Chuyên đề Công tác tổ chức đấu thầu tại tập đoàn công nghiệp than khoáng sản Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Tầm quan trọng của đầu tư phát triển ngày càng được nâng cao ở mỗi quốc gia, đóng vai trò cốt lõi cho sự tăng trưởng và phát triển của đất nước đã kéo theo yêu cầu cấp thiết về việc đầu tư có hiệu quả. Việc tăng thêm lợi ích từ một đồng vốn bỏ ra hoặc giảm chi phí để tạo ra cùng một đơn vị lợi ích đều là đầu tư có hiệu quả. Trong đó hoạt động đấu thầu là một trong những hoạt động thông qua sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà thầu từ đó chọn ra phương án tối ưu nhằm giảm bớt sự lãng phí về vốn cho chủ đầu tư. Thực trạng hoạt động đấu thầu của TKV cho thấy lợi ích mà hoạt động này đem lại là không hề nhỏ và đang không ngừng được phát huy. Tuy nhiên cũng như hoạt động đấu thầu nói chung hiện nay của cả nước, hoạt động đấu thầu tại TKV cũng còn nhiều hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới nhằm phát huy tối đa hiệu quả của hoạt động đấu thầu, để đấu thầu trở thành hoạt động mang tính chuyên nghiệp cao. Qua tìm hiểu về đấu thầu và hoạt động tổ chức đấu thầu tại TKV, từ những kết quả đã đạt được cùng những hạn chế còn tồn tại, tôi đưa ra những nhận định mang tính chủ quan đồng thời đề xuất những giải pháp với TKV nói riêng và các cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu nói chung đề khắc phục. Tuy nhiên trong khuôn khổ của một đề tài nghiên cứu, đồng thời với hiểu biết và kinh nghiệm có han của bản thân, tôi rất mong sự đóng góp của thầy cô và các bạn đề đề tài được hoàn thiện hơn.

doc94 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1670 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Công tác tổ chức đấu thầu tại tập đoàn công nghiệp than khoáng sản Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t pháp đồng thời cải thiện nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý. Năng lực trình độ của các nhà thầu chưa cao Đây là một trong những nguyên nhân là giảm hiệu quả của hoạt động đấu thầu. Theo quy định của Luật Đấu thầu và nghị định 58/2008/NĐ-CP thì nhà thầu phải vượt qua vòng đánh giá năng lực và kinh nghiệm trước thì HSDT mới được đánh giá khía cạnh kĩ thuật và khía cạnh tài chính thương mại. Có những trường hợp có rất nhiều nhà thầu nộp HSDT, song chỉ một hai nhà thầu lọt qua vòng đánh giá năng lực kinh nghiệm khiến cho việc đánh giá HSDT ở các vòng sau không còn đảm bảo tính cạnh tranh và hiệu quả. Bởi không phải nhà thầu nào đáp ứng đủ điều kiện tối thiểu về năng lực và kinh nghiệm cũng có phương án kĩ thuật và tài chính tốt nhất cho tất cả các gói thầu. Như đã trình bày ở trên thì năng lực của các cán bộ phụ trách đấu thầu không chỉ của TKV nói riêng mà của cả nước nói chung hiện này còn hạn chế về cả số lượng và chất lượng. Điều này cản trở rất nhiều trong quá trình lập HSDT và cũng làm giảm khả năng trúng thầu của các nhà thầu do mức độ am hiểu về Luật Đấu thầu còn chế. Sự hạn chế trong năng lực của các nhà thầu còn biểu hiện ở khía cạnh tài chính. Năng lực tài chính của nhà thầu khi tham dự thầu là khả năng đảm bảo về vốn và các điều kiện tài chính của nhà thầu để có thể thực hiện phần công việc được giao. Cùng với giá bỏ thầu, đây là một trong những tiêu chí quan trọng giúp các chủ đầu tư lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực hoàn thành các phần việc đã đề ra trong HSMT. Một số nhà thầu tham gia dự thầu và trúng thầu song do năng lực tài chính của doanh nghiệp còn yếu kém đã dẫn tới việc tại thời điểm trúng thầu, năng lực của họ đảm bảo. Nhưng sau khi trúng thầu, năng lực tài chính họ không đủ, nợ nần chồng chất. Tiền đưa về được bao nhiêu thì các đơn vị thi công bị ngân hàng thu nợ. Mặt khác do những quy định của Luật Đâu thầu và nghị định hướng dẫn còn hạn chế, chúng ta thường áp dụng một số chỉ tiêu: doanh thu trung bình trong 3 – 5 gần kề (bằng 2 –3 lần giá trị gói thầu); lợi nhuận trong 3 –5 gần kề (không nhỏ hơn 0); độc lập về tài chính... Phương pháp đánh giá này còn đơn giản, mới chỉ đưa ra một vài chỉ tiêu về kết quả kinh doanh mà không xác định được khả năng huy động đủ vốn thực tế của nhà thầu để đảm bảo thi công công trình đúng chất lượng và tiến độ. Ngoài nguyên nhân phương pháp đánh giá chưa chính xác và toàn diện, sự thiếu trung thực của các số liệu tài chính trong hồ sơ kinh nghiệm nhà thầu cũng khiến các chủ đầu tư nhầm lẫn. Lẽ dĩ nhiên là nếu số liệu không chính xác thì chủ đầu tư có thể kết luận một nhà thầu yếu kém thành nhà thầu năng lực tốt hoặc ngược lại. Tính chính xác của số liệu hoàn toàn phụ thuộc vào độ trung thực của nhà thầu - một yếu tố rất khó để kiểm chứng. Thiết nghĩ, cần phải quy định các số liệu về giá trị còn lại chưa thực hiện của các hợp đồng, dự án (cả với nhà thầu chính và thầu phụ) mà nhà thầu đang và sẽ phải thi công trong khoảng thời gian dự án thi công của gói thầu dự thầu, phải được kê khai đầy đủ, trung thực và phải được các chủ đầu tư xác nhận đồng thời đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể để xét năng lực về máy móc, thiết bị của nhà thầu. Tránh tình trạng gói thầu nào nhà thầu cũng kê khai các thiết bị bất kể nó đang được bố trí thi công tại các dự án khác. Vẫn còn tồn tại hiện tượng các nhà thầu bỏ giá thầu thấp dưới giá thầu thực tế nhằm giành được hợp đồng. Sở dĩ có hiện tượng trên là do ở nước ta hiện nay đa số áp dụng phương pháp đánh giá HSDT dựa trên nguyên tắc: sau khi vượt qua điểm tối thiểu về đề xuất kĩ thuật thì nhà thầu trúng thầu là nhà thầu có giá dự thầu thấp nhất nhưng không vượt qua giá gói thầu được phê duyệt trong kế hoạch đấu thầu. Cá biệt với gói thầu tư vấn, lấy giá bình quân bỏ thầu của các nhà thầu đủ tiêu chuẩn đánh giá tài chính thương mại làm căn cứ xét thầu. Việc quy định phương pháp chấm thầu như trên đã dẫn tới nhiều nhà thầu thiếu việc làm, đã bỏ giá dự thầu thấp dưới mức giá thực tế. Tuy nhiên khi bắt tay vào thực hiện dự án mới thấy lỗ nặng, nhà thầu bèn tìm mọi cách kéo dài thời gian thực hiện (để giảm áp lực vốn đầu tư, giảm lãi vay ngân hàng...) rồi bớt xén vật tư các loại, thậm chí xin điều chỉnh phương án, giảm bớt hoặc thay đổi hạng mục công trình... Hiện tượng này gây ảnh hưởng không chỉ về tài chính với nhà thầu mà còn ảnh hưởng tới chất lượng thực hiện gói thầu. Chương 2: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tổ chức đấu thầu tại Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam. Mục tiêu, chiến lược phát triển của TKV Quan điểm phát triển - Phát triển trên cơ sở khai thác, chế biến, sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm nguồn tài nguyên than trong nước; đóng góp tích cực vào việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và đáp ứng tối đa nhu cầu than phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. - Phát huy cao độ nội lực kết hợp mở rộng hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, triển khai, ứng dụng công nghệ tiến bộ trong thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng than; đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường, an toàn lao động, quản trị tài nguyên, quản trị rủi ro trong khai thác than. - Đẩy mạnh các hoạt động điều tra, thăm dò, đánh giá trữ lượng than nhằm, kết hợp đẩy mạnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực thăm dò, khai thác. - Phát triển ngành than gắn liền với bảo vệ, cải thiện môi trường, cảnh quan vùng than; đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và củng cố an ninh, quốc phòng trên địa bàn, đảm bảo an toàn trong sản xuất. Mục tiêu phát triển Về thăm dò than: Đẩy mạnh công tác thăm dò gia tăng trữ lượng than xác minh và nâng cấp trữ lượng hiện có để bảo đảm đủ trữ lượng than tin cậy huy động vào khai thác trong giai đoạn 2008 – 2025. Về khai thác than: bể than Đông Bắc và các mỏ than khác (ngoài bể than đồng bằng sông Hồng) phấn đấu đạt sản lượng than sạch khoảng 48 – 50 triệu tấn vào năm 2010; 60 – 65 triệu tấn vào năm 2015; 70 – 75 triệu tấn vào năm 2020 và trên 80 triệu tấn vào năm 2025. Về sàng tuyển và chế biến than: phấn đấu đến năm 2015 phát triển chế biến than theo hướng đa dạng hóa sản phẩm (nhiên liệu đốt trực tiếp, than dùng cho luyện kim, khí hóa than, nhiên liệu lỏng từ than, nguyên liệu cho công nghiệp hóa chất v.v…). Về bảo vệ môi trường: phấn đấu đến năm 2010 cơ bản ngăn chặn được việc gây ô nhiễm môi trường và ô nhiễm các nguồn nước; đến năm 2015 cải thiện cơ bản các chỉ tiêu chính về môi trường tại các khu vực nhạy cảm (đô thị, khu dân cư, điểm du lịch v.v…), các mỏ phải đáp ứng tiêu chuẩn về môi trường; đến năm 2020 đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn môi trường trên toàn địa bàn vùng mỏ. Định hướng phát triển a. Về công tác thăm dò, khai thác than ở trong nước: Tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới công nghệ trong công tác thăm dò, khai thác với phương châm tập trung, đồng bộ. Đẩy mạnh công tác thăm dò gia tăng trữ lượng than xác minh, nâng cấp trữ lượng than hiện có, đánh giá sơ bộ tiềm năng than và lập kế hoạch cho các bước tiếp theo. b. Về công tác thăm dò, khai thác than ở nước ngoài Tăng cường đầu tư cho công tác thăm dò, khai thác than ở nước ngoài; lựa chọn các khu vực có tiềm năng trữ lượng và điều kiện khai thác thuận lợi ở các nước bạn Lào, Campuchia, châu Phi v.v… c. Về công nghệ khai thác than: Quy hoạch, thiết kế xây dựng mới, cải tạo mở rộng các mỏ hiện có theo hướng tập trung, công suất lớn với dây chuyền công nghệ đồng bộ và hiện đại. Sử dụng loại vật liệu mới để chống giữ và bảo vệ các đường lò trong điều kiện địa chất mỏ cho phép. Đổi mới đồng bộ và hiện đại hóa thiết bị dây chuyền khai thác theo hướng đưa vào sử dụng các thiết bị cơ động có công suất lớn, phù hợp với điều kiện và quy mô của từng mỏ. d. Về sàng tuyển và chế biến than Đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả các nhà máy tuyển hiện có; xây dựng thêm các nhà máy tuyển mới với công nghệ hiện đại. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chế biến than, bao gồm: chế biến than dùng cho luyện kim, khí hóa than, than hóa dầu v.v… nhằm đa dạng hóa sản phẩm từ than. e. Về công tác an toàn và bảo vệ môi trường: Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục phổ biến kiến thức về an toàn lao động và bảo vệ môi trường đến mọi cán bộ, công nhân viên. Xây dựng kế hoạch và lộ trình dài hạn với các giải pháp đồng bộ nhằm giải quyết tốt các vấn đề về môi trường trong hoạt động khai thác than, đáp ứng tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam, khu vực và thế giới. Kiểm soát chặt chẽ quá trình thực hiện quy trình, tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn và môi trường, lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, trình duyệt theo quy định hiện hành. Chú trọng đầu tư trang thiết bị công nghệ hiện đại, mức độ tự động hóa cao nhằm đề phòng và loại trừ các sự cố mỏ. Định hướng công tác tổ chức đấu thầu Thực hiện nghiêm chỉnh quy định về các mốc thời gian trong đấu thầu từ khâu cung cấp thông tin, đánh giá, trình, thẩm định và phê duyệt các nội dung trong đấu thầu. Tăng cường vai trò trách nhiệm của chủ đầu tư theo hướng tạo sự chủ động, linh hoạt trong việc tổ chức thực hiện đấu thầu. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác đấu thầu. Đảm bảo thực hiện nghiêm túc yêu cầu về bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu theo quy định. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát chặt chẽ hoạt động đấu thầu để kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm pháp luật về đấu thầu. Giải pháp về phía TKV Quán triệt quy định của pháp luật về đấu thầu Như đã biết, TKV là một tập đoàn kinh tế nhà nước với số lượng đơn vị thành viên và công ty con khá lớn. Hoạt động kinh doanh của các đơn vị thành viên trải dài suốt từ Bắc vào Nam, do đó việc phổ biến, tuân thủ các quy định về đấu thầu gặp không ít khó khăn. Trình độ của cán bộ hoạt động trong lĩnh vực đấu thầu chưa đồng đều, đặc biệt tại những khu vực không thuận lợi về cơ sở hạ tầng. Do vậy trước hết, TKV cần tăng cường tổ chức nghiên cứu, quán triệt thực hiện theo quy định của Luật Đấu thầu, Nghị định số 58/2008/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn về đấu thầu. Việc quán triệt các quy định của pháp luật về đấu thầu là một việc làm cần thiết, là điều kiện tiên quyết cho hiệu quả của công tác tổ chức đấu thầu do vậy đây không chỉ là trách nhiệm của các lãnh đạo Tập đoàn mà mỗi đơn vị, mỗi cá nhân đều có nhiệm vụ phải nâng cao hiểu biết về pháp luật nói chung và pháp luật về đấu thầu nói riêng. Mỗi đơn vị nên tiến hành các buổi nghiên cứu, trao đổi hướng dẫn thực hiện mỗi khi có nghị định hướng dẫn mới được ban hành, hoặc mỗi khi có chỉ thị của cấp lãnh đạo Tập đoàn, có như vậy thì những văn bản trên mới được thực hiện nghiêm túc và hiệu quả. Đồng thời có văn bản hướng dẫn các đơn vị thực hiện nghiêm chỉnh quy định về các mốc thời gian trong đấu thầu từ khâu cung cấp thông tin, đánh giá, trình, thẩm định và phê duyệt các nội dung trong đấu thầu nhằm đẩy nhanh tiến độ của dự án, bảo đảm chất lượng của dịch vụ, hàng hóa và công trình theo yêu cầu. Bên cạnh đó, Cán bộ TKV cần thực hiện nghiêm túc việc phân cấp trách nhiệm trong đấu thầu theo quy định. Tăng cường vai trò trách nhiệm của chủ đầu tư theo hướng tạo sự chủ động, linh hoạt trong việc tố chức thực hiện đấu thầu. Đồng thời mỗi cá nhân cần có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc việc quán triệt quy định của Luật Đấu thầu và nghị định liên quan của các thành viên khác trong đơn vị, thực hiện nguyên tắc “cùng làm, cùng bàn, cùng kiểm tra”. Bồi dưỡng chất lượng cán bộ phụ trách đấu thầu Để cải thiện được thực trạng đấu thầu hiện nay vốn còn nhiều bất cập mà vấn đề cốt lõi nằm ở sự hạn chế về năng lực của nhân sự phụ trách đấu thầu. Do vậy trong thời gian tới, vấn đề chất lượng đào tạo phải được coi là nhiệm vụ quan trọng. Để làm tốt công việc này không có cách nào khác là phải nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên về đấu thầu đủ năng lực (giỏi về chuyên môn, có bề dày kinh nghiệm, có kiến thức thực tiễn và có khả năng truyền thụ); chương trình giảng dạy phải đổi mới, mang tính ứng dụng cao chứ không chỉ dừng lại ở mức trình bày lại Luật Đấu thầu và các nghị định hướng dẫn, đồng thời phải có những ví dụ minh họa, các tình huống và các xử lý tình huống để các học viên có thể nắm vững và áp dụng đúng các điều luật… Thiết nghĩ, nhà nước cần có những văn bản luật quy định về yêu cầu đối với các cơ sở đào tạo, với giảng viên, với chương trình học cũng như thời gian của khóa học để đảm bảo chất lượng truyền tải nghiệp vụ. Đồng thời phải tăng cường sự quản lý của các cơ quan nhà nước các cơ sở đào tạo này. Ở cấp Tập đoàn, lãnh đạo nên tổ chức định kì các cuộc kiểm tra năng lực với nhân sự trong đấu thầu. Đây sẽ là áp lực khiến mỗi cá nhân phải thường xuyên trau dồi kiến thức, không ngừng học hỏi, tích lũy kinh nghiệm đồng thời nghiên cứu, xem xét những hạn chế của bản thân để tìm ra biện pháp tự nâng cao năng lực. Đặc biệt cần đổi mới cơ cấu tổ chức hoạt động của Tập đoàn từng bước theo hướng “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, xóa bỏ hình thức biên chế để thúc đẩy cạnh tranh trong môi trường làm việc, nâng cao năng lực cá nhân đem lại hiệu quả chung cho tất cả Tập đoàn, kiên quyết loại bỏ những cá nhân có biểu hiện suy đồi về đạo đức, những cá nhân có năng lực giảm sút cần có quyết định cho đi tham dự tập huấn hoặc chuyển công tác để đảm bảo hiệu quả cho công tác tổ chức đấu thầu. Hoàn thiện từng khâu trong tổ chức đấu thầu tại cấp đơn vị Hoàn thiện việc soạn thảo kế hoạch đấu thầu Kế hoạch đấu thầu có vai trò vô cùng quan trọng với cả chủ đầu tư cũng như nhà thầu tham dự. Chủ đầu tư lập kế hoạch đấu thầu phân chia dự án thành các gói thầu để có định hướng nhằm đáp ứng yêu cầu về chất lượng, chi phí và tiến độ thực hiện dự án. Với các nhà thầu, thông tin trong kế hoạch đấu thầu giúp họ có định hướng về các gói thầu mà mình có đủ năng lực tham gia từ đó có sự chuẩn bị cho quá trình dự thầu nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Quá trình tổ chức đấu thầu như một “dây chuyền”, từng khâu, từng bộ phận của dây chuyền có hoạt động tốt thì mới đảm bảo cả dây chuyền hoạt động tốt. Kế hoạch đấu thầu được nâng cao chất lượng soạn thảo sẽ là tiền đề cho việc nâng cao hiệu quả của cả quá trình thực hiện đấu thầu. Tại TKV việc soạn thảo kế hoạch do các đơn vị thành viên tiến hành do vậy để nâng cao chất lượng kế hoạch đấu thầu, TKV nhất thiết phải quán triệt biện pháp nâng cao chất lượng nhân sự đấu thầu tại các đơn vị thành viên như đã trình bày ở trên. Nhân sự có năng lực, kinh nghiệm soạn thảo kế hoạch đấu thầu hợp lý sẽ phát huy hiệu quả cao. Đồng thời kế hoạch đấu thầu được soạn thảo có chất lượng cũng góp phần làm giảm thời gian, nhân sự cho quá trình thẩm định và điều chỉnh. Do vậy lãnh đạo tập đoàn cần có chỉ thị chấn chỉnh việc lập, thẩm định và phê duyệt kế hoạch đấu thầu, lựa chọn hình thức hợp đồng không phù hợp với gói thầu dẫn đến phải điều chỉnh gây chậm trễ tiến độ, lãng phí tiền của Nhà nước; tránh phê duyệt kế hoạch đấu thầu cho từng gói thầu khi có đủ điều kiện để phê duyệt kế hoạch đấu thầu cho toàn bộ dự án. Để nâng cao chất lượng kế hoạch đấu thầu thì các công việc được tiến hành trước đó như khảo sát, lập thiết kế kĩ thuật, tổng dự toán và dự toán cần được thực hiện kĩ càng thì việc phân chia các gói thầu, việc xác định giá gói thầu, hình thức hợp đồng và thời gian thực hiện mới đảm bảo tính chính xác. Ngoài ra để đảm bảo tính cạnh tranh trong đấu thầu, TKV cần từng bước giảm tối đa việc sử dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu mang tính hạn chế như chỉ định thầu và tự thực hiện. Đặc biệt cần quán triệt chỉ thị của chính phủ là không chia nhỏ các gói thầu để tiến hành chỉ định thầu. Nâng cao chất lượng HSMT Chất lượng HSMT đang từng bước được nâng cao, tuy nhiên như đã nêu trên trong phần hạn chế trong tổ chức đấu thầu tại TKV, cán bộ lãnh đạo Tập đoàn cần có phương hướng giải quyết để phát huy vai trò quan trọng của HSMT trong việc đưa ra những thông tin cơ bản cần phải đáp ứng của gói thầu để cung cấp cho bên dự thầu và cũng để tuyển chọn nhà thầu có đủ năng lực đảm nhận thi công gói thầu. Trước hết vẫn là giải pháp về vấn đề nhân lực bởi nhân lực có vai trò quyết định chất lượng của các văn bản soạn thảo. Với các gói thầu đòi hỏi kĩ thuật cao, cần phải phân công cho các tổ chuyên gia có nhiều kinh nghiệm, am hiểu lĩnh vực của gói thầu từ đó đưa ra những tiêu chuẩn kĩ thuật cụ thể, chi tiết để định hướng cho các nhà thầu đồng thời cũng thống nhất và đem lại hiệu quả cho công tác chấm thầu. Trước khi soạn thảo HSMT cần tiến hành khảo sát, thiết kế kĩ càng tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kĩ thuật mà nhà nước quy định để tránh hiện tượng tiên lượng mời thầu không chính xác, sự phát sinh khối lượng thi công dẫn tới phải thay đổi tổng dự toán. Mặt khác, các cán bộ phụ trách soạn thảo HSMT cần tránh việc dựa dẫm quá nhiều vào mẫu HSMT mà Bộ Kế hoạch Đầu tư ban hành, tránh tư tưởng chỉ cần đảm bảo các nội dung trong mẫu ban hành là đảm bảo quy định của pháp luật. Những tiêu chuẩn đánh giá chung chung không loại bỏ được HSDT ngay từ những vòng đánh giá sơ bộ và đánh giá năng lực kinh nghiệm gây ra những lãng phí trong nhân lực, thời gian cho cả nhà thầu tham gia cũng như tổ chuyên gia chấm thầu và chủ đầu tư. HSMT càng được chuẩn bị kĩ lưỡng thì các công việc lựa chọn và đánh giá HSDT càng được thực hiện nhanh chóng. Tuy nhiên cũng không nên quy định quá chi tiết khiến các nhà thầu có tâm lý không muốn tham gia dự thầu vì quá nhiều điều khoản, tiêu chuẩn. Chuẩn hóa hợp đồng Trong mọi hoạt động kinh tế thì hợp đồng chính là bản cam kết giữa các bên tham gia, trong hợp đồng nêu ra các quyền hạn và trách nhiệm của các bên nhằm thực hiện hoạt động kinh tế có hiệu quả đem lại lợi ích cho tất cả các bên. Do vậy với riêng hoạt động đấu thầu thì hợp đồng giúp cho chủ đầu tư quản lý việc thực hiện gói thầu của nhà thầu, hợp đồng được chuẩn hóa là cơ sở giúp cho nhà thầu thực hiện nghiêm túc, không bỏ bê công việc, thực hiện gói thầu với chất lượng tiêu chuẩn, thời gian đã cam kết; nếu có vi phạm xảy ra đây là cơ sở để xử phạt cho cả hai bên. Nâng cao hiệu quả công tác chấm thầu Vai trò của tổ chuyên gia trong chấm thầu được xem như vai trò của “ban giám khảo” trong “cuộc thi”, “ban giám khảo” có sự am hiểu về lĩnh vực của “cuộc thi”, có kinh nghiệm, và đặc biệt phải có sự nghiêm túc, khách quan thì kết quả của “cuộc thi” mới thật sự chính xác, mới tìm ra được “thí sinh” ưu tú nhất. Việc lựa chọn các thành viên trong tổ chuyên gia cần được thực hiện nghiêm túc đảm bảo các yêu cầu tối thiểu quy định về nhân sự trong đấu thầu. Đồng thời phải thường xuyên kiểm tra hoạt động của tổ chuyên gia để kịp thời phát hiện những sai sót và khắc phục. Về cá nhân mỗi chuyên gia cần phải thực hiện nghiêm túc công tác xét thầu, phải bám sát các tiêu chuẩn đánh giá HSDT đã đề ra trong HSMT, tuân thủ các quy định của pháp luật. Các cá nhân của tổ chuyên gia nên chủ động thực hiện xét thầu trong thời gian nhanh để tránh những biến động xấu như giá cả tăng vọt, điều kiện của nhà thầu, quy định của luật pháp..tuy nhiên vẫn phải đảm bảo độ chính xác cao và tính khách quan. Ở một số cơ quan hiện nay đã tiến hành ứng dụng phần mềm xét thầu. Với phần mềm này, tổ xét thầu có thể hoàn tất việc xét hơn 100 gói thầu trong vòng 2 – 3 ngày, giảm chi phí trong xét thầu, tăng tính minh bạch, trong khi nếu xét thủ công phải mất 45 – 60 ngày và phải có sự tham gia của rất nhiều thành viên trong hội đồng xét thầu, đồng thời giảm được tình trạng phải chi hoa hồng. Từ đó kiến nghị TKV nghiên cứu đề xuất này từ đó xây dựng phần mềm xét thầu phù hợp với tình hình Tập đoàn, đặc biệt với các gói thầu có giá trị không lớn, kĩ thuật đơn giản. Mặt khác kế hoạch đấu thầu, HSMT, kết quả đấu thầu trước khi được trình thẩm định với cấp có thẩm quyền đã được lãnh đạo cấp đơn vị phê duyệt, từ đó kiến nghị các cấp đơn vị cần kiểm duyệt kĩ càng để giảm bớt gánh nặng cho ban Đầu tư Tập đoàn trong công tác thẩm định đồng thời nâng cao chất lượng từng khâu trong quá trình tổ chức đấu thầu. Tăng cường sự phối hợp giữa các phòng ban TKV- một Tập đoàn kinh tế nhà nước với công ty mẹ gồm 19 đơn vị trực thuộc, 60 công ty con bao gồm: 23 công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty nhà nước do Tập đoàn sở hữu 100% vốn điều lệ; 22 công ty cổ phần do Tập đoàn sở hữu trên 50% vốn điều lệ và 5 đơn vị sự nghiệp. Việc phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban là việc làm hoàn toàn cần thiết để đảm bảo sự phát triển của cả Tập đoàn. Các phòng ban có phối hợp nhịp nhàng thì những vấn đề nảy sinh mới được giải quyết nhanh, triệt để đồng thời khắc phục những hạn chế về thủ tục rườm rà. Tuy nhiên để thực hiện được điều này không hề đơn giản, trước hết lãnh đạo Tập đoàn cần thương xuyên ban hành các quyết định hướng dẫn về định hướng, mục tiêu hoạt động của Tập đoàn cho từng giai đoạn, từng năm để các đơn vị có cái nhìn khách quan tổng thể. Sau đó ban hành các chỉ thị hướng dẫn chi tiết việc thực hiện từng mục tiêu và nhiệm vụ của từng đơn vị; phân công nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của từng phòng ban để không bị chồng chéo trong khâu quản lý, kiểm tra giám sát cũng như thực hiện. Các phòng ban cần có trách nhiệm hoạt động theo phương châm tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ đắc lực cho nhau vì sự nghiệp phát triển chung. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban sẽ giúp giảm tối đa thời gian, nhân lực và chi phí cho mội công việc. Ví dụ như trong công tác thẩm định các văn bản pháp luật có liên quan đến tổ chức đấu thầu, các tổ chức thẩm định cần tạo điều kiện và chỉ dẫn cho các đơn vị thành viên khi các văn bản trên chưa hợp lệ để tránh hiện tượng phải điều chỉnh đi điều chỉnh lại, gây lãng phí thời gian và nhân lực. Mặt khác lãnh đạo Tập đoàn thường xuyên phải theo dõi hoạt động của các đơn vị, đưa đoàn các bộ đi thực tế để xem xét những vướng mắc ở mỗi phòng ban, đơn vị từ đó kịp thời đưa ra các giải pháp để cải thiện tình hình, tăng cường sự phối hợp giữa các phòng ban. Đồng thời tích cực khuyến khích tính tự chủ của các cá nhân trong việc thông báo về những vướng mắc, đề xuất những giải pháp hoàn thiện bộ máy tổ chức của Tập đoàn, hoàn thiện cơ chế làm việc nhằm giảm tối đa sự lãng phí về thời gian. Kiến nghị về phía nhà nước và các cơ quan có liên quan Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp về đấu thầu Hệ thống pháp luật về Đấu thầu hiện nay ở nước ta cụ thể chính là Luật Đấu thầu và nghị định hướng dẫn đi kèm đang ngày càng được hoàn thiện thể hiện ở việc nghị định 58/2008/NĐ-CP đã được ban hành để bổ sung cho nghị định 111/2006/NĐ-CP về Hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng. Tuy nhiên trong nghị định vẫn còn nhiều hạn chế như đã nêu trên, làm giảm hiệu quả của công tác đấu thầu. Các cán bộ quản lý Nhà nước về Đấu thầu cần có những biện pháp để hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về Đấu thầu nhằm phát huy hiệu quả của một hoạt động chuyên nghiệp như hoạt động đấu thầu. Bộ Kế hoạch Đầu tư cần xem xét nghiên cứu có những quy định đơn giản hơn để giảm bớt thủ tục, đẩy nhanh quá trình đầu tư dự án. Như đối với gói thầu tư vấn có giá trị dưới 500 triệu đồng được áp dụng hình thức chỉ định thầu. Mà theo quy định hiện hành việc chỉ định thầu phải tuân thủ đầy đủ các bước từ: phát hành Hồ sơ yêu cầu, chuẩn bị Hồ sơ đề xuất, đánh giá Hồ sơ đề xuất, trình duyệt thẩm định và phê duyệt kết quả chỉ định thầu. Như vậy rất mất thời gian, đặc biệt với những gói thầu giá trị rất nhỏ, ít nhà thầu quan tâm cũng phải thực hiện đầy đủ quy trình trên làm chậm tiến độ đầu tư dự án. Theo điều 11 Luật Đấu thầu, đối với các gói thầu tư vấn thuộc ngành khai thác mỏ, việc tổ chức đấu thầu gặp không ít khó khăn vì chỉ có rất ít nhà thầu trong nước đủ năng lực tham gia, nhất là khi thời điểm xoá bỏ việc khép kín trong đấu thầu đã đến gần. Đề nghị Chính phủ ban hành quy định cho phép nhà thầu tư vấn lập Báo cáo nghiên cứu khả thi được tiếp tục tham gia đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn lập thiết kế kỹ thuật và thiết kế bản vẽ thi công. Việc hướng dẫn những vướng mắc phát sinh liên tục trong thực tiễn từ phía các cơ quan có thẩm quyền nhiều khi chung chung, không rõ ràng làm chủ đầu tư lúng túng. Đề nghị Bộ Kế hoạch Đầu tư xây dựng sớm ngân hàng dữ liệu xử lý những tình huống trong đấu thầu để các tổ chức, cá nhân có thể tra cứu liên tục để giảm bớt thời gian chờ hướng dẫn. Hiện nay, đối với các dự án không sử dụng nguồn vốn nhà nước, chủ đầu tư chỉ đưa ra thiết kế kỹ thuật, nhà thầu dựa trên cơ sở đó để tính toán và đưa ra giá bỏ thầu. Còn với các dự án sử dụng vốn nhà nước, dự toán và thẩm định dự toán vẫn được xây dựng. Con số dự toán đáng lẽ được giữ bí mật, nhưng thực tế là rất khó. Vì thế, đã xảy ra tình trạng nhà thầu không nghiên cứu cặn kẽ hồ sơ dự án, mà chỉ đưa ra giá bỏ thầu xung quanh mức dự toán. Điều này có thể làm nảy sinh nhiều tiêu cực trong đấu thầu các dự án đầu tư không xây dựng công trình. Chính vì vậy đề xuất về việc bỏ khâu xây dựng dự toán và thẩm định dự toán trong các bước chuẩn bị thực hiện dự án kiểu này. Mặt khác cần đơn giản hóa thủ tục hành chính có liên quan nhằm tạo môi trường thuận lợi cho công tác đầu thầu. Các Bộ, ngành và địa phương khẩn trương rà soát để sửa đổi, bãi bỏ các văn bản hướng dẫn thực hiện đấu thầu không phù hợp, trái với quy định của Luật Đấu thầu, Nghị định số 58/2008/NĐ-CP hoặc ban hành văn bản hướng dẫn mới phù hợp với quy định của pháp luật về đấu thầu nếu thấy cần thiết. Các văn bản hướng dẫn về đấu thầu của Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp sau khi ban hành phải được gửi đến cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu để theo dõi quản lý. Đẩy mạnh công tác đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý nhà nước, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm túc yêu cầu về bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu theo quy định tại Luật Đấu thầu và Nghị định số 58/2008/NĐ-CP. Đồng thời Chính phủ và các Bộ ngành liên quan cần thường xuyên có các buổi thảo luận, các diễn đàn công khai để thu thập ý kiến đóng góp của các cá nhân, tập thể về các dự thảo luật của nhà nước nói chung và các bộ luật liên quan đến Đấu thầu nói riêng. Những ý kiến đóng góp như trên góp phần làm cho việc ban hành pháp luật được đi sát với thực tế, luật và nghị định sau khi ban hành sẽ có tính thực tiễn cao. Nâng cao chất lượng cán bộ quản lý đấu thầu của Nhà nước Cán bộ quản lý Nhà nước về đấu thầu không chỉ có nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra quá trình thực hiện đấu thầu mà còn có trách nhiệm đề xuất các giải pháp về quy định, chính sách với Nhà nước để môi trường pháp luật đấu thầu thêm thông thoáng, phát huy hiệu quả của hoạt động mang tính chuyên nghiệp này. Để chất lượng công tác đấu thầu được nâng cao thì việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ làm công tác đấu thầu rất cần thiết. Tuy nhiên với giải pháp “Tích cực thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm” trong đấu thầu đã nêu trên, một thực tế đặt ra là nếu cán bộ thanh tra không có nhận thức đúng đắn, kinh nghiệm, trình độ đồng thời không có đạo đức nghề nghiệp sẽ lại là trở ngại lớn, “nhũng nhiễu” gây cản trở hoạt động đấu thầu. Năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ nhà nước về đấu thầu trong một số dự án ở nhiều nơi còn chưa đáp ứng yêu cầu. Ngoài ra, ở các dự án nhỏ, ban quản lý dự án làm việc kiêm nhiệm, nên không có cán bộ chuyên môn cần thiết, khó hoàn thành nhiệm vụ được giao. Giải pháp đặt ra ở đây là Nhà nước trước hết cần lựa chọn những cán bộ có năng lực, có kĩ năng quản lý, có kiến thức bài bản về lĩnh vực mình quản lý, để tham gia vào bộ máy quản lý Nhà nước nói chung và quản lý Nhà nước về Đấu thầu nói riêng. Định kỳ phải có lớp, khóa học nhằm bồi dưỡng nghiệp vụ cũng như tư cách để không ngừng nâng cao chất lượng. Đồng thời phải không ngừng thanh lọc, kiểm tra và loại bỏ những cán bộ có sự suy giảm về năng lực, kiến thức và đạo đức. Mặt khác nên tranh thủ sự giúp đỡ, tài trợ của các tổ chức quốc tế và trong nước để xây dựng các dự án, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp ngành và chọn cử cán bộ, nhân viên, học sinh đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài để học tập nâng cao kĩ năng cũng như tiếp thu kinh nghiêm quản lý. Đặc biệt cần tuyên dương, khen thưởng các cán bộ có thành tích phát hiện các sai phạm trong tổ chức đấu thầu cũng như trong và sau quá trình thực hiện gói thầu từ đó khuyến khích các cá nhân tự kiểm tra công tác quản lý của ngay chính trong nội bộ cơ quan mình. Minh bạch, công khai hóa thông tin đấu thầu Công tác đấu thầu luôn tiềm ẩn những tiêu cực, trong đó sự thiếu minh bạch là một nguyên nhân chính làm giảm tính cạnh tranh tranh trong đấu thầu, dẫn đến thất thoát trong đầu tư mua sắm ảnh hưởng đến nguồn lực của Nhà nước. Dưới sức ép của tiến trình hội nhập với những đòi hỏi sự minh bạch hóa, khắc phục những tồn tại tiêu cực, kéo dài thời gian, khép kín trong hoạt động đấu thầu, một trong các biện pháp hữu hiệu là cơ chế đấu thầu qua mạng Đấu thầu qua mạng đang được nhiều quốc gia xem như là một công cụ thúc đẩy sự minh bạch trong quá trình mua sắm từ nguồn tài chính công. Thông qua hệ thống thông tin đấu thầu qua mạng, các nhà thầu tiềm năng đều có quyền và cơ hội ngang nhau trong việc truy cập, tiếp cận mọi thông tin về đấu thầu để tham gia cạnh tranh một cách bình đẳng. Đến nay, đấu thầu qua mạng mới đang đạt ở mức có một trang thông tin điện tử về đấu thầu ở địa chỉ với các nội dung như kế hoạch đấu thầu, thông báo mời thầu, kết quả lựa chọn nhà thầu, tổ chức và cá nhân vi phạm bị xử lý... tuy nhiên phần lớn các thông tin được cập nhật chỉ dừng lại ở thông báo mời thầu, thông báo mời sơ tuyển (do quy định bắt buộc). Thực trạng này chỉ là bước đầu giúp tăng cường tính công khai minh bạch trong quá trình đấu thầu và bán cổ phần tại Việt Nam. Trong khi đó, đã từ khoảng hơn 10 năm trước việc đấu thầu trên mạng đã phát triển mạnh mẽ tại các nước Mỹ, Nhật Bản... và được xem là hình thức tìm nguồn hàng một cách nhanh nhất, rẻ nhất và ít tốn kém nhất. Ngày nay càng nhiều doanh nghiệp trong nước đã chọn mạng internet làm phương tiện giao dịch trong kinh doanh và mạng đã giúp không ít doanh nghiệp có được những hợp đồng quốc tế trị giá cả triệu USD mà không phải mất phí đi lại. Việc doanh nghiệp giành được hợp đồng triệu USD dưới hình thức đấu thầu qua mạng cho thấy, chất của chủ doanh nghiệp đã thay đổi và đủ điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng bởi đấu thầu qua mạng khác xa so với đấu thầu trực tiếp. Đấu thầu qua mạng đòi hỏi sự "cân não" của chủ doanh nghiệp. Thời gian thực hiện hợp đồng kéo dài 5-6 tháng nhưng cuộc đấu thầu tiến hành trên mạng internet chỉ diễn ra trong thời gian khoảng 30 phút. Trong 30 phút này, các bên tham gia đấu thầu không biết thông tin của nhau. Chỉ có chủ dự án biết thông tin về các đối tác tham gia đấu thầu. Để trúng thầu, điều cơ bản nhất là đưa ra mức giá hợp lý. Ngoài mức giá, còn phải hiểu biết về nguyên vật liệu, thiết kế sản phẩm và những thông số khác. Thực tế, việc tham gia đấu thầu quốc tế qua mạng internet của các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực dệt may đã được tiến hành từ nhiều năm qua và ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia bởi những lợi ích của nó đem lại như thuận tiện, nhanh chóng và ít tốn kém chi phí, thời gian. Đấu thầu quốc tế qua mạng không đơn giản chỉ là chuyện giá cả, doanh nghiệp muốn thắng thầu phải có nền tảng về uy tín, năng lực sản xuất và phải được khách hàng biết đến lai lịch từ trước. Điều đó cũng có nghĩa doanh nghiệp phải thực hiện tốt các yêu cầu về trách nhiệm xã hội đối với người lao động như thu nhập, môi trường và điều kiện làm việc của người lao động được đảm bảo, minh bạch về tài chính... Khi có đủ các yếu tố trên, các doanh nghiệp mới được chấp thuận tham dự đấu thầu và được đơn vị đặt hàng gửi đến những thông tin về mẫu hàng, mức giá thầu ban đầu và về ngày giờ, quy định của cuộc đấu thầu. Từ đó cho thấy đấu thầu qua mạng không chỉ góp phần năng cao tính minh bạch, công khai trong đấu thầu mà còn nâng cao được năng lực của các doanh nghiệp. Trên đây là một số giải pháp kiến nghị với Tập đoàn và cả Nhà nước và các cơ quan có liên quan nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác tổ chức đấu thầu tại TKV. Tuy nhiên không dừng lại ở đó, để quá trình cải thiện đem lại kết quả tốt nhất thì các giải pháp phải được thực hiện nghiêm túc, đồng bộ và đồng thời. Mọi cá nhân và đơn vị trong Tập đoàn cùng phải nỗ lực thì mới xây dựng được sự phát triển bền vững. Tích cực thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm Với vai trò của mình là nâng cao hiệu quả của hoạt đồng đầu tư phát triển, hoạt động đấu thầu cần được thực hiện nghiêm túc, tuân thủ quy định của pháp luật. Năm 2008, Chính phủ đã có chỉ thị 27/2008/CT-TTg Về chấn chỉnh công tác đấu thầu sử dụng vốn nhà nước để khắc phục những tồn tại hạn chế, nhằm tăng cường hiệu quả của công tác đấu thầu, hiệu lực quản lý nhà nước. Trong đó thanh tra, kiểm tra là một chức năng quan trọng trong công tác quản lý nhà nước, nhằm đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân đồng thời qua đó cũng phát hiện những điều bất hợp lý để kiến nghị điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn; và nhất thiết phải được chú trọng đúng mức. Các cơ quan nhà nước, các bộ ngành có liên quan cần tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch; tiến hành các cuộc thanh tra, kiểm tra đột xuất về quá trình thực hiện đấu thầu tại các cơ quan đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng vốn nhà nước hoặc những dự án trọng điểm; các cơ quan, đơn vị theo chức năng nhiệm vụ phải thường xuyên kiểm tra việc thực hiện của đơn vị mình, sớm phát hiện những sai sót để kịp thời chấn chỉnh và xử lý các trường hợp vi phạm. Đồng thời cần xây dựng thể chế và nghiên cứu khoa học; xây dựng lực lượng; đổi mới phương pháp chỉ đạo điều hành; tránh hiện tượng chồng chéo trong thanh kiểm tra… Tuy nhiên phải quán triệt thanh tra là để ngăn ngừa, ngăn chặn vi phạm, thúc đẩy quá trình giải ngân, tiến độ dự án và đảm bảo an toàn trong thi công chứ không phải thanh tra làm phiền hà, nhũng nhiễu, cản trở quá trình thi công của các đơn vị. Tăng cường công tác quản lý đấu thầu, kịp thời kiểm điểm, xử lý nghiêm cá nhân, tổ chức không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định của pháp luật. Đặc biệt có biện pháp xử lý mạnh không cho tham dự gói thầu khác đối với các nhà thầu bị phát hiện thông đồng trong đầu thầu hoặc chuyển nhượng cho nhà thầu khác thực hiện hợp đồng sau khi trúng thầu. Trong trường hợp này chủ đầu tư kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền có biện pháp xử lý hành vi vi phạm. Trong thời gian tới cần tiếp tục hoàn thiện cơ cấu, tổ chức, kiện toàn bộ máy từ Thanh tra Bộ đến Thanh tra các Cục để ổn định mô hình và hoạt động hiệu quả hơn. Đồng thời với đó, lực lượng thanh tra phải nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh tra các cấp. KẾT LUẬN Tầm quan trọng của đầu tư phát triển ngày càng được nâng cao ở mỗi quốc gia, đóng vai trò cốt lõi cho sự tăng trưởng và phát triển của đất nước đã kéo theo yêu cầu cấp thiết về việc đầu tư có hiệu quả. Việc tăng thêm lợi ích từ một đồng vốn bỏ ra hoặc giảm chi phí để tạo ra cùng một đơn vị lợi ích đều là đầu tư có hiệu quả. Trong đó hoạt động đấu thầu là một trong những hoạt động thông qua sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà thầu từ đó chọn ra phương án tối ưu nhằm giảm bớt sự lãng phí về vốn cho chủ đầu tư. Thực trạng hoạt động đấu thầu của TKV cho thấy lợi ích mà hoạt động này đem lại là không hề nhỏ và đang không ngừng được phát huy. Tuy nhiên cũng như hoạt động đấu thầu nói chung hiện nay của cả nước, hoạt động đấu thầu tại TKV cũng còn nhiều hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới nhằm phát huy tối đa hiệu quả của hoạt động đấu thầu, để đấu thầu trở thành hoạt động mang tính chuyên nghiệp cao. Qua tìm hiểu về đấu thầu và hoạt động tổ chức đấu thầu tại TKV, từ những kết quả đã đạt được cùng những hạn chế còn tồn tại, tôi đưa ra những nhận định mang tính chủ quan đồng thời đề xuất những giải pháp với TKV nói riêng và các cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu nói chung đề khắc phục. Tuy nhiên trong khuôn khổ của một đề tài nghiên cứu, đồng thời với hiểu biết và kinh nghiệm có han của bản thân, tôi rất mong sự đóng góp của thầy cô và các bạn đề đề tài được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo tình hình thực hiện công tác đấu thầu tại TKV các năm 2006, 2007, 2008 – Ban Đầu tư TKV Báo cáo đánh giá HSDT gói thầu số 21: Thi công xây dựng đà tầu thuộc dự án: Đầu tư di chuyển, mở rộng, nâng cấp cơ sở đóng mới và sửa chữa phương tiện thuỷ - Công ty Cơ khí đóng tàu Than Việt Nam. Báo cáo thẩm định kết quả đấu thầu gói thầu số 21: Thi công xây dựng đà tầu thuộc dự án: Đầu tư di chuyển, mở rộng, nâng cấp cơ sở đóng mới và sửa chữa phương tiện thuỷ - Công ty Cơ khí đóng tàu Than Việt Nam. Báo cáo đánh giá HSDT gói thầu số 14: Thiết bị cảnh báo khí Mêtan thuộc dự án: Khai thác hầm lò xuống sâu dưới mức -100 mỏ than Khe chàm, Công ty than Khe Chàm – TKV Báo cáo sơ tyển nhà thầu gói thầu EPC thuộc dự án Nhà máy Nhiệt điện Mạo Khê 220MW (có mở rộng 440MW) Bộ KHĐT (2005), Quyết định số 909/2005/QĐ-BKH ngày 13/9/2005 về ban hành mẫu hồ sơ mua sắm hàng hoá Bộ KHĐT (2008), Quyết định số 731/2008/QĐ-BKH ngày 10/06/2008 về ban hành Mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp Bộ KHĐT (2008), Quyết định số 1048/2008/QĐ-BKH ngày 11/08/2008 về ban hành Mẫu hồ sơ mời thầu dịch vụ tư vấn Bộ KHĐT (2008), Quyết định số 419/2008/QĐ-BKH ngày 07/04/2008 về ban hành Mẫu báo cáo thẩm định Kết quả đấu thầu Bộ Xây dựng (2005), Thông tư số 02/2005/TT-BXD hướng dẫn lập hợp đồng trong hoạt động xây dựng Chính phủ (2008), Nghị định số 58/2008/NĐ-CP ngày 05/05/2008 về hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật xây dựng Chính phủ (2006), Quyết định 228/2006/QĐ-TTg ngày 11/10/2006 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động của TKV Chỉ thị số 27/2008/CT-TTg về chấn chỉnh công tác đấu thầu sử dụng vốn nhà nước do Thủ tướng Chính phủ ban hành HĐQT TKV (2007),Quyết định số: 768/QĐ-HĐQT ngày 06/04/2007 banh hành Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng của TKV HSMT gói thầu số 21: Thi công xây dựng đà tầu thuộc dự án: Đầu tư di chuyển, mở rộng, nâng cấp cơ sở đóng mới và sửa chữa phương tiện thuỷ - Công ty Cơ khí đóng tàu Than Việt Nam. Quốc hội (2005), Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 được Quốc Hội thông qua ngày 29/11/2005 Website: Quản lý nhà nước về Đấu thầu Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam www.vinacomin.vn Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam www.luatvietnam.com.vn PHỤ LỤC Phụ lục I CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CÔNG TY MẸ - TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP THAN - KHOÁNG SẢN VIỆT NAM ____________ I. Cơ quan quản lý, điều hành Công ty mẹ - Tập đoàn II. Các đơn vị trực thuộc Công ty mẹ Công ty Cảng và Kinh doanh than -TKV Công ty Tuyển than Hòn Gai -TKV Công ty Tuyển than Cửa Ông -TKV Công ty Kho vận Đá Bạc -TKV Công ty Địa chất mỏ -TKV Công ty Tư vấn quản lý dự án đầu tư xây dựng - TKV Công ty Bauxit Lâm Đồng -TKV Công ty Nhiệt điện Sơn Đông -TKV Công ty Kinh doanh Bất động sản -TKV Công ty Xây dựng Mỏ hầm lò 1 -TKV Công ty Xây dựng Mỏ hầm lò 2 -TKV Công ty Thăm dò khai thác Khoáng sản 109 -TKV Ban QLDA tổ hợp Bauxit Nhôm Lâm Đồng Ban QLDA Nhiệt điện Mạo Khê Trung tâm Cấp cứu mỏ -TKV. Trung tâm Phát triển nguồn nhân lực quản lý -TKV (đổi tên Trung tâm Phát triển nguồn nhân lực quản lý). Trung tâm Y tế lao động -TKV Tạp chí Than - Khoáng sản Việt Nam. Văn phòng đại diện tại Lào Văn phòng đại diện tại Lào Ban QLDA các công trình Than Quảng Ninh –TKV Phụ lục II CÁC CÔNG TY CON CỦA TKV ____________ I. Các công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, trong đó công ty mẹ do Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam nắm giữ 100% vốn điều lệ (7 công ty): Tổng công ty Khoáng sản TKV. Tổng công ty Đông Bắc TKV (được chuyển đổi từ Công ty Đông Bắc). Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Than Nội địa - TKV. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Than Uông Bí - TKV. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên công nghiệp hóa chất mỏ - TKV Viện Khoa học Công nghệ mỏ - TKV. Công ty Tài chính TKV (thành lập mới). II. Các công ty cổ phần do Tập đoàn nắm giữ trên 50% vốn điều lệ (41 công ty) Công ty Than Hòn Gai - TKV. Công ty Than Hạ Long - TKV. Công ty xây dựng mỏ - TKV. Công ty Than Dương Huy - TKV. Công ty Than Hà Lầm - TKV. Công ty Than Thống Nhất - TKV. Công ty Than Mông Dương - TKV. Công ty Than Khe Chàm - TKV. Công ty Than Vàng Danh - TKV. Công ty Than Quang Hanh - TKV. Công ty Công nghiệp ô tô - TKV. Công ty Cơ khí đóng tàu - TKV. Viện Cơ khí năng lượng và mỏ - TKV. Công ty cổ phần Than Núi Béo - TKV. Công ty Chế tạo thiết bị điện - TKV. Công ty cổ phần Tin học, công nghệ, Môi trường - TKV. Công ty cổ phần Tư vấn đầu tư mỏ và Công nghiệp - TKV. Công ty cổ phần Giám định - TKV. Công ty Than Đèo Nai - TKV. Công ty Than Cọc Sáu - TKV. Công ty Than Cao Sơn - TKV. Công ty Than Hà Tu - TKV. Công ty Vật tư, vận tải và Xếp dỡ - TKV. Công ty Khách sạn Heritage Hạ Long - TKV. Công ty Nhiệt điện Na Dương - TKV. Công ty Nhiệt điện Cao Ngạn - TKV. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Than Mạo Khê - TKV. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Chế biến và Kinh doanh than miền Bắc - TKV. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Chế tạo máy Than Việt Nam - TKV. Công ty cổ phần Nhiệt điện Cẩm Phả - TKV. Công ty cổ phần Vận tải và Đưa đón thợ mỏ - TKV. Công ty cổ phần đại lý Tàu biển - TKV. Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu - TKV. Công ty cổ phần Du lịch và Thương mại - TKV. Công ty cổ phần Đầu tư, thương mại và Dịch vụ - TKV. Công ty cổ phần Chế biến và Kinh doanh than Cẩm Phả - TKV. Công ty cổ phần Than miền Trung - TKV. Công ty cổ phần Than miền Nam - TKV. Công ty cổ phần Than Tây Nam Đá Mài - TKV. Công ty cổ phần Hoa Tiêu hàng hải - TKV. Công ty cổ phần Kính Nổi Chu Lai - TKV. III. Các đơn vị sự nghiệp đào tạo (3 đơn vị): Trường Cao đẳng nghề mỏ Hồng Cẩm - TKV. Trường Đào tạo nghề mỏ Hữu Nghị - TKV. Trường Đào tạo nghề Mỏ và Xây dựng - TKV. Phụ lục III CÁC CÔNG TY LIÊN KẾT CỦA CÔNG TY MẸ - TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP THAN - KHOÁNG SẢN VIỆT NAM ------------------- Công ty cổ phần Nhiệt điện Hải Phòng Công ty cổ phần Nhiệt điện Quảng Ninh Công ty cổ phần Cơ khí Mạo Khê Công ty cổ phần Cơ điện Uông Bí. Phụ lục IV BẢNG TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ KINH NGHIỆM VÀ NĂNG LỰC CỦA NHÀ THẦU (Gói thầu số 21: Thi công xây dựng đà tàu 15000 DWT thuộc Dự án: Đầu tư, di chuyển, mở rộng nâng cấp cơ sở đóng mới và sửa chữa phương tiện thuỷ- Công ty cơ khí đóng tàu TKV.) TT Nội dung yêu cầu Mức yêu cầu tối thiểu để được đánh giá là đáp ứng (đạt) 1 Kinh nghiệm 1.1 Kinh nghiệm chung về thi công xây dựng các công trình thuỷ công: Số năm hoạt động trong lĩnh vực thi công xây dựng các công trình thủy công. Có kinh nghiệm từ 5 năm trở lên 1.2 Kinh nghiệm thi công gói thầu tương tự: - Số lượng các hợp đồng xây lắp tương tự đã thực hiện với tư cách là nhà thầu chính hoặc một thành viên của liên danh tại Việt Nam và nước ngoài trong thời gian 5 năm gần đây. - Đối với nhà thầu liên danh, các thành viên liên danh phải có hợp đồng xây lắp tương tự với phần công việc đảm nhận trong liên danh. Tối thiểu là 3 hợp đồng Tối thiểu 2 hợp đồng 2 Năng lực kỹ thuật 2.1 Năng lực hành nghề xây dựng - Số lượng, trình độ cán bộ, công nhân kỹ thuật trực tiếp thực hiện gói thầu (Xác định theo bản kê khai năng lực chuyên gia theo mẫu quy định, các bằng cấp chứng chỉ đào tạo) được sao công chứng. Có đủ năng lực hành nghề của doanh nghiệp xây lắp hạng 1 2.2 Nhân sự chủ chốt + Giám đốc điều hành (Chỉ huy trưởng hoặc Đội trưởng) - Tốt nghiệp từ Đại học trở lên, có thời gian liên tục làm công tác thi công xây dựng tối thiểu 10 năm, đã làm chỉ huy trưởng 01 công trình xây dựng đường thủy cấp II hoặc 02 công trình xây dựng thuỷ công cấp III. + Người phụ trách kỹ thuật thi công trực tiếp - Tốt nghiệp từ Đại học trở lên, có chuyên ngành xây dựng cảng, đường thủy đã tham gia các công trình xây dựng đường thủy trên 10 năm. + Cán bộ kỹ thuật thi công trực tiếp. - Có ít nhất 03 người tốt nghiệp từ Đại học trở lên, có chuyên ngành xây dựng cảng, đường thủy, trong đó có ít nhất một người tốt nghiệp chuyên ngành cảng, có kinh nghiệm thi công các công trình xây dựng đường thủy trên 5 năm + Công nhân kỹ thuật (Căn cứ theo chứng chỉ đào tạo) Có đủ số lượng công nhân kỹ thuật có tay nghề về ván khuôn, cốt thép, bê tông, hoàn thiện, thợ máy có đầy đủ chứng chỉ đào tạo... Có đầy đủ các tổ trưởng công nhân. 2.3 Thiết bị thi công chủ yếu (Căn cứ theo biện pháp thi công chủ yếu để xác định thiết bị thi công chính) - Số lượng thiết bị thi công của nhà thầu (Căn cứ theo các tài liệu chứng minh) - Khả năng huy động thiết bị thi công để thực hiện gói thầu. - Có đầy đủ thiết bị thi công chính để thi công gói thầu. - Có khả năng huy động các thiết bị đáp ứng tiến độ gói thầu 3 Năng lực tài chính (2005, 2006,2007) 3.1 Doanh thu Doanh thu trung bình trong 3 năm gần đây (a+b+c)/3. > 90 tỷ (Chín mươi tỷ VNĐ) Trong trường hợp liên danh, doanh thu trung bình trong 3 năm của cả liên danh được tính bằng tổng doanh thu trung bình của các thành viên trong liên danh, trong đó: (a) Doanh thu trung bình trong 3 năm gần đây của thành viên đứng đầu liên danh > 60 tỷ (Sáu mươi tỷ đồng) (b) Doanh thu trung bình trong 3 năm gần đây của từng thành viên khác trong liên danh > 30 tỷ (Ba mươi tỷ đồng) 3.2 Tình hình tài chính lành mạnh (a) Số năm nhà thầu hoạt động không bị lỗ Trong 3 năm gần đây (2005, 2006, 2007) lợi nhuận sau thuế > 0 (b) Tỉ suất thanh toán hiện hành bình quân trong 3 năm gần đây. Tỉ suất thanh toán hiện hành = Tài sản ngắn hạn/ nợ ngắn hạn > 1 (c) Giá trị ròng (Vốn chủ sở hữu) Được tính bằng: Tổng tài sản - Tổng nợ phải trả > 0 3.3 Lưu lượng tiền mặt Nhà thầu phải đảm bảo lưu lượng tiền mặt(1) nhằm đáp ứng yêu cầu của gói thầu Đạt mức > 6 tỷ trong 1 tháng Trong trường hợp liên danh, lưu lượng tiền mặt của cả liên danh được tính bằng tổng lưu lượng tiền mặt của mỗi thành viên trong liên danh, trong đó: (a) Lưu lượng tiền mặt của thành viên đứng đầu liên danh Đạt mức > 4 tỷ trong 1 tháng (b) Lưu lượng tiền mặt nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác xây dựng của từng thành viên khác trong liên danh Đạt mức > 2 tỷ trong 1 tháng (Nguồn: TKV) Phụ Lục V Tóm tắt báo cáo thẩm định Gói thầu số 21: Thi công xây dựng đà tàu 15000 DWT Dự án: Đầu tư, di chuyển, mở rộng nâng cấp cơ sở đóng mới và sửa chữa phương tiện thuỷ- Công ty cơ khí đóng tàu TKV. A.Tổng hợp kết quả kiểm tra, đánh giá của ban Đầu tư: Quá trình chuẩn bị tổ chức đấu thầu Về căn cứ pháp lý để tổ chức đấu thầu: Kết quả kiểm tra về căn cứ pháp lý: Kết quả kiểm tra của ban Đầu tư về căn cứ pháp lý của việc tổ chức đấu thầu được tổng hợp theo Bảng số 1 dưới đây: Bảng số 1 TT Nội dung kiểm tra Kết quả thẩm định Tuân thủ Không tuân thủ 1 Quyết đinh phê duyệt dự án x 2 Quyết đinh phê duyệt Kế hoạch đấu thầu x 3 Quyết đinh phê duyệt HSMT x 4 Quyết đinh thành lập tổ chuyên gia x 5 Quyết đinh phê duyệt danh sách nhà thầu đạt yêu cầu về mặt kỹ thuật x 6 Quyết đinh phê duyệt danh sách xếp hạng nhà thầu x Đánh giá của ban Đầu tư về căn cứ pháp lý Căn cứ kết quả kiểm tra cho thấy, gói thầu đầy đủ cơ sở pháp lý để tổ chức đấu thầu. Về quá trình tổ chức thực hiện: 2.1 Về thời gian trong đấu thầu: 2.1.1 Kiểm tra về thời gian trong đấu thầu: Kết quả kiểm tra của ban Đầu tư về thời gian trong đấu thầu được tổng hợp tại Bảng số 2 dưới đây: Bảng số 2 TT Nội dung kiểm tra Thời gian thực tế thực hiện Kết quả thẩm định Tuân thủ Không tuân thủ 1 Thông báo mời thầu 3 số liên tiếp x 2 Phát hành hồ sơ mời thầu 12 ngày kể từ ngày đăng thông báo x 3 Thời điểm đóng thầu, mở thầu 15 ngày từ ngày phát hành HSMT x 4 Chuẩn bị hồ sơ dự thầu 15 ngày x 5 Đánh giá hồ sơ dự thầu 45 ngày x 2.1.2 Đánh giá của ban Đầu tư về thời gian trong đấu thầu: Thời gian trong đấu thầu do chủ đầu tư thực hiện tuân thủ quy định của Luật đấu thầu. Về đăng tải thông tin trong đấu thầu: Kiểm tra về đăng tải thông tin trong đấu thầu Kết quả kiểm tra của ban Đầu tư về đăng tải thông tin trong đấu thầu được tổng hợp tại Bảng số 3 dưới đây: Bảng số 3 TT Nội dung kiểm tra Trên báo Đấu thầu Trên phương tiện thông tin đại chúng khác Kết quả kiểm tra Số báo Thời gian phát hành Tuân thủ Không tuân thủ 1 Thông báo mời thầu 189, 190, 191/2008 ngày 19, 22, 23 tháng 9/2008 Không X 2.2.2. Đánh giá của ban Đầu tư về đăng tải thông tin trong đấu thầu : Việc đăng tải thông tin trong đấu thầu tuân thủ quy định của Luật đấu thầu Về nội dung đánh giá HSDT 2.3.1 Kiểm tra về nội dung đánh giá HSDT Kết quả kiểm tra của ban Đầu tư về nội dung đánh giá HSDT được tổng hợp tại Bảng số 4 dưới đây: Bảng số 4 TT Nội dung kiểm tra Kết quả kiểm tra Tuân thủ Không tuân thủ 1 Tính hợp lệ của HSDT và đáp ứng điều kiện tiên quyết x 2 Đánh giá về năng lực và kinh nghiệm x 3 Đánh giá về mặt kỹ thuật x 4 Xác định giá đánh giá x 2.3.2 Đánh giá của ban Đầu tư về đăng tải thông tin trong đấu thầu: Nội dung đánh HSMT của tổ chuyên gia đấu thầu tuân thu pháp luật về đấu thầu và các quy định tiêu chuẩn đánh giá nêu trong HSMT đã được phê duyệt. Các thành viên tổ chuyên gia đấu thầu không có ý kiến khác nhau đối với nội dung đánh giá HSDT. Về kết quả đấu thầu do chủ đầu tư đề nghị: Ý kiến của ban Đầu tư về kết quả đấu thầu do chủ đầu tư đề nghị được tổng hợp tại bảng số 5 dưới đây: Bảng số 5 TT Nội dung Đề nghị của chủ đầu tư Ý kiến thẩm định Thống nhất Không thống nhất 1 Nhà thầu đề nghị trúng thầu Công ty CP Công trình đường thủy Vinawaco x 2 Giá đề nghị trúng thầu 68.049.013.063 đồng x 3 Hình thức hợp đồng Theo đơn giá x 4 Thời gian thực hiện hợp đồng 330 ngày x 5 Thời gian bảo hành 24 tháng x B. Nhận xét của ban Đầu tư: Gói thầu có đầy đủ các thủ tục pháp lý để tổ chức đấu thầu . Quá trình tổ chức đấu thầu, đánh giá HSDT tuân thủ nội dung HSMT và các quy định hiện hành. HSDT của nhà thầu xếp thứ nhất đảm bảo tính hợp lệ, đáp ứng các yêu cầu của HSMT có giá dự thầu sau sửa lỗi và hiệu chỉnh sai lệch thấp hơn giá dự toán được duyệt. Kết quả đấu thầu gói thầu đủ điều kiện phê duyệt. (Nguồn: Báo cáo thẩm định gói thầu số 21 Thi công xây dựng đà tàu 15000 DWT)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21568.doc
Tài liệu liên quan