Chuyên đề Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt các đặc điểm này trong công tác chuẩn bị, thực hiện và vận hành kết quả đầu tư

Thứ nhất, trong quá trình vận hành kết quả đầu tư, các doanh nghiệp nên tận dụng tối đa những chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, không thể coi đó như là công cụ bảo hộ cho doanh nghiệp tồn tại và hoạt động lâu dài. Các doanh nghiệp phải tự thân vận động, biết cách nhận biết khai thác cơ hội và sự hỗ trợ của Nhà nước để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. cần có những biện pháp phòng chống và giảm thiểu thiệt hại do biến cố bất thường xảy ra như thiên tai, hoả hoạn, trượt giá trên thị trường nguyên vật liệu hay thị trường sản phẩm. Thứ hai, hoạt động đầu tư cần được tiến hành theo các kế hoạch, chiến lược trong từng giai đoạn đầu tư đã được vạch trước, tránh nôn nóng mà chạy theo lợi nhuận trước mắt mà không tính đến lợi nhuận lâu dài và khả năng thành công của dự án. Các kế hoạch, chiến lược ngắn hạn và dài hạn phải được thống nhất trên cơ sở nhằm đạt được mục tiêu của dự án, rút ngắn thời gian hoàn vốn đầu tư nhưng cần tuân thủ các nguyên tắc, quy định về bảo vệ môi trường. Đối với sản phẩm sử dụng nguyên nhiên liệu có thể gây ô nhiễm môi trường cần phải nhận dạng, xác định phạm vi của các tác động môi trường có thể có; từ đó có các biện pháp khắc phục các ảnh hưởng tiêu cực của dự án đến môi trường, tránh làm ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường cạnh tranh cũng như đối với người tiêu dùng. Ví dụ, việc khai thác mỏ ở thượng lưu có thể làm thay đổi lưu lượng và chất lượng nước ở hạ lưu, điều đó lại tiếp tục ảnh hưởng đến thuỷ sản và nông nghiệp. Thứ ba, các doanh nghiệp phải tìm kiếm và xây dựng lợi thế cạnh tranh bền vững cho chính mình, dựa trên nguồn lực tinh thông, có kỹ năng giỏi, có phong cách làm việc chuyên nghiệp, có tính cạnh tranh và tinh thần học hỏi. Đồng thời, doanh nghiệp phải tăng cường năng lực sáng tạo và đổi mới, đây là yếu tố sống còn cho sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời đại công nghệ thông tin. Thứ tư, trong công tác vận hành kết quả đầu tư, đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cần đưa ra các kế hoạch cụ thể về hoạt động bảo hành, bảo dưỡng thiết bị máy móc, dây chuyền công nghệ, kế hoạch dự phòng đảm bảo ổn định quá trình sản xuất, kinh doanh; có những biện pháp phòng chống và giảm thiểu thiệt hại do biến cố bất thường xảy ra của thời tiết, khí hậu và của nền kinh tế xã hội như thiên tai, hoả hoạn, tình hình trượt giá trên các thị trường nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm hay thị trường hàng hóa liên quan. Thứ năm, cùng với việc vận hành kết quả đầu tư, các doanh nghiệp cần phải tiến hành đồng thời hoạt động nghiên cứu khía cạnh thị trường sản phẩm của dự án đầu tư, bao gồm: + Phân tích và đánh giá thị trường tổng thể để có cái nhìn tổng quan về thị trường nói chung và thị trường của dự án nói riêng. + Phân đoạn thị trường và xác định thị trường mục tiêu cho sản phẩm của dự án, xác định những điểm giống và khác nhau về nhu cầu của khách hàng về sản phẩm của dự án; từ đó hình thành nên những định hướng hoàn thiện hay đổi mới, phát triển sản phẩm trong tương lai. + Dự báo cung - cầu về thị trường sản phẩm của dự án trong tương lai. Đây là nhân tố quyết định đến việc lựa chọn mục tiêu và quy mô sản xuất tối ưu của dự án. Đối với hoạt động này, doanh nghiệp nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia đặc biệt những chuyên gia đầu ngành, có tên tuổi nhưng cũng cần dựa trên cơ sở nghiên cứu khoa học, tránh tình trạng chủ quan duy ý chí. + Lựa chọn các biện pháp tiếp thị và khuyến mại cần thiết giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ của dự án được thụân lợi, bao gồm chính sách giá cả, hệ thống phân phối, các vấn đề về quảng cáo, về mẫu mã bao gói để đẩy mạnh, mở rộng các kênh phân phối. Nói tóm lại, một dự án muốn có khả năng thành công cao thì cần phải thực hiện tốt cả ba công tác chuẩn bị, thực hiện và vận hành kết quả đầu tư trên cơ sở quán triệt sâu sắc các đặc điểm của đầu tư phát triển. *** Hết ***

doc71 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1123 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt các đặc điểm này trong công tác chuẩn bị, thực hiện và vận hành kết quả đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường học (Trường) 24012 24692 25225 25825 26352 26817 27227 27593 Tiểu học 13517 13859 13903 14163 14346 14518 14688 14834 Trung học cơ sở 7417 7741 8096 8396 8745 9041 9383 9635 Trung học phổ thông 1101 1258 1396 1532 1664 1828 1952 2044 Phổ thông cơ sở 1316 1189 1265 1197 1143 1034 889 773 Trung học 661 645 565 537 454 396 315 307 Lớp học (Nghìn lớp) 501.2 509.6 518.4 522.2 520.9 519.7 508.7 501.2 Tiểu học 322.4 320.1 314.5 308.8 299.4 288.9 276.6 270.2 Trung học cơ sở 139.5 144.4 153.7 161.3 165.7 170.9 167.5 163.8 Trung học phổ thông 39.3 45.1 50.2 52.1 55.8 59.9 64.6 67.2 Nguồn: www.gso.gov.vn (trang web của Tổng cục thống kê) Đầu tư cho hoạt động giáo dục đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dưới nhiều hình thức: Giáo dục nghề nghiệp đã được phục hồi sau nhiều năm suy giảm. Năm 2006 quy mô tuyển sinh dạy nghề dài hạn và ngắn hạn đã tăng hơn 3 lần, tuyển sinh THCN tăng 2.67 lần so với năm 1998. Dạy nghề ngắn hạn và dạy nghề cho nông dân được mở rộng. Số trường dạy nghề và các trường THCN tăng. Đến nay, hầu hết các tỉnh đều có trường dạy nghề, bước đầu phát triền các trường dạy nghề thuộc ngành kinh tế mũi nhọn. Xã hội cũng đang dần thay đổi quan niệm về giáo dục nghề nghiệp theo hướng ngày càng tích cực hơn. Giáo dục CĐ, ĐH, và sau ĐH không ngừng phát triển, không ngừng mở rộng quy mô, đa dạng hoá các loại hình nhà trường, phát triền các hình thức giáo dục không chính quy đã tạo thêm cơ hội học tập cho người dân, trước hết là những người trẻ tuổi trong xã hội. Chúng ta đã xây dựng môi trường cạnh tranh giữa các trường trong nước với các trường quốc tế, các trường dân lập với tư thục, tạo động lực để hệ thống giáo dục đào tạo CĐ, ĐH, và sau ĐH không ngừng nâng cao về chất lượng nhằm tồn tại và phát triển bền vững hơn. Bên cạnh đó thông qua hoạt động đầu tư cho giáo dục đào tạo đã thực hiện được một số mục tiêu chiến lược nâng cao dân trí, xoá mù, phổ cập giáo dục..., Nhà nước cũng dần tập trung hơn nữa trong duy trì giáo dục ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục đào tạo. Bên cạnh việc mở rộng về quy mô, chất lượng giáo dục đào tạo đã có những chuyển biến tích cực. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học ở các cấp, các vùng miền được cải thiện trong thời gian qua, nhất là khi thực hiện chủ trương đổi mới chương trình đào tạo phổ thông và kiên cố hoá trường học. Một số địa phương, trường đại học, cao đẳng, THCN và dạy nghề đã tiến hành kiên cố hoá cơ sở vật chất, thiết bị trường học. Đội ngũ giáo viên không ngừng được nâng cao trình độ hàng năm. Có rất nhiều giáo viên được đài thọ kinh phí ra nước ngoài học nâng cao trình độ. Bên cạnh đó, giáo dục đại học ở Việt Nam cũng có nhiều yếu kém. Năm 2005, tỷ lệ sinh viên đỗ đại học ở Việt Nam chỉ là 16%, trong khi con số này ở Trung Quốc và In-đô-nê-xia là 17% - 19%, còn ở Thái Lan là 43%. Mặc dù số lượng sinh viên đại học đã tăng một cách đáng kể từ năm 1990 nhưng với hạn chế về cả số lượng và chất lượng giảng viên, hệ thống đào tạo đang ngày càng bị dồn nén. Không những thế, chất lượng đào tạo ở các trường đại học của Việt Nam chưa đạt chuẩn. Giảng viên ở các trường đại học của Việt Nam có rất ít bài đăng trên các tạp chí quốc tế. Trên thực tế, trường đại học của Việt Nam thua xa khi so với ngay cả trường của các nước Đông Nam Á - vốn chưa phải là những trường đẳng cấp quốc tế. Nếu nhìn vào sản phẩm đào tạo thì khoảng phân nửa sinh viên ra trường ở Việt Nam không được làm đúng ngành đào tạo. Hiện nay, các trường, các trung tâm giáo dục và ngay cả các công ty cũng có sự quan tâm đáng kể đến việc phát triển nguồn nhân lực. Rất nhiều công ty đã có chương trình liên kết với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước để có được nguồn nhân lực phù hợp. Ngoài ra, rất nhiều doanh nghiệp cũng mời các chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước đến tập huấn nâng cao trình độ cho nhân viên trong công ty, cũng như gửi nhân viên của mình ra nước ngoài nghiên cứu, tiếp thu khoa học công nghệ mới. Điều này thể hiện mức độ quan tâm ngày càng cao của các doanh nghiệp trong giai đoạn hiên nay. Đầu tư cho công tác chăm sóc sức khoẻ và y tế từng bước được cài thiện: Đội ngũ y bác sĩ không ngừng gia tăng về số lượng và đã ngày càng có nhiều bác sĩ được khuyến khích lên vùng cao công tác, nhằm cài thiện công tác chăm sóc y tế, khám và chữa bệnh cho bà con vùng sâu vùng xa. Hằng năm chính phủ cũng có nhiều chương trình tiêm chủng mở rộng, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo. Ngoài ra chúng ta đã thực hiện việc khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ dưới 6 tuổi, giúp cho trẻ em được chăm sóc y tế đầy đủ. Không chỉ gia tăng về số lượng, chất lượng của đội ngũ y bác sĩ cũng được nâng cao. Việt Nam đã thực hiện thành công nhiều ca ghép gan, thận và áp dụng thành công phương pháp mổ nội soi được cả thế giới đánh giá rất cao… Số cơ sở khám, chữa bệnh(*) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 TỔNG SỐ 13117 13172 13095 13162 13149 13243 13232 Bệnh viện 835 836 842 842 856 878 903 Phòng khám đa khoa khu vực 936 928 912 930 881 880 847 Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng 92 71 76 77 53 53 51 Trạm y tế xã, phường 10271 10385 10396 10448 10516 10613 10672 Trạm y tế của cơ quan, xí nghiệp 918 891 810 810 789 769 710 Cơ sở khác 65 61 59 55 54 50 49 (*) Chưa kể cơ sở tư nhân. Nguồn: www.gso.gov.vn (trang web của Tổng cục thống kê) Môi trường và điều kiện làm việc của ngưòi lao động ngày càng được chú trọng và đầu tư cải thiện. Các công ty đã tăng cường thiết bị bảo hộ lao động cho công nhân, trong những nơi nguy hiểm, con người đã được thay thế bằng máy móc thiết bị, các dây chuyền công nghệ tiên tiến hiện đại của thế giới thay thế dần cho những dây chuyền cũ kĩ lạc hậu, làm hạn chế đáng kể những ô nhiễm tiếng ồn, bụi ánh sáng… cho công nhân trực tiếp sản xuất cũng như môi trường xung quanh. II. Tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong hoạt động quản lý đầu tư ở Việt Nam hiện nay. 1. Tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong hoạt động quản lý đầu tư ở Việt Nam hiện nay. 1.1. Cấp vĩ mô Trong giai đoạn 1996 - 2005, cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư phát triển có nhiều đổi mới, góp phần quan trọng trong việc cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích các chủ thể trong nền kinh tế bỏ vốn đầu tư. Nhà nước ban hành nhiều cơ chế chính sách nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật; nguồn vốn đầu tư được phát triển đa dạng hoá, cơ chế bao cấp trong đầu tư phát triển đã từng bước được hạn chế và xoá bỏ. Đến nay các nguồn vốn đầu tư phát triển được huy động đa dạng. Ngoài các nguồn vốn hiện có, chính phủ đã phát hành trái phiếu để huy động vốn. Nhờ đó quy mô vốn không ngừng được nâng cao. Để tăng nhanh tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, trong những năm qua, chúng ta đã sửa đổi, bổ sung một số cơ chế chính sách trong lĩnh vực này. Bao cấp nguồn vốn đầu tư bằng ngân sách giảm đáng kể. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước trực tiếp sản xuất kinh doanh có điều kiện thu hồi vốn thì khuyến khích họ sử dụng vốn tín dụng ưu đãi, tự chịu trách nhiệm về mặt tài chính, vay và trả nợ, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư. Đồng thời, Chính phủ cũng có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước tự huy động thêm các nguồn vốn từ khấu khao cơ bản, từ nhà xưởng mặt bằng chưa dùng đến hay dùng chưa có hiệu quả, từ các nguồn lợi sau thuế để đưa về đầu tư. Trong mười năm trở lại đây, với việc ban hành chính sách phù hợp, chúng ta đã huy động được phần đáng kể nguồn tiết kiệm trong dân cư (khoảng >50% số tiết kiệm có đuợc) để đưa về đầu tư. Những đổi mới kịp thời trong chính sách huy động, nâng cao hiệu quả sử dụng và nỗ lực cải thiện môi truờng đầu tư đã củng cố lòng tin đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, huy động vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng phục hồi và gia tăng. Cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển đã có nhiều thay đổi. Các văn bản pháp quy trong lĩnh vực đầu tư phát triển luôn được cập nhật, đổi mới phù hợp theo hướng phân cấp mạnh hơn trong quản lý đầu tư và xây dựng, đồng thời, tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước. Nhiều nghị định mới, văn bản luật mới được ban hành thay thế cho những nghị định không còn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế và những đòi hỏi khắt khe của xu thế toàn cầu hoá (như Nghị định 07/2003, Nghị định 16/2005; luật đầu tư trung, luật đầu tư nước ngoài, luật đấu thầu…), từng bước thực hiện chủ trương phân cấp mạnh hơn, toàn diện hơn cho các cán bộ, địa phương, công tác chỉ đạo thực hiện tương đối đồng bộ theo hướng gắn quyền hạn và trách nhiệm. Công tác quy hoạch cũng có nhiều đổi mới, thực hiện tốt vai trò định hướng đầu tư và là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Chất lượng công tác qui hoạch đã được chú ý, các qui hoạch phát triển đã được độc lập, rà soát theo hướng gắn với thực tế, bám sát hơn nhu cầu thị trường, khai thác tốt hơn tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương. Công tác quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài đã từng bước kiện toàn thông qua việc thành lập cục đầu tư nước ngoài với trung tâm xúc tiến đầu tư; thực hiện chủ trương phân cấp và uỷ quyến cấp phép, quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài cho các địa phương và ban quản lý các khu công nghiệp cấp tỉnh. Việc xây dựng qui hoạch, pháp luật, chính sách, thẩm định, phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành của địa phương cũng được tăng cường gặp gỡ và đối thoại chính sách với các nhà đầu tư nước ngoài. Từ năm 2001, công tác vận động, xúc tiến đầu tư được cải tiến, đa dạng về hình thức và đã có tác động tích cực tới việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Thực hiện chủ trương kế hoạch hoá đầu tư, trong giai đoạn 1996-2005, chúng ta đạt nhiều kết quả đáng khích lệ trong công tác kế hoạch hoá. Cùng với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, chất lượng các kế hoạch đầu tư cũng có bước phát triển đáng kể. Cán bộ ngành, địa phương đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới công tác kế hoạch hoá. Với kế hoạch được nghiên cứu kĩ càng, chính xác và sát thực tế sẽ là cơ sở cho phép khai thác tối đa các nguồn lực đất nước cho đầu tư phát triển và thực hiện mục tiêu đặt ra với kết quả và hiệu quả cao nhất. 1.2. Cấp vi mô Năm 2007, số lượng các công ty tư vấn giám sát tăng khoảng 10% so với năm 2006. Điều này chứng tỏ các nhà quản lý đã chú trọng rất nhiều đến chất lượng và tiến độ của công trình. Công tác lập dự án cũng được chú trọng. Rất nhiều các công ty chịu bỏ ra một khoản tiền không nhỏ để thuê lập dự án đầu tư phát triển, nhằm có được một dự án tốt nhất. Nhưng bên cạnh đó, một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước vẫn chưa làm tốt trong suốt quá trình đầu tư: theo kết quả Thanh tra, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam đã sai phạm gần 430 tỷ đồng trong quá trình xây các trụ sở giao dịch tại Sơn La, Bà Rịa – Vũng Tàu. Trong đó, công tác đấu thầu có nhiều sai phạm nhất. Hình thức đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu được áp dụng tràn lan, không quản lý, tạo kẽ hở cho một số cá nhân trục lợi. Nhiều nhà thầu xây dựng ở Việt Nam do chưa có những giải pháp phòng tránh rủi ro thích hợp, nên khi đứng trước những biến động tăng giá của thị trường nguyên vật liệu 6 tháng cuối năm 2007 đã gần như nắm chắc trong tay nguy cơ phá sản. Điều này thể hiện việc non kém, không lường trước nguy cơ rủi ro khi đưa ra giá dự thầu của họ. Thêm nữa, những bất cập trong quá trình quản lý và sử dụng vốn (như biến của công thành của tư, không minh bạch trong suốt quá trình thi công, khai khống giá…) cũng làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính vì vậy, những dự án trọng điểm mà Nhà nước (hoặc các cơ quan đại diện Nhà nước) là chủ đầu tư trong thời gian gần đây có thời gian sử dụng tương đối ngắn hoặc không phát huy hết công suất, làm hao tổn Ngân sách, gây bất bình trong dư luận. 2. Những thành tựu và hạn chế trong việc quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển ở Việt Nam 2.1 Những thành tựu Mặc dù đối diện với rất nhiều khó khăn song việc quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển ở Việt Nam trong thời gian qua gặt hái được rất nhiều thành công, cụ thể như sau: Thứ nhất là, huy động, quản lý và sử dụng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển về cơ bản có nhiều tiến bộ, cơ cấu các nguồn vốn đầu tư phát triển được đa dạng hoá. Tỉ lệ vốn đầu tư trên GDP không ngừng tăng lên qua các năm và đạt đuợc ở mức cao so với một số nước trong khu vực. Cơ cấu các nguồn vốn đã được đa dạng hoá. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước đã có tác động thu hút các nguồn vốn khác, qui mô vốn đầu tư phát triển không ngừng lớn mạnh. Thứ hai là, cơ cấu đầu tư đã có sự dịch chyển theo hướng tích cực, tập trung cho những mục tiêu phát triển quan trọng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các nguồn lực được huy động tốt hơn và tập trung đầu tư vào một số công trình chủ chốt, quan trọng, đầu tư chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả và phát huy lợi thế từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực, từng sản phẩm, tăng khả năng cạch tranh của nền kinh tế. Vốn đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực đã gia tăng đáng kể. Các chương trình quốc gia về y tế, xoá đói giảm nghèo cũng được chú trọng hơn. Thứ ba là, có nhiều đổi mới trong cơ chế đầu tư và xây dựng, trong điều hành của chính phủ đối với các hoạt động đầu tư phát triển. Cơ chế quản lý đầu tư được cải tiến một bước quan trọng, theo hướng giảm đáng kể sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước đối với các hoạt động đầu tư, tăng cường vai trò, trách nhiệm của nhà đầu tư, đồng thời thực hiện phân cấp triệt để cho các bộ, ngành và địa phương. Trong quản lý đầu tư đã tăng cường vai trò của hội đồng nhân dân, coi trọng sự tham gia giám sát của cộng đồng và tổ chức xã hội. Thứ tư là, nước ta khai thác tốt các nguồn đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn 1996 - 2005 huy động vốn đầu tư nước ngoài gia tăng đáng kể. Huy động vốn đầu tư nước ngoài có dấu hiệu phục hồi sau những sụt giảm do khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, đã góp phần khắc phục tình trạng khan hiếm nguồn vốn trong nước, thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư trong nước, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh còn tạo điều kiện tốt cho việc mở rộng thị trường trong nước, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với thị trường thế giới. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế nói chung và đặc biệt với một nước đang cố gắng để chủ động hội nhập như nước ta hiện nay. Thứ năm là, sự gia tăng không ngừng của các hoạt động đầu tư phát triển trong giai đoạn 2001-2005 đã làm cho năng lực của các ngành kinh tế xã hội tăng lên đáng kể, nhiều công trình quan trọng của tất cả các nghành, các lĩnh vực được hoàn thiện và đưa vào sử dụng, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng theo chiều hướng rất khả quan, duy trì tốc độ tăng trưởng cao, đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt. Đầu tư phát triển đã khẳng định được vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế nước ta, thực sự trở thành chìa khoá của sự tăng trưởng phát triển kinh tế. 2.2. Những hạn chế Bên cạnh những thành tựu, đầu tư phát triển ở Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục như sau: Một là, nhu cầu vốn đầu tư phát triển của đất nước là rất lớn nhưng khả năng đáp ứng của các nguồn còn hạn chế, và chưa huy động hết tiềm năng. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư so với GDP còn thấp so với nhiều nước vào thời kỳ phát triển tương tự, tiềm lực trong dân còn rất lớn nhưng huy động cho đầu tư thấp. Các thành phần kinh tế còn dè dặt trong việc bỏ vốn đầu tư. Vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu từ một số nước, trong đó tỷ trọng lớn là các nước châu Á, vốn đến từ châu Âu và Bắc Mỹ còn thấp. Hai là, cơ cấu các nguồn vốn đầu tư phát triển còn chưa phù hợp. Vốn đầu tư từ ngân sách còn mang nặng tính bao cấp. Nguồn vốn đàu tư từ doanh nghiệp Nhà nước bằng nguồn khấu hao tài sản cố định để lại chưa được quan tâm đúng mức. Nguồn vốn tín dụng đầu tư chiểm tỷ trọng thấp so với tổng vốn đầu tư nhà nước, đối tượng vay không nhất quán, lãi suất ưu đãi cao, thiếu hấp dẫn. Ba là, cơ cấu đầu tư phát triển chuyển dịch chậm, còn nhiều bất hợp lý cần khắc phục. Trong nông nghiệp còn nặng đầu tư vào thuỷ lợi (70%), chủ yếu là thuỷ lợi phục vụ cây lúa. Vốn nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ thời gian đầu chưa được thoả đáng, chưa quan tâm đúng mức đến công nghiệp hoá nông thôn. Ngành thuỷ sản có mức tăng trưởng cao nhưng đầu tư cho ngành này còn quá khiêm tốn. Trong công nghiệp, còn chưa chú trọng đầu tư vào ngành công nghiệp cơ khí chế tạo máy công cụ, máy phục vụ nông nghiệp, chế biến lâm sản… Đầu tư chưa gắn chặt với chuyển giao công nghệ và phát triển công nghệ cao. Trong giao thông vận tải, tập trung đầu tư vào giao thông đưòng bộ, đặc biệt là đường quốc lộ, hệ thống giao thông nông thôn, vùng kinh tế, đầu tư vào phương tiện giao thông còn chưa thoả đáng. Cơ cấu vùng đã có những điều chỉnh nhưng chênh lệch đầu tư giữa các vùng còn khá lớn, đầu tư cho các công trình liên vùng liên tỉnh còn kém, bị chia cắt theo địa giới hành chính địa phương. Hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước quá kém dù nhận được nhiều ưu đãi, theo đánh giá sơ bộ có khoảng 23% doanh nghiệp làm ăn thua lỗ với số vốn luỹ kế lên đến 2000 tỷ đồng. Khả năng thanh toán nợ của các doanh nghiệp Nhà nước rất hạn chế, nguồn vốn tự có rất thấp, có doanh nghiệp kinh doanh tới trên 90% vốn đi vay dẫn tới lãi thấp, khả năng thanh toán nợ gần như bằng không. Cơ cấu vốn FDI còn nhiều bất hợp lý trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, dù đã có chính sách ưu đãi nhất định, nhưng đầu tư nước ngoài còn rất thấp và tình trạng vốn đầu tư nước ngoài liên tục giảm. Chất lượng một số dự án đầu tư nước ngoài chưa cao. Một số dự án khác nhất là các dự án thực hiện theo hình thức liên doanh còn kém hiệu quả. Một số dự án có trình độ trung bình, thậm chí lạc hậu theo hình thức gia công lắp ráp là chính. Bốn là, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư còn chưa cao. Tình hình thất thoát vốn đầu tư phát triển còn lớn, đặc biệt là ngân sách Nhà nước. Việc bố trí lượng vốn thuộc ngân sách Nhà nước dàn trải, thiếu tập trung, số lượng các dự án phê duyệt vượt xa khả năng cân đối. Thất thoát, lãng phí trong đầu tư phát triển chưa được giải quyết thoả đáng. Hiện tại, vì chưa thể kiểm toán, thanh tra đánh giá toàn bộ các dự án đầu tư xây dựng nên chưa khẳng định chính xác con số thất thoát mà dư luận lâu nay đã đề cập. Tuy nhiên, kết quả thanh tra dự án cho thấy: số sai phạm về tài chính phát hiện chiếm trên 14 - 19% tổng số vốn đầu tư. Trong tổng số vốn sai phạm nói trên, số vốn kiến nghị thu hồi chiếm 5-6% tổng số vốn thanh tra. Năm là, công tác quản lý đầu tư còn bộc lộ nhiều yếu kém chưa đáp ứng nhu cầu phát triển. Chất lượng quy hoạch chưa cao, chưa thực sự là cơ sở vững chắc cho hoạch định các kế hoạch phát triển, nhất là xây dựng các kế hoạch đầu tư. Việc quản lý đầu tư rườm rà, phức tạp lại vừa lỏng lẻo gây ra tình trạng thất thoát vốn đầu tư, nhất là vốn đầu tư từ ngân sách. Bao cấp về vốn còn nhiều, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng còn chưa phù hợp. Chưa có những chế tài cụ thể thực sự nghiêm khắc và có hiệu lực cao để quản lý các hoạt động đầu tư và xử lý thích đáng các trường hợp vi phạm. Công tác nghiên cứu dự báo rủi ro (ở cả cấp vĩ mô và vi mô), xây dựng qui hoạch và kế hoạch dài hạn đầu tư phát triển ở một số ngành và lĩnh vực chưa đạt hiệu quả như mong đợi, chưa gắn sản xuất với thị trường. 3. Những nguyên nhân chủ yếu Quá trình đầu tư chịu tác động của nhiều nhân tố, trong đó có cả nhân tố khách quan và chủ quan. Những nhân tố này tác động liên tục và tạo ảnh hưởng lớn tới việc huy động, sử dụng vốn đầu tư phát triển vào những kết quả hoạt động đầu tư. Qua phân tích trên có thể thấy, những hạn chế của hoạt động đầu tư ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua có một số nguyên nhân sau: Trước hết là sự nhận thức khác nhau trong các ngành, các cấp, tư duy kinh tế chậm đổi mới. Thêm vào đó, việc quản lý theo cơ chế thị trường mới đuợc hoàn thành chưa hoàn chỉnh, còn thiếu nhiều yếu tố của thị trường. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ngành, vùng chưa đầy đủ, và sát thực. Công tác xây dựng chiến lược và kế hoạch đầu tư còn thiếu khoa học và chưa nhất quán, làm cho qui hoạch, kế hoạch chưa thực hiện tốt vai trò định hướng đầu tư. Pháp luật, chính sách liên quan đến cơ chế đầu tư chưa thông thoáng, chưa tạo ra động lực khuyến khích phát triển, phân cấp quản lý trong đầu tư xây dựng còn chồng chéo chưa hợp lý. Các cơ chế chính sách trong đầu tư phát triển còn chậm sửa đổi, bổ sung, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế của công tác quản lý hiện nay. Công tác giám sát đầu tư, giám sát thi công chưa chặt chẽ, thiếu chế tài cụ thể để qui rõ trách nhiệm cá nhân và tập thể tham gia vào quá trình đầu tư. Ngoài ra, việc ban hành các định mức kinh tế, kĩ thuật, các tiêu chuẩn còn cứng nhắc. Huy động vốn chưa đi đôi với phân phối sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả, các nguồn lực cho đầu tư còn bị chia cắt và sử dụng kém hiệu quả. Sự thất thu về trốn thuế do buôn lậu, hiện tượng đầu cơ đất đai nhà cửa chưa được ngăn chặn, đang làm cho ngân sách thất thu. Hiện tượng tham nhũng cục bộ xuất phát từ quyền lợi của ngành, của cá nhân chưa được ngăn chặn, làm cho đầu tư kém hiệu quả. Sự giao lưu vốn đầu tư chủ yếu được thực hiện theo phương pháp gián tiếp, thông qua bộ phận trung gian là ngân hàng, các trung gian khác như công ty bảo hiểm xã hội chưa thể hiện vai trò đáng kể. Sự giao lưu vốn theo phương pháp tài chính trực tiếp còn đang ở giai đoạn sơ khai. Việc kiểm tra thanh tra xử lý kịp thời các hiện tượng vi phạm, chủ trương tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng còn bị coi nhẹ chưa dứt khoát. Hơn nữa so với các nước khác, nước ta có xuất phát điểm thấp. Sau thời gian khôi phục kinh tế, chúng ta chưa đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên những đòi hỏi của thời đại quá lớn, hơn nữa quyết định lên thẳng chủ nghĩa xã hội là quyết định mạnh bạo, nó đòi hỏi chúng ta nỗ lực nhiều mục tiêu phát triển khác nhau. Vì quá trình phát triển kinh tế gặp khó khăn, thành tựu đầu tư phát triển chưa đạt được kết quả như mong muốn. Không những thế, nền kinh tế nước ta còn chịu nhiều tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực làm cho huy động vốn sụt giảm hiệu quả đầu tư thấp. Toàn cầu hoá gây ra cho chúng ta không ít những khó khăn. Dễ thấy là áp lực cạnh tranh mạnh mẽ, sự thay đổi mạnh mẽ hàng ngoại nhập tràn lan làm cho sản xuất hàng hoá trong nước bị đình trệ. Sự thay đổi chính sách của các nước trong thu hút đầu tư làm giảm hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài… Thêm vào đó là những tác động của các hiện tượng chảy máu chất xám, những tác động chính trị - văn hoá vô cùng phức tạp khác. Thời kỳ hậu WTO luôn là thời kỳ đầy khó khăn và thử thách, nếu không có những thay đổi nhằm nâng cao hiệu quả của đầu tư phát triển, chúng ta sẽ bị quốc tế chèn ép ngay trên sân nhà. Chính vì vậy buộc các nhà quản lý phải đưa ra các chính sách phù hợp, đồng bộ từ vĩ mô tới vi mô, từ Trung ương tới địa phương để nâng cao hiệu quả đầu tư, nhất là đầu tư công, nhằm đưa đất nước tiến lên như đúng mục tiêu đã đề ra. Dưới đây xin trình bày một vài giải pháp tổng thể trên cơ sở những yếu kém đã chỉ ra ở trên. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ VÀ QUÁN TRIỆT CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐTPT TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM I. Trên góc độ vĩ mô và vi mô 1. Cấp vĩ mô 1.1. Hệ thống pháp luật Nhà nước xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp và những văn bản dưới luật liên quan đến hoạt động đầu tư phát triển; ban hành, sửa đổi, bổ sung luật đầu tư và các luật liên quan như luật thuế, luật đất đai, luật đấu thầu,… một mặt khuyến khích hoạt động đầu tư phát triển, mặt khác đảm bảo cho đầu tư phát triển thực hiện đúng luật và đạt hiệu quả cao. Ban hành các quy chế, chính sách về nâng cao chất lượng và đẩy nhanh tiến độ lập, thẩm định, phê duyệt các quy hoạch, đảm bảo cho quy hoạch đáp ứng được yêu cầu định hướng phát triển, đồng thời thu hút mạnh đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là các dự án lớn đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông và sản xuất sản phẩm công nghệ cao. Ngoài ra, cần phải tiến hành rà soát để loại bỏ ngay những giấy phép, quy định không còn phù hợp gây ách tắc, cản trở hoạt động đầu tư phát triển. Ban hành kịp thời các chính sách chủ trương đầu tư. Nhà nước ban hành các chính sách, chủ trương quan trọng như chính sách tiền tệ, tín dụng linh hoạt, chính sách ưu đãi đầu tư… nhằm cải thiện môi trường và thủ tục đầu tư. Bên cạnh đó phải đề ra các giải pháp nhằm huy động tối đa và phát huy có hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn trong dân và vốn đầu tư nước ngoài; kịp thời điều chỉnh, bổ sung những bất hợp lý, chưa phù hợp trong cơ chế, chính sách. Các cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các chủ đầu tư, xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật, qui định của Nhà nước (như chuyển nhượng, bổ sung mục tiêu hoạt động, tăng vốn để đầu tư chiều sâu). 1.2. Xây dựng chiến lược đầu tư phát triển quốc gia Chiến lược phát triển của quốc gia phải căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. + Cần xác định rõ mục tiêu chiến lược của đầu tư phát triển cho thời kỳ dài hạn. Nhà nước phải hoạch định chính xác đâu là mục tiêu cơ bản hay mục tiêu cấp cao nhất và mục tiêu không cơ bản hay mục tiêu thứ cấp. + Ưu tiên đầu tư phát triển những ngành, lĩnh vực mũi nhọn, những sản phẩm chủ lực, những khâu đột phá có ý nghĩa quyết định trong chiến lược đầu tư của quốc gia. Ngoài ra, cần phải tập trung đầu tư cho khu vực kết cấu hạ tầng. Đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh, khi các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước tham gia đầu tư phát triển, cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài ngay từ khi hoạch định các chủ trương phát triển đến khi triển khai đầu tư. Thêm nữa, phải ưu tiên những địa bàn động lực và những lãnh thổ khó khăn để đảm bảo công bằng trong nền kinh tế và nâng cao đời sống của những người dân ở địa bàn gặp khó khăn. + Căn cứ vào định hướng đầu tư đã lựa chọn để xác định các nguồn cần huy động cho đầu tư phát triển, phải có đối sách riêng cho việc huy động mỗi nguồn vốn. Bên cạnh đó phải hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại, chiến lược phát triển doanh nghiệp, chiến lược cải cách hành chính…. + Kế hoạch hóa toàn bộ chương trình đầu tư phát triển, tổ chức kiểm tra, đánh giá chiến lược đầu tư thông qua việc xem xét và kiểm tra việc thực hiện chiến lược đầu tư ấy và kiến nghị điều chỉnh chiến lược đầu tư nếu cần. Kế hoạch đầu tư nên có bước đi thích hợp, có trọng tâm và trọng điểm trong từng thời kỳ. 1.3. Xây dựng và phát triển hoàn thiện các thị trường + Đối với thị trường vốn: Để nâng cao hiệu quả huy động vốn cho hoạt động đầu tư phát triển cần tập trung vào các giải pháp: - Thực hiện chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong kênh huy động vốn của ngân sách Nhà nước cần đặc biêt chú ý tính toán chi tiết đến hiệu quả sử dụng vốn. Ngoài ra phải đánh giá hiệu quả của việc phát hành và sử dụng vốn phát hành công trái, trái phiếu chính phủ để có biện pháp huy động vốn trong thời gian tới. Kho bạc Nhà nước tổ chức đấu thầu tín phiếu, trái phiếu hay công trái quốc gia qua từng đợt thông qua ngân hàng Nhà nước hay trên thị trường chứng khoán dựa trên nhu cầu vốn. Trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ nên được ưu tiên phát hành trong nước để thu hút nguồn ngoại tệ trong dân cư tập trung cho đầu tư phát triển. - Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, chống thất thoát và tham nhũng trong các dự án đầu tư, tránh đầu tư dàn trải, nâng cao yêu cầu đối với các dự án được thực hiện bằng vốn ngân sách Nhà nước. Cần phải chấm dứt tình trạng dự án chưa được các cấp có thẩm quyền phê duyệt, chưa được bố trí kê hoạch phân bổ vốn đầu tư đã giao hay chỉ định thầu cho doanh nghiệp triển khai thi công, vay vốn ngân hàng cho đầu tư, để lại hậu quả nặng nề trong việc cân đối ngân sách Nhà nước. - Hoàn thiện các quy định về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA. Phân định rõ trách nhiệm của từng bộ, ngành trong việc quản lý nguồn vốn tài trợ này. Đẩy mạnh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu và huy động vốn trên thị trường chứng khoán. - Tiếp tục đổi mới lĩnh vực thanh toán, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị trong các ngành. - Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc tạo môi trường cạnh tranh, bình đẳng, thông thoáng và lành mạnh cho các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng hoạt động sẽ cho phép huy động khối lượng vốn rất lớn và nâng cao hiệu cho vay vốn đầu tư. Khi cần vốn khả dụng, các ngân hàng có thể giao dịch các loại giâý tờ có giá trị trên thị trường mở với ngân hàng Nhà nước, thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế. - Tiếp tục đổi mới xây dựng và điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ. Đổi mới các hoạt động khác của ngân hàng nhà nước như: điều hành thị trường mở, thị trường đấu thầu, tín phiếu và kho bạc, đổi mới hoạt động thanh toán và mở rộng thanh toán điện tử liên ngân hàng, các hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến thị trường vốn. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Việt kiều, vốn đầu tư của người dân trong nước… cần thực hiện theo hướng dẫn vừa thúc đẩy các kênh xúc tiến đầu tư, mời gọi đầu tư, vừa cải tiến các quy trình, thủ tục, vừa chống tiêu cực, nhưng phải giám sát chặt chẽ phù hợp với thông lệ quốc tế, chống các hoạt động lừa đảo hay tiêu cực khác. + Đối với thị trường lao động: - Xây dựng các văn bản, quy định để hướng dẫn các cơ sở đào tạo theo nhu cầu của xã hội, để họ tự chủ trong công tác đào tạo, tiến dần tới việc xã hội hoá giáo dục. - Phối hợp với các tổ chức đoàn thể, các công ty mở hội chợ việc làm, tạo điều kiện để cung cầu lao động có thể xích lại gần nhau hơn. - Hàng năm nên có những buổi tư vấn định hướng đối với những thanh niên đến độ tuổi lao động, giảm thiểu tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên. - Có quyết định phù hợp về mức lương tối thiểu để đảm bảo cuộc sống cho người lao động nhằm đối phó với biến động giá cả của thị trường. + Đối với thị trường nguyên vật liệu: - Chính phủ nên đưa ra những hình thức trợ giá nguyên vật liệu đầu vào trong những ngành trọng yếu của quốc gia (như nông nghiệp, khai thác chế biến lâm thuỷ sản…). - Bình ổn giá cả bằng các công cụ điều tiết vĩ mô, tránh tình trạng khan hiếm đột biến nguyên vật liệu và có chế tài xử phạt nghiêm minh với những cơ sở đầu cơ kìm giá. - Có kế hoạch và mục tiêu cụ thể trong việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên, nhất là đối với những tài nguyên không thể tái sinh, tránh khai thác cạn kiệt, ảnh hưởng đến chất lượng môi trường sống. 1.4. Phát triển khoa học – công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực. a. Phát triển khoa học – công nghệ Trong thời gian tới, chúng ta phải tiếp tục thực hiện những cải cách kinh tế vĩ mô, cải cách cơ cấu nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo hướng tạo môi trường pháp lý kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, nhằm tạo sức ép trên thị trường, để doanh nghiệp chú ý tới đổi mới công nghệ, để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả sản xuất. Bên cạnh đó cũng cần tăng cường quản lý đối với hoạt động đổi mới của DNNN. Ngoài ra phải nâng cao ý thức tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ thông qua tuyên truyền và phổ biến kiến thức pháp luật. Những cán bộ quản lý cũng cần phải có trình độ tốt hơn trong việc phát hiện các vi phạm cũng như giải quyết các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, vận hành có hiệu quả và có hiệu lực thể chế xử lý các vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Có chiến lược phát triển dài hạn về đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ. Cần có chính sách đãi ngộ và tôn vinh các nhà khoa học trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài thực sự có tài, có đóng góp cho đất nước. b. Đào tạo nguồn nhân lực Giải pháp then chốt là đổi mới và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước trong giáo dục và đào tạo. Cải cách giáo dục toàn diện để hệ thống giáo dục gắn kết với yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước nói chung và của đầu tư phát triển nói riêng. Trong thời gian tới, chúng ta phải tiến hàn cơ cấu lại hệ thống giáo dục đào tạo, hoàn thiện hệ thống đào tạo thực hành định hướng nghề nghiệp; đổi mới cơ chế, chính sách tạo kinh phí cho ngành giáo dục. Thêm nữa cũng phải tăng cường đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp, bao gồm tái tạo nghề, nhằm giúp cho người trong độ tuổi lao động có thể dễ dàng thích ứng với những đòi hỏi thường xuyên biến đổi của thị trường lao động. Tăng cường hợp tác với nước ngoài và thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực đào tạo đại học, sau đại học và đào tạo nghề; cần gia tăng tỉ lệ đầu tư cho giáo dục bằng nhiều nguồn khác nhau, trong đó đầu tư bằng vốn ngân sách Nhà nước cần tăng lên hơn nữa, đồng thời huy động nhiều hơn, tốt hơn sức mạnh toàn dân thông qua đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập. 2. Cấp vi mô 2.1. Xây dựng các chiến lược, kế hoạch ĐTPT Thứ nhất, xây dựng chiến lược, kế hoạch đầu tư phải có phương pháp luận và phương pháp xây dựng các luận chứng một cách hoàn chỉnh, chú trọng tính đồng bộ, cân đối, hiện thực và hiệu quả, tránh gây lãng phí và ảnh hưởng tới chất lượng quy hoạch, tạo định hướng đầu tư cho các chủ đầu tư. Trong cả ba công tác chuẩn bị, thực hiện và vận hành kết quả đầu tư, các hoạt động đầu tư cần phải được quán triệt theo những kế hoạch cụ thể, rõ ràng như kế hoạch công tác chuẩn bị đầu tư, kế hoạch huy động vốn, kế hoạch tuyển dụng - đào tạo nguồn nhân lực, kế hoạch thực hiện tiến trình hoạt động và quản lý hoạt động đầu tư… tránh tình trạng đầu tư dàn trải, gây thất thoát, lãng phí và hạ thấp hiệu quả sử dụng đồng vốn đầu tư. Thứ hai, luôn cập nhật các dự báo, xem xét lại khả năng thực hiện, luôn gắn quy hoạch với kế hoạch đầu tư để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. Trong quá trình thực hiện đầu tư cần rà soát lại tất cả kế hoạch hoạt động đầu tư để bổ sung điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới, đi đôi với tăng cường chỉ đạo theo đúng kế hoạch hoạt động, bảo đảm kỷ cương trong công tác quản lý, tránh tình trạng kế hoạch một đằng thực hiện một nẻo, phá vỡ kế hoạch, không tạo tính nhất quán trong quá trình hoạt động gây hậu quả xấu. Trong quá trình thực hiện, nếu phát hiện sai sót cần kịp thời sửa chữa, thay đổi phương pháp cũng như cách thức hoạt động đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm và xây dựng các biện pháp phòng ngừa, khắc phục. Thứ ba, thực hiện cơ chế phối hợp nhịp nhàng các hoạt động trong một dự án đầu tư, kế hoạch chiến lược ngắn hạn và dài hạn phải có cùng mục tiêu, thống nhất trong cơ chế hoạt động, tránh sự chồng chéo trong công tác quản lý giữa các kế hoạch của dự án nâng cao năng suất đầu tư. Vì vậy, chất lượng của chiến lược, kế hoạch đầu tư cần phải được quan tâm một cách thích đáng và chú ý đặc biệt. Sự chú ý đó có thể được thể hiện bằng cơ chế khuyến khích, thi tuyển, thảo luận những ý tưởng, thuê/đào tạo các chuyên gia tư vấn, lập dự án, thẩm định các dự án đầu tư… ngay từ công tác chuẩn bị đầu tư. 2.2. Giải pháp về nguồn lực Thứ nhất, giải pháp về huy động và sử dụng vốn đầu tư. Cần phải đa dạng hoá, đa phương hoá các giải pháp huy động vốn cho dự án, khuyến khích và tạo điều kiện cho các chủ dự án huy động vốn trên thị trường chứng khoán, cần hình thành và mở rộng hoạt động của Quỹ đầu tư phát triển, tạo điều kiện trong việc huy động vốn dài hạn. Trong kênh huy động vốn, cần phải tính toán chi tiết đến hiệu quả sử dụng vốn, không để nợ đọng kéo dài. Tránh việc đầu tư dàn trải là một giải pháp rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, chống thất thoát và tham nhũng trong các dự án đầu tư. Các tỉnh, thành phố cần tránh tình trạng nôn nóng hay đầu tư kiểu phong trào, đầu tư chủ quan duy ý chí. Chấm dứt tình trạng dự án chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chưa được bố trí kế hoạch vốn đầu tư đã giao hay chỉ định thầu cho doanh nghiệp triển khai thi công, vay vốn ngân hàng cho đầu tư để lại hậu quả nặng nề cho cân đối vốn ngân sách, dàn trải về hiệu quả sử dụng vốn. Chiến lược, kế hoạch đầu tư phải được thực hiện tốt ngay từ công tác chuẩn bị đầu tư. Từ đó, hình thành rõ phương hướng và cách thức thực hiện đầu tư đúng đắn. Rà soát, bổ sung và hoàn thiện các quy định về quản lý và sử dụng vốn ODA, trong đó phân định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân trong quản lý vốn tài trợ này. Vốn ngân sách Nhà nước, vốn tài trợ quốc tế và các nguồn vốn khác cho vay xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, hỗ trợ sinh viên nghèo vay vốn học tập, cho các mục tiêu chính sách xã hội khác,…cần được tập trung qua các hệ thống ngân hàng chính sách xã hội giải ngân cho các đối tượng theo quy định. Cần ổn định cơ cấu tổ chức, quản lý hoạt động đầu tư. Nếu có sự thay đổi cơ bản của cơ chế liên quan thì cần nhanh chóng triển khai lại tổ chức (trình tự thủ tục triển khai dự án đầu tư, phân công phân cấp, hình thức tổ chức, quản lý thực hiện dự án…), tránh làm ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện dự án, đẩy mạnh tốc độ giải ngân cho các dự án, lên án tình trạng lãng phí và thất thoát trong hoạt động đầu tư. Thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo định kỳ và tăng cường chế độ kiểm tra, giám sát trong kỳ thực hiện đầu tư. Kết thúc đầu tư, bàn giao và đưa dự án vào sử dụng cấn theo dõi và đánh giá hoạt động của dự án với các tiêu chí đánh giá đã được đề ra trong công tác chuẩn bị dự án. Xây dựng các hình thức chế tài đủ mạnh, rõ ràng, nhất quán về trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức như chủ đầu tư, chủ dự án, tư vấn, thiết kế, nhà thầu đến việc nghiệm thu thanh, quyết toán… tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý những sai phạm, siết chặt kỷ cương trong mọi khâu đầu tư. Đây là giải pháp được nhiều chuyên gia coi là “đột phá” trong việc quản lý chống thất thoát, lãng phí, tiêu cực, đầu tư dàn trải, nợ đọng vốn trong đầu tư. Các dự án trả nợ vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, tránh gây thêm gánh nặng nợ nần không trả được. Đặc biệt, cần kiểm tra, quản lý chặt chẽ quá trình sử dụng nguồn vốn ODA, chống lãng phí, tiêu cực. Thứ hai, giải pháp về KH - CN. Tăng cường chi phí cho đề tài nghiên cứu, nâng cao chất lượng dự báo, đặc biệt là dự báo thị trường và khả năng đảm bảo các nguồn lực, khả năng tiếp thị, cạnh tranh của dự án trong quá trình thực hiện, vận hành kết quả đầu tư… tránh lãng phí vốn đầu tư do tách rời giữa sản phẩm nghiên cứu và thực tiễn. Trong công tác chuẩn bị đầu tư, cần đề ra nhiều phương án công nghệ để có thể lựa chọn phương án tối ưu nhất. Đồng thời, cần đề ra các biện pháp để xử lý kịp thời khi có sự cố xảy ra trong công tác thực hiện và vận hành kết quả đầu tư nhằm tối thiểu thiệt hại có thể mang lại. Lựa chọn, sử dụng phương thức sản xuất; chủng loại chất lượng máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ phải được phân tích, nghiên cứu kỹ lưỡng, mang đồng bộ và phải phù hợp các ràng buộc về nguồn lực hiện có cũng như khả năng đáp ứng nguồn lực của dự án, phù hợp với trình độ quản lý và quy mô của thị trường để sử dụng tối đa công suất, giảm thiểu chi phí đầu tư ban đầu, nhanh chóng thu hồi vốn. Thứ ba, giải pháp về nguồn nhân lực. Cần có kế hoạch, chương trình đào tạo và tuyển dụng đội ngũ cán bộ và lao động, nâng cao năng lực quản lý và trình độ lao động đảm bảo ổn định chu kỳ hoạt động của dự án. Làm rõ trách nhiệm của cá nhân, tập thể trong từng khâu đầu tư như: chủ đầu tư, chủ dự án, thiết kế, tư vấn, nhà thầu đến việc nghiệm thu thanh và quyết toán… Hình thành các nguyên tắc, tác phong làm việc công nghiệp, có ý thức, trách nhiệm nhằm tăng tính hiệu quả cho các hoạt động đầu tư. Xây dựng cơ chế ưu đãi, khen thưởng, hoặc trả lương xứng đáng để khuyến khích sự sáng tạo và phát huy khả năng của CBCNV và người lao động. Nhưng đồng thời, cũng cần nâng cao hiệu lực của các chế tài để mang tính răn đe. Nếu phát hiện có hiện tượng tiêu cực, vi phạm hay tham nhũng, thất thoát trong đầu tư cần được xử lý nghiêm minh. Mở rộng phạm vi quyền lợi cho người lao động, nâng cao chất lượng và điều kiện làm việc đồng thời đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho người lao động nhằm tăng năng suất lao động, đẩy mạnh việc hoàn thành dự án đúng tiến độ. II. Sự quán triệt đặc điểm ĐTPT trong công tác chuẩn bị, thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. 1. Trong công tác chuẩn bị đầu tư Thứ nhất, nâng cao chất lượng nghiên cứu tiềm năng, thế mạnh của địa phương và của dự án. Đó không chỉ là nghiên cứu về thị trường tiêu thụ mà còn cả về thị trường cung ứng nguyên vật liệu, KH - CN, nguồn nhân lực… Khi đã xác định chính xác sẽ tạo điều kiện thuận lợi để chủ đầu tư quyết định quy mô, địa điểm đầu tư một cách phù hợp. Tránh việc chọn sai địa điểm dẫn đến hiệu quả đồng vốn đầu tư thấp. Chẳng hạn, công trình công viên nước Rồng Biển Hải Phòng do lựa chọn địa điểm không phù hợp với loại hình đầu tư, lựa chọn thiết bị không hợp lý nên không thu hút được khách, cho đến bây giờ vẫn không thể đưa vào hoạt động, thậm chí vẫn chưa thể chuyển sang một hướng hoạt động khác. Thứ hai, cần nâng cao chất lượng công tác khảo sát, thiết kế, tránh khảo sát sơ sài, sai sót không đúng quy định tiêu chuẩn dẫn đến sai thiết kế, chất lượng không đảm bảo an toàn, phương án thiết kế không hợp lý, sử dụng tiêu chuẩn không phù hợp làm cho chất lượng công trình không đảm bảo, phải khắc phục, sửa chữa trong nhiều trường hợp có thể phải thay đổi cả thiết kế làm phát sinh chi phí. Thứ ba, xoá bỏ tình trạng khép kín các khâu lập, thẩm định, phê duyệt, tổ chức đấu thầu, thi công… trong cùng một ngành, địa phương. Đồng thời, bổ sung chế tài đủ mạnh để các đơn vị chấp hành nghiêm túc về các quy định giám sát, đánh giá, bổ sung các quy định về xử lý hành chính, các hình thức kỷ luật đối với các cá nhân, đơn vị về việc không thực hiện chế độ báo cáo hoặc báo cáo sai với nội dung báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư. Thứ tư, khắc phục công tác đấu thầu, bắt buộc áp dụng hình thức đấu thầu công khai, chống khép kín trong đấu thầu, nghiêm cấm đầu tư khép kín. Tăng cường tính minh bạch quá trình đấu thầu được thể hiện ở chỗ công khai các thông tin về đấu thầu trên báo Đấu thầu và trên trang web đấu thầu. 2. Trong quá trình thực hiện đầu tư Thứ nhất, tăng cường công tác quản lý và nâng cao năng lực, trách nhiệm của chủ đầu tư. Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm toàn diện về hiệu quả, chất lượng và tiến độ thực hiện của dự án, chấm dứt tình trạng giao cho người khác không đủ điều kiện năng lực, chuyên môn nghiệp vụ quản lý dự án. Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hậu quả của việc không thực hịên đúng chức năng, thiếu trách nhiệm quản lý. Thứ hai, biện pháp quan trọng nhất để chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư là tăng cường hoạt động giám sát, trong đó hoạt động giám sát cộng đồng giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là đối với các dự án đầu tư công. Tất cả các dự án, công trình đầu tư phải công khai hoá cho nhân dân biết, đồng thời cho phép các tổ chức, mặt trận, đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng và nhân dân được quyền tiếp cận các thông tin của dự án, giám sát hoạt động đầu tư ở tất cả các khâu, có cơ chế để các cơ quan chức năng tiếp nhận và xử lý kiến nghị sau giám sát. Yếu tố cơ bản của các dự án phải đến được với nhân dân là quy mô dự án như thế nào, vốn đầu tư là bao nhiêu, kèm theo các tiêu chí chuẩn phí. Trên cơ sở đó người dân sẽ tập trung giám sát góp phần ngăn chặn tỷ lệ thất thoát, lãng phí vốn đầu tư một cách hiệu quả. Thứ ba, cần có các biện pháp để ngăn chặn tình trạng thất thoát trong khâu đền bù giải phóng mặt bằng, triển khai kế hoạch giải ngân. Đầu tư thì phải đủ vốn nếu thiếu vốn sẽ gây hiện tượng tiêu cực như chạy chỉ tiêu kế hoạch, chạy vốn, dẫn tới phân phối kém khách quan, không đúng quy định, không đúng nhu cầu, đầu tư dàn trải không theo tiến độ của dự án, kéo dài thời gian xây dựng, làm tăng chi phí cần thiết, chậm đưa công trình vào sử dụng gây thất thoát, lãng phí. Thứ tư, phải có quy định chặt chẽ ràng buộc trách nhiệm cá nhân với công việc được giao quản lý. Cần xác định rõ theo nguyên tắc tập trung dân chủ thì người quyết định là người chịu trách nhiệm chứ không phải tập thể chịu trách nhiệm, tránh trường hợp “cha chung không ai khóc”. Những các bộ có trách nhiệm trực tiếp quản lý dự án, trước khi được giao nhiệm vụ phải khai báo tài sản và thu nhập cá nhân. Thứ năm, phải xây dựng và thực hiện tiêu chuẩn hóa chức danh với các công việc quản lý dự án, tư vấn, xây dựng. Cần bố trí cán bộ có đủ trình độ và kinh nghiệm, đúng chuyên môn và có phẩm chất phù hợp với công việc được giao. Nghiêm cấm, xử phạt nghiêm trong mọi trường hợp mượn danh, mua danh hành nghề và kiên quyết xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm, không bao che, dung túng, nể nang, né tránh đối với bất kể các bộ nào làm sai để giữ vững kỷ cương, kỷ luật. Thứ sáu, nâng cao đời sống cho CBCNV, trang bị đầy đủ các phương tiện, máy móc, nâng cao điều kiện làm việc tạo điều kiện để mọi người hoàn thành tốt công việc được giao, tăng năng suất lao động, rút ngắn thời gian đầu tư, giảm thiểu rủi ro, đẩy nhanh tốc độ giải ngân vốn cho dự án. Đồng thời, cũng cần trả lương thoả đáng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ cùng với chất lượng và kết quả công việc. 3. Trong công tác vận hành kết quả đầu tư Thứ nhất, trong quá trình vận hành kết quả đầu tư, các doanh nghiệp nên tận dụng tối đa những chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, không thể coi đó như là công cụ bảo hộ cho doanh nghiệp tồn tại và hoạt động lâu dài. Các doanh nghiệp phải tự thân vận động, biết cách nhận biết khai thác cơ hội và sự hỗ trợ của Nhà nước để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. cần có những biện pháp phòng chống và giảm thiểu thiệt hại do biến cố bất thường xảy ra như thiên tai, hoả hoạn, trượt giá trên thị trường nguyên vật liệu hay thị trường sản phẩm. Thứ hai, hoạt động đầu tư cần được tiến hành theo các kế hoạch, chiến lược trong từng giai đoạn đầu tư đã được vạch trước, tránh nôn nóng mà chạy theo lợi nhuận trước mắt mà không tính đến lợi nhuận lâu dài và khả năng thành công của dự án. Các kế hoạch, chiến lược ngắn hạn và dài hạn phải được thống nhất trên cơ sở nhằm đạt được mục tiêu của dự án, rút ngắn thời gian hoàn vốn đầu tư nhưng cần tuân thủ các nguyên tắc, quy định về bảo vệ môi trường. Đối với sản phẩm sử dụng nguyên nhiên liệu có thể gây ô nhiễm môi trường cần phải nhận dạng, xác định phạm vi của các tác động môi trường có thể có; từ đó có các biện pháp khắc phục các ảnh hưởng tiêu cực của dự án đến môi trường, tránh làm ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường cạnh tranh cũng như đối với người tiêu dùng. Ví dụ, việc khai thác mỏ ở thượng lưu có thể làm thay đổi lưu lượng và chất lượng nước ở hạ lưu, điều đó lại tiếp tục ảnh hưởng đến thuỷ sản và nông nghiệp. Thứ ba, các doanh nghiệp phải tìm kiếm và xây dựng lợi thế cạnh tranh bền vững cho chính mình, dựa trên nguồn lực tinh thông, có kỹ năng giỏi, có phong cách làm việc chuyên nghiệp, có tính cạnh tranh và tinh thần học hỏi. Đồng thời, doanh nghiệp phải tăng cường năng lực sáng tạo và đổi mới, đây là yếu tố sống còn cho sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời đại công nghệ thông tin. Thứ tư, trong công tác vận hành kết quả đầu tư, đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cần đưa ra các kế hoạch cụ thể về hoạt động bảo hành, bảo dưỡng thiết bị máy móc, dây chuyền công nghệ, kế hoạch dự phòng đảm bảo ổn định quá trình sản xuất, kinh doanh; có những biện pháp phòng chống và giảm thiểu thiệt hại do biến cố bất thường xảy ra của thời tiết, khí hậu và của nền kinh tế xã hội như thiên tai, hoả hoạn, tình hình trượt giá trên các thị trường nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm hay thị trường hàng hóa liên quan. Thứ năm, cùng với việc vận hành kết quả đầu tư, các doanh nghiệp cần phải tiến hành đồng thời hoạt động nghiên cứu khía cạnh thị trường sản phẩm của dự án đầu tư, bao gồm: + Phân tích và đánh giá thị trường tổng thể để có cái nhìn tổng quan về thị  trường nói chung và thị trường của dự án nói riêng. + Phân đoạn thị trường và xác định thị trường mục tiêu cho sản phẩm của dự án, xác định những điểm giống và khác nhau về nhu cầu của khách hàng về sản phẩm của dự án; từ đó hình thành nên những định hướng hoàn thiện hay đổi mới, phát triển sản phẩm trong tương lai. + Dự báo cung - cầu về thị trường sản phẩm của dự án trong tương lai. Đây là nhân tố quyết định đến việc lựa chọn mục tiêu và quy mô sản xuất tối ưu của dự án. Đối với hoạt động này, doanh nghiệp nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia đặc biệt những chuyên gia đầu ngành, có tên tuổi nhưng cũng cần dựa trên cơ sở nghiên cứu khoa học, tránh tình trạng chủ quan duy ý chí. + Lựa chọn các biện pháp tiếp thị và khuyến mại cần thiết giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ của dự án được thụân lợi, bao gồm chính sách giá cả, hệ thống phân phối, các vấn đề về quảng cáo, về mẫu mã bao gói…để đẩy mạnh, mở rộng các kênh phân phối. Nói tóm lại, một dự án muốn có khả năng thành công cao thì cần phải thực hiện tốt cả ba công tác chuẩn bị, thực hiện và vận hành kết quả đầu tư trên cơ sở quán triệt sâu sắc các đặc điểm của đầu tư phát triển. *** Hết *** DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh tế đầu tư, PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt, PGS.TS Từ Quang Phương, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội 2007. Hiệu quả đầu tư và các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển của DNNN, Từ Quang Phương, Luận văn Thạc sỹ, Hà Nội 1998. Những vấn đề chủ yếu về Kinh tế phát triển, PGS.TS Ngô Doãn Vịnh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006. Kinh tế 2005 – 2006: Việt Nam và thế giới, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Hà Nội 2006. Lựa chọn thành công: Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai Việt Nam, Thomas Vellery và các thành viên trong Chương trình Việt Nam của Đại học Harvard, Hà Nội 2008. Trang web của Ngân hàng thế giới: www.worldbank.com.vn Trang web của Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn Trang web của Bộ Kế hoạch và đầu tư: www.mpi.gov.vn Trang web của báo Đầu tư: www.vir.com.vn 10) Trang web của báo Tiền phong: www.tienphong.vn 11) Trang web của tạp chí Tia sáng: www.tiasang.com.vn MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37346.doc
Tài liệu liên quan