Chuyên đề Chế độ pháp lý về giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá và thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ

Việt Nam gia nhập WTO đồng nghĩa với việc đã chính thức bước vào sân chơi quốc tế, do đó doanh nghiệp phải đối mặt với một thị trường mang tính cạnh tranh khốc liệt. Thêm vào đó, điều kiện nền kinh tế thị trường không ngừng biến đổi khiến cho quan hệ mua bán hàng hoá được thực hiện bởi doanh nghiệp càng trở nên đa dạng và phức tạp. Do vậy, việc hoàn thiện chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hoá là một vấn đề quan trọng và bức thiết. Đề tài “Chế độ pháp lý về giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá và thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ” nghiên cứu pháp luật về hoạt động mua bán hàng hoá, lợi ích mà doanh nghiệp có được khi tham gia ký kết hợp đồng. Trên cơ sở đó, vận dụng vào thực tế tại Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ để đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng hàng hóa nói chung và áp dụng pháp luật vào hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty nói riêng.

doc80 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1624 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Chế độ pháp lý về giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá và thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công ty và khách hàng thường thỏa thuận thanh toán trước khoảng 30% giá trị hợp đồng, nhưng chỉ áp dụng đối với khách hàng mới hoặc hợp đồng có giá trị lớn. Còn phần lớn, trong hợp đồng đều quy định bên mua thanh toán 100% giá trị hàng khi bên bán thực hiện thực việc giao hàng cho bên mua cùng hóa đơn tài chính hợp lệ. Trong thực tế thì có thể khi đã nhận hàng rồi nhưng bên mua vẫn chưa thanh toán hết tiền cho bên bán. Theo quy định của pháp luật, trong trường hợp đó bên bán có quyền lấy tiền lãi với thời gian chậm thanh toán đó, tuy nhiên, để giữ mối làm ăn lâu dài, công ty thường không lấy lãi mà chỉ nhắc nhở để yêu cầu bên mua thanh toán. 2. Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng Trong quá trình thực hiện hợp đồng công ty thường áp dụng các biện pháp là đặt cọc, cầm cố và thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng. Thứ nhất, đối với thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa thì công ty thường phải trước hết định giá sơ bộ tài sản thế chấp. Sau đó khi đã nhất trí lấy thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ trong hợp đồng thì các bên phải làm thành một biên bản riêng và phải đưa tới xác nhận tại cơ quan công chứng. Thứ hai, đối với cầm cố thì đây là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ hợp đồng chặt chẽ hơn thế chấp, thường là bên có nghĩa vụ phải chuyển giao động sản và giấy tờ sở hữu cho bên đối tác để giữ tài sản đó. Khi thực hiện biện pháp cầm cố thì công ty cũng phải thực hiện các thủ tục như trong thế chấp tài sản như phải định giá sơ bộ, lập biên bản cần có xác nhận của công chứng viên và nêu rõ trách nhiệm giữ gìn bảo quản của người giữ tài sản. Thứ ba, đối với đặt cọc thì khi tiến hành đặt cọc, công ty đều lập thành văn bản ghi rõ các vấn đề như đối tượng, giá trị bằng tiền hay tài sản đặt cọc, thời hạn đặt cọc trong văn bản. Trong trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về công ty; nếu công ty từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc. Trong các biện pháp bảo đảm mà công ty sử dụng thì mỗi biện pháp đều có những ưu điểm riêng. Nhưng nếu so sánh giữa đặt cọc, thế chấp và cầm cố thì cầm cố có độ an toàn cao hơn. Tuy nhiên, đây chưa phải là biện pháp tối ưu, bởi vì đối tượng của cầm cố thường không lớn hơn so với nghĩa vụ so với nghĩa vụ mà bên cầm cố phải thực hiện, đó là chưa tính đến việc bảo quản tài sản cầm cố. Hơn nữa, trong điều kiện hiện nay thì tài sản cầm cố rất dễ bị rớt giá. Vì vậy, công ty khi chọn áp dụng biện pháp bảo đảm nào để bảo đảm khách hàng thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng thì phải cân nhắc rất kỹ lưỡng để chọn ra biện pháp hiệu quả nhất.. 3. Hợp đồng vô hiệu và biện pháp xử lý Những hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu khi nó trái với quy định của pháp luật hoặc không đủ những điều kiện để hợp đồng có hiệu lực. Hợp đồng bị vô hiệu theo hai loại là hợp đồng vô hiệu toàn bộ, hợp đồng vô hiệu từng phần. Với mỗi loại hợp đồng vô hiệu thì sẽ dẫn đến hậu quả khác nhau. Do trong quá trình tìm hiểu, đàm phán và giao kết hợp đồng công ty đã rất thận trọng nên cho đến hiện nay công ty vẫn có hợp đồng nào bị vô hiệu. 4.Các chế tài pháp lý áp dụng khi vi phạm hợp đồng Các chế tài pháp lý áp dụng khi vi phạm hợp đồng là buộc thực hiện hợp đồng; phạt vi phạm; buộc bồi thường thiệt hại; tạm ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng. Tuy nhiên, đối với công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ, trong quá trình hoạt động công ty chỉ áp dụng ba hình thức chế tài sau : 4.1. Buộc thực hiện hợp đồng Buộc thực hiện hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Bên vi phạm có thể gia hạn một thời gian hợp lý để bến vi phạm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Đây là biện pháp được công ty sử dụng nhiều nhất trong những năm qua. 4.2. Phạt vi phạm Phạt vi phạm chỉ xảy ra nếu có thỏa thuận về vấn đề này trong hợp đồng. Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, và thường được thỏa thuận là 3% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm 4.3. Buộc bồi thường thiệt hại Bồi thường thiệt hại chỉ được áp dụng nếu có những căn cứ : Có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại thực tế; hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Về nguyên tắc, bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho bên bị vi phạm; tuy nhiên các khoản thiệt hại đòi bồi thường phải nằm trong phạm vi được pháp luật qui định. Tùy từng trường hợp mà công ty đưa ra các mứcbồi thường khác nhau. 5.Thanh lý hợp đồng mua bán hàng hoá Thanh lý hợp đồng mua bán hàng hoá là thủ tục cuối cùng để các bên kết thúc quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá. Thông thường công ty và bạn hàng thường tiến hành thanh lý hợp đồng sau 30 ngày nếu như khi kết thúc hợp đồng hai bên không có gì vướng mắc về việc thực hiện các điều khoản đã ký trong hợp đồng. Khi thanh lý hợp đồng, hai bên luôn tiến hành lập biên bản thanh lý hợp đồng. Trong biên bản xác định rõ mức độ thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thoả thuận trong hợp đồng, hai bên xem xét xem hàng hoá đã được giao đầy đủ, đúng chất lượng hay chưa, bên mua đã thanh toán toàn bộ giá trị của hợp đồng hay chưa… Theo qui định của pháp luật, hợp đồng mua bán hàng hoá của công ty chỉ được thanh lý khi: - Hợp đồng mua bán hàng hoá đã được thực hiện xong: có nghĩa các bên trong hợp đồng đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với bên kia; - Hợp đồng mua bán hàng hoá bị đình chỉ thực hiện hoặc bị huỷ bỏ; - Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng đã hết và không có sự thoả thuận kéo dài thời hạn đó; - Hợp đồng mua bán hàng hoá không được tiếp tục thực hiện khi thay đổi chủ thể mà không có sự chuyển giao thực hiện hợp đồng cho chủ thể mới; - Khi một bên ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá là pháp nhân giải thể hoặc cá nhân chết. 6.Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá Trong bất cứ một hợp đồng nào, công ty cũng có điều khoản để qui định về việc giải quyết tranh chấp khi có tranh chấp xảy ra liên quan đến việc giao không đầy đủ số lượng hàng hoá, giao hàng không đúng địa điểm, không đúng chất lượng hoặc bên mua không thanh toán hết giá trị hàng hoá… Tranh chấp xảy ra có thể được giải quyết bằng con đường thương lượng, hoà giải, tại toà án hoặc bằng trọng tài thương mại. Nhưng trên thực tế, trong suốt thời gian tồn tại của mình, Công ty tuy có gặp một vài rắc rối trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình như có một số kiện hàng không đúng chất lượng qui định, số lượng hàng giao không đúng khi được bên mua kiểm tra…nhưng để đảm bảo uy tín của mình, tránh việc để xảy ra tranh chấp lớn và để đảm bảo bí mật kinh doanh công ty luôn dùng biện pháp thương lượng để giải quyết những vấn đề đó. Công ty luôn thoả thuận với bên bán và đảm bảo hàng hoá sẽ được giao bù, do đó trong năm năm hoạt động công ty không xảy ra một vụ kiện nào. CHƯƠNG III : MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TẠI CÔNG TY TNHH HỖ TRỢ KỸ THƯƠNG LÊ VÀ VŨ I.Một số nhận xét. 1.Nhận xét về thực tiễn áp dụng pháp luật hợp đồng mua bán hàng hoá hiện hành. 1.1.Ưu điểm BLDS 2005 và LTM 2005 được ban hành trong điều kiện đất nước đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng cũng như các hoạt động thương mại khác phát triển,góp phần giúp cho môi trường kinh doanh ở Việt Nam thông thoáng hơn, hiệu quả hơn. Sau khi hai văn bản pháp luật này ra đời thì Bộ luật Dân sự 1995, Luật Thương Mại 1995 và Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 được bãi bỏ. Các chế định về hợp đồng trong pháp luật Việt Nam đã được xây dựng lại: BLDS thống nhất quy định về tất cả các loại hợp đồng, không kể tên, loại hợp đồng, LTM chỉ xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong một số trường hợp cụ thể. Như vậy trong mối quan hệ giữa BLDS 2005 và LTM 2005 thì BLDS đóng vai trò là luật chung còn LTM đóng vai trò là luật chuyên ngành. Do đó, nếu giữa hai văn bản có những quy định chồng chéo thì khi áp dụng phải tuân theo các điều khoản trong LTM. Có thể nói, việc thống nhất trong quy định về hợp đồng giữa BLDS và LTM đã giải toả được những mâu thuẫn luẩn quẩn của chế định hợp đồng trước đây. Điều này đã tạo dựng một môi trường pháp lý lành mạnh cho thương nhân trong thời kỳ hội nhập.Những quy định mới về hợp đồng trong BLDS 2005, LTM 2005 được thể hiện: Thứ nhất, về nội dung của hợp đồng thì BLDS 2005 có điều khoản mang tính hướng dẫn cho các bên khi thỏa thuận, giao kết hợp đồng nhằm thuận tiện cho việc thực hiện, làm cơ sở để giải quyết khi có tranh chấp xảy ra. Quy định này là một điểm mới so với BLDS 1995 và được thể hiện tại Điều 402 BLDS 2005 Thứ hai, thời điểm giao kết hợp đồng dân sự phù hợp với từng loại hợp đồng. Điều 404 BLDS 2005 xác định thời điểm giao kết hợp đồng cụ thể trên cơ sở công nhận hiệu lực của cam kết, thỏa thuận giữa các bên. Không có sự phân biệt giữa thời điểm giao kết hợp đồng dân sự và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự đối với những hợp đồng phải đăng ký, công chứng, chứng thực hay xin phép như quy định tại BLDS 1995. Thứ ba, đối với vấn đề chế tài do vi phạm hợp đồng, BLDS 2005 không quy định phạt hợp đồng là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự mà là một trong các nội dung của hợp đồng tùy theo từng loại hợp đồng mà các bên thỏa thuận với nhau (Khoản 7 Điều 402 BLDS 2005) Thứ tư, về khái niệm hàng hóa được qui định bao gồm các loại động sản kể cả động sản được hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất đai. Quy định này phù hợp với quan điểm của BLDS 2005 xem xét tài sản hình thành trong tương lai cũng là hàng hóa. Thứ năm, trong quy định về nghĩa vụ của bên bán và bên mua, LTM bổ sung một số quy định về giao hàng trong trường hợp không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ về địa điểm giao hàng (Điều 35), thời hạn giao hàng (điều 37), nghĩa vụ thông báo (điều 47); về quy định việc chuyển rủi ro và quyền sở hữu hàng hóa (điều 57, 59, 60, 61), địa điểm thanh toán (điều 54), thời hạn thanh toán trongtrường hợp các bên không có thỏa thuận (điều 55); nghĩa vụ nhận hàng (điều 56). Đây là sự thay đổi rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể. 1.2.Nhược điểm Bên cạnh những thuận lợi mà hai văn bản pháp luật mới mang lại, pháp luật quy định về hoạt động mua bán hàng hóa ở Việt Nam cũng có những vấn đề còn có nhiều bất cập và thiếu sót: a.Còn tồn tại những quy định chưa đồng bộ giữa các văn bản pháp luật Ví dụ về xử lý thanh toán chậm có những quy định khác nhau: Theo Điều 305 BLDS 2005 thì “trong thời gian bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Trong khi đó, theo Điều 306 LTM quy định “trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán tiền thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Như vậy theo quy định này sẽ có sự khác biệt giữa lãi suất nợ quá hạn và lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước cung cấp. Do đó, nếu khi xảy ra trường hợp này thì các bên cần phân biệt được đây là hợp đồng dân sự hay hợp đồng kinh doanh thương mại mới có thể giải quyết được. Ngoài ra, nhà nước cần phải xem xét, làm rõ một số khái niệm trong các văn bản pháp luật. Ví dụ về khái niệm hoạt động thương mại được quy định khác nhau giữa các văn bản: Khoản 1 Điều 3 LTM xác định “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Với cách xác định này thì vẫn còn một số hành vi chưa được đề cập đến mà cũng có một số hành vi mặc dù đủ điều kiện đó nhưng không phải là hành vi thương mại. Còn theo khoản 3, Điều 2 của Pháp lệnh trọng tài thương mại quy định, hoạt động thương mại là việc thực hiện một hoặc nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên cách xác định này chỉ liệt kê các hành vi nào là hành vi thương mại, còn các hành vi khác thì cũng không thể xác định được là những hành vi nào. Như vậy cần phải quy định một tiêu chí rõ ràng hơn trong việc xác định hành vi thương mại trong Pháp lệnh trọng tài cũng như trong Luật Thương mại. b.Các văn bản pháp lý vẫn còn nhiều vấn đề chưa phù hợp. ví dụ như là : Thứ nhất, về điều khoản chủ yếu trong hợp đồng: Việc quy định nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì nó mang tính thực tiễn trong các giao dịch thương mại. Nó tạo điều kiện thuận lợi trong việc áp dụng các giao dịch mua bán hàng hoá đồng thời hạn chế các tranh chấp có thể nảy sinh cũng như tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan giải quyết tranh chấp. Do vậy, các điều khoản về đối tượng, số lượng và giá cả hàng hoá nên được LTM qui định là điều khoản chủ yếu, điều khoản bắt buộc của hợp đồng mua bán hàng hoá. Tuy nhiên, trên cơ sở tôn trọng sự tự nguyện của các chủ thể, pháp luật cũng không nên qui định quá cụ thể các điều khoản này mà chỉ cần quy định về một số điều khoản chủ yếu nhất. Thứ hai, về điều kiện hiệu lực của chào hàng : Đề nghị giao kết hợp đồng là việc một bên biểu lộ ý chí của mình trước người khác bằng cách bày tỏ cho phía bên kia biết ý muốn tham gia giao kết với người đó một hợp đồng. Để người mà mình muốn giao kết hợp đồng với họ có thể hình dung được hợp đồng đó như thế nào, người đề nghị phải đưa ra những điều khoản của hợp đồng một cách cụ thể và rõ ràng. Tuy nhiên, trong BLDS 2005 hay LTM 2005 không quy định cụ thể để một đề nghị có hiệu lực thì đề nghị đó phải đảm bảo các điều kiện nào. 2.Nhận xét về thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thành công của Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ trong những năm qua đó là những thuận lợi mà Nhà nước và pháp luật mang lại. Bên cạnh đó còn phải kể đến những yếu tố xuất phát từ phía công ty. Công ty có cơ cấu tổ chức hợp lý, đội ngũ cán bộ nhân viên giàu kinh nghiệm, có trình độ và am hiểu pháp luật. Công ty đã đề ra quy chế khen thưởng nhằm tạo điều kiện cho nhân viên nỗ lực hết mình làm việc vì sự phát triển của công ty. Đồng thời, công ty cũng đề ra các biện pháp xử lý kỷ luật đối với nhân viên vi phạm nội quy lao động. Với kỷ luật chặt chẽ và nghiêm minh, công ty đã có được đội ngũ lãnh đạo và nhân viên làm việc nghiêm túc, tôn trọng và tuân thủ đúng quy chế làm việc. Bên cạnh đó, các chiến lược kinh doanh hợp lý nhằm đẩy mạnh sản xuất kinh doanh cũng đã giúp công ty không ngừng phát triển. Việc giữ uy tín với khách hàng đã mang lại hiệu quả tích cực trong hoạt động của công ty, thể hiện ở chỗ khách hàng của công ty ngày càng nhiều. Nhờ đó, số lượng hợp đồng mua bán hàng hóa mà công ty ký kết cũng tăng lên không ngừng. 2.1.Những kết quả đạt được Có thể nói, trong những năm qua, công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ đã gặp được nhiều thuận lợi trong việc giao kết, tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện hợp đồng, góp phần tăng doanh thu, tạo được niềm tin, uy tín với khách hàng. Có được thành công đó là do công ty đã ý thức được tầm quan trọng của pháp luật, luôn tích cực tìm hiểu những quy định mới của pháp luật về hoạt động mua bán hàng hóa nói chung và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, để từ đó nâng cao được khả năng áp dụng pháp luật. a. Về việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa Trước khi tiến hành giao kết hợp đồng, doanh nghiệp luôn tìm hiểu, nghiên cứu cẩn thận các điều khoản trong hợp đồng, để tìm ra những phương pháp hợp lý cho việc giao kết hợp đồng, tránh sai sót, rủi ro trong quá trình thương thảo, đàm phán hợp đồng. Ngoài ra, trong khi thực hiện việc giao kết hợp đồng thì vấn đề đánh giá, xem xét nội dung và hình thức của hợp đồng cũng luôn được công ty coi trọng. Bởi vì đây là yếu tố quyết định công ty giao kết có phù hợp với quy định của pháp luật hay không, nếu có sự sai sót hoặc là chưa phù hợp thì công ty sẽ bàn bạc với khách hàng thay đổi điều khoản trong hợp đồng sao cho phù hợp với quy định của pháp luật, sau đó mới tiến hành giao kết hợp đồng. Các hợp đồng mà công ty ký kết luôn có phụ lục đi kèm. Nội dung của phụ lục thường quy định công việc, phương thức cụ thể thực hiện. Ngoài ra, trong một số hợp đồng quan trọng còn có thể có kèm theo văn bản pháp luật . b.Về việc thực hiện hợp đồng Từ thực tiễn thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty, thì có thể thấy rằng việc đảm bảo chất lượng hàng hóa tại công ty luôn được chú trọng. Công ty luôn có những sản phẩm đạt chất lượng cao, đa dạng trong chủng loại vật liệu và thường tiến hành công việc kiểm tra hàng hóa trước khi xuất ra khỏi kho để giao cho khách hàng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, công ty với đối tác thường liên lạc, trao đổi thông tin về tiến độ thực hiện hợp đồng. Khi gặp sự cố thì hai bên thong báo cho nhau biết để cùng khắc phục. Bên cạnh đó, một lợi thế nữa là, trong suốt một thời gian dài, công ty không xảy ra vụ kiện nào về hợp đồng mua bán hàng hóa. Các yếu tố này tạo nên uy tín cho công ty, giúp cho doanh nghiệp có lượng bạn hàng lớn, do đó mà số hợp đồng được giao kết và thực hiện ngày càng tăng lên. 2.2.Những khó khăn của công ty Mặc dù công ty đã có những thành tựu trong giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa nhưng vẫn còn những khó khăn, vướng mắc cần nghiên cứu và xem xét để hoạt động mua bán hàng hóa tại công ty đạt được kết quả cao. a.Khó khăn trong công tác soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hoá Khó khăn đầu tiên là về căn cứ pháp lý khi giao kết hợp đồng tại công ty. Các nhân viên trong công ty có hiểu biết về pháp luật nhưng còn nhiều vấn đề không hiểu rõ lắm. Đây là mặt còn tại, cần phải được khắc phục ngay vì khi không hiểu rõ pháp luật thì áp dụng để giải quyết tranh chấp rất khó, và không thể thuyết phục được bên khách hàng. Trong một số hợp đồng mà công ty đã giao kết với khách hàng vẫn áp dụng Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 vào điều khoản luật áp dụng cho hợp đồng, mặc dù Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 đã hết hiệu lực kể từ khi BLDS 2005 và LTM 2005 ra đời. Điều nay có thể dẫn đến việc khách hàng sẽ đánh giá công ty là một doanh nghiệp yếu về mặt pháp lý. Ngoài ra, áp dụng đúng luật cho hợp đồng sẽ đảm bảo cho hợp đồng được chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn và tạo thuận lợi cho công ty trong quá trình thực hiện. Công ty và khách hàng thường thỏa thuận những điều khoản trong hợp đồng là : Điều khoản về hàng hóa, điều khoản về số lượng, chất lượng, điều khoản về đặt hàng, giao hàng, điều khoản về giá cả, thanh toán, điều khoản về tranh chấp và giải quyết tranh chấp…Những điều khoản trên trong hợp đồng mà công ty đã thỏa thuận thường được quy định không rõ ràng mà đôi khi còn sơ sài, những điều khoản này do vậy mà không thể hiện được một cách rõ ràng nhất, chi tiết nhất ý chí của các bên trong hợp đồng. Bên cạnh đó, công ty còn gặp khó khăn trong việc áp dụng các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng. Với công ty việc định giá tài sản bảo đảm có lúc gặp khó khăn. Điển hình là các trường hợp : Giá trị vật bảo đảm không tương xứng với giá trị thực tế của nó; vật được đem làm vật thế chấp, cầm cố hay bảo không được phép để đem ra làm bảo đảm …Hoặc có khi do quen biết, do làm ăn lâu năm, hay do ngại thủ tục rườm rà nên khi giao kết hợp đồng công ty đã không thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Đây có thể là một trong những yếu tố dẫn tới hợp đồng bị vô hiệu, gây tổn thất không đáng có cho cả hai bên tham gia hợp đồng. b.Khó khăn trong công tác thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá Điều kiện vật chất và con người của công ty là những yếu tố hàng đầu tạo nên thành công cho doanh nghiệp. Tuy vậy, cơ sở vật chất, công nghệ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê & Vũ lại còn hạn chế nên việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trong công ty tại một số giai đoạn còn gặp khó khăn. Ngoài ra, cơ cấu lao động của công ty đa phần là các nhân viên trẻ, trình độ giữa họ chưa đồng đều còn thiếu kinh nghiệm vì thế nên việc thực hiện hợp đồng còn chậm, chưa linh hoạt. Có thể nói, những khó khăn trên ảnh hưởng rất lớn đến quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng. Do vậy đã làm năng suất lao động, doanh thu và lợi nhuận của công ty bị sụt giảm. Thế nên công ty cần đề ra các phương hướng tháo gỡ, giải quyết triệt để những khó khăn trên, góp phần tăng khả năng cạnh tranh của công ty trong hoạt động mua bán hàng hóa. II. Một số kiến nghị 1.Kiến nghị về phía nhà nước nhằm hoàn thiện pháp luật Trong quá trình thực hiện hoạt động mua bán hàng hoá thưòng dễ nảy sinh tranh chấp nên rất cần sự hỗ trợ về mặt pháp lý. Việc nhà nước cần quan tâm hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về lĩnh vực này là điều thực sự cần thiết. Sau đây là một số kiến nghị : a.Nhà nước cần ban hành một hệ thống pháp luật văn bản pháp lý thống nhất, ổn định và minh bạch. Để đạt được điều đó, khi xây dựng pháp luật cần chú ý tới các vấn đề sau : Thứ nhất, để việc áp dụng pháp luật có hiệu quả thì Quốc hội cần ban hành văn bản pháp luật mang tính ổn định. Thực tiễn trước đây hệ thống pháp luật về mua bán hàng hóa ở Việt Nam đã liên tục thay đổi, bổ sung làm cho các doanh nghiệp Việt Nam khó khăn trong việc tìm hiểu và áp dụng văn bản mới. Muốn vậy, các văn bản khi được ban hành phải vừa sát với thực tiễn thương mại mà lại có thể phù hợp trong tương lai. Có như thế thì luật mới không bị thay đổi nhiều lần, làm mất tính ổn định cũng như hiệu quả thực thi của pháp luật. Thứ hai, cần xây dựng một hệ thống văn bản mang tính rõ ràng, dễ hiểu và thống nhất. Hiện nay, hoạt động thương mại được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật như là Luật thương mại 2005, Bộ Luật dân sự 2005, Luật chất lượng hàng hóa 2007, Nghị định 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 quy định chi tiết Luật thương mại về mua bán hàng hóa; Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 của chính phủ quy định chi tiết về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh… gây khó khăn cho cả nhiều luật sư, nhiều chuyên gia luật và đặc biệt là các doanh nghiệp trong việc áp dụng. Do vậy Nhà nước cần cố gắng giảm bớt sự điều chỉnh của các văn bản luật liên quan. Hoạt động mua bán hàng hóa chỉ nên chịu sự điều chỉnh chính thức của LTM, BLDS và các văn bản pháp quy chuyên ngành. Trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật, các cơ quan có thẩm quyền nên tạo điều kiện để hiệp hội các doanh nghiệp cũng như các cá nhân, tổ chức kinh doanh có mục đích lợi nhuận tham gia đóng góp ý kiến xây dựng văn bản điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa. Thủ tục giao kết hợp đồng được quy định trong Bộ Luật dân sự nên được quy định cụ thể hơn để các quan hệ hợp đồng được thiết lập nhanh chóng, đơn giản mà vẫn bảo đảm sự an toàn về mặt pháp lý. Muốn vậy, Bộ Luật dân sự phải quy định chi tiết về: + Một đề nghị phải thoả mãn ba điều kiện mới trở thành một chào hàng. Một là đề nghị đó phải được gửi tới một hoặc nhiều người cụ thể (xác định). Hai là đề nghị đó phải đủ chính xác, tức là phải nêu rõ tên hàng và ấn định rõ ràng hoặc ngầm định hay quy định phương pháp xác định số lượng và giá cả. Ba là phải chỉ rõ ý chí của người đề nghị muốn tự ràng buộc trách nhiệm trong trường hợp có chấp nhận. Trường hợp một đề nghị không thoả mãn điều kiện thứ nhất, nhưng người đề nghị nêu rõ đó là một chào hàng thì đề nghị đó cũng được coi là một chào hàng. + Hình thức hợp đồng: BLDS cần bổ sung những quy định riêng về giao kết và thực hiện hợp đồng thông qua các phương tiện thông tin kỹ thuật số để tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển thương mại điện tử ở nước ta như quy định rõ thế nào là văn bản hợp đồng theo hình thức thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác. LTM cũng cần phải hoàn thiện cho phù hợp với BLDS, cũng như bổ sung thêm một số vấn đề để việc giao kết và thực hiện hợp đồng, cụ thể là : - LTM nên quy định những nội dung chủ yếu của hợp đồng như các điều khoản về hàng hóa, số lượng, giá cả để tạo điều kiện cho các bên khi thực hiện hợp đồng hạn chế được những tranh chấp xảy ra. Đây là nội dung chủ yếu nhất mà một hợp đồng mua bán hàng hóa phải có. Quy định này cũng là phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế. - Cần quy định cụ thể về thời điểm phát sinh quyền khiếu nại để xác định thời hiệu khởi kiện. Để xác định thời điểm phát sinh quyền khiếu nại một cách đúng đắn, cần quy định các trường hợp cụ thể như sau : + Nếu hợp đồng đang có hiệu lực: Thời điểm phát sinh tranh chấp là ngày phát hiện việc vi phạm. + Nếu hợp đồng đã hết hiệu lực mà các bên không có thoả thuận nào khác và phát sinh tranh chấp: Thời điểm phát sinh tranh chấp là ngày tiếp theo của ngày hợp đồng kinh tế hết hiệu lực. + Nếu trước ngày hoặc vào ngày cuối cùng hợp đồng còn hiệu lực, các bên có thoả thuận mới quy định về thời hạn thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng, mà hết thời hạn đó, một trong các bên không thực hiện làm phát sinh tranh chấp: Thời điểm phát sinh tranh chấp là ngày kế tiếp theo của ngày hết thời hạn thực hiện thoả thuận đó. Thứ ba, cần bổ sung thêm một số qui định về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa. Cần bổ sung một điều luật quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của các bên trong quá trình giao kết hợp đồng và trách nhiệm của các bên đối với tính trung thực, đầy đủ của các thông tin được cung cấp. Trong thực tế hiện nay, các bên tiến hành giao kết hợp đồng thường biết đến các đối tác của mình thông qua việc họ tự giới thiệu hoặc có thể qua quảng cáo. Các thông tin này, có một số trường hợp không được qua kiểm chứng nên đã có một số chủ thể trong hợp đồng đã lợi dụng nhằm lừa đảo, gây ra thiệt hại cho bên đối tác. Chính vì vậy, việc cần có quy định rõ ràng hơn về nghĩa vụ cung cấp thông tin và phương tiện chứa đựng thông tin; nghĩa vụ phải đảm bảo độ tin cậy của thông tin, quy định rõ hơn về trách nhiệm cho các bên đối với các thông tin mà họ đưa ra. Về vấn đề đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng cần hoàn thiện theo một số biện pháp sau : cần xây dựng, kiện toàn về tổ chức các cơ quan đăng ký; nâng cao hiệu quả phối hợp công tác giữa các Bộ, ngành, cơ quan trong lĩnh vực đăng ký các giao dịch bảo đảm; tăng cường hoạt động cung cấp thông tin, thực hiện cải cách hành chính, ứng dụng tin học nhiều hơn vào hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm… Bởi vì đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự tồn tại, vướng mắc hiện nay trong công tác đăng ký giao dịch bảo đảm. Bên cạnh đó, Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa các biện pháp xử lý tài sản thực hiện hợp đồng. BLDS 2005 nên có quy định rõ ràng về tài sản không được dùng làm vật thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh. Bởi vì, nhiều trường hợp trên thực tế để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên đã sử dụng các biện pháp như thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh tuy nhiên không phải bên nhận tài sản bảo đảm nào cũng hiểu rõ được hết các biện pháp bảo đảm, nhiều khi đã nhận những tài sản không được phép cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh. Các văn bản pháp lý hiện nay chưa giải quyết được mối quan hệ giữa pháp luật về hợp đồng với điều lệ, quy chế của doanh nghiệp, tổ chức, pháp nhân. Trong điều lệ của các công ty thường có quy định hợp đồng phải được Hội đồng thành viên chấp nhận. Như vậy, nếu hợp đồng được ký kết giữa người được ủy quyền ký kết hợp đồng và khách hàng mà hợp đồng này chưa được Hội đồng thành viên chấp nhận thì hợp đồng đó vô hiệu và được xử lý theo quy định của pháp luật. Điều này có thể gây ra thiệt hại cho bên khách hàng đã ký kết hợp đồng. Chính vì vậy, trong nền kinh tế thị trường hiện nay đây là một vấn đề Nhà nước cần chú ý và tìm cách hoàn thiện. Ngoài ra pháp luật cũng cần có thêm nghị định qui định chi tiết về nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong hệ thống các nguyên tắc giao kết, thực hiện hợp đồng, nhất là với hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong kinh doanh, các nhà kinh doanh cần lưu ý ngoài việc đặt mục tiêu lợi nhuận thì vấn đề bảo đảm lợi ích của khách hàng, người tiêu dùng cũng quan trọng không kém và cần phải được đặt lên hàng đầu. Vì khách hàng và người tiêu dùng sẽ luôn là bên bị yếu thế và hay phải chịu nhiều bất lợi, thiệt hại nếu quan hệ mua bán gặp nhiều vấn đề trục trặc. Do đó, nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng cũng cần phải được chú ý, coi trọng trong hệ thống nguyên tắc giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá. b.Cần nâng cao hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa. Một văn bản pháp luật về hợp đồng mua bán dù tốt đến mấy mà không được đưa ra thực hiện trong cuộc sống thì cũng không thể được ghi nhận. Vì thế, việc đưa các văn bản pháp lý vào cuộc sống là rất quan trọng và cần được nâng cao. Nhưng văn bản pháp luật không thể tự mình đi vào cuộc sống mà phải trải qua các khâu tổ chức thực hiện. Do vậy cần một sự đồng bộ giữa công tác ban hành và công tác thực thi pháp luật. Trước hết các cán bộ công chức, những người làm về pháp luật phải là những người có trình độ cao, hiểu biết sâu rộng về pháp luật, đặc biệt là phải hiểu rõ thực tế, có như thế khi xây dựng pháp luật mới có ý nghĩa thực tiễn. Cụ thể là trong lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hóa thì các cơ quan như Chính phủ, Bộ Tài chính, các sở, phòng, ban chuyên môn phải có kế hoạch để phổ biến pháp luật cho các doanh nghiệp đẻ họ nắm rõ các quy định pháp lý , từ đó vận dụng chính xác tinh thần pháp luật mà văn bản đưa ra. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân một cách rộng rãi về chế định hợp đồng trong các văn bản luật. Bộ luật Dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 là những văn bản quan trọng của hệ thống pháp luật nước ta. Do vậy, chúng có ảnh hưởng và tác động rất lớn đến đời sống dân cư cũng như sự phát triển kinh tế xã hội. Việc tuyên truyền phổ biến sâu rộng nội dung những văn bản pháp luật này là rất cần thiết; và có thể thực hiện thông qua nhiều phương tiện khác nhau như : báo chí, phát thanh, truyền hình, internet… Để việc tuyên truyền đạt hiệu quả cao nên phân loại đối tượng theo lứa tuổi, giới tính, ngành nghề, dân tộc… để có các hình thức, nội dung tuyên truyền phù hợp. Cần tiến hành giải đáp những thắc mắc, kiến nghị của doanh nghiệp khi thực hiện pháp luật về hợp đồng một cách rộng rãi. Việc giải đáp pháp luật được thực hiện dưới các hình thức khác nhau như bằng văn bản, thông qua mạng điện tử, thông qua điện thoại hoặc đối thoại trực tiếp. c.Nâng cao vị thế của Trọng tài thương mại trong việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa. Mỗi khi xẩy ra tranh chấp, thì các doanh nghiệp Việt Nam thường thông qua hình thức thương lượng, tự giải quyết với nhau hoặc khi không đạt được kết quả thì tìm đến tòa án trong khi đó hầu hết các doanh nghiệp trên thế giới lại tìm đến các trọng tài vì những ưu điểm của hình thức này. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa của hầu hết doanh nghiệp Việt Nam điều khoản cuối cùng thường quy định “nếu có tranh chấp xảy ra thì giải quyết bằng con đường thương lượng, trên tinh thần hợp tác, hiểu biết , giúp đỡ lẫn nhau. Nếu không thỏa mãn yêu cầu của các bên tranh chấp sẽ được giải quyết tại Tòa án”. Việc các doanh nghiệp Việt Nam ít lựa chọn con đường giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một hạn chế cho các doanh nghiệp khi tham gia ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Xuất phát từ thực tế đó, vấn đề đặt ra là cần phải làm sao để giới thiệu nhiều và sâu hơn nữa về cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài cũng như việc nâng cao vị thế của trọng tài thương mại. Do vậy, nên tiến hành các cuộc tập huấn cho các doanh nghiệp về giải quyết tranh chấp bằng phương thức này. Đây có thể xem là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, tuy nhiên để xúc tiến quá trình tiếp cận với các doanh nghiệp xảy ra nhanh hơn thì các trung tâm trọng tài nên có các chương trình tự quảng bá và giới thiệu, thay vì thụ động hoặc chờ sự hỗ trợ bao cấp của Nhà nước như lâu nay. d.Đề ra một số chính sách quản lý trong lĩnh vực pháp lụât Các ngành, các cấp cần phải tăng cường quản lý nhà nước về hoạt động mua bán hàng hóa trên địa bàn, quản lý của mình. Thông qua một số biện pháp như sau: Thứ nhất, tăng cường kiểm tra điều kiện kinh doanh cũng như năng lực tài chính của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động mua bán hàng hóa. Trên thực tế hiện nay có nhiều cá nhân thành lập công ty, tiến hành công việc kinh doanh trong lĩnh vực mua bán hàng hóa nên cần phải tăng cường nâng cao các biệnn pháp quản lý, tổ chức kiểm tra hoạt động kinh doanh của các công ty tránh gây lừa đảo Thứ hai, cần xây dựng và khai thác các cơ sở dữ liệu pháp luật về hợp đồng nhằm mục đích hỗ trợ cho các doanh nghiệp khi họ gặp khó khăn trong tiếp cận với thông tin pháp luật về hợp đồng. Và để bảo đảm việc phổ biến kịp thời các quy định pháp luật có liên quan phục vụ hoạt động của doanh nghiệp thì các Bộ, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức biên soạn, xuất bản tài liệu giới thiệu, tổ chức triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành có liên quan đến ngành, lĩnh vực hay phạm vi do mình quản lý cho doanh nghiệp. UBND cấp tỉnh chỉ đạo xây dựng kế hoạch và phối hợp với các tổ chức đại diện của doanh nghiệp phổ biến các tài liệu giới thiệu, tổ chức triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật cho doanh nghiệp. Thứ ba, một vấn đề khác nên được nhà nước quan tâm đó là hiện nay các văn bản pháp quy được bán với giá khá cao gây cản trở cho việc pháp luật đi vào cuộc sống nhân dân. Nếu như những văn bản pháp luật quan trọng, cơ bản của đất nước được phát miễn phí cho nhân dân, nhất là vùng nông thôn, miền núi thì sẽ tạo điều kiện rất lớn trong việc nâng cao hiểu biết về pháp luật trong nhân dân. Bên cạnh đó, Nhà nước ta nên đưa ra những chính sách có lợi để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuận tiện hơn trong việc mua bán và phân phối hàng hóa, thúc đẩy quá trình phát triển đất nước. Ví dụ như các chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng, đất đai, chính sách về thương nhân, đại lý, các chính sách về thị trường và mặt hàng…nhằm khuyến khích các công ty đầu tư phát triển, nâng cao năng suất, phát triển kinh tế. Ngoài ra, nhà nước cũng cần quan tâm đầu tư phát triển các dịch vụ hỗ trợ phát triển hệ thống phân phối hàng hóa như: hạ tầng cơ sở giao thông, hạ tầng cơ sở thông tin, thanh toán, kho bãi, vận chuyển. 2.Kiến nghị về phía doanh nghiệp 2.1.Về công tác soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hoá Hoạt đồng mua bán hàng hóa là lĩnh vực phát triển mạnh mẽ nhưng lại thường xảy ra tranh chấp. Do vậy, trước khi ký kết, công ty nên soạn thảo sẵn các mẫu hợp đồng chặt chẽ và hợp pháp để vừa không bị vô hiệu, lại vừa hạn chế được tranh chấp xảy ra, tránh tạo ra kẽ hở cho đối tượng xấu lợi dụng để vi phạm hợp đồng gây thiệt hại cho công ty. Việc soạn thảo nên nhờ luật sư hoặc là người am hiểu về pháp luật đảm nhiệm.Cần quy định cụ thể các điều khoản của hợp đồng như: Thứ nhất, hiện nay hầu hết các hợp đồng mua bán hàng hóa của công ty vẫn còn dùng tên gọi là Hợp đồng kinh tế, thuật ngữ này không còn phù hợp nữa đòi hỏi công ty cần phải tìm hiểu thật kỹ càng về những văn bản pháp luật đã thay đổi để áp dụng cho phù hợp. Thứ hai, thoả thuận về giá cả: Trong hợp đồng nên có điều khoản thoả thuận trong trường hợp có sự thay đổi về giá. Khi đó công ty sẽ thông báo kịp thời cho bên mua để bên mua biết. Căn cứ vào sự chênh lệch về giá mới so với giá cũ đã thỏa thuận trong hợp đồng để quy ra số lượng hàng hóa tương ứng với số tiền chênh lệch đó và bên bán sẽ cắt giảm lượng hàng hóa giao hoặc tăng thêm tùy vào giá mới giảm hay tăng so với giá cũ. Mặt khác, công ty cũng nên có bảo lưu về điều khoản “ Bên bán có quyền điều chỉnh giá tăng theo tỷ lệ % tăng tương ứng với giá hàng hoá nhập khẩu”, như vậy sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho công ty trong việc nhận thanh toán. Thứ ba, về biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng: Tuy trong hợp đồng thanh toán sau có nêu điều khoản này nhưng các hợp đồng thanh toán trước cũng cần áp dụng biện pháp này bởi có nhiều trường hợp bên mua đặt hàng nhưng không nhận hàng gây thiệt hại cho công ty. Ngoài ra, đối với biện pháp bảo đảm nên áp dụng biện pháp đặt cọc trong những trường hợp giá trị hợp đồng nhỏ, do dặc điểm dễ thoả thuận và thủ tục không rườm rà. Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho bên mua, nên thỏa thuận các hình thức bảo đảm này cho phù hợp theo từng trường hợp. Thứ tư, về phương thức giao hàng cũng cần được quy định rõ ràng hơn, ví dụ như nếu giao hàng tại kho bãi của công ty hoặc giao hàng tại địa điểm nào đó cũng phải quy định cụ thể bên nào phải chịu chi phí vận chuyển. Và nếu giao hàng trong thời hạn đó thì giao một chuyến hay giao trong nhiều chuyến, vì đây cũng là vấn đề hay xảy ra tranh chấp. Thứ năm, thời điểm chuyển rủi ro cũng là một vấn đề mà Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ phải chú ý tới khi giao kết và thực hiện hợp đồng. Thực tế có những hợp đồng công ty ký kết với khách hàng mà không có điều khoản quy định về thời điểm chuyển rủi ro, nhưng rất may là lại không có vấn đề gì xảy ra trong quá trình các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, thế nên vấn đề chuyển rủi ro không được chú ý tới. Tuy nhiên, những hợp đồng sau này công ty ký kết nên có điều khoản quy định rõ ràng thời điểm chuyển rủi ro, vì như thế sẽ xác định được cụ thể trong trường hợp có rủi ro xảy ra đối với hàng hóa, các bên sẽ phải chịu trách nhiệm như thế nào, tránh tình trạng vì không có thỏa thuận và quy định trong hợp đồng nên các bên lẩn tránh, đổ trách nhiệm cho nhau. Và như vậy thì tranh chấp là điều khó tránh khỏi, làm ảnh hưởng đến uy tín và mối quan hệ bạn hàng giữa hai bên. Thứ sáu, một điều khoản cũng hết sức cần thiết là điều khoản bất khả kháng. Bất khả kháng là sự kiện pháp lý làm nảy sinh ngoài ý muốn chủ quan của các bên ảnh hưởng trực tiếp đến thực hiện hợp đồng đã ký. Đó là các sự kiện thiên nhiên như bão, lũ lụt, hạn hán, động đất. núi lửa, chiến tranh,…. Việc không qui định rõ điều này thì rất dễ bị bên vi phạm lợi dụng để thoái thác trách nhiệm dẫn đến thiệt hại cho công ty vì khi xảy ra sự kiện bất khả kháng thì bên vi phạm hợp đồng không phải chịu trách nhiệm về tài sản. Do đó khi ký hợp đồng, trong điều khoản này công ty cần phải định nghĩa về bất khả kháng và qui định nghĩa vụ của bên gặp sự kiện bất khả kháng. Thứ bảy, điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng cũng cần được công ty lưu ý đến khi soạn thảo hợp đồng. Tuy công ty trong thời gian hoạt động vừa qua không xảy ra vụ kiện nào nhưng để đề phòng rủi ro thì đây là một điều khoản có vai trò quan trọng. Trong các hợp đồng mà công ty đã ký kết, cũng có những hợp đồng điều khoản giải quyết tranh chấp được quy định tuy nhiên đó đều là những quy định chung chung, không rõ ràng. Thoả thuận được nêu ra như sau : Trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu có gì vướng mắc hai bên A, B gặp gỡ, trao đổi tìm biện pháp tháo gỡ thương lượng giải quyết kịp thời. Nếu trường hợp không đạt được thỏa thuận thì việc giải quyết sẽ được thông qua tòa án kinh tế thành phố Hà Nội. Theo như những quy định của điều khoản này thì nếu công ty có xảy ra tranh chấp cũng không áp dụng được phương thức trọng tài để giải quyết tranh chấp. Bởi vì theo PLTTTM 2003 thì việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chỉ được thực hiện khi các bên có thỏa thuận trọng tài. Việc quy định như vậy sẽ tránh được những trường hợp đáng tiếc có thể xảy ra. Nói chung, nội dung hợp đồng càng cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ thì càng thuận tiện trong quá trình thực hiện và càng ít rủi ro. Vì thế khi soạn thảo hợp đồng công ty cần nêu rõ những vấn đề đã thỏa thuận, tránh trường hợp soạn thảo xong hợp đồng rồi lại sửa đổi, sẽ rất tốn kém về thời gian và có thể làm giảm uy tín của công ty. Bên cạnh đó, hình thức của hợp đồng cũng nên được sử dụng đa dạng hơn. Hình thức ký kết bằng văn bản là hình thức chủ yếu trong việc giao kết hợp đồng của công ty từ trước đến nay. Công ty nên mở rộng các hình thức ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa tạo điều kiện thuận lợi trong trường hợp các đối tác ở xa, không thuận tiện cho việc đi lại để giao kết hợp đồng trực tiếp. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường luôn có sự biến đổi, công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng nếu công ty không tận dụng lợi thế này, nhiều khi sẽ bỏ lỡ cơ hội có thêm khách hàng mới. Chính vì vậy, công ty nên tiến hành việc ký kết hợp đồng bằng các hình thức khác như bằng lời nói, các thông điệp dữ liệu, điện báo, telex, fax..,nhằm đáp ứng sự nhanh nhạy và linh hoạt trong ký kết hợp đồng . 2.2.Về công tác thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá Để đạt được hiệu quả trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng, công ty cần chú ý đánh giá đối tác một cách thận trọng trước khi ký kết về các mặt như: tình hình tài chính, khả năng thanh toán, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, để tránh tình trạng khi hợp đồng được ký kết và đi vào thực hiện thì công ty lại không được thanh toán vì đối tác không thể thanh toán hoặc đang lâm vào tình trạng phá sản. Ngoài ra, hiện nay trong nền kinh tế thị trường, các công ty ma, công ty ảo tồn tại khá nhiều dưới các hình thức khác nhau, do đó, nếu không cẩn thận thì rất dễ bị lừa. Công ty nên tuyển dụng thêm một nhân viên pháp chế hoặc cử cán bộ đi học thêm một lớp đào tạo về luật để rà soát các điểm chưa phù hợp trong hợp đồng, tư vấn về việc ký kết và thực hiện hợp đồng hạn chế việc các bên vi phạm hợp đồng và xảy ra tranh chấp. Công ty có thể thu hút nhân tài thông qua các hình thức như quảng cáo về công ty, về môi trường làm việc trong công ty, chế độ lương, thưởng, về tinh thần hợp tác và tôn trọng người tài… Trong đó, chế độ lương, thưởng và môi trường làm việc thường được đánh giá là yếu tố thu hút nhân tài cao nhất. Ngoài ra, công ty có thể phát hiện nhân tài ngay trong nội bộ công ty, trọng dụng và bố trí họ vào đúng vị trí xứng đáng, có như thế mới phát huy tối đa năng lực của họ, phục vụ cho công ty. Ngoài việc nghiên cứu hệ thống pháp luật trong nước, công ty cần tìm hiểu về pháp luật và thông lệ quốc tế, bởi có nhiều vấn đề áp dụng các điều khoản này trong hợp đồng sẽ có lợi cho các bên. Tuy nhiên các điều khoản này không được trái với các quy định của pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, công ty nên cải thiện mối quan hệ với các luật sư. Việc liên hệ và nhờ sự giúp đỡ, tư vấn của các luật sư nên trở thành thông lệ khi công ty thoả thuận giao kết, thực hiện hợp đồng với các đối tác có kinh nghiệm hoặc giá trị hợp đồng lớn. Trên thực tế, có rất ít doanh nghiệp am hiểu về luật trong quá trình kinh doanh cũng như giao kết hợp đồng. Nếu doanh nghiệp và luật sư có hợp đồng tư vấn dịch vụ pháp lý thì luật sư sẽ vận dụng kinh nghiệm và kiến thức của bản thân để hóa giải các vướng mắc phát sinh cho doanh nghiệp bởi vì doanh nghiệp không thể nắm vững và thấu hiểu pháp luật như luật sư. Bây giờ, ở nước ta chỉ có một số công ty có tiềm năng kinh tế thì mới thuê luật sư trong khi tham gia ký kết hợp đồng, dẫn đến nhiều hạn chế cũng như thiệt hại không đáng có cho doanh nghiệp. KẾT LUẬN Việt Nam gia nhập WTO đồng nghĩa với việc đã chính thức bước vào sân chơi quốc tế, do đó doanh nghiệp phải đối mặt với một thị trường mang tính cạnh tranh khốc liệt. Thêm vào đó, điều kiện nền kinh tế thị trường không ngừng biến đổi khiến cho quan hệ mua bán hàng hoá được thực hiện bởi doanh nghiệp càng trở nên đa dạng và phức tạp. Do vậy, việc hoàn thiện chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hoá là một vấn đề quan trọng và bức thiết. Đề tài “Chế độ pháp lý về giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá và thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ” nghiên cứu pháp luật về hoạt động mua bán hàng hoá, lợi ích mà doanh nghiệp có được khi tham gia ký kết hợp đồng. Trên cơ sở đó, vận dụng vào thực tế tại Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ để đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng hàng hóa nói chung và áp dụng pháp luật vào hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty nói riêng. Một lần nữa em xin cám ơn cô giáo PGS-TS. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ-Trường ĐH Kinh tế quốc dân và anh chị công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em thực hiện chuyên đề này. PHỤ LỤC Mẫu hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập- Tự do- Hạnh phúc Hà nội, ngày 11 tháng 3 năm 2008 Hợp đồng mua bán hàng hoá Số: - Căn cứ Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 14/06/2005 và có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2006 - Căn cứ Luật thương mại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hnàh ngày 14/06/2005 và có hiệu lực thi hành ngày 1/1/2006 - Căn cứ vào nhu cầu và khả năng của hai bên Hôm nay, ngày… BÊN MUA: …BÊN A - Địa chỉ: - Điện thoại:- Fax: - Tài khoản: - Mã số thuế: - Đại diện: BÊN BÁN: CÔNG TY TNHH HỖ TRỢ KỸ THƯƠNG LÊ VÀ VŨ - BÊN B - Địa chỉ:- Fax: - Điện thoại: - Tài khoản - Đại diện: Hai bên thống nhất ký hợp đồng mua bán hàng hoá theo các điều khoản sau: Điều1: Tên hàng, số lượng, giá trị Bên A đồng ý mua, Bên B đồng ý bán loại hàng hoá sau: Tên hàng ĐVT Số lượng Đơn giá(đ) Thành tiền(đ) - Tổng giá trị của hợp đồng: * Đơn giá trên chưa bao gồm thuế GTGT Điều 2: Tiêu chuẩn chất lượng theo qui cách đóng gói - Chất lượng: - Bao bì, đóng gói Điều 3: Thời gian, địa điểm và phương thức giao nhận - Thời gian giao hàng: - Địa điểm giao hàng: - Vận chuyển: - Bốc xếp: - Phương thức giao nhận: + Xác định khối lượng: + Xác định chất lượng: Điều 4: Phương thức thanh toán - Hình thức thanh toán: - Thời hạn thanh toán: Điều 5 : Nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên Đối với Bên A: - Kiểm tra chất lượng, quy cách hàng trước khi nhận hàng của Bên B. - Nhận hàng đúng quy cách, chủng loại, chất lượng, thời gian như quy định của hợp đồng. - Thanh toán đúng hạn theo quy định trong hợp đồng. Đối với Bên B: - Giao hàng cho Bên A đúng quy cách, chủng loại, chất lượng, số lượng như quy định của hợp đồng hoặc theo đơn đặt hàng đã thỏa thuận giữa hai bên. - Cung cấp hóa đơn VAT hợp lệ cho Bên A sau mỗi lô hàng và chứng chỉ chất lượng (bản gốc) kèm theo. Điều 6 : Thanh lý hợp đồng Sau khi hai bên tiến hành thủ tục thanh toán, chuyển tiền và giao nhận hàng hóa sẽ cùng thống nhất làm biên bản thanh lý hợp đồng trên cơ sở thực tế đã thực hiện. Điều 7 : Giải quyết tranh chấp - Mọi tranh chấp phát sinh giữa hai bên liên quan đến hợp đồng trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng giữa các bên trên cơ sở tôn trọng.bình đẳng và cùng có lợi. - Trong trường hợp thương lượng không đạt kết quả, mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đên hợp đồng đang ký kết sẽ được giải quyết tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam theo quy tắc tố tụng của Trung tâm này. Quyết định của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam là quyết định cuối cùng buộc các bên phải thực hiện. Mọi chi phí do bên thua chịu. Điều 8: Điều khoản chung - Hai bên cam kết thực hiện nghiêm chỉnh các điều khoản đã thoả thuận trên; không bên nào được tuỳ ý sửa đổi hoặc huỷ bỏ. Trong quá trình thực hiện nếu có phát sinh, hai bên sẽ cùng bàn bạc giải quyết trên tinh thần hợp tác thương lượng và thống nhất bằng văn bản - Hợp đồng có giá trị kể từ ngày ký kết đến khi bên A thanh toán xong toàn bộ giá trị hàng hoá hai bên thực giao nhận - Kết thúc hợp đồng, nếu hai bên không có điều gì vướng mắc về các điều khoản đã ký thì coi như hợp đồng đã được thanh lý Hợp đồng được lập thành 4 bản, bên A giữ 02 bản, bên B giữ 02 bản Đại diện bên A Đại diện bên B DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn bản quy phạm pháp luật Bộ luật Dân sự 2005. Luật Thương mại 2005. Luật Doanh nghiệp 2005. Luật chất lượng hàng hoá 2007. Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của chính phủ quy định chi tiết về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh. Nghị định 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về mua bán hàng hoá. II. Giáo trình và sách tham khảo 1. Nguyễn Hợp Toàn (chủ biên) – Giáo trình Pháp luật kinh tế - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội – NXB Thống kê 2005. 2. Trần Thị Hoà Bình - Trần Văn Nam (đồng chủ biên) – Giáo trình Luật Thương mại quốc tế - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội – NXB Lao động – Xã hội 2005. 4. Phạm Duy Nghĩa – Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2002. 5. Nguyễn Viết Tý (chủ biên) – Giáo trình Luật Thương mại (tập 2) - Đại học Luật Hà Nội – NXB Công an nhân dân 2006. III.Báo và Tạp chí Báo lao động số 15/2008 . Báo kinh tế Việt Nam năm 2009. Tạp chí nhà nước và pháp luật số 3/2008. Tạp chí luật học số 5/2008. Tạp chí kinh tế số 16/2009. IV.Tài liệu của Công ty Điều lệ công ty. Nội quy lao động của công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê & Vũ. Quy chế tổ chức và hoạt động của công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê & Vũ. Báo cáo tổng kết năm 2004- 2009. Các hợp đồng mua bán hàng hóa mà Công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ ký kết. Website : MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ Sơ đồ 1 : Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý công ty 32 Bảng 1.Bảng tổng kết doanh thu và lợi nhuận sau thuế của công ty. 37 Biểu đồ1.Biểu đồ về doanh thu của công ty. 38 Biểu đồ 2: Biểu đồ về tốc độ tăng lợi nhuận sau thuế của công ty. 39 Bảng 2. Bảng tổng kết đánh giá doanh thu từ hoạt động mua bán hàng hoá. 40 Biểu đồ 3. Biểu đồ về doanh thu từ hoạt động mua bán hàng hoá và tổng doanh thu. 41

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31410.doc
Tài liệu liên quan