cho người lao động. - Theo quy định việc lấy mức lương bình quân gia quyền của 5 năm cuối tính hưởng lương hưu là chưa hợp lý. Trên thực tế có những người có mức lương 5 năm cuối cao nhất, có những người 5 năm cuối lại có mức lương thấp nhất. Như vậy điều này là không hợp lý do vậy điều này càn được nghiên cứu và điều chỉnh theo Nghị định 93/CP. - Việc quy định mức đóng vào quỹ BHXH để bổ sung do quỹ giải quyết chế độ bảo hiểm hưu trí, tử tuất như hiện nay là 5% tiền lương đối với người lao động, chủ sử dụng lao động là 15% quỹ lương. Khi người lao động được nghỉ hưu được nhận 75% mức lương bình quân của 5 năm cuối của tiền lương tháng và mức lương hưu thấp cũng được điều chỉnh bằng mức lương tối thiểu do Nhà nước công bố tại thời điểm. Với quy định này dự báo trong 8 - 10 năm nữa thì quỹ BHXH sẽ bị thâm hụt vì thu không đủ chi trong khi đó nguồn chi cho các chế độ bảo hiểm hưu trí chiếm tỷ trọng lớn từ 61 - 70% trong tổng số chi cho các chế độ BHXH. Do đó về lâu dài cần điều chỉnh lại mức đóng cho phù hợp. - Về chế độ trợ cấp 1 lần, mục đích của chính sách là khuyến khích người lao động không về hưởng trợ cấp 1 lần, mà cố gắng để người lao động về hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng. Tuy nhiên trên thực tế còn phát sinh những trường hợp do những nguyên nhân khác nhau, người lao động phải nghỉ việc khi họ không đủ điều kiện về nghỉ hưu, hưởng trợ cấp hàng tháng thì được giải quyết hưởng trợ cấp 1 lần. Về mặt lý thuyết, việc giải quyết chế độ trợ cấp 1 lần có lợi cho quỹ BHXH nếu các yếu tố khác không phát sinh. Nhưng điều cần bàn tới ở đây, nếu người lao động có khoản tiền tích luỹ khá lớn và được trợ giúp của con, cháu, cộng với khoản tiền trợ cấp này thì cuộc sống của họ được ổn định. Mặt khác đối với những người già cả, neo đơn không có khoản tiền tích luỹ,... khi hưởng trợ cấp 1 lần thì họ sẽ có một số tiền nhất định để hưởng tuổi già, nhưng cuộc sống đòi hỏi nhiều khoản chi phí (ốm, đau,...) do vậy cuộc sống của họ sẽ rất khó khăn đây là điểm cần chú ý xem xét lại cho phù hợp. Chế độ bảo hiểm hưu trí cũng như các chế độ khác trong hệ thống BHXH có tác dụng rất lớn trong việc bảo đảm an toàn xã hội, ổn định cuộc sống cho người lao động, giúp họ yên tâm tham gia lao động sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội và bản thân họ và gia đình họ. Một người đang được hưởng chế độ trợ cấp bảo hiểm hưu trí hàng tháng nếu bị TNLĐ hoặc bệnh nghề nghiệp được xếp hạng thương tật 31% trở lên được hưởng trợ cấp hàng tháng, cùng với chế độ hưu trí theo quy định số tiền trợ cấp hàng tháng này giúp người về hưu trang trải những chi phí trong cuộc sống của họ. Đây là mối quan hệ chặt chẽ, bổ trợ cho nhau để phần nào giảm bớt khó khăn cho người về hưu. Ngoài ra chế độ trợ cấp còn được thực hiện đan xen, liên kết chặt chẽ với các chế độ khác trong hệ thống các chế độ chính sách BHXH. - Người lao động khi về hưu vẫn được trợ cấp về bảo hiểm y tế ở các cơ sở y tế nơi họ cư trú và hưởng lương hưu, nhằm mục đích khám chữa bệnh khi họ bị ốm, đau,... Nếu có rủi ro đặc biệt đối với người về hưu khi họ chết thì thân nhân của họ, con cái mà khi họ còn sống phải nuôi dưỡng trực tiếp được xem xét giải quyết chế độ trợ cấp tử tuất theo quy định. Trong hệ thống các chế độ BHXH - chế độ bảo hiểm hưu trí có một mối quan hệ mật thiết với các chế độ khác, chế độ này là cơ sở, tiền đề tạo điều kiện cho chế độ khác đạt kết quả. Bảo hiểm hưu trí nhằm mục đích góp phần bảo đảm cuộc sống ổn định cho người về hưu. 3.3. Thực trạng đời sống người về hưu ở tỉnh Thái Bình. a. Về đời sống vật chất Đời sống người về hưu, khi họ còn đang làm việc thì ngoài lương chính ra họ còn có thểm các khoản thu nhập, phụ cấp, trợ cấp, tiền thưởng,... nhưng đến khi họ về hưu thì họ chỉ nhận được một khoản tiền duy nhất lương hưu và không còn khoản thu nhập nào khác, đó là những người được hưởng trợ cấp hàng tháng, còn đối với những người hưởng trợ cấp 1 lần thì đời sống của họ sẽ ra sao? Đa số người về hưu cho rằng đời sống về vật chất của mình kém đi so với khi còn đang làm việc. Ở nước ta nói chung và tỉnh Thái Bình nói riêng do điều kiện về nhiều mặt còn hạn chế, tiền lương của người lao động nói chung chỉ đu răn, không có để tích luỹ. Trong khi đó cuộc sống của người lao động trong thực tế còn nhiều phát sinh. Như học hành của con cái, cha già, mẹ héo, hiếu, hỷ,... Do vậy đời sống của người lao động khi về hưu còn rất nhiều khó khăn, đứng trên bình diện tổng thể với tiền lương hưu hàng tháng thấp. Có thể thấy điều này qua bảng dưới đây: Bảng 11: Mức sống vật chất của nhóm xã hội về hưu phân theo nơi ở và giới tính Đơn vị: % Thực trạng vật chất Nông thôn Thành thị Chung Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Khá hơn 35,61 60,00 15,22 22,22 25,27 32,43 Không hơn, không kém 9,7 20,0 33,33 33,33 23,28 29,73 Kém hơn 43,7 20,0 44,44 44,44 50,36 37,84 Khó so sánh 0,47 0,77 0,76 Tổng 100 100 100 100 100 100 Theo bảng trên, chúng ta thấy cuộc sống của những người về hưu qua 2 khu vực nông thôn và thành thị có sự chênh lệch đáng kể. Mỗi khu vực có một ưu thế hơn; khu vực thành thị nhìn chung cuộc sống khó khăn, ngoài tiền trợ cấp lương hưu hàng tháng không có nguồn thu nhập nào khác, nếu họ không có nghề phụ,... trong thực tế đối tượng nghỉ hưu tuổi đả cao, sức khoẻ yếu do vậy nguồn thu khác rất ít, thậm chí không đủ chi tiêu nếu không có trợ giúp của con cái. Theo giới tính với nam 56,92%, nữ 44,44% trong đó nam giới có cuộc sống khó khăn hơn nữ giới thường là trụ cột của gia đình khi thu nhập của họ bị giảm, sẽ gây ảnh hưởng tới cuộc sống của chính họ và gia đình họ. Nhưng đối với nữ giới lại có cuộc sống vật chất thấp hơn nam giới do mức sống bị giảm sút nên rất khó khăn cho họ. Trong khi đó họ có rất ít cơ hội để tăng gia sản xuất nhằm tăng thêm thu nhập cho gia đình họ. Những người ở nông thôn lại có cuộc sống về vật chất đỡ bớt khó khăn hơn thể hiện ở nam chiếm 43,7%, nữ chiếm 20,0%. Vì họ có thêm những nguồn thu nhập khác như: Trồng trọt, chăn nuôi,làm kinh tế VAC... đặc biệt đối tượng thuộc huyện Thái Thuỵ, Tiền Hải, Kiến Xương, Hưng Hà họ có ưu thế về nghề truyền thống ,dệt, hàng mỹ nghệ cao,nghề biển. Cùng với các ưu thế đó giá cả ở khu vực nông thôn thấp hơn khu vực thành thị. Mặt khác giữa các nhóm nghỉ hưu, mức lương có sự chênh lệch đáng kể.Đối với cán bộ quân đội khi còn công tác họ có mức lương khá và đóng quỹ BHXH cao, do vậy mức lương của họ cao hơn so với rất nhiều mức lương của phần lớn đối tượng cán bộ viên chức nghỉ hưu. Tuy nhiên phải chú ý đến các đối tượng có quá trình công tác và tham gia BHXH dài, họ giữ vị trí cao trong bộ máy của Nhà Nước và cơ quan của Đảng. Như vậy cuộc sống của người về hưu cơ bản nhìn chung còn rất khó khăn. Cùng với giá cả sinh hoạt ngày càng cao, mức lương hưởng hàng tháng gần như cố định. Mặc dù vừa qua nhà nước có điều chỉnh lương tối thiểu lên 210.000 đồng, lương hưu được điều chỉnh theo Nghị định 175/CP, nghị định 77/CP tăng thêm là 16.7 %. Nhưng so với sự gia tăng của vật giá, mức tăng nên không đáp ứng ưu cầu . Tuy nhiên sự điều chỉnh này cũng là góp phần giảm bớt mức nào đó khó khăn cho đối tượng chính sách nói chung và người về hưu nói riêng. Tuy nhiên, với đối tượng về hưu họ không chỉ muốn nhận duy nhất tiền lương, mà họ còn tiến hành tăng gia sản xuất bằng nhiều hình thức khác nhau (làm kinh tế CAV, bán hàng...) để tăng thêm thu nhập. Đây là vấn đề mặt nào đó mang tính tích cực nhưng nó cũng thể hiện được những yếu điểm của chính sách BHXH hiện hành. Trên thực tế thì đồng lương hưu chỉ đáp ứng được nhu cầu tối thiểu củ người về hưu như ăn, uống... nhưng đối với họ còn có các nhu cầu khác như ăn dưỡng tuổi già, du lịch... Những hoạt động đối với họ chỉ trông mong vào sự chu cấp của con cháu hoặc từ nguồn thu nhập thêm của họ. Tóm lại: Mặc dù mức lương hưu chỉ bảo đảm tối thiểu cho người về hưu có cuộc sống bình thường và ổn định, như chúng ta cũng phải nhận thấy rằng chế độ trợ cấp này đã thể hiện tính xã hội cao mà Đảng và Nhà nước ta trong việc quan tâm đối với người về nghỉ hưu. b. Đời sống về tinh thần. Bất cứ người lao động nào trong xã hội hiện nay đều nhận thấy, khi nền kinh tế càng phát triển, con người được đáp ứng đủ về mặt vật chất thì nhu cầu mới xuất hiện, như nhu cầu về du lịch, vui chơi, giải trí... ngày càng đòi hỏi được đáp ứng. Đối với người về hưu, càng cần có nhu cầu này vì nó thiết thực cho cuộc sống an hưởng tuổi già. Nó giúp họ tìm được giá trị của cuộc sống có ích. Như vậy nhu cầu về tinh thần là rất quan trọng đối với người về hưu, tuy nhiên nếu so sánh về nhu cầu này về đời sống tinh thần trước khi chưa nghỉ hưu ta thấy như sau: Bảng 12: Đời sống tinh thần của người hưu trí so với trước khi nghỉ hưu Thực trạng vật chất Nông thôn Thành thị Chung Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Khá hơn 52,15 47,06 47,34 58,49 49,73 55,71 Không hơn, không kém 29,03 23,53 39,89 37,74 34,49 34,24 Kém hơn 17,74 29,41 12,23 3,77 14,49 10,00 Khó so sánh 1,08 0 0,53 0 0,80 0 Tổng 100 100 100 100 100 100 Bảng trên cho ta thấy: Đời sống tinh thàn của người về hưu ở hai khu vực nông thôn và thành thị rất khác nhau. Nhìn chung số người ở thành thị có đời sống tinh thần rất cao. Trong khi đời sống tinh thần của người về hưu ở nông thôn là hạn chế. Trong thực tế, ta thấy số người về hưu ở thành thị có nhu cầu về đời sống tinh thần cao. Nhưng cuộc sống đô thị luôn luôn có sự cạnh tranh để tồn tại. Cùng với nó là giá cả sinh hoạt cao, do vậy người về hưu luôn phải bươn trải để có thêm thu nhập, do đó đời sống tinh thần của họ không được thoải mái nhiều qua bảng trên nam 47,34%, nữ 58,49%. Trong khi đó số người về hưu ở khu vực nông thôn cảm thấy thoải mái hơn, họ vui vẻ cùng con cháu, chăn nuôi, trồng trọt... để tăng thêm thu nhập. Tỷ lệ này ở nam là 52,15% và nữ là 47,06%. Như vậy đời sống tinh thần là rất quan trọng đối với mọi người nói chung và những người về hưu nói riêng. Điều này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với người về hưu và toàn xã hội. Cùng với các chính sách thúc đẩy nền kinh tế phát triển, việc xây dựng các loại hình dịch vụ ngày càng cao của mọi người lao động trong đó có bộ phận đông đảo người lao động về hưu là một tất yếu. Mặt khác cần phải tăng cường sự quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện của các cấp, các ngành nơi người lao động về nghỉ hưu, thành lập tổ hưu trí, câu lạc bộ hưu trí, câu lạc bộ dưỡng sinh, tổ chức các hoạt động tham gia du lịch sinh thái, du lịch văn hoá... Thực hiện tốt các lĩnh vực này sẽ mang lại cho người về hưu những lợi ích to lớn, góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phát triển, cải thiện đời sống cho mọi người lao động. Làm tốt điều này sẽ phát huy được truyền thống cách mạng, nêu gương tốt con cháu noi theo, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở nơi cư trú. Tăng cường truyền thống đoàn kết, trọng người già, nhất là những người có công với Đảng, với dân. Quan tâm chăm sóc bồi dưỡng và phát huy, tôn trọng, trọng dụng những người về hưu là trách nhiệm của các cấp, các ngành mà cụ thể là hệ thống chính trị ở cơ sở nơi người về hưu cư trú. Trước hết cần chăm lo về mặt tinh thần, tình cảm như hỏi thăm khi ốm đau, gặp mặt nhân ngày tế, ngày lễ, phối hợp với các cơ quan BHXH để thực hiện tốt chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với người về hưu, khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi để người về hưu tiếp tục cống hiến những khả năng còn lại của họ nhằm đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước ngày càng giàu và đẹp. CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ Ở TỈNH THÁI BÌNH TRONG THỜI GIAN TỚI Sự nghiệp BHXH là một lĩnh vực được Đảng và Nhà nước rất quan tâm, trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của người lao động. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã đề ra. Do vậy ngay từ khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm tới việc xây dựng và ban hành chế độ chính sách BHXH đối với người lao động, thông qua Pháp lệnh quy định về các chế độ BHXH. Tuy nhiên trong từng thời kỳ phát triển khác nhau của đất nước, đòi hỏi các chế độ chính sách phải thường xuyên sửa đổi và bổ sung cho phù hợp tình hình mới. Trước những đòi hỏi này, bước tiếptheo của các Pháp lệnh của Chính phủ, Nhà nước đã ban hành (Điều lệ BHXH tạm thời) kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27 tháng 12 năm 1961 và Nghị định 236/HĐBT ngày 19 tháng 8 năm 1985, Nghị định 43/CP ngày 29 tháng 6 năm 1993 và Điều lệ BHXH kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26 tháng 01 năm 1991. Đây là những văn bản pháp quy đánh dấu từng mốc thời gian về việc sửa đổi và bổ sung các chế độ chính sách BHXH. Qua gần 7 năm thực hiện chế độ chính sách BHXH theo Nghị định 12/CP cho đến nay, ở trên phạm vi cả nước nói chung và tỉnh Thái Bình nói riêng, Nghị định này đã bộc lộ những tồn tại cần được xem xét lại nhằm sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế. Trước những tồn tại đó, chế độ chính sách BHXH, bảo hiểm hưu trí đặt ra trước chúng ta nhiều yêu cầu, cần phải được thay đổi cho phù hợp khắc phục những tồn tại để hoàn thiện hơn chế độ chính sách BHXH trong điều kiện nền kinh tế thị trường. 1. Những quan điểm đổi mới chế độ hưu trí. 1.1. Đổi mới về nhận thức, đối tượng tham gia BHXH và hình thức tham gia BHXH. - Đổi mới về nhận thức: Ngày nay chế độ bảo hiểm hưu trí có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động, nó đảm bảo điều kiện vật chất cũng như điều kiện tinh thần của nhà nước đối với người lao động, thông qua sự tích tụ dần dần khoản đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động và nguồn hỗ trợ của ngân sách Nhà nước. Qua việc đóng góp này, góp phần tạo lập nên nguồn quỹ BHXH để chi trả cho các chế độ trợ cấp BHXH nói chung và chế độ bảo hiểm hưu trí nói riêng. Như vậy, việc trợ cấp cho chế độ bảo hiểm hưu trí là việc chi trả cho người lao động khi họ hết tuổi lao động, hoặc đủ điều kiện để nghỉ hưu nhằm đảm bảo cho sự thay đổi đột ngột nguồn thu nhập của người lao động khi họ về hưu. Do vậy Nhà nước cần đẩy mạnh và quan tâm nhiều đến công tác tuyên truyền về BHXH để nâng cao nhận thức của người lao động, giúp họ có nhận thức đúng đắn hơn về BHXH, tự nguyện tham gia đóng BHXH. Như vậy đổi mới nhận thức của người lao động nói chung và của người sử dụng lao động là việc làm rất cần thiết vì qua việc người lao động tham gia BHXH là việc người lao động tự bảo vệ cho chính bản thân họ và những người thân của họ ngay cả khi họ còn tham gia lao động và đặc biệt là khi họ không tham gia lao động, thì chế độ trợ cấp hưu trí là chỗ dựa vững chắc cho họ. Mức trợ cấp này có thể là hàng tháng hoặc trợ cấp 1 lần. - Đổi mới về đối tượng tham gia BHXH và hình thức tham gia. Hiện nay trong xã hội có rất nhiều loại hình lao động như lao động trong các doanh nghiệp, xí nghiệp nhà nước, lao động trong nông thôn, lao động tiểu thủ công nghiệp, nhưng việc quy định như hiện nay chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp, xí nghiệp có sử dụng từ 10 lao động trở lên và lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy đối với chế độ bảo hiểm hưu trí thì việc quy định đối với lao động thuộc diện bắt buộc, khi người lao động về hưu họ có quyền hưởng chế độ hưu trí suốt đời. Trong khi đó người lao động không thuộc diện bắt buộc ở trên thì họ không được một khoản trợ cấp nào mặc dù họ cũng tham gia lao động sản xuất, khi còn trẻ, khoẻ, cũng cống hiến cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Khi họ đã có tuổi và không tham gia lao động sản xuất được nữa thì nguồn thu nhập của họ là sự tích luỹ một khoản tiền nhất định khi họ còn tham gia lao động sản xuất cộng với sự trợ giúp của con cháu. Nhưng phải chăng ai cũng có một khoản tiền tích luỹ này? Trên thực tế có rất nhiều người lao động như lao động vùng Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Vũ Thư,... có nguồn thu nhập không ổn định, phụ thuộc vào mùa vụ, thời tiết làm chỉ đủ ăn và không có tích luỹ. Như vậy áp dụng loại hình bắt buộc này mới chỉ chiếm tỷ lệ rất ít so với tổng số lao động của tỉnh trong khi đó cả nước là 14%. Do vậy những đòi hỏi đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách là cần mở rộng đối tượng tham gia, hình thức tham gia có thể là (Bắt buộc, hoặc tự nguyện) lao động trong nông nghiệp, tiến tới BHXH toàn dân. 1.2. Đổi mới và hoàn thiện chế độ chính sách bảo hiểm hưu trí. Cùng với việc đổi mới và hoàn thiện chế độ chính sách bảo hiểm hưu trí này cần phải xác định rõ ràng mức đóng, mức hưởng một cách cụ thể: Đối với mức đóng như hiện nay là 20% trong đó: Người sử dụng lao động đóng 15% quỹ lương, người lao động đóng 5% tiền lương cấp bậc, chức vụ. Với mức này là thấp không đảm bảo nguồn chi vì mức hưởng lương hưu tối đa là 75% như tỉnh Thái Bình. Thu BHXH một năm chỉ đạt 66 tỷ trong khi đó số tiền chi cho các đối tượng trong 1 năm lớn hơn 320 tỷ đồng. Do vậy mục tiêu của BHXH đặt ra là dần dần chủ động hoàn toàn trong việc chi trả cho đối tượng được hưởng các chế độ BHXH. Ngoài ngân sách Nhà nước sẽ không phải chi trả một phần nào cho các đối tượng này nữa. Trong tình hình hiện nay, trước mắt chưa có vấn đề gì xảy ra nhưng về lâu dài mức chi này cũng không ngừng tăng lên, cùng với nó là việc đầu tư để tăng nguồn quỹ lại bị hạn chế, do nguồn quỹ này bị thâm hụt. Như vậy để cho việc chi trả ngày một tốt hơn cho các đối tượng hưởng chế độ trợ cấp BHXH nói chung và chế độ bảo hiểm hưu trí nói riêng ở đây cần nâng mức đóng lên cho phù hợp. - Đối với điều kiện hưởng và mức hưởng. Hiện nay chúng ta đang thực hiện Nghị định 12/CP và thực hiện Nghị định 93/CP về sửa đổi bổ sung về chế độ bảo hiểm hưu trí nhưng quá trình thực hiện lại nảy sinh những tồn tại: Việc quy định tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ như hiện nay là không công bằng, vấn đề tỷ lệ hưởng tối đa ở đây là phù hợp, việc lấy mức lương bình quân của 5 năm cuối để tính lương là chưa hợp lý. Mức trợ cấp 1 lần như hiện nay liệu có cần thiết không? đối với người tham gia đóng BHXH trên 30 năm trở đi cứ mỗi năm tham gia được hưởng nửa tháng lương, nhưng tối đa không quá 5 tháng là điều bất hợp lý. Thông thường những trường hợp này lại là những người có công lớn cho xã hội, cho cách mạng. Như vậy, từ nhận định trên đây chúng ta thấy việc đổi mới và hoàn thiện chế độ chính sách bảo hiểm hưu trí là hoàn toàn hợp lý với yêu cầu của người lao động cũng như của toàn xã hội. 1.3. Đổi mới chế độ chính sách bảo hiểm hưu trí hiện hành sang chế độ chính sách bảo hiểm hưu trí mới. Phải thực hiện dần dần và có những bước đi biện pháp phù hợp. Trước hết cần tách phần trợ cấp ưu đãi ra khỏi chế độ trợ cấp bảo hỉêm hưu trí. Ở đây phần trợ cấp ưu đãi sẽ do ngân sách Nhà nước chi trả, còn phần trợ cấp bảo hiểm hưu trí sẽ do nguồn quỹ BHXH chi trả cần được thực hiện tốt mục tiêu này. Đổi mới cơ chế quản lý BHXH. Với định hướng xã hội hoá và đa dạng hoá, cơ chế quản lý BHXH nói chung và quản lý bảo hiểm hưu trí nói riêng cũng phải hoàn thiện, cần nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý Nhà nước về BHXH của ngành Lao động thương binh - xã hội từ trung ương xuống địa phương với các công cụ quản lý, công tác thanh tra và các chế tài hữu hiệu. Đối với hệ thống hoạt động sự nghiệp BHXH, để phù hợp với tình hình mới, cần nghiên cứu theo hướng hình thành nhiều hệ thống hoạt động sự nghiệp BHXH, đồng thời nâng cao mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước về BHXH với các hoạt động sự nghiệp BHXH trên cơ sở quy định của pháp luật, các vấn đề này được điều chỉnh bởi nội dung của Luật BHXH. Việc mở rộng đối tượng tham gia, hoàn thiện chính sách BHXH, xây dựng pháp luật BHXH có ý nghĩa hết sức quan trọng cho mục tiêu chiến lược về con người của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nhưng BHXH cũng là việc hết sức phức tạp và khó khăn vì trong việc mở rộng đối tượng BHXH và mở rộng chế độ BHXH còn nhiều vấn đề chúng ta chưa có kinh nghiệm để hoàn thiện và nâng cao. Tóm lại, trong điều kiện như hiện nay việc đổi mới này cần được gắn liền với thực tiễn, việc quy định thay đổi các văn bản cần rõ ràng việc xây dựng tiêu chí quản lý đối tượng BHXH không nên chỉ dựa vào quan điểm của ngành mà cần xét tới dư luận chung và sự phát triển của toàn xã hội. 2. Các giải pháp hoàn thiện chế độ bảo hiểm hưu trí 2.1. Giải pháp về chế độ chính sách - Về tuổi đời. + Đối với lao động nữ việc xác định tuổi nghỉ hưu nhằm rút bớt khoảng cách về hưu đối với nam giới. Nhà nước ta cần nâng tuổi lao động nữ lên, có thể lên bằng nam giới để khi nghỉ hưu họ có cơ hội hưởng bậc lương gần cuối cùng trong quy định bậc lương (Hiện nay nếu lao động nữ nghỉ hưu ở độ tuổi 55 thì họ mới chỉ đạt đến bậc lương thứ 16/18 bậc theo quy định). + Đối với những người làm công tác nghiên cứu khoa học, y tế, giáo dục,... khi đến độ tuổi nghỉ hưu cơ quan đơn vị có nhu cầu thì nên sử dụng tiếp, nhưng tố đa là 65 tuổi, ngược lại có những người có thời gian công tác đủ 15 năm ở vùng cao, biên giới hải đảo, ở những nơi có phụ cấp khu vực từ 0,5 trở lên thì giảm 5 tuổi đời (Hiện nay giảm 5 tuổi đời nơi có phụ cấp khu vực 0,7 trở lên). Người lao động thiếu một vài tháng mới đủ điều kiện giảm 5 tuổi đời thì nên tính lại. Nếu thiếu từ 6 tháng trở xuống thì xem như đủ điều kiện giảm 5 năm tuổi đời. Người lao động có thời gian tham gia ở chiến trường B, C, K vừa có thời gian công tác nặng nhọc, độc hại nhưng mỗi thời gian tương ứng không đủ 15 năm thì nên cộng dồn cho đủ 15 năm để được hưởng 5 năm tuổi đời theo quy định. Mặt khác, BHXH là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, nên khi có sự thay đổi về chính sách BHXH thì chính sách này phải áp dụng chung cho mọi người lao động tham gia BHXH chứ không áp dụng cho một ngành hay một đoàn thể nào đó. Trong năm 2001 Chính phủ có ban hành Nghị định 29/CP ngày 8 tháng 5 năm 1992 về việc giảm 5 tuổi đời cho cán bộ dân cử không trúng tuyển trong năm 2001 về nghỉ hưu khi đủ điều kiện về hưu, đây là vấn đề gây ra nhiều bất hợp lý trong đội ngũ công chức viên chức và người lao động làm công ăn lương, mặc dù nó chỉ có hiệu lực trong năm 2001. - Vấn đề tiền lương làm căn cứ đóng BHXH. + Tiền lương danh nghĩa (cấp bậc, chức vụ) để làm cơ sở đóng BHXH là không hợp lý vì lương cấp bậc luôn thấp hơn nhiều so với lương thực tế. Thực tế hiện nay ở nhiều ngành sản xuất, kinh doanh có mức lương cao hơn nhiều tiền lương cấp bậc, có ngành cao gấp 2 - 3 lần. Do vậy mức lương nghỉ hưu hiện nay trên nền lương cấp bậc là quá thấp, khoảng cách chênh lệch giữa mức trợ cấp khi nghỉ hưu với mức lương khi còn làm việc là quá xa. Điều này làm cho người lao động không muốn về hưu vì mức hưởng lương hưu là quá thấp không đảm bảo được cuộc sống. + Tiền lương làm cơ sở đóng BHXH trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đang có những khúc mắc. Theo quy định tiền lương làm cơ sở đóng BHXH trong liên doanh là tiền lương theo hợp đồng bằng ngoại tệ. Do chưa có quy định về (mức trần đóng) cho nên tiền đóng BHXH ở khu vực này cao hơn rất nhiều so với khu vực khác, điều này dẫn đến khi về hưu trong khu vực này có mức trợ cấp hưu trí rất cao so với khu vực khác, điều này dẫn đến quan hệ trợ cấp BHXH giữa những người nghỉ hưu trong cộng đồng rất cách biệt, mặt khác trong xí nghiệp liên doanh vẫn còn tồn tại vấn đề đóng BHXH khi chưa tính thuế thu nhập, hay sau khi đã tính thuế thu nhập cũng chưa được quy định cụ thể. Để giải quyết hai vấn đề trên, ta có thể áp dụng các giải pháp sau: Thứ nhất: Với tỷ lệ đóng góp như hiện nay là 20% (người sử dụng lao động đóng 15% quỹ lương, người lao động đóng 5% tiền lương) với mức hưởng tối đa là 75%, e rằng trong 8 - 10 năm nữa mà không có sự thay đổi về mức đóng góp, thì nguồn quỹ BHXH sẽ bị thâm hụt, và ngân sách Nhà nước sẽ là nguồn hỗ trợ chủ yếu. Do vậy, để khắc phục vấn đề này cần nâng tỷ lệ đóng góp này lên cho phù hợp hơn. Thứ hai: Đối với lao động trong xí nghiệp liên doanh cần phải tính thuế thu nhập trước khi tính tiền lương làm căn cứ đóng BHXH theo tỷ lệ quy định. Thực hiện tốt hai nội dung này mới đảm bảo được sự công bằng xã hội và khuyến khích người lao động đóng BHXH và về hưu khi họ có đủ điều kiện để nghỉ hưu. - Về cách tính hưởng lương hưu. Trong thực tế phát sinh nhiều vấn đề và cách tính theo quy định, về việc lấy lương bình quân 5 năm cuối cùng để tính mức hưởng lương hưu là chưa hợp lý, cách tính này chưa đảm bảo nguyên tắc giữa đóng và hưởng, đồng thời cách tính này có lợi cho những người có mức lương cao về cuối càng ngày càng tăng, nhưng lại thiệt thòi cho những người càng về cuối có mức lương thấp đi, đây là điều bất hợp lý trong cach tính này. Đặc biệt trong cách tính này là nảy sinh bất hợp lý về cách tính lương hưởng bình quân như sau: a. Sự thay đổi đột ngột trong khu vực Nhà nước. - Ngay trong cùng một doanh nghiệp, vẫn có thể bị sụt giảm nhiều bậc lương khi đổi từ công việc này sang công việc khác. - Đang hưởng lương cấp bậc thì được đề bạt lên lãnh đạo, do đó được tăng lương lên một cách đột ngột, ngược lại thì lại giảm mức lương. - Sỹ quan quân đội chuyển ngành sang khu vực doanh nghiệp, ở trong quân đội họi đang được hưởng lương cao nhưng khi chuyển sang khu vực này thì mức lương của họ lại bị giảm đi. Để làm rõ vấn đề này ta xem ví dụ sau: Một công nhân đã làm việc được 15 năm trong doanh nghiệp Nhà nước đang hưởng bậc lương 3,37 được 3 năm. Trước đó hưởng bậc lương 3,05, sau khi chấm dứt hợp đồng lao động và ký hợp đồng lao động với một DNNN khác với mức lương bậc 3 là 1,83 trong 3 năm thì nghỉ việc và xin trợ cấp BHXH thì mức lương bình quân được hưởng sẽ là: Lbp = (((3,72 x 2 x 12) + (1,83 x 3 x 12)) / 5 x 12) / x 180.000 = 466.200 đồng Tương tự như vậy, thay vì ký hợp đồng với doanh nghiệp Nhà nước thì người này lại hợp đồng với doanh nghiệp ngoài quốc doanh với mức lương 330.00 đồng (tương ứng với mức lương hệ số 1,83) Khi đó lương bình quân sẽ là: Lbq = (((3,05 x 2 x 12) + (3,73 x 3 x 12))/5 x 12)/ x 180.000 = 622.440 đồng. Như vậy lương bình quân của cả hai giai đoạn là: Lbq = (622.440 x 15 ngày x 12 tháng ) + (466.200 x 3 ngày x 12 tháng)/ (18 ngày x 12 tháng) = 596.400 đồng. Như vậy hai cách tính này cách tính thứ hai cho kết quả phù hợp hơn, mặc dù chênh lệch giữa 2 cách tính này là rất lớn. b. Sự chênh lệch giữa hai khu vực: Sự bất hợp lý này thể hiện với người tham gia BHXH trên 30 năm, trong đó có một thời gian tham gia nộp BHXH theo bảng lương thang lương của Nhà nước thấp, có một thời gian nộp BHXH theo bảng lương của Nhà nước rất cao. Ví dụ: Một người có 30 năm làm việc trong khu vực Nhà nước, mức lương bình quân 5 năm cuối là 2,5 sau đó người này chuyển sang làm việc ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và hưởng 1000 USD/ tháng trong 5 năm rồi về hưu, như vậy cách tính lương bình quân sẽ là: Lbq = = 2.385.714 đồng. Lương hưu hưởng tối đa là 75% Lbq = 1789.285 đồng. Tương tự như ví dụ trên, nhưng người này chỉ có 25 năm là khu vực Nhà nước thì lương bình quân sẽ là: Lbq = = 2.385.714 đồng. Lương hưu hưởng tối đa là 75% Lbq = 2031.249 đồng Như vậy ở hai trường hợp trên thì trường hợp thứ hai có lợi hơn, mặt khác mức trợ cấp một lần của trường hợp một là có, trường hợp hai thì không có, nhưng trường hợp hai có thời gian có thời gian đóng BHXH ngắn hơn trường hợp một. Từ hai nhận định này ta có giải pháp cho các trường hợp sau: + Đối với trường hợp (a). Theo quy định, hưởng lương theo bảng lương do Nhà nước quy định thì ngoài việc hưởng theo các mức lương (hệ số so với lương tối thiểu) còn bao hàm cả việc đảm bảo quy luật tăng lương theo niên hạn. Nếu mỗi khi có sự thay đổi mức lương đột ngột thì cần tách ra các giai đoạn riêng để tính lương bình quân. Mức lương bình quân của cả quá trình tham gia BHXH được tính trên cơ sở bình quân các giai đoạn, cụ thể là: Lbq = Trong đó: - n là số giai đoạn được phân chia nếu có sự thay đổi lương. - Lbq1, Lbq2,... là mức lương bình quân 5 năm cuối của các giai đoạn. - T1, T2... Tn là thời gian tham gia BHXH của các giai đoạn. Nếu trong một giai đoạn nào đó mà hưởng lương không theo thang lương của Nhà nước, thì thay tích số (Lbq x T) bằng tổng tiền lương đóng BHXH của giai đoạn đó một cách tổng quát là: Lbq = (i = 1 - n) Trong đó: - Li lương bình quân 5 năm cuối của giai đoạn i - Ti số tháng tham gia BHXH giai đoạn i - n số giai đoạn được phân ra nếu có sự thay đổi đột ngột. Thực chất của giải pháp này là việc vận dụng và mở rộng cách tính lương bình quân đối với người tham gia BHXH của cả hai khu vực, nhằm khắc phục những mâu thuẫn ở ví dụ trên. + Đối với trường hợp (b): Để khắc phục bất hợp lý nêu trên, cần hướng dẫn cách tính lương bình quân trong trường hợp này (thời gian tham gia BHXH trên 30 năm, hưởng lương ở hai khu vực) như sau: - Ưu tiên tính thời gian đủ cho lúc nộp BHXH theo mức cao. - Thời gian tính cho lúc nộp BHXH ở mức thấp sẽ bằng 30 năm thời gian tính cho lúc nộp BHXH ở mức cao (ở ví dụ trên là 30 -5 = 25 năm). 2,5 tháng x 2.385.714 đồng = 5.964.285 đồng Kết quả này có thể chấp nhận được trong mối tương quan giữa hai trường hợp trên. - Về tỷ lệ hưởng (% hưởng làm căn cứ hưởng BHXH) Theo quy định hiện nay, đủ 15 năm đóng BHXH tính bằng 45% mức lương bình quân, sau đó cứ mỗi năm (đủ 12 tháng) được cộng thêm 2% và đến 30 năm sau mức hưởng tối đa là 75%. Ngược lại cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi theo quy định bị giảm 2% (theo Nghị định 93/CP được sửa đổi lại chỉ giảm 1%). Tuy nhiên việc quy định này lại không khống chế mức giảm tối đa theo cấp độ tương ứng. - Về trợ cấp BHXH một lần cho những trường hợp trên 30 năm công tác. Hiện nay, trong bộ máy quản lý Nhà nước có những nhà khoa học đầu ngành, các nhân sỹ, các nghệ sỹ... thời gian tham gia BHXH của họ không chỉ dừng lại ở 30 năm tham gia BHXH mà còn tới 40 năm hoặc 50 năm. Theo quy định thì đủ 30 năm đóng BHXH được hưởng tối đa 75% lương bình quân của 5 năm cuối cùng, từ năm thứ 31 cứ mỗi năm được tính bằng 1/2 tháng lương bình quân của 5 năm cuối và tối đa không quá 5 tháng là điều bất hợp lý, về mặt công bằng xã hội là không đảm bảo. Như vậy cần thực hiện nên đưa tối đa mức hưởng là 75% mức lương hưu ở năm thứ 35 (Mức hưởng khởi đầu tham gia BHXH là 40%, sau đó mỗi năm tăng lên là 1,75%, kết quả mức hưởng sẽ đạt 75% sau 35 năm đóng BHXH). Mặt khác cũng có thể không nên khống chế tối đa 5 tháng lương đối với những người có trên 30 năm tham gia đóng BHXH thì được hưởng 1 tháng lương, những tháng lẻ (từ tháng thứ 6 đến tháng thứ 11) được tính bằng 1/2 tháng lương và không hạn chế mức hưởng tối đa, nhưng tuổi đời về hưu phải khống chế (trừ các nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước). - Về việc tính tháng lẻ: Theo quy định hiện nay người lao động về trước tuổi, thì mỗi năm về hưu trước tuổi (theo Nghị định 93/CP) bị trừ 1% mức tiền lương bình quân tham gia đóng BHXH. Nhưng điều đặt ra ở đây là khi về hưu tham gia đóng BHXH có tháng lẻ (từ tháng 1,2,... cho đến tháng thứ 11), thì thời gian này lại không được tính hưởng BHXH, phải chăng cần điều chỉnh lại cho công bằng hơn. Cụ thể nếu tháng lẻ từ tháng 1 đến tháng 5 thì không tính, còn tháng thứ 6 đến tháng thứ 11 thì được xem như 01 năm đóng BHXH để người lao động khỏi bị thiệt thòi. - Về trợ cấp khu vực: Theo quy định tiền lương làm căn cứ đóng BHXH thì có cả trợ cấp khu vực, nhưng khi giải quyết chế độ lại không tính khoản phụ cấp khu vực này (trừ trợ cấp ốm đau, thai sản). Thật ra phụ cấp khu vực cho những người tham gia lao động ở vùng sâu, vùng xa,... chẳng qua là khoản tiền khuyến khích để bù thiệt thòi về vật chất, tinh thần của người lao động. Nhiều người khi công tác ở những khu vực trên khi về hưu lại trở về quê nhà (nơi không có phụ cấp khu vực) thì không được tính khoản phụ cấp khu vực. Ngược lại có người cả quá trình đóng góp không có khoản phụ cấp nào nhưng khi về hưu họ trở về nơi có khoản phụ cấp khu vực thì đương nhiên họ có khoản trợ cấp này. Như vậy có người đóng thì không được hưởng, có người không đóng thì được hưởng điều này đặt ra yêu cầu cần phải thực hiện tốt quan điểm (có đóng, có hưởng) theo hướng: Một là: Khi giải quyết chế độ BHHT nên tính tiền lương và phụ cấp (cả phụ cấp khu vực) trong việc trích nộp BHXH. Hai là: Không tính khoản phụ cấp khu vực vào trong tiền lương và phụ cấp trích nộp BHXH. - Về việc trừ 1% về trước tuổi. Theo quy định hiện nay mỗi năm về trước tuổi bị giảm 1% mức tiền lương bình quân tháng làm căn cứ đóng BHXH, xung quanh việc quy định này cần được thực hiện lại như sau: + Những người có thời gian đóng BHXH trên 30 năm nếu về hưu trước tuổi thì có thể lấy số năm trên 30 năm khấu trừ vào tuổi tối thiểu để tỷ lệ lương hưu hàng tháng ít bị giảm. + Những người có thời gian tham gia đóng BHXH chưa đủ 30 năm thì tất yếu cứ về hưu trước tuổi bị giảm 1%. 2.2. Về mặt tổ chức quản lý. - Cần phối hợp giải quyết tốt chế độ lương hưu và trợ cấp ưu đãi. Đây là hai chế độ thuộc hai lĩnh vực khác nhau, do hai ngành phụ trách cơ quan BHXH giải quyết chế độ hưu trí, cơ quan Lao động thương binh - xã hội giải quyết chế độ trợ cấp ưu đãi. Điều này nói trên sự phân cấp phân quyền, xong trên thực tế thì việc giải quyết hai chế độ này vẫn do một cơ quan đảm nhận. Thời gian qua việc giải quyết cho hai chế độ này còn thiếu chu đáo, gây nhiều khó khăn phiền hà cho người hưởng chính sách, nhất là giải quyết chế độ ưu đãi, còn nhiều người kêu ca phàn nàn, thủ tục giấy tờ không thống nhất,... Như vậy nguyên nhân chính là sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng,... để khắc phục tình trạng này làm cho việc giải quyết chế độ chính sách của Nhà nước được thông thoáng, đối tượng được thuận lợi chua đáo, cần làm tốt hai khâu sau: + Giải quyết đầy đủ các loại giấy tờ, chứng nhận, xác nhận ban đầu cho người hưởng chế độ. Đây là việc làm và trách nhiệm của cơ quan chủ quản nơi người đó công tác. Khi thông báo cho người lao động về nghỉ hưu thì đồng thời phải thông báo các chế độ chính sách khác liên quan mà ngườ đó được hưởng sau khi về hưu. Những giấy tờ xác nhận phải có yêu cầu cụ thể để hai bên cùng chuẩn bị khi ra quyết định nghỉ hưu cho người lao động để chuyển tới cơ quan BHXH xét duyệt thì đồng thời cũng làm xác nhận của cơ quan về quá trình làm việc, thời gian tham gia kháng chiến, việc khen thưởng và kỷ luật,... và có xác nhận để người về hưu có cơ sở đăng ký với địa phương mà không phải đi lại nhiều lần. 3. Khuyến nghị Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về chế độ bảo hiểm hưu trí đã xuất hiện một số tồn tại cần được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp hơn, dựa trên các giải pháp đã nêu. Tôi xin đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện hơn chế độ bảo hiểm hưu trí trong hệ thống BHXH. 3.1. Về chế độ chính sách. - Theo quy định hiện nay tuổi đời nghỉ hưu của nam và nữ là khác nhau, điều này dẫn đến nhiều thắc mắc và bình đẳng của lao động nữ. Do vậy cần nâng độ tuổi nghỉ hưu của nữ lên 5 tuổi nữa, tức là quy định tuổi nghỉ hưu của cả nam và nữ bình quân là 60 tuổi. Tuy nhiên bên cạnh những tiêu chuẩn này cần có sự linh hoạt, cụ thể ưu tiên cho lao động nữ ở chỗ ai có nguyện vọng nghỉ hưu sớm hơn thì có thể nghỉ trước từ 1 đến 5 tuổi nếu có đủ điều kiện về thời gian tham gia đóng BHXH theo quy định mà vẫn được nằm trong khung chế độ cho phép mà không bị giảm tỷ lệ. - Việc quy định về tiền lương làm cơ sở đóng BHXH cần được xem xét lại như: Cần căn cứ vào cơ chế tiền lương ở từng khu vực sản xuất, khối hành chính sự nghiệp, công ty liên doanh,... để xác định cho phù hợp, phải quy định về (mức sàn đóng và mức trần đóng BHXH) để đảm bảo khoảng cách hợp lý giữa những người hưởng lương hưu. Cùng với nó là nâng mức đóng lên như hiện nay từ 20% được nâng lên mức 30 - 35% đối với các đơn vị ở trên. - Cách tính hưởng lương hưu cũng cần phải sửa đổi lại theo hướng (tính bình quân tiền lương của cả quãng đời công tác và tham gia đóng BHXH), vừa thể hiện tính công bằng giữa đóng và hưởng, đồng thời đảm bảo an toàn cho quỹ. Ngoài cách tính lương hưu này thì việc sửa đổi về mức hưởng nhằm hạn chế sự mất công bằng đối với những người có trên 30 năm công tác như sau: Vẫn giữ nguyên mức hưởng tối đa là 75%, nhưng đối với 15 năm đầu tham gia BHXH thì được hưởng 40% và tiếp theo cứ mỗi năm tăng thêm thời gian đóng thì hưởng thêm 1,75% và sẽ đạt tới mức tối đa 75% cho tới năm thứ 35. - Về chế độ trợ cấp 1 lần cũng cần được sửa đổi lại, vì thực tế hiện nay nhiều người khi chấm dứt hợp đồng lao động vì lợi ích trước mắt muốn được trợ cấp 1 lần, không muốn dành dụm đóng BHXH để khi về già được hưởng chế độ hưu trí tháng. Do vậy việc chi trả trợ cấp 1 lần là không phù hợp với mục đích của BHXH và thực tế đang gây khó khăn cho quỹ BHXH. Như vậy cần sửa đổi ở chế độ này là những ai đã hết tuổi lao động (nhưng chưa đủ số năm tham gia BHXH) hoặc mất sức lao động mới được hưởng trợ cấp 1 lần. - Đối với những người đã được giải quyết chế độ hưu trí. Khi tổ chức trao sổ hưu cho người lao động thì đồng thời trao các giấy xác nhận, giấy giới thiệu sinh hoạt,... cùng với hướng dẫn cụ thể. Như vậy vừa thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm của cơ quan đối với người về hưu, vừa làm cho họ hiểu rõ nhiệm vụ và quyền lợi của mình. + Giải quyết tốt khâu thủ tục đăng ký ở địa phương. Có sự hướng dẫn cụ thể, thống nhất, nên khi địa phương người về hưu chỉ cần mang các giấy tờ liên quan đến cơ quan giải quyết chế độ chính sách để giải quyết và đăng ký hưởng chế độ đó. - Thực hiện việc phân cấp, phân ngành cụ thể để quản lý việc thu - chi trả cho đối tượng hưởng theo phương châm (đúng, đủ, kịp thời, thuận lợi, an toàn). - Một trong những biện pháp quản lý tốt đối tượng nghỉ hưu này là việc quản lý sổ BHXH, đây là minh chứng cần thiết nhất để đối tượng được hưởng chế độ một cách thuận tiện nhất, đồng thời sổ BHXH còn là căn cứ pháp lý để các cơ quan quản lý Nhà nước về BHXH thực hiện chức năng kiểm tra, thanh tra việc thực thi chế độ BHXH. Vì vậy sổ BHXH phải có đầy đủ các thông tin về thời gian tham gia, mức đóng, mức hưởng, chế độ hưởng. - Tập hợp đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ giỏi để giải quyết, trả lời các đơn thư khiếu nại về chế độ chính sách BHXH cho người lao động. - Tăng cường công tác tuyên truyền về BHXH đây là một vấn đề hết sức mới mẻ và phức tạp trong nhận thức của người lao động, chủ sử dụng lao động cũng như toàn xã hội. Chính vì vậy công tác thông tin tuyên truyền về BHXH có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động của sự nghiệp BHXH, về trước mắt cũng như lâu dài cần thực hiện: + Tuyên truyền cái gì? tuyên truyền cho ai? phải cần đặt ra hàng đầu. + Hình thức tuyên truyền như thế nào? theo hình tức này phải thực hiện đa dạng hoá các loại hình tuyên truyền để mọi người hiểu và biết được tác dụng của BHXH là như thế nào? - Không ngừng hoàn thiện về chế độ chính sách bảo hiểm hưu trí cho mọi người lao động, đây là mục tiêu trước mắt cũng như mục tiêu lâu dài và được thể hiện qua việc: + Cần khẩn trương tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho BHXH nói chung và bảo hiểm hưu trí nói riêng cả về pháp luật, cơ chế, chính sách làm nền tảng điều chỉnh các hành vi và mối quan hệ có liên quan đến quản lý đối tượng và thụ hưởng quỹ BHXH. + Thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ mà trước tiên là hệ thống tìm kiếm hạn chế, ngăn ngừa các sai phạm trong thực thi chế độ bảo hiểm hưu trí đặc biệt là công tác chi trả cho đối tượng hưởng trợ cấp bảo hiểm hưu trí bằng phương pháp chi trả trực tiếp thông qua đó nắm vững đối tượng, phát hiện những sai phạm về chế độ chính sách bảo hiểm hưu trí, kịp thời cắt lương hưu của những đối tượng đã chết. + Thực hiện tốt việc quản lý quỹ BHXH không được mạo hiểm trong việc đầu tư bừa bãi mà cần xem xét cụ thể nên đầu tư vào cái gì? Mục đích của đầu tư không vì mục tiêu lợi nhuận mà đầu tư vì mục đích tăng trưởng quỹ BHXH, do đó lựa chọn phương thức đầu tư phải đảm bảo an toàn và ít xảy ra rủi ro nhất. - Về quỹ BHXH với số dư hiện tại là lớn nên thực hiện phương pháp tích tụ như hiện nay trong mấy năm tới sẽ có số dư càng lớn, trong khi thị trường tài chính ở Việt Nam chưa phát triển, việc cho vay theo chỉ định của Nhà nước với lãi suất thấp không đủ bảo toàn vốn nên xảy ra lạm phát hoặc nguy cơ thâm hụt mất sẽ cao. Do vậy quỹ BHXH có thể cần được tổ chức thành nhiều quỹ như phần chi cho chế độ ngắn hạn, dài hạn,... Với sự hạch toán riêng, kết hợp với điều trung hoà việc đầu tư và phát triển của quỹ phải có chiến lược đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng quỹ. - Nhà nước cần xúc tiến việc nghiên cứu xây dựng và ban hành luật về BHXH, đây là cơ sở pháp lý cho việc thực chi các chế độ chính sách về BHXH. - Hiện nay theo quy định đối tượng tham gia của BHXH cũng như của bảo hiểm hưu trí là những đơn vị, tổ chức có sử dụng từ 10 lao động trở lên, những lao động thuộc các cơ quan Nhà nước... Nhu cầu về BHXH của mọi người lao động là rất cao. Do vậy cần mở rộng đối tượng tham gia BHXH. - Ngoài việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH còn thực hiện đa dạng hình thức tham gia. Thực tế đối với hình thức bắt buộc ở chế độ bảo hiểm hưu trí khi người lao động đủ thời gian tham gia BHXH nhưng chưa đủ tuổi đời thì họ phải chờ đến khi đủ tuổi theo quy định mới được nghỉ hưu, trong thời gian chờ này nguồn quỹ BHXH sẽ bị thất thoát. Do vậy cần mở rộng hình thức tham gia tự nguyện để trong thời gian chờ này người lao động chưa đủ tuổi về hưu có thể tham gia đóng phí BHXH tự nguyện và thời gian này được tính vào thời gian tham gia BHXH của họ theo quy định để tính trợ cấp lương hưu. 3.2. Về tổ chức quản lý - Cần nâng cao hơn nữa hiệu quả của quản lý Nhà nước về BHXH trên cơ sở tăng cường chức năng về vai trò quản lý Nhà nước về BHXH của ngành Lao động thương binh - xã hội từ trung ương xuống địa phương với công cụ quản lý đặc biệt là công tác thanh tra, kiểm tra BHXH và các chế tài hữu hiệu. - Về quản lý thực hiện BHXH đưa chế độ BH Y tế (BHYT) vào trong hệ thống BHXH Việt Nam. Nếu BHYT trực thuộc Bộ Y tế như hiện nay, ưu điểm là thực hiện được sự thống nhất về chỉ đạo, đảm bảo khả năng hoạt động của hệ thống BHYT, giải quyết tốt mối quan hệ giữa BHYT với các cơ sở khám chữa bệnh. Tuy nhiên, phải có chi phí về chi hoạt động bộ máy từ cấp trung ương xuống địa phương. Do vậy nếu đưa BHYT nằm trong hệ thống BHXH Việt Nam có ưu điểm đảm bảo cho hệ thống BHXH thống nhất, giảm nhiều chi phí cho bộ máy quản lý, đồng thời chế độ BHYT này cũng góp phần vào công tác khám chữa bệnh cho người về hưu, nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho người về hưu. - Tăng cường công tác tuyên truyền về BHXH để người lao động hiểu rõ thêm về các chế độ chính sách BHXH và nhận ra tính ưu việt của chính sách xã hội khi họ đang còn làm việc, đặc biệt hơn về chế độ bảo hiểm hưu trí là sự đảm bảo đối với họ khi về già. - Ứng dụng công nghệ thông tin vào sự nghiệp quản lý BHXH, đặc biệt là chế độ bảo hiểm hưu trí nhằm quản lý hồ sơ, số đăng ký tham gia BHXH, số sổ ngành cũng như của chế độ bảo hiểm hưu trí luôn gắn với lợi ích trước mắt như: tiền bạc, tình cảm họ hàng, anh em,... do vậy cần tuyển chọn những cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ giỏi, có phẩm chất đạo đức tốt, hết lòng phục vụ người lao động vì sự nghiệp BHXH. - Đối với công tác thu BHXH đòi hỏi phải bố trí cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao, luôn bám cơ sở, đôn đốc việc thu định kỳ, thu hàng tháng,... Đồng thời nắm bắt được các đơn vị, đối tượng lao động trây lỳ không đóng BHXH để có phương án giải quyết cụ thể. - Đối với công tác chi BHXH phải thực hiện chi (đúng kỳ, chi đủ số, kịp thời, thuận lợi và an toàn) thực hiện nghiêm túc việc cắt giảm chế độ của đối tượng, tránh tình trạng gây khó khăn, hách dịch đối với đối tượng hưởng chế độ trợ cấp BHXH. - Để nâng cao đời sống vật chất, đời sống tinh thần cần khuyến khích các hoạt động như: sinh hoạt câu lạc bộ, giúp nhau qua các câu lạc bộ, giúp nhau qua các câu lạc bộ, khuyến khích các hội sinh vật cảnh, nuôi ong, làm kinh tế VAC,... có như vậy mới tạo tâm lý thoải mái trong cuộc sống hoà đồng với mọi tầng lớp trong xã hội của người về hưu. KẾT LUẬN Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế các chế độ chính sách BHXH ở nước ta cũng dần dần được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Kể từ khi ra đời cho đến nay đã hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành các chính sách BHXH đã đáp ứng được nhu cầu và ổn định đời sống của người lao động củng cố lòng tin của người lao động đối với Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên do việc sửa đổi và bổ sung các chế độ chính sách chỉ mang tính giải pháp tình thế ở từng giai đoạn cụ thể, do vậy, trước tình hình mới như hiện nay các chế độ chính sách về BHXH vẫn còn một số những hạn chế, nảy sinh những khúc mắc cần được giải quyết. Song song với phát triển của chính sách BHXH nói chung và chế độ bảo hiểm hưu trí nói riêng ngày càng hoàn thiện hơn đáp ứng nhu cầu của đông đảo người lao động. Đồng thời giải quyết quyền lợi chính đáng của người lao động khi về nghỉ hưu giúp họ ổn định cuộc sống khi có sự thay đổi đột ngột giữa thời gian họ công tác và thời gian họ không còn công tác nữa và trở về nghỉ hưu. Tuy nhiên mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng cùng với việc đổi mới không ngừng của các chế độ chính sách BHXH và công tác quản lý BHXH trong thời gian tới, BHXH Việt Nam nói chung và tỉnh Thái Bình nói riêng chắc chắn sẽ đạt được những thành công của mình trong vấn đề đảm bảo về mặt xã hội đối với người lao động, giúp họ yên tâm hơn và hăng hái tham gia lao động sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, nhằm mục tiêu chung cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đang trên đà phát triển; cần khẩn trương chuẩn bị kỹ lưỡng, dự án luật BHXH trình quốc hội thông qua trong thời gian ngắn nhất./. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Nghị định 218/CP của Chính phủ ban hành ngày 27/12/1961. - Chế độ BHXH (tập I, II). - Điều lệ tạm thời và các chế độ BHXH và những văn bản hướng dẫn giải thích ban hành từ năm 1962 đến 1963. - Bộ Luật lao động. - Nghị định 12/CP ban hành ngày 26/01/1991. - Nghị định 45/CP ban hành ngày 15/7/1991. - Nghị định 90/CP của Chính phủ ban hành ngày 23/01/1994. - Nghị định 93/CP của Chính phủ ban hành ngày 19/08/1995. - Nghị định 09/CP của Chính phủ ban hành ngày 23/01/1994. - Nghị định 73/CP của Chính phủ ban hành ngày 19/08/1991. - Nghị định 152/CP của Chính phủ ban hành ngày 20/09/1995. - Quyết định 37/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 21/3/1996. - Một số vấn đề cơ bản về BHXH của một số nước Liên Xô, Mỹ, CHDC Đức, Anh,... - Một số vấn đề về BHXH tháng 4/2007 của BHXH Việt Nam - Báo cáo tổng kết 5 năm của BHXH tỉnh Thái Bình ./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10056.doc
Tài liệu liên quan