Chuyên đề Chế độ pháp lý về hợp đồng xuất nhập khẩu và thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera

Hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay đặt trong bối cảnh vừa đối mặt với những khó khăn và những thuận lợi,việc áp dụng chế độ pháp lý về hợp đồng xuất nhập khẩu không chỉ phụ thuộc vào chính sách xuất nhập khẩu của nước Nhà mà còn bị điều chỉnh bởi luật lệ quốc tế trong thương mại quốc tế. Một trong những thách thức lớn nhất của chúng ta trong điều kiện hội nhập là tạo khuôn khổ pháp lý chung tuơng thích với pháp luật quốc tế để các doanh nghiệp yên tâm khi phải lựa chọn luật của quốc tế để điều chỉnh hợp đồng như chính lựa chọn luật của quốc gia mình.

doc84 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1511 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Chế độ pháp lý về hợp đồng xuất nhập khẩu và thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng hóa Phê duyệt Giao hàng Hoàn tất thủ tục thanh quyết toán Xử lý hàng không phù hợp Kiểm tra (Nguồn: Sổ tay chất lượng iso 9001: 2000 của công ty) -PPXK: Phó phòng xuất khẩu - CBXK/NK:Cán bộ xuất khẩu/nhập khẩu -NVXK: Nhân viên xuất khẩu - GĐ/PGĐ: Giám đốc/ Phó giám đốc Sơ đồ quá trình nhập khẩu Trách nhiệm thực hiện Quy trình thực hiện BGĐ và trưởng phòng XNK Xác định nhu cầu Trưởng/phó phòng XNK và CBNK Đàm phán và soạn thảo văn bản BGĐ theo thẩm quyền Phê duyệt BGĐ Ký kết hợp đồng CBNK Lãnh đạo phòng Triển khai thực hiện hợp đồng CBNK Kiểm tra và tiệp nhận hàng hóa CBNK và khách hàng CBNK và Kế toán Bàn giao hàng hóa CBNK và Phòng KT Bàn giao chứng từ Phòng XNK Đánh giá và lưu hồ sơ - KT: Kinh tế. - BGĐ: Ban giám đốc . –XNK: Xuất nhập khẩu Khi thực hiện các hoạt động trên công ty luôn áp dụng nguyên tắc cải tiến : PCDA (lập kế hoạch, thực hiện, kiểm tra,thực hiện và khắc phục/tiêu chuẩn hóa).Ban lãnh đạo công ty thực hiện việc khoán theo doanh thu kèm theo lợi nhuận trung tâm xuất nhập khẩu dựa trên kế hoạch hàng năm do HĐQT phê duyệt.Khi tìm được đối tác xuất nhập khẩu trung tâm sẽ tiến hành lập phương án kế hoạch để trình phó giám đốc phụ trách xem xét, báo cáo với giám đốc,phân tích đễ thấy được lỗ lãi.Sau đó công ty sẽ đàm phán một cách kỹ lưỡng trên cỡ sỡ kế hoạch đăt ra, phù hợp quy định pháp luật quốc gia và thông lệ quốc tế về hoạt động xuất khẩu.Trong những năm qua do việc tuân thủ một cách nghiêm chỉnh những yêu cầu trên mà công ty đã ký kết được nhiều hợp đồng giá trị với nhiều bạn hàng trên thế giới, tạo được chỗ đứng cho mình trên thương trường và xây dựng được nhiều mối quan hệ làm ăn lâu dài với nhiều nước trên thê giới như trên đã nêu. Việc đàm phán để có xây dựng mối quan hệ kinh doanh theo nhiều hình thức tùy trường hợp cụ thể dựa trên mối quan hệ làm ăn, sự hiểu biết lẫn nhau,hoặc tùy điều kiện mà có thể tiến hành đàm phán qua thư tín,qua điện thoại hoặc qua gặp gở trực tiếp; phương thức đàm phán phổ biến hiện nay công ty áp dụng là hình thức đàm phán bằng thư tín. Là một công ty cổ phần nên theo nên công ty có tư cách pháp nhân và là chủ thể của hợp đồng xuất khẩu, theo điều lệ của công ty thì Giám đốc chính là người đại diện pháp nhân của công ty có thẩm quyền ký kết các hợp đồng đó, phó giám đốc phụ trách xuất nhập khẩu có thể thay thế khi Giám đốc vắng mặt, phó giám đốc này có thể ủy nhiệm cho Trưởng phòng xuất nhập khẩu thay thế khi vắng mặt. Sau khi cân nhắc công ty sẽ tiến hành ký kết hợp đồng với đối tác với những nội dung đã được xem xét thận trọng các nội dung cơ bản về số lượng,chất lượng, giá cả; điều kiện đóng gói và bao bì; về trách nhiệm thuê vận chuyển; điều kiện giao hàng; kiểm tra hàng hóa; thanh toán; các trường hợp bất khả kháng; về vi phạm hợp đồng và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; điều khoản về lựa chọn trọng tài và điều khoản chung. 2.2 Tình hình thực hiện các hợp đồng xuất nhập khẩu Khi ký kết hợp đồng thì quyền và trách nhiệm mổi bên được xác định 1 cách rõ ràng nhưng việc thực hiện rất phức tạp đòi hỏi các bên phải am hiểu các quy định của pháp luật và tập quán thương mại của quốc gia và quốc tế .Thường thì khi nhập khẩu công ty thường chọn nhập khẩu theo giá FOB theo đó công ty sẽ mua bảo hiểm hàng hóa và trả chi phí thuê tàu. Trước đây do thiếu sự phối hợp giữa các ngành thương mại , vận tải và bảo hiểm; chất lượng cũng như uy tín của các doanh nghiệp hảo hiểm, vận tải thấp cũng như những khó khăn mang tính chủ quan khác của chính các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc từ phía doanh nghiệp vận tải và hiểm mà các công ty xuất nhập khẩu thường ký kết xuất khẩu theo điều kiện FOB, còn nhập khẩu theo điều kiênj CIF…khi đó dù các doanh nghiệp sẽ đơn giản trong thủ tục khi không giành được quyền thuê tàu và mau bảo hiểm, nhưng sẽ bị động trong việc giao nhận hàng và gặp những bất lợi và rủi ro khi không giành được hai quyền đó. Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của cả hai ngành vận tải và bảo hiểm cũng như năng lực chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ xuất nhập khẩu nên kí kết hợp đồng công ty đã đàm phán được các điều kiện giao hàng có lợi cho mình cũng như cho cho các ngành kinh tế thương mại khác của Việt nam .Khi xuất khẩu để thuận lơi công ty thường xuất hàng hóa nếu chủ động được việc thuê tàu để đưa hàng hóa đến nơi quy định công ty bán với giá CIF (Hoặc CFR) khi nhập khẩu thường theo giá FOB , nên công ty cũng phải thanh toán các phí tổn và cước phí cũng như bảo hiểm (ở mức tối thiểu) . Như vậy công ty sẽ chủ động được thời gian và địa điểm giao hàng, chủ động chuyển rủi ro và các chi phí phát sinh liên quan đến hàng hóa cho đối tác, có thể lựa chọn vận tải và bảo hiểm và thích hợp, thuận lợi trong thanh toán..đấy là chưa kể đến tạo điều kiện cho các ngành thương mại liên quan phát triển thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế nước nhà. Để thực hiện hơp đồng nhập khẩu đã ký kết công ty mà trực tiếp là trung tâm xuất nhập khẩu phải thực hiện theo quy trình bao gồm: Quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu Đầu vào Đầu ra I. Giao dịch xác lập hợp đồng 1. Thư chào hàng 2. Hợp đồng kinh tế đầu ra - Thư hỏi hàng - Hợp đồng kinh tế đầu vào II. Thanh toán (đảm bảo đúng hạn) hợp đồng . 1.Yêu cầu thanh toán 2. Lấy điện chuyển tiền gốc 3. - Đề nghị kế toán thanh toán ( chuẩn bị tài chính) - Làm thủ tục thanh toán( L/C, D/P, TT..) - Nhân đơn bảo hiểm III. Làm thủ tục nhận hàng 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. Thông báo thời gian hàng về máy - Thông báo thời gian giao hàng cho trưởng phòng - Nhận bộ chứng từ gốc - Bộ bộ chứng từ nhập khẩu - Giao chứng từ cho vận tải - Thông báo cho bên bán hàng - Nhận sữa đổi, bổ sung ( nếu có) - Thông báo cho cho bên bán hàng, cho bên theo dõi hàng - Theo dõi nhận hàng IV. Lập hồ sơ bảo hiểm 1. 2. 3. -Tập hợp hồ sơ - Chuyển hồ sơ cho bảo hiểm - Theo dõi thanh toán của nhà bảo hiểm V. Lập hồ sơ giao cho kế toán, người mua. 1. Tập hợp hồ sơ 2. Làm phiếu nhập kho 3. Xuất hóa đơn cho khách hàng 4. Thanh lý hợp đồng 5. Giao chứng từ cho kế toán Còn đối với xuất khẩu nhìn chung quy trình thưc hiện bao gồm các công việc cơ bản tương tự như trên nhưng phải phải làm thủ tục mở L/C sau khi ký kết được hợp đồng xuất khẩu, các công việc phải làm là - Chuẩn bị hàng, đóng gói hàng hóa - Thuê phương tiện vận tải - Thông báo người mua làm thủ tục thanh toán ban đầu ( Mở L/C hoặc nhắc người mua chuyển tiền đủ và đúng hạn) - Mua bảo hiểm - Làm thủ tục hải quan - Giám định, kiểm tra chất lượng - Xin giấy chứng nhận xuất xứ - Giao hàng - Lập chứng từ - Thông báo cho người mua. - Giải quyết khiếu nại - Thanh lý hợp đồng 2.3 Kết thúc hợp đồng Kết thúc hợp đồng công ty sẽ tiến hành đánh giá lại hợp đồng để xác định giá trị thực tế mà hợp đồng mang lại. Đồng thời sẽ tiến hành thanh lý hợp đồng đối với cả hợp đồng đã thực hiện xong cũng như chưa thực hiện xong do những nguyên nhân khác nhau. Đối với hợp đồng đã thực hiện xong sẽ so sánh đối chiếu tổng hợp các kết quả, rút kinh nghiệm để tiếp tục chuẩn bị cho các hợp đông tiếp theo.Đối với các hợp đồng chưa thực hiện xong cần nhanh chóng xử lý để kịp thời ổn định hoạt động kinh doanh theo đúng kế hoạch;trường hợp này tùy tình huống cụ thể mà cả 2 bên sẽ thỏa thuận, hàng thừa công ty sẽ có thể bán số hàng đó cho bên kia, hoặc bán rẻ chúng hoặc sẽ giao trước cho kỳ sau, hàng thiếu công ty sẽ tiếp tục giao cho người mua để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng. Sau cùng là công ty lập một biên bản thanh lý để thanh lý hợp đồng để châm dứt quan hệ hợp đồng đó. 2.4 Tranh chấp và giải quyết tranh chấp. Trong thương mại quốc tế với sự đa dạng của về chủ thể cũng như sự khác nhau về pháp luật, phong tục tập quán trong bối cảnh pháp luật quôc tế còn chưa thống nhất nên việc dung hòa lợi ích các bên trong quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh là rất khó.Do vậy mâu thuẫn phát sinh dẫn tới tranh chấp trong hoạt động thương mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng là điều khó tránh khỏi.Nhận thức được vấn đề đó công ty một mặt trong quá trình đàm phán ký kết luôn xem xét kỹ lưỡng các điều khoản để lường trước và tránh những rũi ro có thể xảy ra,mặt khác trong quá trình thực hiện công ty luôn nghiêm chỉnh thực hiện các nghĩa vụ của mình trên cơ sở nguyên tắc thiện chí, trung thực, tôn trọng lẫn nhau.Do nhiều yếu tố mà trong hoạt động xuất nhập khẩu công ty cũng gặp một số tranh chấp.Các tranh chấp mà công ty gặp phải thường ở 3 dạng là tranh chấp về mặt số lượng, chất lượng và tranh chấp về mặt thời gian. Đối với tranh chấp về mặt số lượng xảy ra có thể do giao thiếu hay thừa hàng so với hợp đồng.Để giữ gìn mối quan hệ làm ăn thân thiện,lâu dài mà công ty thỏa thuận với người mua một thời hạn hợp lý để công ty giao đủ hàng so với quy định, hàng thừa công ty sẽ yêu cầu bù trừ số hàng thừa đó cho các lân thực hiện nghĩa vụ giao hàng tiếp theo. Đối với tranh chấp về mặt chất lượng,khi có khiếu nại công ty sẽ yêu cầu người mua thông báo một cách chi tiết để công ty biết cụ thể sai hỏng chất lượng nằm ở đâu, tàu nào, sai hỏng như thế nào tỷ lệ bao nhiêu; đồng thời xác định nguyên nhân sai hỏng là sản xuất, vận tải, hay những điều kiện khách quan chủ quan khác.Từ đó sẽ tìm ra cách khắc phục tốt nhất đảm bảo hàng đúng chất lượng cam kết.Thông thường với lô hàng lớn công ty thường yêu cầu sẽ giao bù hàng đạt tiêu chuẩn để thực hiện nghĩa vụ của mình, với những lô hàng nhỏ việc bồi thường có thể công ty áp dụng dựa trên sự thiệt hại do vi phạm đó gây ra. Trường hợp công ty giao hàng chậm trể so với hợp đồng hoặc do khách hàng chậm tiếp nhận.Nếu lỗi thuộc về phía công ty thường do nguyên nhân hàng hóa phải giao vượt quá khả năng của mình về cả số lượng và chất lượng mà công ty không giao kịp tiến độ, do đầu vào sản xuất hàng hóa đó gặp khó khăn, cũng có thể do chính bên bán giao nguyên vật liệu chậm...Việc giải quyết theo đó mà có nhiều cách khác nhau, các biện pháp hay sử dụng là yêu cầu gia hạn thêm để thực hiện tiếp nghĩa vụ của mình, hoặc bồi thường cho khách hàng để kịp thời ổn định sản xuất kinh doanh, mức bồi thường do 2 bên thỏa thuận hay theo quy định về việc lựa chọn luật áp dụng. Khi gặp các trường hợp bất khả kháng thì các bên được thông báo cho nhau biết để xem xét tính đến thời hạn xảy ra và so sánh với thời hạn thực hiện hợp đồng và tính chất của hàng hóa. Nếu kéo dài quá thời hạn mà đã được thỏa thuận thì có thể hủy hợp đồng mà không phải bồi thường. Nếu nó chỉ là trở ngại tạm thời thì sau thời gian đó bên gặp trở ngại phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình mà không được hưởng sự miễn trừ đó nữa. Dầu vậy thực tiễn trong những năm hoạt động cho thấy việc tranh chấp xảy ra là không đáng kể, nếu có xảy ra do nhiều nguyên nhân thì công ty cũng như đối tác đã kịp thời ngồi lại cùng đàm phán, thương lượng trực tiếp nhanh chóng tìm ra tiếng nói chung và giải quyết nhanh chóng những vướng mắc gặp phải nên chưa có tranh chấp nào phải đưa ra trọng tài tòa án để giải quyết. Sau khi tháo gỡ những mâu thuẫn cả 2 bên đều vui vẻ tiếp tục hợp tác, giữ gìn và phát huy mối quan hệ làm ăn tốt đẹp vốn có. Chương 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐÔNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY 3.1. Những thuận lợi và khó khăn trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu Trong 20 năm đổi mới (1986-2006) nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHXN và mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế,trong thương mại quốc tế Việt nam đã có những bước phát triển vượt bậc. So với năm 1986 thì năm 2006 Xuất khẩu Việt nam tăng hơn 50,2 lần, nhập khẩu tăng 28,5 lần, nhập khẩu tuy vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhưng với một nước đang phát triển và đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa như ở Việt nam thì đó một sự phát triển mạnh mẽ. Đối với công ty những thành tích đặc biệt trong hoạt động xuất nhập khẩu như trên đã đề cập cũng khẳng định xu thế mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại hội nhập sâu vào thế giới hiện nay của Việt nam. Những thành công đáng kể đó là xuất phát từ việc khai thác tốt những thuận lợi mà các doanh nghiệp có được đồng thời khắc phục được nhưng khó khăn để đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu mang lại nhiều lợi ích cho công cuộc đổi mới đất nước.Triển vọng trong 2007 và những năm tới là rất lớn tuy nhiên đối với công ty cũng như hầu hết các doanh nghiệp xuất nhập khẩu khác còn gặp không ít khó khăn trở ngại cần vượt qua, việc nhận thức chúng để nâng cao hiêu qủa hoạt động xuất nhập khẩu là rất cần thiết. 3.1.1. Những thuận lợi 3.1.1.1 Yếu tố bên ngoài công ty Có thể nói nhân tố đầu tiên làm nên nhũng thành quả như hiện nay trong hoạt động xuất nhập khẩu là hệ thống chính sách quản lý xuất nhập khẩu đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phát triển không ngừng, cho đến nay hệ thống chính sách quản ly xuất nhập khẩu đã tương đối hoàn thiện nhất từ trước tới nay. Năm 1989 chính sách độc quyền thương mại bị xóa bỏ, thuế quan và hạn ngạch cũng được cắt giảm đáng kể, tự do hóa thương mại được tăng cường.Qua một quá trình đối mới cơ chế điều hành xuất nhập khẩu như sự mong đợi của các nhà kinh doanh đến năm 1997 đã có luật thương mại, rồi đến Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 quy định về họat động xuất nhập khẩu đã tạo một luồng gió mới trong hoạt động kinh tế đối ngoại ở Việt nam. Lần đầu tiên thừa nhận quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế xóa bỏ cơ chế giấy phép xuất nhập khẩu theo chuyến, hạn chế tối đa cơ chế xin trước đây. Để tạo tâm lý ổn định, yên tâm khi vạch các chiến lược kinh doanh,năm 2000 chính phủ ban hành quyết định số 46/2000/QĐ-TTg về điều hành cơ chế xuất nhập khẩu cho giai đoạn 2001-2005 chứ không như trước đây hàng năm thủ tướng vẫn ban hành cơ chế điều hành xuất nhập khẩu. Ngày 23/1/2006 chính phủ ban hành nghị định số 12/2006/NĐ-CP quy định chi tiết luật thương mại mới 2005 về quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, gia công, đại lý..thay thế nghị định 57 thể hiện tư tưởng của luật thương mại sữa đổi.Nghị định 12 quy định rõ cơ chế điều hành xuất nhập khẩu giai đoạn sau 2005 không hạn chế thời gian 5 năm như truớc nữa, mặt khác nghị định cũng thể chế hóa một số công cụ quản lý xuất nhập khẩu mới được quốc tế công nhận là hạn ngạch thuế quan, giấy phép xuất nhập khẩu tự động. Đây là cơ chế khá mới trong hoạt động xuất nhập khẩu từ trước tới giờ của Việt nam.Bước đi đó khẳng định hoạt động xuất nhập khẩu sẽ hội nhập mạnh mẽ hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Để khuyến khích họat động xuất nhập khẩu khẩu đặc biệt để khích lệ hoạt đông xuất khẩu chế độ thưởng thành tích xuất khẩu đã ra đời năm 1999 nhằm tôn vinh các doanh nghiệp xuất khẩu đạt hiệu quả cao, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đã tạo điều kiện các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu nở rộ làm nên bức tranh sáng sủa cho hoạt động xuất nhập khẩu. Năm 2007 là năm đầu tiên Việt nam gia nhâp WTO, một sân chơi mang tính toàn cầu,chúng ta đã thực hiện một số cam kết về thương mại hàng hóa. Trong xuất khẩu hàng hóa Việt nam sẽ có cơ hội tiếp cận 1 cách bình đẳng với thị trường của 149 quốc gia thành viên còn lại.Gia nhập WTO chúng ta có cơ hội sử dụng những lợi thế sẵn có của mình để cạnh tranh công bằng với các nước khác, chúng ta sẽ được hưởng những nguyên tắc cơ bản của quy chế thương mại quốc tế như nguyên tắc đối xử quốc gia (TN) nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) do đó sẽ không còn bị các quốc gia thành viên khác áp dụng các biện pháp bất bình đẳng với mình như trước đây khi chưa gia nhập, mọi tranh chấp sẽ được giải quyết một cách công bằng bởi một ủy ban của WTO với một cơ chế giải quyết khách quan, bình đẳng cho các thành viên.. Việt nam cũng là nơi đầu tư hẫp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài với điều kiện chính trị ổn định, kinh tế liên tục tăng trưởng ở một tốc độ cao và bền vững, đời sống dân cư ngày một nâng cao, tích lũy trong dân cư, qúa trình đô thị hóa kèm theo nhu cầu xây dựng trong xây dựng tăng mạnh là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu xây dựng. Một thế mạnh rất lớn nữa cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt nam là hầu hết các sản phẩm xuất khẩu đều có lợi thế so sánh có giá cạnh tranh so với thị trưòng tạo điều kiện khai thác thế mạnh về tài nguyên, lao động và vốn.Chúng ta dùng ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu để nhập các mặt hàng chúng ta chưa sản xuất được, thiếu hoặc sản xuất với chi phí cao mà không hiệu quả. Đặc biệt với nghành sản xuất thủy tinh, gốm xây dựng ở nước ta có một nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú. Nguyên liệu cho sản xuất thủy tinh chủ yếu là cát trắng thì có ở nhiều nơi khắp cả nước là một điều kiện để bố trí hợp lý các nhà máy thuận lợi cho sản xuất và tiêu thụ, một số loại cát đạt tiêu chuẩn tốt như cát ở Quảng Ninh, ở các tỉnh duyên hải miền Trung…những mỏ cát này đều lộ thiên, dễ khai thác và vận chuyển.Nguyên liệu sản xuất gốm xây dựng cũng rất sẵn có và ở khắp cả nước,đạt tiêu chuẩn như Kaolin, đất sét, Feldspar.. với chất lượng tốt và trữ lượng đáng kể ở Hải Dương,Yên Bái ,Thanh Hóa, Nghệ An, Đà Nẵng..Bên cạnh đó Việt nam còn có một nguồn nguyên liệu sẵn có và rẽ, rất thông dụng cho sử dụng sản xuất thủy tinh, gốm như than đá, khí đốt.. Ngoài ra Việt nam còn có một nguồn nhân lực dồi dào với trình độ khá,là một thị trường tiêu thụ tiềm năng và vị trí địa lý thuận lợi với nhiều cảng biển sâu, nằm trên tuyến đường giao lưu buôn bán quốc tế. 3.1.2.2 Những yếu tố từ phía công ty Những thuận lợi trên là khách quan là cơ hội chung cho các doanh nghiệp ,doanh nghiệp phải thực sự chủ động nắm bắt và khai thác tốt cơ hội đó thì mới biến chúng thành những kết quả cụ thể cho mình .Từ phía công ty thực sự đã có những yếu tố để nắm bắt những vận hội đó và còn có những thuận lợi khác làm nên một thế mạnh riêng cho mình. Trước hết có thể nói vấn đề chủ chốt đối với một công ty đặc biệt quan trọng đối với một công ty kinh doanh là chất lượng nguồn nhân lực thì như trên đã nói công ty đang sỡ hữu một đội ngũ nhân lực chất lượng rất cao và đầy tiềm năng.Trong 58 cán bộ công nhân viên hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau là 1 hệ thống đồng bộ nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động,trẻ tuổi, rất năng động, sáng tạo.Cán bộ lãnh đạo hoạt động một cách mẫn cán, năng lực quản lý cao; đội ngũ nhân viên có chuyên môn nghiệp vụ cao, hoạt động một cách chuyên nghiệp, đạt hiệu quả cao.58 lao động của công ty tất cả đều đã qua đào tạo và có trình độ rất cao, trong đó có 42 người có trình độ từ đại học trở lên(chiếm tỷ lệ 72,4%) 12 người có trình độ cao đẳng và trung cấp(chiếm tỷ lệ 20,69%),còn lại 4 lao động phổ thông chỉ chiếm tỷ lệ 6,9 %.Các lao động hầu hết đều làm công tác quản lý,chuyên môn nghiệp vụ,công việc đòi hỏi phải có khả năng rất cao mới có thể đáp ứng được. Cán bộ công nhân viên công ty được hưởng những chinh sách lương thưởng thõa đáng để yên tâm làm việc mang về lợi nhuận cho công ty. Trụ sở công ty là tòa nhà 8 tầng cùng những trang thiết bị hiện đại phục vụ cho cán bộ công nhân viên, lại ở một vị trí rất thuận lợi giữa thành phố là điều kiện rất tốt giúp cán bộ công nhân viên phát huy tiềm năng và sức sáng tạo của mình. Lao động trong công ty có một đảng bộ vững mạnh với các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ hoạt động hăng hái nhiệt tình, tích cực xây dựng các phong trào thi đua trong công ty đã tạo sự đoàn kết gắn bó trong toàn công ty; đây là một động lực mạnh mẽ giúp công ty luôn yên tâm tin tưởng vào việc thực hiện thành công những quyết sách đổi mới của mình. Mặc dù công ty mới chuyển đổi sang mô hình hoạt động theo mô hình công ty cổ phần vào năm ngoài nhưng trên lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu công ty đã có 8 năm kinh nghiệm của mình từ tiền thân là công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Tradimex trước đây ( từ năm 1998) với kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm đều tăng lên đáng kể (xem kết quả sản xuất kinh doanh ở trên).Chừng ấy năm hoạt động trong lĩnh vực của mình là một thế mạnh mà không phải doanh nghiệp nào cũng có được đặc biệt vào thời điểm đó công ty đã được Bộ giao cho chức năng sản xuất, cung cấp cho thị trường trong nước và xuất nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng nguyên vật liệu xây dựng trong khi đó các công ty khác chỉ được xuất nhập khẩu chuyên doanh một loại mặt hàng nào đó.Vì vậy công ty sẽ có một thị trường quen biết từ trước tới nay và có kinh nghiệm tiếp cận kinh doanh với các thị trường khác một cách nhanh chóng,hiệu quả. Kinh nghiệm đó cũng cho phép công ty chủ động đối phó với thách thức rủi ro do sự biến động của thị trường cũng như xác đinh cho mình chiến lược kinh doanh mang lại nhiều hiệu quả nhất cho mình. Thực tiễn quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng những năm qua cho thấy công ty luôn đảm bảo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng với thái độ trung thực thiện chí hai bên cùng có lợi nên chưa tưng xảy ra tranh chấp nào đáng kể, nếu có thì cũng được thương lượng giải quyết kịp thời. Điều này tạo ra uy tín kinh doanh rất lớn cho công ty,là cơ sở để đối tác tin cậy ký kết các hợp đồng làm ăn lớn và lâu dài. 3.1.2. Khó khăn, thách thức Những thuận lợi trên là rất lớn song công ty cũng gặp không ít khó khăn,khó khăn đó hầu hết đều mang tính khách quan mà tất cả các doanh nghiệp Việt nam đều gặp phải nhất là trong bối cảnh hiện nay. Đầu tiên là sự biến động trong môi trường kinh tế chính trị thế giới .Trong những năm qua cùng với xu thế tự do hóa thương mại quốc tế thì tình hình kinh tế chính trị thế giới biến động thường xuyên, nạn chiến tranh có vẽ như đã lùi vào quá khứ thì nay lại có nguy cơ diễn ra với sự đối đầu căng thẳng giữa các nước xung quang vấn đề phát triển hạt nhân; nạn khủng bố luôn bao trùm và được cảnh báo hơn bao giờ hết đã tạo tâm lý e ngại cho người dân các nước.Cơn sốt tăng giá xăng dầu và bất động sản không có dấu hiệu sụt giảm mà vẫn tăng cao bất chấp sư nỗ lực điều chỉnh của Chính phủ các nước. Bên cạnh đó tình trạng thiên tai, sóng thần, dịch cúm gia cầm …hoành hành ở Châu Á, diễn biến phức tạp làm cho bức tranh thế giới năm 2006 có phần ảm đạm khiến cho các nhà lãnh đạo lo ngại về một viễn cãnh tương lai toàn cầu. Xu thế tự do hóa thương mại một mặt tăng cường mối quan hệ giao thương giữa các nước nhưng mặt khác cũng làm cho mức độ phụ thuộc của các nước tăng lên nhất là phụ thuộc vào những biến động quốc tế nêu trên ngày càng lớn; nhất là hiện nay các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấnđộ, Braxil, khối Asean.. đang làm thay đổi bản đồ kinh tế chính trị thế giới bằng những con số phát triển nền kinh tế ngoạn mục (Trung Quốc tốc độ tăng trưởng đạt 10%, Ấn Độ 9%..) và ảnh hưởng ngày càng lớn vào chính trị thế giới.Xu thế tự do hóa thương mại khiến các nước phát triển e ngại sự xâm nhập sản phẩm của các nước đang phát triển với những lợi thế so sánh rất lớn, vì vậy thay vì việc sử dụng hàng rào thuế quan ( đã bị bãi bõ ) nay các nước phát triển lại lập ra các hàng rào phi thuế quan mới với các nước đang phát triển như Việt nam nhằm bảo hộ nên sản xuất nước họ. Đối với các doanh nghiệp Việt nam việc đạt được những tiêu chuẩn đó của hàng rào phi thuế gây nhiều bất lợi và đôi khi chính những tiêu chuẩn này là nguyên nhân làm cho chúng ta bị phân biệt đối xử dẫn đến chịu nhiều thua thiệt dù đã gia nhập WTO. Gia nhập WTO chúng ta chúng ta sẽ phải chấp nhận thách thức là bãi bõ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định của WTO.Mặc dù được quyền bảo lưu các ưu đãi đầu tư giành cho hàng xuất khẩu cấp trước ngày gia nhập trong thời gian 5 năm.Đối với nhập khẩu chúng ta phải mở cửa thị trường cho nước ngoài,Việt nam đã cam kết cắt giảm 22% thuế nhập khẩu so với mức thuế hiện hành, các biện pháp phi thuế Việt nam cam kết cam kết bãi bỏ hoàn toàn giấy phép mang tính hạn ngạch và các hạn chế định lượng khác kể từ thời điểm gia nhập WTO. Trong lĩnh vực thủy tinh và gốm sứ xây dựng tuy công ty có những lợi thế so với các doanh nghiệp Việt nam khác trong xuất nhập khẩu nhưng trên thị trường thế giới công ty phải cạnh tranh gay gắt với doanh nghiệp các nước khác đặc biệt là các nước trong khu vực.Hiện nay cùng với Indonesia, Malaysia, Thái Lan thì Việt nam là một trong bốn nước dẫn đầu trong khu vực về sản xuất gốm sứ xây dựng , giá trị xuất khẩu chiếm 5.62 % tổng giá trị xuất khẩu gốm sứ toàn cầu.Trong 2-3 năm trở lại đây sản phẩm của Trung Quốc với vũ khí giá mềm đã tạo sức hút khủng khiếp các nhà nhập khẩu các nước thậm chí ngay cả ở Việt nam. Việt nam có chung đường biên giới với Trung quốc nên việc thâm nhập vào thị trường Việt nam kể cả nhập lậu là rất lớn, trong khi đó các doanh nghiệp Việt nam nói chung và công ty nói riêng thì chưa kịp thời điều chỉnh chính sách giá cạnh tranh do hầu hết đang phải sử dụng công nghệ kỹ thuật lạc hậu, giá thành cao mà chất lượng vẫn kém.Cho đến nay các sản phẩm gốm sứ của Trung Quốc đã chiếm hơn nữa tổng công suất sản xuất gốm sứ toàn cầu. Bên cạnh đó công ty trước đây vốn là một doanh nghiệp nhà nước nay được chuyển đổi sang mô hình hoạt động công ty cổ phần xuất nhập khẩu theo chủ trương cổ phần hóa của Nhà nước-tách hoạt động quản lý của Nhà nước ra khỏi hoạt động sản xuất kinh doanh tạo môi trường pháp lý bình đẳng cho công ty tham gia hoạt động kinh doanh. Mô hình cơ chế mới tuy gọn nhẹ tinh giản,linh hoạt nhưng mới bước đầu chuyển sang quy chế mới nên công ty cũng như các doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi khác bước đầu gặp không ít trở ngại .Việc cổ phần hóa làm cho các công ty nhà nước nói chung mất đi những lợi nhuận siêu ngạch, mất đi những độc quyền hay mất đi những ưu đãi mà Nhà nước giành cho trước đây điều này dễ tạo ra tâm lý nghi ngờ,e ngại dẫn tới việc thiếu quyết tâm đổi mới.Bước sang quy chế mới công ty phải tự chịu trách nhiệm và tồn tại bởi chính kết quả kinh doanh của chính mình.Mô hình mới công ty đòi hỏi cần một thời gian để thích ứng nhất là trong vấn đề quản lý, điều hành, hiện công ty vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện mô hình tổ chức cho phù hợp để nâng cao hiệu qủa hoạt động của mình.Hơn nữa việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh gặp khó khăn do chính sách thắt chặt của ngân hàng trong việc vay vốn trong khi đó thị trường vốn còn chưa phát triển ,việc huy động vốn qua thị trường chứng khoán vẫn là một bài toán khó đối với các doanh nghiệp hiện nay. Ngoài ra công ty còn gặp khó khăn trong thu hồi công nợ của công ty khác, thậm chí hiện nay công ty còn phải tiến hành xuất nhập khẩu ủy thác cho các công ty đó để thu hồi công nợ, một số thì phải dừng hoạt động xuất nhập khẩu ủy thác này do công nợ quá cao mà đó lại là một việc không mang lại lợi nhuận cao như hoạt động xuất nhập khẩu kinh doanh trực tiếp. 3.2. Một số kiến nghị 3.2.1.Kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ hợp đồng xuất nhập khẩu 3.2.1.1 Đối với việc xây dựng và ban hành pháp luật Việt Nam Như trên đã đề cập việc pháp luật thương mại Việt nam tuy đã thực sự đã có những cố gắng thay đổi rất quan trọng theo hướng phù hợp với pháp luật quốc tế nhưng việc thay đổi những tư duy cũ không phải là điều dễ dàng nhất là các doanh nghiệp Việt nam còn chưa quen với môi trường kinh doanh mới. Nhưng trong nhu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới cần phải nâng cao vai trò vị trí của hoạt động kinh tế đối ngoại tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt nam.Hệ thống pháp luật Việt nam cần phải tương thích hơn nữa với pháp luật thông lệ quốc tế,có như thế các doanh nghiệp Việt nam dù có lúc phải lựa chọn luật quốc tế hay luật quốc gia khác để điều chỉnh hợp đồng của mình thì cũng không e ngại, nên không gặp những rủi ro cũng như tốn kém phát sinh do không hiểu biết pháp luật nước khác.Vì vậy trong thời gian tới hướng hoàn thiện hơn nữa pháp luật về kinh tế thương mại nói chung và pháp luật trong hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng cần tương thích với pháp luật và thông lệ quốc tế. Muốn vậy việc xây dựng và ban hành pháp luật cần phải đảm bảo tính đồng bộ thống nhất để các doanh nghiệp áp dụng thống nhất, tránh ban hành những văn bản chồng chéo quy định khác nhau về cùng một vấn đề làm cho các doanh nghiệp lúng túng không biết áp dụng. Nhất là trong lĩnh vực pháp luật về hợp đồng rất phức tạp việc tư duy tách bạch giữa hợp đồng kinh tế thương mại và hợp đồng dân sự làm cho việc áp dụng luật nhiều khi rất phức tạp rất dễ chồng chéo dẫn đến việc thừa hoặc mâu thuẫn nhau.Các doanh nghiệp không phải lúc nào và không phải ai cũng có có điều kiện tìm hiểu những vấn đề phức tạp mang tính lý thuyết như vậy. Hệ thống pháp luật vừa đồng bộ thống nhất, gọn nhưng cũng không nên mang nặng tính học thuật hoặc quá phức tạp về nội dung cầu kỳ về câu chữ. Hơn nữa sự tương thích với pháp luật và thông lệ quốc tế có nghĩa là phải bảo đảm các quy định pháp luật Việt nam không khác biệt với của pháp luật và thông lệ quốc tế trong cùng một lĩnh vực; điều đó là một mặt tạo sự cạnh tranh công bằng cho các doanh nghiệp nhưng mặt khác cũng làm cho các doanh nghiệp Việt nam đứng trước sự cạnh tranh rất mạnh của các doanh nghiệp nước ngoài vốn đã rất mạnh với truyền thống giao thương buôn bán lâu đời và một nền pháp luật về thương mại quốc tế đã có hàng trăm năm hoàn thiện.Vì vậy pháp luật bên cạnh tạo môi trường cạnh tranh công bằng bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp là yêu cầu chung của hội nhâp nhưng cũng phải thực sự phải làm sao cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt nam tăng lên mà không bị thương nhân nước ngoài lấn lướt là đòi hỏi rất cấp thiết. 3.2.1.2 Đối với chính sách quản lý xuất nhập khẩu Trước hết là cần hoàn thiện quy định pháp luật về thuế quan và phi thuế quan Có thể nói pháp luật về thuế trong đó có các đạo luật về thuế như: Luật thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng…không chỉ là công cụ để thể chế hóa chủ trương chính sách phát triển thương mại trong nước mà còn là công cụ quan trọng thể hiện chính sách phát triển hoạt động thương mại với các thương nhân nước ngoài.Đạo luật này phải thể hiện hai nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế là nguyên tắc đối xử quốc gia và nguyên tăc tối huệ quốc.Trong khi nhiều nước tìm cách nội luật hóa chúng tại các văn bản pháp luật nước mình mà trước hết là trong đạo luật về thuế thì Việt nam lại quy đinh tách biệt 2 nguyên tắc này trong pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia 2002 và trong các đạo luật về thuế thì được thể chế hóa sơ sài.Vì vậy cần bổ sung thêm các quy định này trong các đạo luật về thuế phù hợp quy định WTO, bên cạnh đó cần phải tính đến việc thu gọn các mức thuế suất phù hợp với việc đánh thuế; từng bước bỏ việc miễn giảm thuế đối với hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.Để làm được việc đó việc xây dựng các lịch trình cắt giảm thuế quan phải phù hợp với từng ngành hàng, nhóm mặt hàng để có thể duy trì bảo hộ sản xuất trong nước theo một lịch trình đó.Đối với hoạt động xuất khẩu công ty cũng như các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt nam cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu để tránh hàng rào thuế quan cao của nước nhập khẩu. Bên cạnh áp dụng các biện pháp thuế quan thì các biện pháp phi thuế quan cũng cần được điều chỉnh cho phù hợp,cần phải thực hiện các quy định trong lịch trình cắt giảm thuế quan của hiệp định CEPT và các cam kết tại ASEAN, APEC, WTO, PNTR…Một số mặt hàng bỏ biện pháp phi thuế quan thì có thể thuế hóa chúng cho phù hợp điều kiện Việt nam để có thể bảo hộ hợp lý các doanh nghiệp trong nước theo quy định của WTO, Asean...Kế hoạch và lịch trình phải xây dựng trên cơ sở phát triển tổng thể nền kinh tế trong việc ưu tiên bão hộ hợp lý từng ngành, hàng cụ thể, bảo vệ môi trường môi sinh và tài nguyên thiên nhiên.. Thứ 2 là hoàn thiện các quy định về hải quan Pháp luật về hải quan có vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế đặc biệt trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Luật Hải quan 2001 và các văn bản hướng dẫn thi hành trong thời gian qua trong chừng mực nào đó đã đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước về Hải quan tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phát triển đồng thời thực hiện các cam kết quốc tế. Song nhìn chung pháp luật hải quan hiện hành vẫn còn một số hạn chế trong việc tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thích ứng pháp luật và tập quán quốc tế.Vì vậy cần có sự rà soát đối chiếu với khả năng của các doanh nghiệp Việt nam trong việc tham gia công ước Kyoto sữa đổi về đơn giản hóa,thống nhất thủ tục hải quan. Danh mục các hàng hóa xuất nhập khẩu và biểu thuế của chúng cần điều hòa và mã hóa hàng hóa của tổ chức Hải quan thế giới. Hoàn thiện pháp luật hải quan còn bao gồm việc hoàn thiện các quy định về kiểm tra hàng hóa sau thông quan đối với hàng hóa nhập khẩu các quy định về chống buôn lậu và gian lận thương mại. Hiện nay Nhà nước đang tiến hành thí điểm thủ tục hải quan điện tử, đây là một thủ tục hải quan mới nhưng sẽ là thủ tục hải quan được thực hiện trong tương lai.Vì vậy việc áp dụng thủ tục hải quan thương mại điện tử cần nhanh chóng đưa vào áp dụng phổ biến sau khi xét thấy việc thí điểm,xem xét ở một các nơi đạt hiệu quả đồng thời giúp các doanh nghiệp thích ứng với thủ tục hải quan mới này. Bên cạnh đó pháp luật trong thương mại nói chung cần tập trung vào việc ban hành hướng dẫn pháp luật về cạnh tranh,các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa các quy định về chống bán phá giá, chống trợ cấp..nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại trong nước và quốc tế phát triển. 3.2.2. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả ký kết và thực hiện tại công ty . 3.2.2.1 Đối với hoạt động xuất nhập khẩu nói chung Hoạt động xuất nhập khẩu chiếm vị trí quan trong trong công ty,là một trong những hoạt động mang về lợi nhuận nhiều nhất cho công ty.Mục tiêu của công ty trong những năm tới mà trước mắt là năm 2007 là tiếp tục xây dựng và phát triển thương hiệu mạnh trong và ngoài nước, tăng dần tỷ trọng nghiên cứu liên doanh hợp tác với các đối tác nước ngoài để phục vụ cho chiến lược xuất nhập khẩu, kinh doanh VLXD và trang trí nội thất,học hỏi để nâng cao dần tỷ trọng xuất khẩu..Đạt đượi mục tiêu đó là không dễ cần có những kế hoach cụ thể thật tốt, phù hợp với công ty cũng như yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Nói riêng trong họat động xuất nhập khẩu trong năm tới ngoài việc khai thác những thế mạnh và ưu thế sẵn có cũng như đã tạo ra được trong những năm trước cần chú trọng vào các vấn đề sau để tăng cường khai thác hiệu qủa hoạt động của nó . Thứ nhất là Tăng cường hệ thống thông thông tin, nghiên cứu thị truờng,đặc biệt là việc nghiên cứu, phổ biến cho cán bộ công nhân viên công ty hiểu biết về luật pháp, chính sách Nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập khẩu ở những thị trường chủ yếu.Việc khai thác thông tin thị trường và đối tác có thể thông qua các nguồn như từ Bộ thương mại, Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam, qua các chi nhánh văn phòng đại diện ở nước ngoài, từ đại sứ quán hoặc lấy từ chính đối thủ cạnh tranh thậm chí phải mua thông tin từ những đối tượng có uy tín. Cần nắm những thôn tin về hàng hóa cụ thể mình định mua hay bán như đặc điểm,quy cách hàng,đòi hòi thị trường về sản phẩm, tình hình sản xuất chúng, tình hình cạnh tranh; đối với hàng xuất khẩu cần xem xét khả năng huy động hàng trước để chủ động giao hàng mà không vi phạm nghĩa vụ giao hàng (tránh tình trạng ký kêt hợp đồng rồi mới huy động hàng) .Bên cạnh đó thông tin quan trọng cần nắm nữa là thông tin về thị trường và giá cả hàng hóa như đối với nhà xuất khẩu thì cần nắm thông tin quy mô,tập quán thị hiếu,tình hình cung cầu, chiều hướng giá cả, nước xuất khẩu nào cạnh tranh cùng chủng loại mặt hàng với mình;với nhà nhập khẩu thì tìm hiểu thông tin về thị trường và giá cả trong nước. Ngoài ra cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu cũng cần nắm những thông tin về quy định quản lý xuất nhập khẩu trong nước, thông tin về điều kiện vận tải, tình hình kinh tế chính trị thế giới đang suy thoái hay đang phát triển.. Chỉ khi nắm vững các thông tin như vậy mới đảm bảo ký kết một hợp đồng an toàn và hiệu quả. Thứ hai là phải tích cực phối hợp với các hiệp hội ngành hàng, trung tâm xúc tiến thương mại,doanh nghiệp khác trong thời gian tới.Đây là vấn đề của hầu hết các doanh nghiệp Việt nam hiện nay gặp phải.Ngoài việc trong Tổng công ty các đơn vị thành viên phối hợp triển khai chào hàng và xuất khẩu hàng hóa, các đơn vị kinh doanh và kế toán phải thường xuyên phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện đúng hợp đồng kinh tế cung cấp nguyên liệu cho các đơn vị sản xuất thì việc thành lập các hiêp hội ngành hàng lập quỹ dự phòng rủi ro và phối hợp với các doanh nghiệp khác trong nước sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động, thắt chặt tính cộng đồng, bảo vệ, xử lý các rào cản và tận dụng mọi cơ hội để đấu tranh mỗi khi có có vấn đề phát sinh như bảo vệ nhau trước những vụ kiện mà doanh nghiệp nước ngoài kiện.Việc phối hợp với các trung tâm xúc tiến thương mại sẽ giúp doanh nghiệp tiệp cận thị trường nhanh chóng, tăng cường mối quan hệ chặt chẽ và thân thiện với các bạn hàng và mở rộng thêm khách hàng trên cơ sở an toàn và hiệu quả. Để quảng bá,giới thiệu hình ảnh và sản phẩm của mình công ty một cách nhanh chóng và hiệu quả trong thời gian tới công ty cũng cần nhanh chóng hoàn thành trang web về công ty mình theo hướng hiện đại, đầy đủ thông tin, cập nhật. Đồng thời với xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại, phối hợp ngành hàng, tìm hiểu nghiên cứu thị trường thì công ty cần xây dựng một chiến lược marketing hỗn hợp xuất khẩu đối với mặt hàng; trong đó phải thực hiện sự đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt chú trọng tăng cường xuất khẩu các xuất khẩu các sản phẩm gia công sau kính, gương chất lượng cao, kính an toàn..Chú trọng thúc đẩy xuất khẩu ở các thị trường khu vực và quen thuộc như Thái Lan, Campuchia, Philipin, Ấn độ, Băngladet, Nam Phi, Malaysia, Đài Loan...với việc đưa ra những dịch vụ tốt nhất cho khách hàng như giao hàng đúc tiến độ, xuất trình hồ sơ chứng từ kịp thời, chính xác, an toàn. Bên cạnh đó tiếp tục mở rộng và khai thác thêm một số khách hàng ngoài khu vực trên là những thị trường có khả năng tiêu thụ tốt nhưng chưa được quan tâm triệt để như Singapore, Mỹ, Trung Đông, Nga, Châu Âu, Braxin…Để sản phẩm có sức cạnh tranh với sản phẩm của doanh nghiệp khác như của Trung Quốc cần nhanh chóng tận dụng tối đa trang thiết bị phương tiện hiện có, tiếp nhận công nghệ hiện đại nhằm có phương pháp sản xuất sản phẩm đạt chất lượng cao. Triển khai bố trí sản xuất kinh doanh làm sao tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã bao bì, đóng gói .. Trong nhập khẩu cần củng cố việc lưu trữ và luân chuyển chứng từ một cách khoa học, tuân thủ chặt chẽ các quy định của ISO trong công tác nhập khẩu với phương châm làm đúng ngay từ đầu; chủ động khai thác thêm nhiều nguồn hàng có giá cả cạnh tranh và chất lượng tốt để bán cho các đơn vị trong và ngoài công ty như hóa chất tạo màu, hạt nhựa, hàng trang trí nội thất...nhằm tối đa hóa lợi nhuận và nâng cao uy tín, sức cạnh tranh trên thị trường. Thứ ba là đối với cán bộ công nhân viên là một yếu tố hàng đầu và có vai trò quan trọng nhất mang lại hiệu quả hoạt động cho công ty vì đây là nhân tố vạch ra các kế hoạch hoạt động và thực hiện chúng.Hoạt động xuất nhập khẩu rất phức tạp đòi hỏi các cán bộ công nhân viên công ty đặc biệt là cán bộ chuyên trách xuất nhập khẩu phải có trình độ kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương vững chắc, không chỉ am hiểu thương mại, pháp luật trong nước mà còn phải am hiểu pháp luật tập quán thương mại quốc tế. Cán bộ công nhân viên phải tích cực trau dồi, học hỏi, cập nhật kiến thức kinh doanh quốc tế để nhanh nhạy, sắc bén thích ứng trong môi trường kinh doanh đầy thử thách này.Về phía công ty cũng cần chính sách hợp lý từ việc tuyển dụng cho đến đào tạo ,bồi dưỡng nghiệp vụ, đảm bảo các chế độ, điều kiện nghiên cứu và các chế độ ưu đãi, khuyến khích khác cho người lao động, có như vậy mới thu hút được được đội ngũ nhân lực giỏi, tạo động lực phấn đấu mạnh mẽ cho họ. 3.2.2.2. Đối với việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu Trước khi thực hiện ký kết các hợp đồng thì việc đàm phán công ty là công việc đặc biệt quan trọng, việc ký kết được một hợp đồng có giá trị, an toàn và hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào nghệ thuật đàm phán của cán bộ làm công tác này.Để thực hiện đàm phán thành công cần nắm những căn cứ về khía cạnh luật pháp, khía cạnh thông tin, khía cạnh pháp lý của các bên tham gia như trên đã đề cập.Thành phần nhân sự trong đàm phán phải hội đủ chuyên gia ở 3 lĩnh vực: Pháp lý, kỹ thuật, thương mại và phải có sự phối hợp ăn ý nhịp nhàng giữa 3 chuyên gia này để đi đến ký kết một hợp đồng chặt chẽ, khả thi và hiệu quả. Để đàm phán đạt hiệu quả phải chuẩn bị thật kỹ lưỡng cho công tác này, đàm phán với thái độ niềm nở lịch sự, tôn trọng, nhạy bén thích ứng nhanh với diễn biến để có quyết định đúng đắn ở mức nào là vừa phải do cương quyết giữ vững ý định của mình với khả năng chấp nhận được của đối tác. Là một nghệ thuật, đàm phán đòi hỏi vận dụng kỹ năng thương lượng ,thuyết phục đã tích lũy được, nhiều khi phải nhượng bộ nếu xét thấy ở mức độ đó vẫn đảm bảo quyền lợi chủ yếu cho mình mà vẫn làm cho đối tác cảm thấy thỏa mãn. Địa điểm đàm phán phải thoải mái tiện nghi, thời gian đàm phán cần thống nhất cụ thể và có thể dự phòng thời gian để đàm phán thương lượng tiếp các vấn đề chưa được giải quyết xong. Khi các điều khoản hợp đồng đã được đàm phán xong hai bên sẽ soạn thảo và ký kết hợp đồng.Văn bản hợp đồng thường do một bên soạn thảo,nếu là công ty soạn thảo thì hợp đồng đó nên đề cập tới mọi vấn đề của hợp đồng, không nên có điều khoản trái pháp luật và thông lệ nước mình hay cả nước đối tác,đặc biệt phải cẩn thận đối chiếu với những thõa thuận đã đạt được tránh việc đối phương có thể chèn vào một cách khéo léo những điểm chưa đạt được hoặc bỏ qua không ghi vào hợp đồng những điểm đã thống nhất; việc trình bày văn bản hợp đồng phải sáng sủa, rõ ràng tránh mập mờ dẫn tới việc suy luận nhiều cách hiểu không thống nhất và nên viết bằng ngôn ngữ mà hai bên cùng thông thạo. Ngoài ra nên phòng ngừa các sự cố có thể xảy ra bằng các điều khoản chặt chẽ như hiệu lực hợp đồng , bất khả kháng, trách nhiệm do vi phạm, chọn luật điều chỉnh, giải quyết tranh chấp... Hợp đồng khi đã ký kết xong công ty phải luôn cố gắng làm hết sức mình để thực hiện những điều khoản đã cam kết và thõa thuận, trong đó khi xuất khẩu công ty phải có nghĩa vụ giao hàng giao chứng từ liên quan đến hàng hóa và chuyển giao quyền sở hữu về hàng theo đúng quy định trong hợp đồng ;khi nhập khẩu thì phải thực hiện hai bước chủ yếu là trả tiền hàng và nhận hàng. Khi xuất khẩu công ty nên ký kết điều khoản giao hàng theo điều kiện CIF (incoterms 2000) để chủ động bốc xếp và vận chuyển, giao hàng và nhập khẩu đồng thời tạo nguồn thu cho doanh nghiệp bảo hiểm- nhập khẩu nên theo điều kiện C&F hoặc FOB để tránh rủi ro gặp phải khi hàng chưa về đến nơi của mình. Khi ký kết theo các điều khoản đó công ty còn phải thực hiện tốt thêm những việc như thuê phương tiện vận tải , mua bảo hiểm cho hàng hóa ( Điều kiện CIF). Nói chung là công ty phải thực hiện tốt và nhanh chóng trong thời gian hợp đồng quy định những bước cần thiết để thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu như trên đã đề cập, nhanh chóng thực hiện nghiêm chỉnh những quy định thủ tục bắt buộc của nhà nước và quy định thủ tục ghi trong hợp đồng như thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát số lượng và chất lượng hàng… Trong trường hợp gặp phải hay phát hiện những vấn đề nào đó cản trở đến việc thực hiện hợp đồng mà có thể dẫn tới vi phạm hợp đồng cần lập tức thông báo cho đối tác biết ngay để các bên tìm cách khắc phục chúng cũng như kịp thời đưa ra phương án hữu hiệu nhất nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng đúng tiến độ, tiết kiệm thời gian, chi phí. Việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình bằng thái độ trung thực thiện chí với phương châm hai bên cùng có lợi nên trong những năm qua công ty rất hiếm khi xảy ra tranh chấp và nếu có thì cũng nhanh chóng giải quyết bằng thương lượng kịp thời.Tuy nhiên sẽ là không thừa nếu khi ký kết các hợp đồng cần quy định một cách chặt chẽ điều khoản này vì thực tiễn kinh doanh thương mại quốc tế ngày càng phức tạp,công ty cũng như các doanh nghiệp khác cần có tâm lý sẵn có để đối mặt với các vụ tranh chấp, kiện cáo xảy ra bất cứ lúc nào.Để phòng ngừa rủi ro phát sinh do tranh chấp trước hết công ty nên vận dụng đúng các quy định điều khoản trong hợp đồng , giải thích và vận dụng đúng các quy định của pháp luật áp dụng cho hợp đồng đó.Muốn vậy công ty nên chọn người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ pháp lý xuất nhập khẩu để đọc kỹ và phân tích các điều khoản của hợp đồng và quy định của pháp luật, khi gặp khó khăn có thể nhờ luật sư hoặc chuyên gia giúp đỡ. Khi lựa chọn phương pháp giải quyết tranh chấp phải phù hợp đặc biệt khi phải lựa chọn trọng tài hay tòa án giải quyết vụ việc; dù lựa chọn phương thức nào cũng cần đảm bảo việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng hiệu quả, không làm phương hại tới mối quan hệ kinh doanh buôn bán lẫn nhau và cơ quan,cá nhân hay tổ chức đứng ra giải quyết tranh chấp phải thực sự công bằng, hợp lý, nghiêm minh. Mặc dù trước hết khi có tranh chấp cần tìm hiểu việc tranh chấp, ngồi lại bàn bạc thương lượng để tìm ra biện pháp tháo gỡ nhưng nhiều khi việc bàn bạc thương lượng hay hòa giải có thể kéo dài mà không đạt kết quả gì mà chỉ mất thời gian, chi phí thậm chí còn mất thời hiệu khởi kiện khiến việc giải quyết tranh chấp lâm vào bế tắc khó khăn.Vì vậy nhìn chung khi xảy ra tranh chấp cần bình tĩnh nhìn nhận vấn đề, kiên trì mềm dẽo và thiện chí trong quá trình giải quyết tranh chấp, kết hợp với sự tác động của các cơ quan quản lý Nhà nước (như Bộ thương mại, Đại sứ quán..) để nhắc nhở khuyến cáo đối phương. Khi phải đưa tranh chấp ra tòa án hay Trọng tài thì cần vận dụng đúng pháp luật tố tụng của Tòa án hay Trọng tài được chọn, lập và nộp đầy đủ, đúng hạn hồ sơ chứng từ liên quan khi được yêu cầu đồng thời nghiên cứu kỹ hồ sơ khiếu nại, khiếu kiện và cung cấp những bằng chứng, lập luận một cách hợp lý, logic cho mình. Kết luận Hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay đặt trong bối cảnh vừa đối mặt với những khó khăn và những thuận lợi,việc áp dụng chế độ pháp lý về hợp đồng xuất nhập khẩu không chỉ phụ thuộc vào chính sách xuất nhập khẩu của nước Nhà mà còn bị điều chỉnh bởi luật lệ quốc tế trong thương mại quốc tế. Một trong những thách thức lớn nhất của chúng ta trong điều kiện hội nhập là tạo khuôn khổ pháp lý chung tuơng thích với pháp luật quốc tế để các doanh nghiệp yên tâm khi phải lựa chọn luật của quốc tế để điều chỉnh hợp đồng như chính lựa chọn luật của quốc gia mình. Vì vậy trong những năm tới cần nhanh chóng hoàn thiện theo hướng ổn định lâu dài và đồng thời phối hợp đồng bộ tất cả các đối tượng liên quan để đáp ứng những yêu cầu mới trong quan hệ quôc tế, thực hiện thắng lợi hội nhập sâu cũng như nâng cao vị thế các doanh nghiệp trên trường quốc tế. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy giáo Thạc sỹ Đỗ Kim Hoàng, sự giúp đỡ của các anh chị trong công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera đặc biệt là các anh chị trong phòng Kinh tế, Trung tâm xuất nhập khẩu và phòng tổ chức hành chính. Em thực sự đã có một thời gian thực tập bổ ích và đầy ý nghĩa. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I.Văn bản quy phạm pháp luật - Bộ luật dân sự ngày 14-6-2005 - Luật doanh nghiệp ngày 29-11-2005 . - Bộ luật hàng hải ngày 14-6-2005 - Bộ luật lao động ngày 23-6-1994 (sữa đổi, bổ sung ngày 2-4-2002 ) - Luật hải quan ngày 29-6- 2001 - Pháp lệnh trọng tài thương mại ngày 25-2-2003 - Pháp lệnh số 41/2002/PL-UBTVQH10 ngày 25/5/2002 về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế - Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/1/2006 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý,bán,gia công và qúa cảnh hàng hóa với nước ngoài. - Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần. - Quyết định số 56/2003/QĐ-BTC ngày 16/4/2003 quy định về hồ sơ,quy trình thủ tục hải quan của các đơn vị xuất khẩu,nhập khẩu theo hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - Quyết định số 156/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 Của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010 - Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ về chiến lược xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001-2010 - Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty số 0103011079 do Sở kế hoạch và đầu tư Hà nội cấp ngày 9/5/2006. - Quyết đinh thành công ty lập số 1679/QĐ-BXD ngày 5/9/2005 của Bộ Xây dựng. - Thông tư số 45/2005/TT-BTC về việc ban hành danh mục hàng hóa và thuế suất của Việt nam để thực hiện hoạt động về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN. II. Điều ước quốc tế và tập quán, thông lệ thương mại quốc tế - Công ước của Liên Hợp Quốc về hơp đồng mua bán quốc tế(Công ước Viên 1980) - Quy tắc về thực hành thống nhất tín dụng chứng từ do phòng thương mại quốc tế ban hành (UCP-500) - Incoterms 2000 III.Tài liệu tham khảo khác - TS.Nguyễn Mạnh Bách:Hợp đồng xuất nhập khẩu (NXB pháp lý 1982) - PGS.TS Hoàng Ngọc Thiết:Tranh chấp từ hợp đồng xuất nhập khẩu Án lệ trọng tài và kinh nghiệm (NXB Chính Trị Quốc Gia 2002) - TS.Trần Thị Hòa Bình –TS.Trần Văn Nam:Giáo trình luật thương mại quốc tế (NXB Lao Động và Xã Hội 2005) - PGS.Vũ Hữu Tửu:Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ giao dịch ngoại thương (NXB Đại Học Kinh Tế Quốc Dân 2006) - Điều lệ công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera - Sổ tay chất lượng ISO 9001:2000 của công ty - Tờ trình phê duyệt phương án cổ phần hóa công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Tradimex thành công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera do giám đốc công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu (Tradimex) ký ngày 7/7/2005 . - Kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm của công ty từ 2004 đến 2007. - Một số mẫu hợp đồng xuất nhập khẩu cụ thể của công ty - Thái Thị Thùy Trang K32-T2 Học Viện Tài Chính “Tổ chức kế toán bàn hàng và xác định kết quả bán hàng tại Công ty kinh doanh và Xuất nhập khẩu”( chuyên đề tốt nghiệp) - Trần Thị Thanh Huyền-K41 Khoa Luật kinh tế-Đại học KTQD “Hoàn thiện chế độ pháp lý về hợp đồng nhập khẩu tại Công ty kinh doanh và Xuất nhập khẩu”(chuyên đề tốt nghiệp) - Tạp chí ngoại thương số từ ngày 11/1/2006-20/1/2006, 21/2/2006-28/2/2006 - Tạp chí thương mại số 1, 2, 3, 12, 20 năm 2006. NhẬN XÉT CỦA CÁN BỘ TẠI CƠ SỞ THỰC TẬP Ngày tháng năm 200 TRƯỞNG PHÒNG KINH TẾ (Ký tên, đóng dấu)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31987.doc
Tài liệu liên quan