Chuyên đề Chế độ pháp lý về hợp đồng xây dựng và thực tiễn áp dụng trong công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí HT – steel

Khắc phục những khó khăn và biết nắm bắt cơ hội, những thuận lợi của thị trường cũng như của chính nội tại trong công ty. Công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí – HT steel đã đạt được một số thành tựu đáng kể trong thời gian tồn tại và hoạt động của mình. Trong những năm qua, công ty đã và đang thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra, không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, tăng số lượng lao động. Từ đó, thúc đẩy công ty phát triển nhanh hơn và mạnh hơn. Hiện nay, tuy chỉ mới là một doanh nghiệp vừa, nhưng với những chính sách và chiến lược của mình, công ty đang kỳ vọng vào một sự phát triển lớn mạnh hơn nữa.

doc83 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1647 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Chế độ pháp lý về hợp đồng xây dựng và thực tiễn áp dụng trong công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí HT – steel, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quả hoạt động kinh doanh qua 2 năm 2005 và 2006) Khả năng thanh toán của công ty thể hiện ở các chỉ tiêu: + Khả năng thanh toán hiện hành: - Năm 2005: 1.20 lần - Năm 2006: 1.19 lần + Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn: - Năm 2005: 0.63 lần - Năm 2006: 0.93 lần + Khả năng thanh toán nhanh: - Năm 2005: 0.07 lần - Năm 2006: 0.03 lần Tỷ suất sinh lời của công ty thể hiện ở các chỉ tiêu: + Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu: Năm 2005: 1.04% Năm 2006: 2.36% + Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu: Năm 2005: 0.75% Năm 2006: 2.33% + Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tài sản: Năm 2005: 0.71% Năm 2006: 2.93% + Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tài sản: Năm 2005:0.51% Năm 2006: 2.09% + Tỷ suất lợi nhuận sau thếu trên VCSH: Năm 2005:17.93% Năm 2006: 3.01% 1.5. Một số số liệu cơ bản về số lượng lao động của công ty Số lượng lao động và cơ cấu lao động của công ty được thể hiện trong bảng sau: TT Loại công nhân viên Số lượng (người) Cơ cấu (%) 2005 2006 2005 2006 1 Công nhân và nhân viên kỹ thuật 89 105 76.06 76.09 2 Nhân viên quản lý 28 33 23.94 23.91 3 Tổng 117 138 100 100 (Trích Báo cáo tài chính qua 2 năm 2005 và 2006) - Nhân viên công ty khi vào làm việc tại công ty đều phải kí hợp đồng lao động theo đúng quy định của pháp luật. Theo đó, người lao động và người sử dụng lao động đều phải tuân thủ các nguyên tắc sau: + Nguyên tắc tự do tự nguyện. + Nguyên tắc bình đẳng + Nguyên tắc không trái pháp luật về thỏa ước lao động tập thể - Căn cứ vào lĩnh vực họat động của mình, công ty áp dụng cả 3 loại hợp đồng theo quy định của Bộ luật lao động là: + Hợp đồng không xác định thời hạn + Hợp đồng có thời hạn. + Hợp đồng lao động theo mùa vụ Nhìn chung, chế độ lương thưởng, đãi ngộ của công ty đã đáp ứng được đầy đủ đời sống của cán bộ công nhân viên trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, để khuyến khích người lao động, công ty có đưa ra các mức thưởng phụ thuộc vào hiệu quả và năng lực họat động của công nhân viên. Chế độ bảo hiểm xã hội dành cho người lao động theo quy định của pháp luật. 1.6. Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua Năm 2005, có một số ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình kinh doanh đó là: vật tư chính là thép tấm nhập khẩu luôn có giá đứng ở mức cao ảnh hưởng nhiều đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh do chưa vay được vốn ngân hàng. Nguồn vốn vay huy động còn thấp không đáp ứng đủ cho hoạt động đầu tư và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Đến năm 2006, tình hình hoạt động kinh doanh của công ty đã được cải thiện rõ rệt và đang trên đà phát triển thể hiện qua báo cáo kết quả kinh doanh và các chỉ tiêu đã nêu trên. Doanh thu, lợi nhuận đều tăng, doanh nghiệp không ngừng mở rộng quy mô và tuyển thêm lao động. Với đà phát triển này, doanh nghiệp là không ngừng phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận tối đa, tạo việc làm ổn định, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao thu nhập và đời sống của người lao động, đảm bảo lợi ích của các cổ đông và làm tròn nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật. 1.7. Các loại hợp đồng công ty đã kí kết 1.7.1. Hợp đồng lao động - Nhân viên công ty khi vào làm việc tại công ty đều phải kí hợp đồng lao động theo đúng quy định của pháp luật. Theo đó, người lao động và người sử dụng lao động đều phải tuân thủ các nguyên tắc sau: + Nguyên tắc tự do tự nguyện. + Nguyên tắc bình đẳng + Nguyên tắc không trái pháp luật về thỏa ước lao động tập thể - Căn cứ vào lĩnh vực họat động của mình, công ty áp dụng cả 3 loại hợp đồng theo quy định của Bộ luật lao động là: + Hợp đồng không xác định thời hạn + Hợp đồng có thời hạn. + Hợp đồng lao động theo mùa vụ - Nội dung của hợp đồng lao động: + Công việc phải làm + Thời giờ làm việc + Thời giờ nghỉ ngơi + Tiền lương + Địa điểm lam việc + Thời hạn hợp đồng + Điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động + Bảo hiểm xã hội - Chế độ lương, đãi ngộ của công ty đối với người lao động được thực hiện theo chế độ tiền lương do nhà nước ban hành. +Mức lương tối thiểu: 450.000đ Nhìn chung, chế độ lương thưởng, đãi ngộ của công ty đã đáp ứng được đầy đủ đời sống của cán bộ công nhân viên trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, để khuyến khích người lao động, công ty có đưa ra các mức thưởng phụ thuộc vào hiệu quả và năng lực họat động của công nhân viên. Chế độ bảo hiểm xã hội dành cho người lao động theo quy định của pháp luật. Cụ thể là: + Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương + Người lao động đóng bằng 5% tiền lương 1.7.2. Hợp đồng tín dụng Hợp đồng tín dụng được kí kết giữa công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí và các ngân hàng. Trong đó có các nội dung sau: Căn cứ để ký kết hợp đồng. Các bên tham gia ký kết hợp đồng. Số tiền cho vay và mục đích sử dụng số tiền đó. Thời hạn vay. Lãi suất cho vay trong hạn và lãi suất trong trường hợp nợ quá hạn, gia hạn nợ. Điều kiện rút vốn vay bao gồm việc cung cấp hồ sơ, lập bảng kê rút vốn, thời hạn rút vốn và nội dung thanh toán. Thanh toán: thời hạn và số tiền và phương thức trả nợ gốc; phương thức tính và thời điểm trả lãi. Biện pháp bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả vốn vay: đảm bảo bằng tài sản cố định của công ty theo Hợp đồng thế chấp tài sản. Quyền và nghĩa vụ của bên vay: Được cung ứng vốn vay theo các điều kiện ghi trong hợp đồng; được trả nợ trước hạn; có quyền yêu cầu bên cho vay bồi thường thiệt hại phát sinh do bên cho vay vi phạm hợp đồng; trả nợ gốc và lãi vay đầy đủ, đúng hạn; chấp hành đúng các cam kết về thế chấp, cầm cố… Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay: Có trách nhiệm cung ứng vốn vay theo yêu cầu của bên vay; có quyền đình chỉ cho vay và thu nợ trước thời hạn trong trong một số trường hợp quy định… Các điều khoản chung về thông báo, thư từ giao dịch và xử lý vi phạm hợp đồng. Điều khoản quy định hiệu lực của hợp đồng. 1.7.3. Hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm được kí giữa công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí và chi nhánh công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex Hưng Yên thỏa thuận về việc công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí thực hiện việc mua bảo hiểm rủi ro hỏa hoạn cho máy móc thiết bị và nhà xưởng tại chi nhánh công ty bảo hiểm Petrolimex Hưng Yên. Thỏa thuận chuyển nhượng quyền thụ hưởng bảo hiểm được kí kết giữa công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí, chi nhánh công ty bảo hiểm Petrolimex Hưng Yên và ngân hàng thương mại cổ phần Á châu – chi nhánh Hưng Yên. Theo đó, công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí tự nguyện cam kết chuyển quyền thụ hưởng bảo hiểm theo hợp đồng và giấy chứng nhận bảo hiểm cho người chịu thụ hưởng duy nhất là ngân hàng thương mại cổ phần Á châu – chi nhánh Hưng Yên, và chi nhánh công ty bảo hiểm Petrolimex Hưng Yên chấp nhận quyền thụ hưởng này. Ngay khi phát sinh tổn thất mà số tiền bồi thường từ 20 triệu trở lên thì bên chi nhánh công ty bảo hiểm Petrolimex có trách nhiệm tự động chuyển toàn bộ số tiền bồi thường cho bên ngân hàng và thông báo bằng văn bản cho bên công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí và ngân hàng về việc chuyển tiền này. Tài sản được bảo hiểm ở đây là máy móc thiết bị và nhà xưởng của công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí, đây là tài sản cầm cố cho nguồn vốn vay do công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí vay của ngân hàng thương mại cổ phần Á châu – chi nhánh Hưng Yên. Theo biên bản họp hội đồng quản trị công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí ngày 26/10/2006 thì công ty đã đề nghị ngân hàng Á châu cấp tín dụng cho công ty bằng các hình thức cho vay, bảo lãnh cà các hình thức cấp tín dụng khác. Tổng hạn mức cho vay là 4.500.000.000 đ, dùng tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, máy móc thiết bị nhà xưởng trị giá 7.126.761.000đ thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đất của công ty để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công ty đối với ngân hàng. Vì vậy, khi có rủi ro xảy ra đối với tài sản đó thì quyền thụ hưởng bảo hiểm sẽ được chuyển từ công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí sang ngân hàng cho công ty vay tiền. 1.7.4. Hợp đồng mua bán hàng hóa Hợp đồng mua bán hàng hóa được kí kết giữa công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí và đối tác bao gồm các nội dung sau: + Đại diện bên mua và đại diện bên bán + Tên công trình, tên hàng, quy cách, khối lượng, giá cả + Phương thức giao nhận và thanh toán + Chất lượng hàng + Trách nhiệm của các bên + Điều khoản chung + Những thỏa thuận khác 1.7.5. Hợp đồng xây dựng Là một công ty xây dựng với quá trình hoạt động chỉ mới trong một thời gian rất ngắn, nhưng công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí HT – steel có đầy đủ điều kiện để tham gia đấu thầu các công trình xây dựng. Tuy nhiên, hợp đồng xây dựng chủ yếu mà công ty kí kết vẫn là các hợp đồng thi công xây lắp và hợp đồng tư vấn xây dựng, còn công ty chỉ tham gia vào hợp đồng tổng thầu với tư cách là nhà thầu phụ nên công tác đấu thầu của công ty là rất ít. Chi tiết về tình hình kí kết và thực hiện hợp đồng xây dựng được trình bày ở phần sau. 2. Áp dụng chế độ pháp lý về hợp đồng xây dựng tại công ty 2.1. Tình hình kí kết hợp đồng tại công ty 2.1.1. Đàm phán kí kết hợp đồng Việc đàm phán, ký kết hợp đồng phải căn cứ vào kết quả lựa chọn nhà thầu, điều kiện thực hiện công việc, hồ sơ mời đấu thầu, hồ sơ đấu thầu, đề xuất của nhà thầu được lựa chọn và các tài liệu có liên quan khác. 2.1.2. Thẩm quyền kí kết Khi tiến hành kí kết hợp đồng xây dựng, người có thẩm quyền kí kết hợp đồng tại công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí – HT steel là người đại diện hợp pháp của công ty, tức là giám đốc công ty, ông Chu Anh Tuấn. Ngoài ra, giám đốc công ty cũng có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác thay thế mình ký hợp đồng xây dựng, cụ thể ở đây giám đốc công ty đã ủy quyền cho phó giám đốc, ông Chu Anh Cường thay thế mình kí kết hợp đồng xây dựng. Trong văn bản ủy quyền có ghi rõ họ tên, nội dung, phạm vi và thời hạn ủy quyền. Người được ủy quyền này chi được kí hợp đồng trong phạm vi được ủy quyền và không được ủy quyền lại cho người khác. 2.1.3. Phương thức để đi đến kí kết hợp đồng xây dựng Phương thức để đi đến kí kết hợp đồng xây dựng thường thông qua hình thức đấu thầu. Và chế độ đấu thầu trong xây dựng được quy định trong các văn bản pháp luật có liên quan như: Luật đấu thầu 2005, Nghị định 88/1999/NĐ-CP quy định về quy chế đấu thầu. Nghị định 66/2003/NĐ-CP ngày 12/6/2003 sửa đổi bổ sung Nghị định 88. Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu thực hiện công việc nào đó. Qua đấu thầu, bên mời thầu sẽ lựa chọn được người bán ( hàng hóa và dịch vụ) tốt nhất đối với mình. Đấu thầu đấu giá tạo ra điều kiện cạnh tranh công bằng, minh bạch trên thị trường, là biện pháp hiệu quả nhất để khắc phục những tiêu cực trong hoạt động mua bán. Riêng trong hoạt động xây dựng có đặc điểm là vốn rất lớn, vì vậy việc tổ chức đấu thầu là rất quan trọng. Từ những đặc điểm đó, các hợp đồng xây dựng mà công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí HT – steel đã kí kết cũng được dựa trên cơ sở là đấu thầu. Quá trình đấu thầu và tham gia đấu thầu của công ty dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật. 2.1.4. Các loại hợp đồng xây dựng công ty đã kí kết Hợp đồng trong hoạt động xây dựng được xác lập cho các công việc lập quy hoạch xây dựng, lập dự án đầu tư xây dựng công trình, khảo sát xây dựng, thiết kế công trình, giám sát, thi công xây dựng công trình , quản lý dự án xây dựng công trình và các công việc khác trong hoạt động xây dựng. Công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí HT – steel với ngành nghề kinh doanh được ghi trong điều lệ công ty đó là: Sản xuất kinh doanh các sản phẩm kết cấu thép và cơ khí, nhà thép tiền chế, dầm tổ hợp, kết cấu thép phi tiêu chuẩn, cột điện cao- hạ thế, cột vi ba truyền hình, các thiết bị xây dựng phục vụ các công trình công nghiệp, dân dựng, cơ sở hạ tầng. Xây dựng lắp đặt các công trình công nghiệp, dân dụng, cơ sở hạ tầng, xây lắp đường dây và trạm biến áp. Kinh doanh kim khí và vật tư tổng hợp. Tư vấn đầu tư xây dựng và thiết kế, lập dự án đầu tư, thiết kế, lập tổng dự toán và dự toán các công trình công nghiệp và dân dụng, thiết kế thiết bị phi tiêu chuẩn, tư vấn giám sát đầu tư công trình Đầu tư kinh doanh nhà ở bất động sản Sản xuất sản phẩm bê tông đúc sẵn Kinh doanh các sản phẩm khác theo quy định của pháp luật Hiện nay công ty vẫn chưa hoạt động kinh doanh hết tất cả các ngành nghề đã đăng kí, hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty vẫn là sản xuất kinh doanh các sản phẩm kết cấu thép và cơ khí, nhà thép tiền chế, dầm tổ hợp, kết cấu thép phi tiêu chuẩn…; xây dựng lắp đặt các công trình công nghiệp, dân dụng, cơ sở hạ tầng, xây lắp đường dây và trạm biến áp… Tuy nhiên, số lượng hợp đồng xây dựng mà công ty đã kí kết vẫn chiếm phần lớn số lượng hợp đồng đã kí kết của công ty. Trong đó phần lớn là hợp đồng thi công xây lắp, hợp đồng tư vấn và một số hợp đồng tổng thầu. Hợp đồng tư vấn Hợp đồng tư vấn được kí kết giữa bên giao thầu và công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí HT – steel để thực hiện các công việc tư vấn như: lập quy hoạch xây dựng, lập dự án đầu tư xây dựng công trình, khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng công trình, lựa chọn nhà thầu, giám sát thi công xây dựng công trình, quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, thẩm tra thiết kế, tổng dự toán, dự toán và các hoạt động tư vấn khác có liên quan đến xây dựng công trình. Hợp đồng tư vấn bao gồm các loại sau: - Hợp đồng tư vấn lập dự án đầu tư vốn khảo sát - Hợp đồng tư vấn thiết kế - Hợp đồng tư vấn để lựa chọn nhà thầu Hợp đồng thi công xây lắp Hợp đồng thi công xây lắp là một loại hợp đồng chủ yếu của công ty, nó chiếm phần lớn trong tổng số hợp đồng xây dựng mà công ty đã kí kết. Hợp đồng này được kí kết giữa bên giao thầu và công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí HT – steel để thực hiện thi công xây dựng công trình, hạng mục công trình hoặc phần việc xây dựng theo thiết kế, dự toán xây dựng công trình. Các bên tham gia hợp đồng căn cứ trên cơ sở những quy định của pháp luật, cụ thể đó là những tiêu chuẩn và quy chuẩn xây dựng, dự án đã được duyệt, các phương pháp đánh giá chất lượng, phương pháp định giá... Từ đó soạn thảo nên các điều khoản trong hợp đồng xây dựng. Riêng các điều khoản về trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng, chế tài áp dụng và giải quyết tranh chấp đều theo quy định chung của pháp luật. Hợp đồng tổng thầu xây dựng Công ty cổ phần kết cấu thép – HT steel với thời gian hoạt động chưa nhiều và đang trên đường mở rộng quy mô phát triển, vì vậy khi tham gia vào hợp đồng tổng thầu xây dựng thì chủ yếu với tư cách là nhà thầu phụ, tức là kí kết hợp đồng với các nhà thầu chính để thực hiện một phần công việc của dự án như: thiết kế, thi công, cung ứng vật tư thiết bị… Còn hợp đồng tổng thầu xây dựng được kí kết giữa chủ đầu tư với một nhà thầu hoặc một liên doanh nhà thầu (gọi chung là tổng thầu) để thực hiện một loại công việc, một số loại công việc hoặc toàn bộ các công việc của dự án đầu tư xây dựng công trình như: thiết kế, thi công, thiết kế và thi công xây dựng công trình, thiết kế, cung ứng vật tư thiết bị, thi công xây dựng công trình (Hợp đồng tổng thầu EPC); lập dự án, thiết kế, cung ứng vật tư thiết bị, thi công xây dựng công trình (Hợp đồng tổng thầu chìa khóa trao tay). 2.2. Nguyên tắc ký kết hợp đồng Nguyên tắc kí kết hợp đồng của công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí căn cứ theo Bộ luật dân sự và Luật thương mại, đó là; + Nguyên tắc tự nguyện: công ty và các đối tác kí kết hợp đồng trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận cam kết giữa các bên, khi xác lập quan hệ hợp đồng, các bên tự nguyện thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí nhằm đạt tới một mục đích nhất định. + Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi: công ty và đối tác tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ hợp đồng dựa trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, đảm bảo lợi ích của cả hai bên. + Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản và không trái pháp luật: khi tham gia quan hệ hợp đồng, mỗi bên phải tự mình gánh vác trách nhiệm về tài sản gồm phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại khi có hành vi vi phạm chế độ hợp đồng. Việc kí kết hợp đồng hợp pháp không được trái pháp luật, mọi thỏa thuận trong hợp đồng phải hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật Việt nam. 2.3. Hình thức và nội dung hợp đồng xây dựng tại công ty Để có thể hình thành hợp đồng xây dựng thì việc đàm phán kí kết là một bước cần thiết và vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến nội dung và việc thực hiện hợp đồng sau này. Việc đàm phán kí kết hợp đồng do 2 bên tham gia bàn bạc trao đổi với nhau trên cơ sở tự nguyện và cùng có lợi. Vì thế, trong quá trình kí kết hợp đồng xây dựng, công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí – HT steel sẽ trực tiếp đàm phán với đối tác, thống nhất ý kiến và tiến hành kí kết hợp đồng. Hình thức hợp đồng bằng văn bản và thường được thiết lập sẵn các điều khoản chủ yếu, còn lại sẽ do các bên tự bàn bạc và thống nhất. Phần nội dung của hợp đồng xây dựng do công ty kí kết khá chi tiết và đầy đủ. Cụ thể đó là: Các bên kí kết hợp đồng: Tên đơn vị Địa chỉ Số điện thoại Fax Họ tên đại diện hợp pháp của các bên chủ thể hợp đồng Số tài khỏan tại ngân hàng giao dịch của các bên Nội dung công việc và sản phẩm của hợp đồng Chất lượng và các yêu cầu kĩ thuật khác của công việc Thời gian và tiến độ thực hiện công trình Điều kiện nghiệm thu bàn giao Bảo hành công trình Tổng giá trị hợp đồng Thanh toán hợp đồng Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng Bảo hiểm Tranh chấp và giải quyết tranh chấp Bất khả kháng Tạm dừng hủy bỏ hợp đồng Phạt khi vi phạm hợp đồng Quyền và nghĩa vụ của bên B ( bên nhận thầu) Quyền và nghĩa vụ của bên A ( bên giao thầu) Ngôn ngữ sử dụng Điều khoản chung 2.4. Thực hiện hợp đồng Các nguyên tắc thực hiện hợp đồng: Sau khi hợp đồng được kí kết, các bên có trách nhiệm chấp hành các nhiệm vụ của mình theo những thỏa thuận trong hợp đồng. Khi chấp hành các nghĩa vụ đó phải tuân theo những nguyên tắc sau: Nguyên tắc chấp hành thực hiện: nguyên tắc này thể hiện nghĩa vụ hợp đồng về mặt đối tượng, không được thay thế việc thực hiện đó bằng việc trả một khoản tiền nhất định. Nguyên tắc chấp hành đúng: là việc thực hiện đầy đủ các điều khoản đã cam kết. Chấp hành thực hiện đúng là thực hiện toàn bộ đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết như: chất lượng công trình, thời gian, tiến độ hoàn thành… 2.5. Giải quyết tranh chấp Khi xảy ra tranh chấp hợp đồng giữa công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí HT – steel và bên kia thì hai bên có thể thương lượng trực tiếp để tìm cách giải quyết hoặc bằng cách hòa giải, còn trong trường hợp không thể tự giải quyết được, các bên sẽ đưa vụ việc ra trọng tài hoặc giải quyết tại tòa án. 2.5.1. Thương lượng trực tiếp Thương lượng trực tiếp là việc các bên đương sự cùng nhau trao đổi, đấu tranh, nhân nhượng và thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Thương lượng trực tiếp có thể tiến hành bằng cách 2 bên gặp nhau để thỏa thuận, thương lượng hoặc một bên gửi đơn khiếu nại cho bên kia và bên kia trả lời đơn khiếu nại. 2.5.2. Hòa giải Hòa giải là phương pháp giải quyết tranh chấp giữa các bên đương sự thông qua người thứ ba gọi là hòa giải viên. Hòa giải viên đóng vai trò là người trung gian, tiến hành họp kín với riêng từng bên hoặc họp chung với cả hai bên để hiểu kỹ nội dung tranh chấp, lý giải phân tích cho các bên thấy rõ lợi ích của mình và lợi ích của bên kia nhằm giúp các bên tìm ra một giải pháp tốt nhất giải quyết tranh chấp một cách hợp lý, hợp tình. 2.5.3. Trọng tài Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài.Quyết định của trọng tài là chung thẩm, các bên phải thi hành, trừ trường hợp tòa án hủy quyết định của trọng tài theo quy định của pháp luật. 2.5.4. Tòa án Việc giải quyết các tranh chấp còn được tiến hành bằng cách đi kiện ra tòa án, người có quyền lợi bị vi phạm sau khi thương lượng không thành công hoặc bỏ qua bước thương lượng, có thể đi kiện ra tòa để nhờ tòa án xét xử tranh chấp nhằm bảo vệ quyền lợi cho mình. Từ đó có thể gọi đi kiện là phương pháp giải quyết tranh chấp bằng xét xử tại tòa án. Tuy nhiên, cho đến nay công ty vẫn chưa có tranh chấp nào đáng kể, những bất đồng xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng đều được các bên giải quyết thông qua quá trình thương lượng trực tiếp giữa các bên. Chương III Những thuận lợi, khó khăn trong việc kí kết hợp đồng xây dựng và việc nâng cao hiệu quả kí kết thực hiện hợp đồng xây dựng tại công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí – HT steel 1. Những thuận lợi, khó khăn 1.1. Thuận lợi Đầu tư xây dựng là một lĩnh vực kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó có nhiệm vụ đầu tư mới, tái tạo và phát triển năng lực sản xuất mới cho tất cả các ngành trong lĩnh vực sản xuất. Với việc tham gia tất cả các giai đoạn của quá trình tái sản xuất, đầu tư xây dựng đã sử dụng một khối lượng lớn nguồn vốn của nền kinh tế. Bởi vậy, hoạt động đầu tư xây dựng ngày nay là một ngành nghề phát triển rất mạnh mẽ và được sự quan tâm của chính quyền các cấp. Trong xu hướng phát triển chung đó, công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí – HT steel tuy là một công ty mới thành lập và đang trên đà phát triển, mở rộng quy mô cũng đã đạt được những bước phát triển nhanh chóng. - Về công tác tổ chức quản lý hợp đồng xây dựng, công ty đã áp dụng hình thức giám sát, giao cho chỉ huy công trình chỉ đạo thi công để nâng cao năng suất lao động, tạo điều kiện tăng thêm thu nhập cho người lao động, từ đó nâng cao lòng nhiệt tình hăng say của người lao động, nâng cao được hiệu quả thực hiện hợp đồng. Bên cạnh đó, hệ thống trang thiết bị phục vụ thi công của công ty được bổ sung đáp ứng được các nhu cầu của thị trường. Nhà xưởng máy móc được mở rộng về quy mô cũng như chất lượng. - Công ty đã lựa chọn được những cán bộ nhân viên có kiến thức tổng hợp, hiểu biết về kĩ thuật và có nhiều kinh nghiệm trong thi công và xử lý công trình. Lực lượng lao động có tay nghề và chuyên môn cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về chất lượng công trình. Ngoài ra, hệ thống trang thiết bị phục vụ thi công của công ty ngày càng được bổ sung đáp ứng được các yêu cầu của thị trường. - Chất lượng công trình là một điều khoản quan trọng được thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, là một yếu tố vô cùng quan trọng để nâng cao uy tín của công ty, mở rộng thị trường cũng như là một yếu tố quan trọng trong các yếu tố mà chủ đầu tư dùng để xét thầu. Trong xây dựng có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá chất lượng công trình vì một công trình xây dựng thường bao gồm nhiều hạng mục công trình tạo nên như: nền móng, xây lắp, điện, nước… Chính vì thế, công ty rất chú trọng và quan tâm đến vấn đề này, thực hiện triệt để các quy trình, quy phạm, định mức kinh tế kĩ thuật hiện hành. - Trong công tác nghiệm thu công trình, công ty thường áp dụng nghiệm thu từng phần. Công tác nghiệm thu đòi hỏi sự chính xác cao, vì vậy khi thực hiện nghiệm thu từng phần, công ty sẽ tránh được việc phải sửa chữa những sai sót ở các công đoạn trước, tránh được sự khó khăn trong công tác xử lý sai sót. Cán bộ kĩ thuật và chỉ huy công trình luôn bám sát hiện trường để chỉ đạo thi công, giám sát kĩ thuật, hướng dẫn công nhân thực hiện đúng quy trình kĩ thuật. Việc này đã giúp công ty xây dựng được các công trình đạt yêu cầu kĩ thuật, chất lượng và phù hợp với thị hiếu, đòi hỏi của thị truờng. Những thành công này đã giúp công ty tạo dựng được uy tín của mình trên thị trường xây dựng, được chủ đầu tư đánh giá cao, từ đó công ty có thể mở rộng quy mô sản xuất và hiện nay đang trên đà phát triển nhanh chóng. 1.2. Khó khăn Thứ nhất, về việc thực thi pháp luật: Hiện nay pháp lệnh hợp đồng kinh tế hết hiệu lực, dưới sự điều chỉnh của Luật thương mại 2005, hợp đồng xây dựng được xem là hợp đồng thương mại và do luật thương mại điều chỉnh. Tuy nhiên, pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã ra đời được một thời gian khá dài, trong điều kiện nền kinh tế của nước ta rất khác hiện nay. Chính vì thế, pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã là văn bản pháp luật được sử dụng nhiều và trở nên quen thuộc với các doanh nghiệp khi kí kết hợp đồng xây dựng. Theo đó, hợp đồng kinh tế là loại hợp đồng được ký giữa pháp nhân với pháp nhân, hoặc giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh. Hợp đồng kinh tê là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa các bên về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và các thỏa thuận khác nhằm mục đích kinh doanh. Như vậy, hợp đồng kinh tế là một khái niệm vừa rất rộng, thậm chí còn có thể bị coi là một khái niệm “mơ hồ” (về đối tượng của hợp đồng), nhưng cũng lại rất hẹp về chủ thể ký kết (các bên ký kết). Mặt khác, với những thay đổi mang tính tất yếu của nền kinh tế thị trường, những quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế tỏ ra không còn thích ứng với môi trường kinh doanh đa dạng về mọi mặt, phản ánh một cách cụ thể trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường nước ta trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, việc Pháp lệnh hợp đồng kinh tế hết hiệu lực là điều tất yếu. Ngày nay, khi Luật thương mại 2005 ra đời và chính thức có hiệu lực, một số doanh nghiệp vẫn có thói quen soạn thảo hợp đồng dựa trên các quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Tên của các hợp đồng được ký kết nên thể hiện rõ nội dung của thỏa thuận Cho đến nay, không ít doanh nghiệp vẫn có thói quen ký kết hợp đồng với các đối tác làm ăn của mình với tên gọi là hợp đồng kinh tế. Thực tế này là hệ quả của việc quy định khái niệm về hợp đồng kinh tế theo Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Các doanh nghiệp này cho rằng, nếu tên của hợp đồng mà khác với cái gọi là hợp đồng kinh tế thì có thể sẽ không có văn bản pháp luật nào điều chỉnh và vì vậy, khi có tranh chấp xảy ra, sẽ không có cơ quan thụ lý giải quyết. Có thể nói, đây là một quan điểm lỗi thời, bởi lẽ, quan hệ hợp đồng xét về bản chất chính là sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bên về việc thực hiện hoặc không thực hiện một công việc nào đó. Vậy tại sao tên gọi của hợp đồng lại không thể hiện cụ thể nội dung của các giao dịch do các bên ký kết với nhau? Mặt khác, nếu có tranh chấp xảy ra, các cơ quan nhà nước không phải căn cứ vào tên gọi của hợp đồng mà áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp. Các tranh chấp trước tiên phải được xác định thuộc về loại tranh chấp gì, do hệ thống văn bản pháp luật nào điều chỉnh để từ đó có thể xác định chính xác các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ bị tranh chấp, nhằm giải quyết các tranh chấp đúng pháp luật. Do đó, các doanh nghiệp khi ký kết một hợp đồng nào đó với đối tác kinh doanh của mình, nên xác định cụ thể nội dung của hợp đồng ký kết mà đặt tên cho hợp đồng. Điều này vừa dễ cho công tác quản lý (do có cơ sở để phân loại hợp đồng theo tên gọi), vừa là cơ sở để các bên có thể tìm hiểu một cách có hiệu quả các quy định của pháp luật về loại hợp đồng với nội dung đó (do đã giới hạn được phạm vi của các văn bản pháp luật điều chỉnh loại quan hệ giao dịch sắp ký kết). Ví dụ, nếu là hợp đồng gia công thì các bên có thể đặt tên cho hợp đồng của mình là “hợp đồng gia công”, mua bán hàng hóa thì ghi rõ là “hợp đồng mua bán hàng hóa”… Nội dung của Bộ Luật Dân sự và Luật Thương mại lại có một số quy định trùng nhau về một số loại hợp đồng thông dụng, ví dụ hợp đồng gia công hàng hóa. Nếu xét về mặt đối tượng điều chỉnh thì Bộ Luật Dân sự có đối tượng điều chỉnh rộng hơn Luật Thương mại. Nhưng nếu xét về mức độ chi tiết của các điều luật về một số loại hợp đồng được cả hai văn bản luật này điều chỉnh thì Luật Thương mại lại có những quy định chi tiết hơn. Luật Thương mại là một đạo luật điều chỉnh các hoạt động thương mại. Do đó, nếu tính chất của giao dịch giữa các bên là hoạt động thương mại thì các hoạt động thương mại đó phải chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại. Trong khi đó, Bộ Luật Dân sự được coi là một bộ luật chung, chứa đựng rất nhiều quy phạm pháp luật khác nhau. Do đó, có những hoạt động thương mại giữa các các bên mà không được quy định trong Luật Thương mại và các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ Luật dân sự. Cũng tương tự như vậy, đối với những hoạt động thương mại đặc thù, được quy định trong các luật khác thì quy định của văn bản luật đó lại được ưu tiên áp dụng, ví dụ hợp đồng vận chuyển hành khách bằng đường hàng không sẽ do các quy định của Luật Hàng không dân dụng điều chỉnh. Nói cách khác, thứ tự ưu tiên áp dụng quy định pháp luật là đi từ quy định pháp luật đặc thù đến quy định pháp luật chung. Nếu không có quy định đặc thù thì mới áp dụng quy định pháp luật chung. Thời hiệu giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc ký kết hợp đồng Trước đây, theo quy định tại Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế chỉ là 6 tháng, kể từ ngày phát sinh tranh chấp. Thế nhưng, kể từ ngày 1/1/2005, ngày có hiệu lực của Bộ Luật Tố tụng dân sự, cũng là ngày chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là 2 năm. Theo quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2004, vụ án dân sự bao gồm cả các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Như vậy, kể từ thời điểm đầu năm 2005, thời hiệu để các bên có thể khởi kiện nhằm giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại đã được kéo dài đến 2 năm thay vì chỉ 6 tháng như trước đây. Luật Thương mại mới năm 2005 có hiệu lực từ ngày 1/1/2006 cũng có quy định thống nhất với Bộ Luật Tố tụng dân sự về thời hiệu là 2 năm đối với các tranh chấp thương mại, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Chỉ có một ngoại lệ duy nhất trong việc áp dụng thời hiệu khởi kiện theo Luật Thương mại đó là trường hợp doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics sau khi bị khiếu nại đã không nhận được thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài hoặc Tòa án trong thời hạn 9 tháng, kể từ ngày giao hàng. Như vậy, thời hiệu khởi kiện đối với dịch vụ logistics chỉ có 9 tháng, tính từ ngày giao hàng Cụ thể nhất là trong điều khoản quy định mức phạt vi phạm hợp đồng. Theo pháp lệnh hợp đồng kinh tế mức tiền phạt vi phạm hợp đồng từ 2% đến 12% giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm. Hội đồng bộ trưởng quy định chi tiết mức tiền phạt theo loại vi phạm đối với từng loại hợp đồng kinh tế. Còn theo Luật thương mại 2005 có hiệu lực ngày 01.01.2006 thì mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng (Điều 301 Luật thương mại 2005). Tuy nhiên, trong các hợp đồng mà công ty kí kết vẫn áp dụng mức phạt theo quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế tức là 12% giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm. Thứ hai, là những khó khăn về cơ chế chính sách của Nhà nước. Như ta đã biết, nguyên vật liệu trong xây dựng là một yếu tố quan trọng của quá trình thi công, có ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ và chất lượng thi công của công trình. Trong thi công xây dựng, công ty sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu cần thiết như: xi măng, sắt thép, cát, sỏi… Tuy nhiên, năm 2005, có một số ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình kinh doanh đó là: vật tư chính là thép tấm nhập khẩu luôn có giá đứng ở mức cao ảnh hưởng nhiều đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Ngày 1/6/2006, ngành thép Việt Nam đã chính thức hội nhập với thế giới khi thực hiện thoả thuận “ASEAN + 1”. Điều này cũng đồng nghĩa thị trường thép Việt Nam chấp nhận cạnh tranh với thép Trung Quốc, sự hiện diện của các nhà sản xuất thép Trung Quốc nhanh chóng tác động tới giá cả thị trường, ngoài ra còn có sự lớn mạnh của các đối thủ ở Nhật Bản và Hàn Quốc. Năm 2006, thị trường thép thế giới bị cuốn vào cơn lốc giá cả toàn diện và rất khó lường. Tóm lại, tình hình giá cả vật tư chính của hoạt động xây dựng biến động liên tục. Sự bất ổn định này đã ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Thứ ba, về những khó khăn nội tại của công ty như: thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh do chưa vay được vốn ngân hàng. Nguồn vốn vay huy động còn thấp không đáp ứng đủ cho hoạt động đầu tư và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. - Hệ thống cơ chế quản lý tuy đã có nhiều cố gắng từng bước được xây dựng nhưng nhìn chung chưa được hoàn thiện, các quy chế quản lý lao động còn chưa chặt chẽ, tính hiệu lực chưa cao do đó tác dụng chưa thật hiệu quả. Người điều hành quản lý cũng như người lao động trong công ty chưa căn cứ vào đó để quản lý và chấp hành do đó hiện tượng chấp hành kỷ luật lao động trong công ty kể cả khu vực văn phòng và khu vực nhà máy chưa thật tốt. Đồng thời các cơ chế, quy chế quản lý chưa chỉ rõ và xác định trách nhiệm cũng như quyền lợi của các thành viên một cách cụ thể. - Công tác điều hành chưa chặt chẽ, chưa duy trì thành hệ thống và khoa học, còn làm việc thụ động, hệ thống quản lý, quản trị của công ty đa số cán bộ còn hiểu biết về các nguyên tắc quản lý còn hạn chế, trong khi đó ít chú ý đến việc sinh hoạt, học tập để nâng cao hiểu biết và trình độ. - Công tác học tập, bồi dưỡng nghiệp vụ, rèn luyện nâng cao tay nghề kỹ thuật chưa được quan tâm chú trọng nên năng suất lao động, hiệu quả công tác còn thấp dẫn đến thu nhập chung của Doanh nghiệp và cá nhân còn thấp. - Công tác quản lý chất lượng còn nhiều hạn chế. Hệ thống quản lý chất lượng của công ty chưa được chú trọng, chất lượng sản phẩm hàng hoá của công ty gần như được khoán thẳng cho cán bộ quản lý nhà máy. Cán bộ lãnh đạo công ty và các chức năng của công ty ít quan tâm và có các giải pháp, biện pháp quản lý, nhiều hồ sơ nghiệm thu kỹ thuật còn chưa phản ánh thực chất của sản phẩm, số lần sản phẩm làm sai, làm hỏng sản phẩm năm qua còn gây nhiều hậu quả về kinh tế đặc biệt các công đoạn vận chuyển, lắp ráp công trình đã gây nên thua lỗ tại các công trình như Thuận Phát, kính Cường lực Bắc Ninh… - Công tác quản lý kỹ thuật an toàn tuy có được tiến bộ song còn nhiều sơ hở gây nên tai nạn lao động cho người và thiết bị làm thiệt hại đến người lao động và công ty. - Công tác quản lý thiết bị còn nhiều mặt yếu kém, các thiết bị không được bảo dưỡng, lau chùi, bàn giao khi giao ca, tình trạng thiết bị không có người chịu trách nhiệm chính, quản lý. Hiện tượng sử dụng thiết bị như xe công đang diễn ra, chính vì vậy làm cho thời gian thiết bị hoạt động thấp, hỏng hóc nhiều, chi phí sửa chữa tăng cao. - Về công tác thị trường còn yếu, mặc dù lực lượng cán bộ không ít so với các công ty có quy mô tương đương nhưng khả năng tiếp thị, thực hiện, ký kết các hợp đồng kinh tế là hạn chế, việc giao dịch tiếp xúc làm việc với khách hàng còn nhiều hạn chế. Khả năng mở rộng thị trường, quảng bá và xây dựng thương hiệu của công ty là rất yếu. Việc quản lý hồ sơ, cập nhật các thông tin các công trình, các dự án là không khoa học và thiếu tính hệ thống trong công ty. Đây là những thiếu sót tồn tại còn phải được nhanh chóng có giải pháp khắc phục ngay. Hệ thống quản lý tài chính – tiền vốn và hạch toán kế toán còn nhiều hạn chế, quy trình quản lý, hạch toán thống kê, hạch toán kế toán hệ thống quản lý tài sản lưu động còn sơ hở, còn nhiều sai sót, chưa phản ánh kịp thời và chính xác hệ thống quản lý từ kho nguyên liệu, sản phẩm dở dang tại xưởng, sản phẩm tồn kho, kho thành phẩm, sản phẩm dở dang tại các công tình lắp ráp. Hệ thống lưu trình xuất hàng của công ty đại bộ phận hàng hoá của công ty xuất ra khỏi nhà máy tài chính không nắm được số lượng hàng hoá xuất cũng như giá trị hàng hoá xuất bán. Đây là những tồn tại cấn phải được khắc phục ngay trong quý I năm 2007. - Việc theo dõi quản lý, hạch toán tiền vốn chưa được chặt chẽ. Các công nợ của công ty chưa được đối chiếu và xác định số lượng cũng như thời hạn trả nợ rõ ràng. Quan hệ công nợ với khách hàng cần phải được cải thiện và nâng cao chất lượng. Lực lượng đông nhưng làm việc chưa đồng đều, chưa phân công cụ thể chức trách cuả từng thành viên nên hiệu quả thấp. - Công tác quản lý văn phòng còn yếu, các công việc về soạn thảo, ban hành văn bản, quản lý văn bản và tài liệu khác hình thành trong quá trình hoạt động của công ty còn yếu, các nhận thức về pháp luật về công tác ban hành quản lý các văn bản công tác văn thư, văn phòng còn nhiều sai sót cần sớm phải được chấn chỉnh khắc phục ngay. - Việc quản lý sử dụng con dấu còn nhiều sơ hở. Cán bộ văn thư chưa nhận thức sâu sắc những quy định của pháp luật về sử dụng con dấu. Con dấu của công ty chưa sử dụng đúng theo quy định của pháp luật đó là không được bàn giao con dấu cho người khác khi chưa được người có thẩm quyền đồng ý, không được đóng dấu khống chỉ, dấu đóng chưa đúng quy định… Do thời gian hoạt động của công ty chưa dài, quy mô đã được mở rộng tuy nhiên chưa thực sự lớn mạnh, vì vậy trong hoàn cảnh hiện nay, sự cạnh tranh trên thị trường gay gắt làm cho thị trường của công ty có nguy cơ bị thu hẹp. 2. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kí kết thực hiện hợp đồng xây dựng tại công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí – HT steel 2.1. Kiến nghị với Nhà nước Nhà nước là một thiết chế đặc biệt có chức năng riêng, đó là việc quản lý nền kinh tế bằng pháp luật. Pháp luật là những nguyên tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra, có vai trò tạo dựng các quan hệ kinh tế và cũng là nguồn để điều chỉnh nó theo đúng mục đích. Trong những năm qua, từ khi Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 ra đời, pháp luật về hợp đồng đã được sửa đổi bổ sung và đã hoàn thiện dần, và hiện nay đã khá hoàn chỉnh. Về chủ thể của hợp đồng xây dựng, theo pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì chủ thể của hợp đồng xây dựng là pháp nhân với pháp nhân hoặc pháp nhân với cá nhân có đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật. Khi đó, pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã lấy tư cách pháp nhân làm căn cứ để xác định tư cách chủ thể của hợp đồng xây dựng, ngoài ra khi nền kinh tế thị trường phát triển, có nhiều chủ thể kinh doanh mới ra đời, và có những chủ thể kinh doanh không có tư cách pháp nhân như công ty tư nhân hay hộ kinh doanh cá thể. Khi đó, các chủ thể kinh doanh này cho dù có đầy đủ năng lực về tài chính và kĩ thuật cũng không được tham gia kí kết hợp đồng xây dựng. Từ những lí do đó, khi Pháp lệnh hợp đồng kinh tế hết hiệu lực, Luật thương mại ra đời đã thay đổi những quy định về chủ thể của hợp đồng, cụ thể trong thông tư số 02/2005/TT-BXD hướng dẫn hợp đồng trong hoạt động xây dựng, đã sửa đối tượng áp dụng của hợp đồng xây dựng là Bên giao thầu và Bên nhận thầu là tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có đủ năng lực và điều kiện hoạt động, năng lực hành nghề khi tham gia kí kết hợp đồng thực hiện các hoạt động xây dựng tại Việt Nam. Như vậy, chúng ta đã tạo được một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh hoàn toàn bình đẳng với nhau trong các quan hệ pháp luật. Về các quy định trách nhiệm vật chất do vi phạm hợp đồng giao nhận thầu: trong nền kinh tế thị trường, quan hệ hợp đồng là rất phổ biến, là căn cứ pháp lý làm phát sinh thường xuyên, liên tục các quan hệ kinh tế về xây dựng. Vì vậy, để đảm bảo sự ổn định cho nền kinh tế quốc dân, sự an toàn, công bằng cho các bên tham gia hợp đồng xây dựng khi kí kết phải quy định chặt chẽ chế độ về trách nhiệm pháp lý. Pháp luật nước ta đã quy định về vấn đề này một cách đầy đủ và chi tiết. Trước đây, theo pháp lệnh hợp đồng kình tế thì “bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm tiền phạt vi phạm hợp đồng và trong trường hợp có thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại” (Điều 29.2 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế), như vậy đối với một hành vi vi phạm hợp đồng xây dựng chủ thể vi phạm có thể cùng lúc chịu hai chế tài là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Điều này là không hợp lý và mâu thuẫn với luật thương mại, vì vậy tất yếu nó đã bị đào thải cùng với việc pháp lệnh hợp đồng kinh tế hết hiệu lực. Và hiện nay, theo quy định của Luật thương mại 2005 thì nếu không có thỏa thuận phạt vi phạm trong hợp đồng thì bên vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại. Như vậy, pháp luật về hợp đồng đã được quan tâm xây dựng và cho đến nay đã khá hoàn thiện. Tuy nhên, phải bảo đảm việc kết hợp song song giữa nhiệm vụ ban hành các văn bản pháp luật và việc áp dụng, thi hành đúng các quy phạm pháp luật đã được ban hành. Và còn có một số vấn đề mà Nhà nước cần quan tâm giải quyết đó là: Thứ nhất, là việc thực thi pháp luật của các chủ thể trong nền kinh tế nói chung và các cá nhân tổ chức hoạt động trong lĩnh vực xây dựng nói riêng. Hiện nay, Pháp luật về hợp đồng trong hoạt động xây dựng đã được xây dựng khá hoàn thiện, nhưng nếu các chủ thể của nó không thực thi đúng theo những quy định của pháp luật thì sẽ dẫn tới việc hiệu quả không cao và không tạo ra được sự công bằng giữa các chủ thể kí kết. Vì vậy, cần thiết có một cơ quan chuyên trách về giám sát việc thực thi các đạo luật đã ban hành. Thứ hai, Nhà nước cần có những biện pháp quản lý chặt chẽ việc thực hiện các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành trong quá trình đấu thầu và trúng thầu. Nước ta bắt nguồn từ một nền kinh tế nhỏ lẻ, tự phát, các doanh nhân làm ăn với nhau cũng một cách tự phát, không theo một quy pham nào cả. Điều đó đã ăn sâu vào tâm lý những doanh nhân Việt Nam, bản thân nhà nước cũng không thể quản lý hết những mối quan hệ không theo pháp luật. Nhưng khi đã bước vào nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh khốc liệt cùng với sự giao thoa của các nền văn hoá khác nhau thì việc chấp hành theo các quy định pháp luật là cơ sở pháp lý quy nhất giúp nhà nước quản lý được các chủ thể kinh tế, đồng thời cũng giúp các doanh nhân tự bảo vệ mình Thứ ba, cần phải tăng cường quản lý Nhà nước về hoạt động xây dựng trên địa bàn, quản lý các doanh nghiệp hoạt động xây dựng Tăng cường kiểm tra điều kiện, năng lực của các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động xây dựng theo quy định của Luật Xây dựng 2003 và các quy định có liên quan. Đẩy mạnh hướng dẫn nghiệp vụ, trao đổi thông tin, nắm bắt hoạt động xây dựng của các doanh nghiệp. Định hướng, khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng phát triển bền vững, đúng pháp luật. Thứ tư, Nhà nước cũng cần phải điều chỉnh một số chính sách để có thể tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng. Nâng cao chất lượng, rút ngắn thời gian thẩm định, chú trọng các công trình trọng điểm, nhà cao tầng, các công trình kết cấu phức tạp và ứng dụng công nghệ mới. Nhà nước cũng cần có sự quản lý chặt chẽ trong khâu thực thi dự án. Điều này rất cần thiết đối với những gói thầu thuộc dự án nhà nước Ngoài ra, nhà nước cũng cần xem xét tìm cách giải quyết tình trạng giá nguyên vật liệu xây dựng giao động khó lường. Có những chính sách nhằm bình ổn giá cả để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kí kết và thực hiện hợp đồng xây dựng. 2.2. Kiến nghị với công ty Qua quá trình thực tập ở công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí – HT steel, tôi nhận thấy công ty đã có nhiều thành tựu đáng kể trong việc kí kết và thực hiện hợp đồng xây dựng. Song bên cạnh đó có một số vấn đề bất cập cần được giải quyết trong việc kí kết và thực hiện hợp đồng Thứ nhất, là trong nội dung hợp đồng, công ty cần hoàn thiện các điều khoản hợp đồng phù hợp với pháp luật và với đặc điểm kinh doanh của mình. Cụ thể, về điều khoản về phạt vi phạm hợp đồng. Trong các hợp đồng mà công ty đã kí kết thì chủ yếu điều khoản này được quy định như sau: nếu có vi phạm xảy ra thì bên vi phạm sẽ phải chịu phạt 12% giá trị hợp đồng bị vi phạm. Đây là thói quen được áp dụng từ khi pháp lệnh hợp đồng kinh tế có hiệu lực. Hiện nay, theo quy định của Luật thương mại 2005 thì mức phạt vi phạm hợp đồng sẽ không được quá 8% giá trị hợp đồng bị vi phạm. Thứ hai, là tăng cường hơn nữa việc kiểm tra số lượng và chất lượng cơ cấu các loại tài sản, vật tư thiết bị. Đây là việc cần thiết để có kế hoạch điều động sắp xếp và đầu tư thích hợp từng loại trang thiết bị thi công, dụng cụ quản lý, dụng cụ cầm tay phù hợp với nhiệm vụ thi công từng công trình để phát huy hiệu quả đầu tư, tăng cường năng lực sản xuất. Làm tốt công tác bảo dưỡng thiết bị, cải tiến hợp lý trong sản xuất. Đảm bảo thiết bị vận hành an toàn sản xuất đạt kết quả cao nhất, đồng thời xây dựng hệ thống định mức tiêu hao vật tư, vật liệu cho phù hợp với yêu cầu sản xuất – xây dựng chế độ quản lý thiết bị, máy móc và công cụ, dụng cụ tiêu hao cho đơn vị sản phẩm. Tiến hành cải tiến, sắp xếp tổ chức sản xuất từ công tác thiết kế đến công tác tổ chức sản xuất trên cơ sở đó thực hiện chuyên môn hoá một số công đoạn trong sản xuất. Nâng cao năng xuất, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả. Từ đó năng lực cạnh tranh của công ty cũng được nâng cao so với các đơn vị khác, đồng thời khiến các nhà thầu chính cũng như các chủ đầu tư an tâm hơn về chất lượng công trình mà công ty thực hiện. Tất cả những điều đó nhằm đến một mục đích lớn hơn đó là xây dựng công ty ngày càng lớn mạnh. Thứ ba, là về những biện pháp để nâng cao năng lực tài chính của công ty. Để thực hiện hợp đồng xây dựng, vấn đề tài chính là yếu tố rất quan trọng. Để giải quyết vấn đề tạo vốn nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh và tăng khả năng hoàn thành công việc đúng thỏa thuận, công ty cần tiến hành hiệu quả các biện pháp nhằm tận dụng các cơ hội làm tăng nguồn vốn kinh doanh của mình. Cụ thể như: Tận dụng vốn của các chủ đầu tư bằng cách thi công dứt điểm, đối chiếu thanh toán kịp thời khi khối lượng hoàn thành, nhằm tăng vòng quay của vốn. Xây dựng mối quan hệ bền vững, tốt đẹp với các tổ chức tín dụng để tranh thủ sự trợ giúp vốn xây dựng và thực hiện cơ chế vay vốn nội bộ để tăng nguồn vốn sản xuất kinh doanh của công ty. Đồng thời xây dựng mối quan hệ hợp tác làm ăn lâu dài với các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Từ đó, nguồn vốn của công ty sẽ tăng và công ty sẽ có điều kiện để tham gia vào các hợp đồng xây dựng có giá trị lớn và cũng có điều kiện để mua sắm trang thiết bị thi công hiện đại, đẩy nhanh tiến độ thi công công trình. Thứ tư, là việc xây dựng một hệ thống chuyên trách về Marketing trong công ty nhằm thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, xây dựng kế hoạch dự báo giá cả linh hoạt để có thể ứng biến kịp thời với sự biến động của thị trường. Đây là một công tác hỗ trợ đắc lực cho các nhà kinh doanh, hiện nay các doanh nghiệp đều đang rất chú ý đến công tác này vì nó tạo ra chất lượng, hiệu quả, giá cả, sự phục vụ phù hợp với yêu cầu của thị trường. Chính vì vậy, công ty cần phải chú trọng đến công tác trên các góc độ sau: Các thông tin về tình hình biến động giá cả của thị trường để có biện pháp điều chỉnh giá hợp lý cũng như việc thông tin kịp thời cho chủ đầu tư và nhà thầu chính biết để đàm phán, thỏa thuận nhằm tránh các rủi ro cho công ty. Các thông tin về tình hình xây dựng cơ bản trên thị trường trong và ngoài nước để có biện pháp điều chỉnh, bổ sung kịp thời các yếu tố, nguồn lực phục vụ công tác thi công sao cho phù hợp nhất với điều kiện thực tế của công ty. Các thông tin về các doanh nghiệp khác hoạt động trong cùng ngành nghề về năng lực tài chính, kĩ thuật, kinh nghiệm… để có biện pháp cải tiến và nâng cao trình độ quản lý hay có những đề xuất ứng phó kịp thời nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Thứ năm, là việc đầu tư nâng cao năng lực: Củng cố và tăng cường lực lượng tư vấn bán hàng, mở rộng lực lượng công tác viên nhằm mở rộng thị trường, thu hút được nhiều việc làm có hiệu quả cho công ty. Tổ chức đào tạo tại đơn vị và gửi đi học đào tạo các lớp ngắn hạn về chế độ quản lý trong xây dựng cơ bản, đào tạo các lớp chủ nhiệm dự án do Bộ xây dựng đào tạo. Nâng cao trình độ năng lực cho cán bộ nhân viên công ty trên tất cả các mặt như: chuyên môn, ngoại ngữ, pháp luật và kinh nghiệm thực tế. Tăng cường, bổ sung phần mềm thiết kế, lập dự toán nâng cao năng lực, tích cực tìm kếm thị trường, ký kết các hợp đồng tư vấn thiết kế tăng nguồn thu cho công ty. Kết luận Khắc phục những khó khăn và biết nắm bắt cơ hội, những thuận lợi của thị trường cũng như của chính nội tại trong công ty. Công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí – HT steel đã đạt được một số thành tựu đáng kể trong thời gian tồn tại và hoạt động của mình. Trong những năm qua, công ty đã và đang thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra, không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, tăng số lượng lao động. Từ đó, thúc đẩy công ty phát triển nhanh hơn và mạnh hơn. Hiện nay, tuy chỉ mới là một doanh nghiệp vừa, nhưng với những chính sách và chiến lược của mình, công ty đang kỳ vọng vào một sự phát triển lớn mạnh hơn nữa. Lĩnh vực xây dựng mà công ty đang hoạt động là một lĩnh vực quan trọng, liên quan hầu hết đến các ngành kinh tế kĩ thuật khác. Chính vì vậy, việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật về xây dựng là vấn đề rất cần thiết và cấp bách. Bài viết này đã tóm lược một số nội dung cơ bản của pháp luật về hợp đồng xây dựng và việc áp dụng pháp luật trong việc thực hiện hợp đồng xây dựng tại công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí – HT steel. Qua đó đưa ra một số nhận định về thuận lợi cũng như khó khăn và một số thành tựu mà công ty đã đạt được trong quá trình hoạt động của mình. Đồng thời cũng đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần cho việc hoàn thiện việc thực thi pháp luật về xây dựng – hoàn thiện nâng cao hiệu quả hoạt động hợp đồng xây dựng. Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, nên bài viết này sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Mong được sự giúp đỡ góp ý của các thầy cô giáo và ban lãnh đạo cũng như các nhân viên công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí – HT steel. Em xin chân thành cảm ơn! Tài liệu tham khảo Văn bản pháp luật Luật doanh nghiệp 1999 Luật doanh nghiệp 2005 Bộ luật dân sự 2005 Luật thương mại 2005 Luật xây dựng 2003 Luật lao động 1994 sửa đổi bổ sung năm 2002 Luật tổ chức tòa án nhân dân 2002 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 Thông tư của Bộ xây dựng số 02/2005/TT-BXD ngày 25/02/2005 hướng dẫn hợp đồng trong hoạt động xây dựng. Nghị định của chính phủ số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 về quản lí dự án đầu tư xây dựng công trình Luật đấu thầu 2005 Tài liệu tham khảo Trường Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật, TS Phạm Duy Nghĩa (chủ biên), Giáo trình Luật thương mại Việt nam (2002). Trường Đại học Luật Hà Nội, TS Đinh Văn Thanh & ThS. Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (2001) www.vir.com.vn www.thitruong.vnn.vn www.viettrade.gov.vn/ www.vsc.com.vn www.vnexpress.net/ www.mpi.gov.vn/ MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31991.doc