Chuyên đề Đánh giá hoạt động các tổ chức tín dụng tại Việt Nam dựa trên các chỉ tiêu tài chính của mô hình CAMELS

Ở Việt Nam việc xếp loại các ngân hàng thương mại cổ phần đã bắt đàu được thực hiện từ năm 1998 theo quyết định số 292/1998/QĐ – NHNN5 ngày 27/08/1998 của thống đốc ngân hàng nhà nước. Sau đó để phù hợp với các quy định hiện hành và tình hình hoạt động của các ngân hàng thương mại ngày 16/04/2004 Thống đốc ngân hàng nhà nước đã ban hành quyết định số 400/2004/QĐ-NHNN thay thế cho quyết định trước đó. Quyết định này đã đưa việc xếp loại các tổ chức tín dụng Việt Nam tương đối gần với cách phân loại đánh giá các ngân hàng thương mại theo tiêu chí CAMELS Các chỉ tiêu đánh giá xếp loại theo quyết định trên của ngân hàng nhà nước bao gồm : - Vốn tự có - Chất lượng hoạt động - Công tác quản trị, kiểm soát, điều hành. - Kết quả kinh doanh - Khả năng thanh khoản (1) Vốn tự có : Mức điểm tối đa là 15 điểm, tối thiểu là -2 điểm Các tổ chức tín dụng đạt 10 điểm về vốn tự có phải có đủ các điều kiện sau: - Vốn điều lệ đủ mức vốn pháp định - Đảm bảo an toàn vốn mà cụ thể là + duy trì vốn điều lệ thực có không thấp hơn vốn điều lệ đã đăng ký tại sở kế hoạch và đầu tư tỉnh, thành phố nơi tổ chức tín dụng đặt trụ sở. + Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đạt mức quy định của ngân hàng nhà nước + Đảm bảo các quy định cua ngân hàng nhà nước về cổ đông cổ phần cổ phiếu Điểm thưởng tối đa là 5 điểm : Các tổ chức tín dụng được cộng thêm 5 điểm phải có vốn điều lệ trên 300% vốn pháp định (2) Chất lượng hoạt động : Mức điểm tối đa 35 điểm - Chất lượng tín dụng : Mức điểm tối đa 25,tối thiểu 0 điểm. Tổ chức tín dụng đạt tối đa 25 điểm về chỉ tiêu chất lượng tín dụng phải đảm bảo: + Tỷ lệ giữa tổng các khoản nợ xấu so với tổng dư nợ nhỏ hơn hoặc bằng 2 + không có nợ khó đòi và nợ khó đòi ròng nhỏ hơn hoặc bằng 0. - Chất lượng bảo lãnh : Mức điểm tối đa 5 điểm, tối thiểu 0 điểm Tổ chức tín dụng đạt điểm tối đa 5 điểm về chỉ tiêu chất lượng bảo lãnh phải không có nợ bảo lãnh quá hạn. (3) Quản trị, kiểm soát, điều hành : Mức điểm tối đa 15 điểm, tối thiểu 0 điểm Tổ chức tín dụng đạt điểm tối đa 15 điểm phải đảm bảo các điều kiện sau: - Thành viên hội đồng quản trị, kiểm soát viên phải có đủ số lượng theo quy định - Ban hành và thực hiện tốt các quy chế nội bộ - Hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ tưng xứng với quy mô ngân hàng và hoạt động hiệu quả, đảm bảo các rủi ro quan trọng luôn được nhận dạng, đo lường kiểm tra kiểm soát một cách liên tục. - Các thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, ban điều hành có năng lực, đoàn kết, có ý thức chấp hành Pháp luật, có trách nhiệm, thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn trong việc quản trị kiểm soát điều hành tổ chức tín dụng (4) Kết quả kinh doanh : Tổng số 20 điểm Kết quả kinh doanh : tối đa 15 điểm với điều kiện có lãi trước thuế so với vốn chủ sở hữu từ 20% trở lên. Tỷ lệ thu dịch vụ trong tổng thu nhập đạt 40% trở lên được thưởng 5 điểm (5) Khả năng thanh khoản : Mức điểm tối đa 15 điểm, tối thiểu -6 điểm Khả năng thanh toán ngay = tài sản có có thẻ thanh toán ngay /tài sản nợ phải thanh toán ngay. Tổ chức tín dụng đảm bảo tỷ lệ khả năng chi trả theo quy định của ngân hàng nhà nước đạt điểm tối đa là 9 điểm. Tỷ lệ sử dụng vốn trung và dài hạn : Tổng dư nợ cho vay trung dài hạn/ Nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn, nếu đạt 100% hoặc nhỏ hơn 6 điểm. Trên đây là mức điểm tối đa các tổ chức tín dụng đạt được còn nếu không đạt được các điều kiện trên sẽ bị trừ điểm tùy theo mức ở điều kiện nào. Phương pháp đánh giá xếp loại : - Việc đánh giá xếp loại các tổ chức tín dụng được căn cứ vào số điểm của từng chỉ tiêu đã quy định. - Nguyên tắc tính điểm là lấy điểm tối đa trừ đi số điểm bị trừ của từng chỉ tiêu. Những tổ chức tín dụng không có hoạt động nghiệp vụ theo các quy định tại quy định này thì không cho điểm đối với các chỉ tiêu quy định tại nghiệp vụ đó. - Số liệu để xem xét cho điểm được căn cứ : Số liệu trên bảng cân đối tài khoản (cấp III, IV, V), số liệu báo cáo thống kê của tổ chức tín dụng tại thời điển 31/12 hàng năm., số liệu qua công tác thanh tra giám sát của ngân hàng nhà nước, các số liệu khác có liên quan như kết quả kiểm toán, báo cáo tài chính của tổ chức tín dụng - Tổ chức tín dụng xếp loại A có tổng số điểm đạt từ 80 trở lên và có điểm của từng chỉ tiêu không thấp hơn 65% điểm tối đa của từng chỉ tiêu đó - Tổ chức tín dụng xếp loại B có tổng số điểm đạt từ 60 điểm đến 79 điểm và có điểm của từng chỉ tiêu không thấp hơn 50% điểm tối đa của từng chỉ tiêu đó; hoặc có tỏng số điểm cao hơn 79 nhưng có điểm số của từng chỉ tiêu từ 50% đến 65% số điểm tối đa của chỉ tiêu đó. - Tổ chức tín dụng xếp loại C có tổng số điểm đạt từ 50 điểm đến 59 điểm và có điểm của từng chỉ tiêu không thấp hơn 45% điểm tối đa của từng chỉ tiêu đó.Hoặc có tổng số điểm cao hơn 59 điểm nhưng điểm số của từng chỉ tiêu từ 45% đến dưới 50% số điểm tối đa của chỉ tiêu đó. - Tổ chức tín dụng xếp loại D có tổng số điểm duới 50 điểm hoặc có tổng số điểm cao hơn 50 điểm nhưng có điểm số của từng chỉ tiêu thấp hơn 45% số điểm tối đa của chỉ tiêu đó.

doc63 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1249 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá hoạt động các tổ chức tín dụng tại Việt Nam dựa trên các chỉ tiêu tài chính của mô hình CAMELS, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.2.2 Xếp hạng cấu phần. C – Mức đảm bảo vốn Một ngân hàng cần duy trì một mức vốn đảm bảo chống đỡ với các loại rủi ro đặc trưng của ngân hàng và khả năng quản lý để xác định, đo lường,kiểm soát và điều chỉnh những rủi ro này. Những tác động của rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và các rủi ro khác đối với hoạt động của ngân hàng có thể xem như thước đo đánh giá mức độ đủ vốn của ngân hàng. Các loại hình và mức độ rủi ro tác động đến hoạt động của một ngân hàng sẽ quyết định đến mức vốn cần duy trì them trên mức vốn tối thiểu theo quy định để từ đó có thể đề phòng những hậu quả xấu mà những rủi ro này có thể có đối với mức vốn của ngân hàng. Mức đảm bảo vốn nên được xếp hạng dựa trên những yếu tố đánh giá sau : - Mức vốn, chất lượng vốn và khả năng tài chính tổng thể của ngân hàng. - Khả năng quản lý để có thể xác định những nhu cầu cho nguồn vốn bổ sung. - Bản chất xu hướng và số lượng các tài sản có vấn đề, và mức độ đảm bảo dự phòng rủi ro cho các khoản mất nợ và các quỹ dự phòng khác. - Bảng tổng hợp cân đối tài sản bao gồm nội dung và số lượng các tài sản vô hình, rủi ro thị trường, rủi ro tập trung và những rủi ro có lien quan đến các hoạt động không mang tính truyền thống của ngân hàng. - Các rủi ro tiềm ẩn đối với hoạt động ngoại bảng của ngân hàng. - Mức thu nhập và sự hợp lý của cổ tức. - Triển vọng và kế hoạch phát triển, cũng như việc đảm bảo kế hoạch tăng trưởng trong quá khứ. - Khả năng tiếp cận với thị trường vốn và các nguồn vốn khác bao gồm cả sự hỗ trợ vốn của các cổ đông hiện tại và cổ đông triẻn vọng trong tương lai. Xếp hạng : Những ngân hàng có chỉ số vốn được xếp hạng ở mức 1 hoặc 2 sẽ có đủ mức vốn mặc dù các chỉ số vốn của ngân hàng xếp hạng 1 thông thường lớn hơn chỉ số của ngân hàng xếp hạng 2. Ngân hàng xếp hạng 3 là những ngân hàng mà mức vốn đảm bảo cho các tài sản có rủi ro , các tài sản có chất lượng ở mức tương quan thấp, tốc độ tăng trưởng của ngân hàng, kế hoạch và triển vọng phát triển ; và tăng cường năng lực quản lý cũng đòi hỏi vốn đảm bảo cho dù cấu phần quản lý được xem như là một nhân tố tác động tốt. Trong phần lớn các trường hợp, những ngân hàng như vậy sẽ có các chỉ số vốn nằm dưới mức trung bình của nhóm đồng hạng. Ngân hàng xếp hạng 4 hoặc 5 rõ ràng là những ngân hàng không đảm bảo được mức vốn cần thiết, với mức xếp hạng 5 tức là ngân hàng đang đứng trước nguy cơ bị mất năng lực hoạt động và mất khả năng thanh toán. Mức xếp hạng 5 cũng là mức đòi hỏi ngân hàng phải có ngay một sự hỗ trợ từ các cổ đông hoặc từ các nguốn hỗ trợ tài chính bên ngoài khác. A – Chất lượng tài sản có Chất lượng tài sản có được đánh giá dựa trên mức độ, sự phân bổ và tình trạng của các nhóm tài sản không tính cộng dồn và tài sản được giảm lãi suất; mức độ đảm bảo dph nợ,năng lực quản lý và điều hành việc xử lý và thu hồi những khoản nợ có vấn đề. Mức đảm bảo dự phòng nợ và khả năng có thể xử lý và thu hồi các khoản nợ có vấn đề chính là yếu tố tác động tốt, ở một chừng mực nào đó, đến khả năng khắc phục những khó khăn có thể xảy ravới các nhóm nợ. Việc đánh giá chất lượng tài sản có nên xem xét đến các mức độ tập trung tín dụng hoặc đầu tư, bản chất và số lượng của các nhóm nợ đặc biệt, và tính hợp lý của các chính sách cho vay và các quy trình thủ tục tín dụng. Chất lượng tài sản có được đánh giá dựa trên những tiêu thức sau : - Khả năng đảm bảo các tiêu chuẩn bảo lãnh nợ, khả năng điều hành và quản lý tín dụng, và các năng lực quản lý rủi ro cần thiết khác. - Số lượng, sự phân bổ tình trạng và xu hướng của các tài sản có vận động đã phân loại, không tính cộng dồn, cơ cấu lại,quá hạn và không hoạt động trên cả nội bảng lẫn ngoại bảng. - Mức độ đảm bảo dự phòng cho mất nợ và các dự phòng tài sản khác. - Những rủi ro tín dụng có thể tăng hoặc giảm thông qua các hoạt động ngoại bảng như các cam kết nợ không được thực hiện, các cam kết tín dụng, các thư tín dụng thương mại hoặc bảo lãnh. - Khả năng đa dạng hóa vá chất lượng của các khoản nợ và các danh mục đầu tư. - Mức độ tập trung hóa tài sản. - Tính hợp lý của các chính sách cho vay, đầu tư cũng như các thủ tục có liên quan. - Khả năng quản lý trong việc xử lý các tài sản bao gồm cả việc phát hiện kịp thời và thu hồi được những khoản nợ có vấn đề. - Năng lực kiểm soát nội bộ và hệ thống thông tin quản lý - Số lượng và bản chất của những hồ sơ tín dụng đặc biệt. Xếp hạng : Xếp chất lượng tài sản có ở mức 1 và 2 không đòi hỏi nhu cầu cần thanh tra giám sát. Cả hai mức độ xếp hạng này đều cho thấy một danh mục nợ và đầu tư của ngân hàng ở mức tốt, mặc dù xếp hạng ở mức 1 được hiểu là mức độ và thực trạng của các nhóm nợ là tốt hơn mức 2. Xếp hạng ở mức 3 đòi hỏi một mức giám sát nhất định, đặc biệt trong hoàn cảnh có những xu hướng tiêu cực có thể dẫn đến những vấn đề trầm trọng hơn trong tương lai. Xếp hạng ở mức 4 hoặc 5 là mức độ của những tài sản đang có những vấn đề nghiêm trọng,đặc biệt với mức 5 là một dấu hiệu đe dọa đến khả năng mất năng lực hoạt động của các ngân hàng do những tác động dây truyền của các tài sản có vấn đề nghiêm trọng này đối với việc duy trì và đảm bảo mức vốn của ngân hàng M – Quản lý Cấu phần quản lý cần được đánh giá dựa trên tất cả các yếu tố ddc cho là cần thiết đối với hoạt động của ngân hàng trong một môi trường an toàn và các hoạt động ngân hàng được chấp nhận. Do vậy, cấu phần quản lý được đánh giá dựa trên trình độ học vấn, năng lực điều hành và lãnh đạo, các chính sách và quy trình quản lý rủi ro, khả năng tuân thủ Pháp luật và các quy định, khả năng lên kế hoạch và đối phó với những biến động của môi trường,và những kết quả từ sự thành công trong quản lý. Việc đánh giá cấu phần quản lý cũng cần xem xét đến những chất lượng của những hoạt động kinh doanh và tất cả các chính sách cho vay, đầu tư và kinh doanh, cũng như sự tham gia của ban giám đốc và các cổ đông. Căn cứ vào đặc trưng và phạm vi hoạt động của ngân hàng, hoạt động quản lý có thể xem xét đến một số hoặc tất cả những rủi ro sau: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường ,rủi ro hoạt động , hoặc các giao dịch, danh tiếng, chiến lược, khả năng tuân thủ , tính pháp lý, và thanh khoản của ngân hàng. Hoạt động quản lý tốt được theo dõi chặt chẽ bởi ban giám đốc và hội đồng quản trị, các cá nhân cạnh tranh, tính hợp lý của các chính sách, tác nghiệp và kiểm soát sẽ cần xem xét them với quy mô và vai trò của ngân hàng,khả năng duy trì một chương trình kiểm toán cũng như môi trường kiểm soát nội bộ hợp lý, và hệ thống quản lý thông tin và quản lý rủi ro hiệu quả. Năng lực và các hoạt động của ban quản lý và hội đồng quản trị sẽ được đánh giá dựa trên những yếu tố sau : - Mức độ và chất lượng của hoạt động kiểm tra và hỗ trợ đối với tất cả các hoạt động của ngân hàng của ban quản lý và hội đồng quản trị ngân hàng. - Năng lực của ban quản lý và hội đồng quản trị, trong từng chức năng nhiệm vụ của mình, để lên kế hoạch và đối phó với những rủi ro có thể có do những thay đổi trong điều kiện kinh doanh hoặc những cải cách để đưa ra những sản phẩm dịch vụ và hoạt động mới. - Khả năng đưa ra và thích ứng với những chính sách nội bộ và kiểm soát hoạt động kinh doanh cũng như rủi ro của những hoạt động chư yếu. - Tính chính xác kịp thời và hiệu quả của hệ thống thông tin quản lý và hệ thống kiểm soát rủi ro tương ứng với quy mô sự phức tạp và rủi ro của ngân hàng. - Tính hợp lý của kiểm toán và kiểm soát nội bộ nhằm tạo động lực cho các hoạt động của ngân hàng được hiệu quả và đảm bảo tính tin cậy cho các báo cáo tài chính và báo cáo thanh tra, các tài sản đảm bảo, đồng thời cũng đảm bảo sự tuân thủ với các quyết định, chỉ thị và hướng dẫn của thanh tra và các chính sách nội bộ. - Mức độ thực hiện và tuân thủ với các quyết định và chỉ thị và khả năng đáp ứng với các khuyến nghị của kiểm toán viên và các thanh tra viên có thẩm quyền. - Kết quả và sự thành công của các nhà lãnh đạo cao cấp. - Mức độ mà ban quản lý và hội đồng quản trị phải chịu sự chi phối, tác động và kiểm soát của chủ sở hữu chính. - Tính hợp lý của các chính sách khen thưởng , tránh tình trạng tập trung quyền lực và mâu thuẫn lợi ích. - Xem xét khả năng thích ứng với các yêu cầu có tính pháp lý của ngân hàng trong hệ thống, và hoạt động tổng thể của ngân hàng cũng như các rủi ro của nó. Xếp hạng : Xếp hạng ở mức 1 tức là hoạt động quản lý của ngân hàng đảm bảo ở mức hiệu quả toàn diện với tất cả các yếu tố và khả năng ứng phó và xử lý với tất cả những vấn đề hiện tại và những vấn đề dự tính có thẻ xảy ra với hoạt động của ngân hàng. Mức xếp hạng 2 cho thấy một vài điểm yếu những nhìn chung là thỏa mãn những yêu cầu của hoạt động quản lý.Mức 3 cho thấy hoạt động quản lý chưa đủ thỏa mãn để đối phó với những tình huống trong hoạt động ngân hàng. Hoặc là hoạt động quản lý này được đánh giá ở mức vừa phải, có thẻ trên trung bình một chút, hoặc dưới mức trung bình theo quy mô hoặc loại hình ngân hàng.Do vậy, năng lực quản lý với những tình huống không thuận lợi có thể còn thiếu. Mức xếp hạng 4 cho biết khả năng quản lý nhìn chung là dưới mức được chấp nhận và mức được yêu cầu. Mức 5 được sử dụng trong trường hợp ngân hàng không còn khả năng cạnh tranh. Trong những trường hợp này, những vấn đề có nguyên nhân từ việc quản lý yếu kém kéo theo những hậu quả xấu với hoạt động của ngân hàng cần phải có sự cải cách nâng cao năng lực quản lý thậm chí thay đổi ban quản lý nhằm khôi phục lại môi trường hoạt động hiệu quả cho ngân hàng. E – Thu nhập Cấu phần thu nhập được đánh giá dựa trên khả năng xử lý với các khoản nợ mất và khả năng đảm bảo mức vốn cần thiết, xu hướng tăng trưởng của thu nhập, so sánh trong nhóm đồng hạng, chất lượng và các cấu phần của thu nhập ròng, mức độ thu nhập của nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất. Việc đánh giá cũng cần xem xét mối quan hệ với tỷ lệ chi trả cổ tức, với tốc độ tăng trưởng lợi nhuận để lại và mức độ đảm bảo vốn của ngân hàng. Mức đảm bảo dự phòng mất nợ và đề phòng với những bất thường, với các giao dịch chứng khoán và với các tác động của thuế cũng cần được xem xét khi đánh giá cấu phần này. Việc xếp hạng thu nhập được căn cứ trên những tiêu thức sau : Mức thu nhập, bao gồm cả xu hướng tăng trưởng và mức độ ổn định Khả năng đảm bảo cho tốc độ tăng trưởng vốn từ nguồn lợi nhuận để lại. Chất lượng và các nguồn của thu nhập, cũng như mức chi phí gắn liền với các hoạt động kinh doanh. Khả năng đảm bảo ngân quỹ và những tac nghiệp dự tính và hệ thống thông tin quản lý Khả năng đảm bảo dự phòng mất nợ và các dự phòng tài sản khác. Những rủi ro tiềm ẩn đối với biến động lãi suất, tỷ giá. Xếp hạng – Thu nhập được xếp hạng 1 được xem như có dự phòng đầy đủ cho các khoản mất nợ và đảm bảo sự tăng trưởng đều đặn của vốn với một chất lượng tài sản và tốc độ tăng trưởng ngân hàng đã cho. Nhìn chung, ngân hàng được xếp hạng này thường ở trên mức trung bình của nhóm đồng hạng. Một ngân hàng có mức thu nhập xoay quanh một mức tuyệt đối hoặc thậm chí có xu h đi xuống có thể được xếp hạng 2 tức là mức thu nhập của ngân hàng này được xem là thỏa mãn các đánh giá thu nhập đã neu trên. Thông thường ngân hàng này có chỉ số thu nhập trùng hoặc trên một chút so với nhóm đồng hạng. Mức xếp hạng 3 gắn liền với mức thu nhập được cho là không đủ để đảm bảo trích dự phòng mất nợ và đảm bảo tăng trưởng vốn đều theo kịp với tố độ tăng trưởng ngân hàng. Thu nhập của những ngân hàng này có thể chỉ thể hiện dưới các mức thu nhập có tính tuyệt đối hoặc những xu hướng thu nhập không thống nhất, mức thu nhập không đảm bảo, tỷ lệ chi trả cổ tức cao hoặc chất lượng tài sản có thấp dưới mức cho phép. Chỉ số thu nhập của những ngân hàng này thường nằm dưới mức trung bình của nhóm đồng hạng. Mức xếp hạng 4 thường vẫn đảm bảo lợi nhuận dương, cho thấy những dao động bất thường trong thu nhập ròng, có khuynh hướng của chiều hướng giảm, những khoản mất nợ không liên tục hoặc những suy giảm lớn trong nhưng năm trước đó. Thu nhập của những ngân hàng này được đánh giá nằm xa bên dưới sso với nhóm đồng hạng. Các ngân hàng được xếp hạng 5 là những ngân hàng dang chịu những khoản mất nợ hoặc có những mức thu nhập nằm dưới mức thu nhập đã đưa ra cho mức 4. Những khoản nợ mất này có thể gây ra những nguy cơ cho khả năng hoạt động của ngân hàng đồng thời với sự mất vốn. L – Mức độ thanh khoản Mức độ thanh khoản được đánh giá theo khả năng thanh toán nhanh chóng các khoản tiền gửi; tần suất và mức độ sử dụng nguồn vốn đi vay của ngân hàng; năng lực chuyên môn liên quan đến cơ cấu tài sản nợ; mức độ sẵn có của tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt và mức độ tiếp cận với thị trường tiền tệ hoặc những nguồn vốn khác. Mức độ thanh khoản của một ngân hàng phải được đánh giá theo từng giai đoạn và từng thời điểm cụ thể. Cũng cần phải xem xét đến hiệu quả nói chung của chiến lược quản lý tài sản có – tài sản nợ của ngân hàng cũng như mức độ tuân thủ và mức độ đầy đủ của các chính sách về thanh khoản của họ. Về bản chất, số lượng và sử dụng trước các cam kết về tín dụng và bảo lãnh cũng là các yếu tố cần đuợc đưa vào xem xét. Mức độ thanh khoản được đánh giá dựa trên các nhân tố sau : - Mức độ đầy đủ của nguồn vốn thanh khoản hiện tại và tương lai có thể đáp ứng nhu cầu về thanh khoản mà không ảnh hưởng đến tình hình hoạt động và tài chính của ngân hàng. - Các tài sản có thể dễ dàng chuyển thành tiền mặt mà không gây ra những tổn thất lớn. - Khả năng tiếp cận với thị trường tiền tệ và những nguồn vốn khác - Mức độ đa dạng hóa các nguồn vốn, bao gồm các nguồn trong và ngoài bảng cân đối tài sản - Mức độ phụ thuộc vào các nguồn vốn ngắn hạn, các nguồn vốn dễ biến động, bao gồm các nguồn vốn vay, các khoản tiền gửi lớn nhạy cảm với lãi suất, để sử dụng cho các tài sản có kỳ hạn dài hơn. - Xu hướng và tình ổn định của các khoản tiền gửi. - Khả năng của ban lãnh đạo ngân hàng trong việc xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát tình hình thanh khoản của đơn vị mình, bao gồm cả mức độ hiệu quả của các chiến lược quản lý vốn,các chính sách về thanh khoản hệ thống thông tin quản lý và kế hoạch dự phòng vốn. Xếp hạng Những ngân hàng có mức độ thanh khoản thuộc loại 1 là những ngân hàng có khối lượng trên mức cần thiết các tài sản có được thanh toán và mức độ sẵn sàng , khả năng dễ dàng đáp ứng các kỳ hạn linh hoạt hơn với các nguồn vốn bên ngoài theo chiến lược chung về quản lý tài sản nợ - tài sản có của ngân hàng. Ngân hàng có khuynh hướng giảm mức độ thanh khoản và tăng mức độ phụ thuộc vào các nguồn vốn đi vay những vẫn nằm trong tỷ lệ chấp nhận được có thể xếp vào mức 2. Mức độ xếp hạng 3 về tính thanh khoản phản ánh mức độ không đầy đủ về tài sản thanh khoản và mức độ phụ thuộc vào các nguồn vốn có độ nhạy về lãi suất nằm trong hoặc vượt tỷ lệ cho phép hợp lý đối với một ngân hàng. Mức độ xếp hạng 4 và 5 là mức độ có tình hình về thanh khoản đang ngày càng nguy hiểm. Những ngân hàng có mức độ thanh khoản ở mức nguy hiểm được coi là sắp có mối đe dọa tới khả năng tồn tại và được xếp hạng 5. Những ngân hàng như vậy càn có biện pháp khắc phục tức thời hoặc những hỗ trợ về mặt tài chính để họ có thể đáp ứng được nhu cầu rút tiền và các nghĩa vụ nợ đến hạn. S – Độ nhạy cảm với rủi ro Mức độ nhạy cảm với rủi ro phản ánh mức độ tại đó những thay đổi về lãi suất, tỉ giá hối đoái , giá tiêu dùng hoặc giá vốn có thể ảnh hưởng đến thu nhập hoặc vốn cuă một ngân hàng. Khi đánh giá hạng mục này, nên xem xét cả các vấn đề sau : khả năng của ban lãng đạo ngân hàng trong việc xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát rủi ro thị trường; quy mô ngân hàng; bản chất và mức độ phức tạp về các hoạt động kinh doanh của ngân hàng; và mức độ đầy đủ về vốn và thu nhập liên quan đến mức độ rủi ro thị trường.Đối với nhiều ngân hàng, các rủi ro thị trường chủ yếu xuất phát từ trạng thái đầu tư theo đúng kỳ hạn và mức độ nhạy cảm với những thay đổi về lãi suất. Ở một số ngân hàng lớn hơn, các hoạt động ở nước ngoài có thể là nguyên nhân chủ yếu về rủi ro thị trường và một số khác sthì các hoạt động kinh doanh ngoại hối lại là nguyên nhân chính về rủi ro thị trường. Độ nhạy được đánh giá dựa vào các yếu tố sau: Độ nhạy về thu nhập của ngân hàng hoặc giá trị kinh tế về vốn đối với những thay đổi bất lợi về lãi suất, tỉ giá hối đoái, giá thị trường hoặc giá vốn. Khả năng của ban lãnh đạo ngân hàng trong việc xác định, đo lường,giám sát, và kiểm soát rủi ro đối với rủi ro thị trường dựa vào quy mô ngân hàng,mức độ phức tạp và rủi ro trong quá khứ. Bản chất và mức độ phức tạp của rủi ro lãi suất xuất phát từ Nếu phù hợp , bản chất mức độ phức tạp của rủi ro thị trường xuất phát từ hoạt động kinh doanh Xếp hạng : Mức độ 1 thể hiện độ nhạy cảm với rủi ro thị trường được kiểm soát tốt và có ít khả năng thu nhập và trạng thái về vốn của ngân hàng chịu ảnh hưởng bất lợi. Thực tế về quản lý rủi ro tốt về quy mô,mức độ 2 chỉ ra rằng độ nhạy cảm về rủi ro thị trường được kiểm soát một cách thích đáng và rất ít khả năng thu nhập và trạng thái về vốn của ngân hàng chịu ảnh hưởng bât lợi. Mức độ quản lý rủi ro đạt và thu nhập và vốn của ngân hàng đưa ra mức độ hỗ trợ đầy đủ đối với mức độ rủi ro thị trường. Mức độ 3 chỉ ra rằng việc kiểm soát mức độ nhạy cảm rủi ro thị trường cần được cải thiện hoặc có nhiều khả năng thu nhập và vốn của ngân hàng cò thêt có ảnh hưởng bất lợi. Thực tế quản lý rủi ro cần được cải thiện và thu nhập và vốn của ngân hàng có thể không hỗ trợ đầy đủ cho mức độ rủi ro. Mức độ 4 chỉ ra rằng việc kiểm soát mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường là không chấp nhận được và có nhiều khả năng thu nhập và vốn của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng bất lợi. Quản lý rủi ro ngân hàng yếu, thu nhập và vốn không hỗ trợ đầy đủ cho mức độ rủi ro . Mức độ 5 chỉ ra rằng việc kiểm soát mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường rõ ràng là không chấp nhận được hoặc mức độ rủi ro thị trường của ngân hàng có đe dọa tới sự tồn tại của ngân hàng, thực tế quản lý rủi ro không đạt. 2.2.3 Xếp loại các yếu tố định lượng Cho điểm đối với một chỉ tiêu : đối với những chỉ tiêu không quy định con số cụ thể cho từng mức xếp hạng, thì thực hiện việc xếp hạng theo phương pháp sau Quy định chung - Tính toán số liệu chỉ số của tùng ngân hàng. - Tính toán số bình quân của từng chỉ số theo nhóm ngân hàng đồng hạng, những phải loại chỉ số có giá trị bất thường. - Những chỉ số được tính toán trên cơ sở thông tin thiếu chính xác thì không đưa vào xếp hạng - Không xếp hạng những ngân hàng đã đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt hoặc đang trong giai đoạn thu hồi giấy phép hoạt động Quy định cụ thể - Đối với những chỉ số có giá trị nhỏ là tốt + Nếu giá trị chỉ số của ngân hàng <= 20% số bình quân thì cho 1điểm + Nếu giá trị chỉ số của ngân hàng > 20% và <= 70% số bình quân thì cho 2 điểm + Nếu giá trị chỉ số của ngân hàng bằng số bình quân hoặc chỉ số của ngân hàng nằm trong khoảng 30% số bình quân thì cho 3 điểm. + Nếu giá trị chỉ số của ngân hàng lớn hơn số bình quân từ 30% trở lên đến <= 70% thì cho 4 điểm + Nếu giá trị chỉ số của ngân hàng lớn hơn số số bình quân trên 70% thì cho 5 điểm. - Đối với những chỉ số nếu giá trị lớn là tốt thì ta cũng cho điểm tương tự như trên chỉ khác là theo thứ tự ngược lại. 2.2.4 Xếp loại các yếu tố định tính. - Cách thức thể hiện kết quả đánh giá các yếu tố định tính : Các chỉ tiêu định tính dùng để xếp loại được thể hiện như sau : Trả lời “có” hoặc “không”, nếu trả lời “có” thì phải đưa ra ý kiến nhận xét theo 4 mức độ + “Có” ở mức độ tốt và nhận xét kèm theo – Cho 1 điểm + “Có” ở mức độ khá và nhận xét kèm theo – cho 2 điểm + “Có” ở mức độ trung bình và nhận xét kèm theo – cho 3 điểm + “Có” ở mức độ yếu và nhận xét kèm theo – cho 4 điểm + Cho 5 điểm nếu trả lời là “không” Kết quả xếp loại các chỉ tiêu định tính luôn phải gắn với kết quả xếp loại định lượng. 2.2.5 Xếp loại tổng hợp Việc đánh giá các yếu tố của CAMELS và mói liên hệ giữa chúng là cơ sở để đưa ra đánh giá tổng hợp. Mặc dù thứ tự các yếu tố của CAMELS thường có liên hệ rất gần với đánh giá chỉ số tổng hợp nhưng không có nghĩa là chỉ số tổng hợp được tính toán bằng cách lấy giá trị trung bình của các yếu tố CAMELS.Ví dụ, có thể một ngân hàng vẫn hoạt động với một đọi ngũ quản lý, mức thu nhập và nd thanh khoản có thể chấp nhận được những lại có một số lượng lớn các tài sản bị phân loại. Một chương trình lkhắ phục để xử lý các khiếm khuyết này sẽ là một phần của hoạt động cưỡng chhé pháp lý một cách không chính thức, và cũng có thể là một cách tôn trọng luật pháp hiệu quả.Như vậy chỉ số tổng hợp ở mức 3 có thể là thích hợp, mặc dù những đánh giá về số học cao hơn lại thuộc về các yếu tố khác của CAMELS. Thanh tra ngân hàng sẽ xem xét các yếu tố khác ngoài các yếu tố của CAMELS nếu theo kinh nghiệm đánh giá của họ, những yếu tố này liên quan đến việc đánh giá chính xác về tình hình chung và sự lành mạnh của một ngân hàng. Chỉ số tổng hợp được xác định và phân biệt như sau : Loại 1 – Ngân hàng thuộc nhóm này về cơ bản là lành mạnh trên mọi khía cạnh, nhìn chung các hạn mục đều được xếp ở mức 1 hoặc 2, những phát hiện xấu hoặc những lo ngại là rất nhỏ và có thể khắc phục trong điều kiện hoạt động kinh doanh bình thường. Những ngân hàng như vậy có thể đối hó với những thay đổi về kinh tế và tài chính và có khả năng đối phó tốt hơn với những thay đổi thất thường về điều kiện kinh doanh so với những ngân hàng có chỉ số xếp hạng thấp hơn. Do đó, những ngân hàng này không tạo ra lý do phải giám sát. Loại 2 – Các ngân hàng thuộc nhóm này về cơ bản là lành mạnh tuy nhiên vẫn có một số nhược điểm nhưng có thể khắc phục được trong điều kiện kinh doanh bình thường. Với những ngân hàng được xếp hạng 2 nhìn chung không hạng mục riêng rẽ nào được xếp thấp hơn mức 3. Bản chất và mức độ nghiêm trọng của các khiếm khuyết không được xem là quan trọng và vì vậy những ngân hàng này thường ổn định và có khả năng đói phó với những biến động trong kinh doanh tương đối tốt. Khi mức độ khiếm khuyết không phát triển đến mức lo ngại thì những điều chỉnh nhỏ có thể thực hiện được trong điiều kiện hoạt động kinh doanh bình thường và hoạt động của ngân hàng vẫn duy trì ở mức chấp nhận được. Loại 3 – Các ngân hàng thuộc nhóm này bắt đầu đã có những khiếm khuyết về hoạt động và về tài chính ở mức độ tương đối nguy hiểm đến mức độ không đạt yêu cầu tuy nhiên nếu vấn đề trở nên nghiêm trọng hhơn thì việc đánh giá các hạng mục thấp hơn 4 là điều khó tránh khỏi. Khi những khiếm khuyết liên quan đến tình hình tài chính , những ngân hàng này có khuynh hướng bất lợi về các điiều kiện kinh doanh và có thể trầm trọng hơn nếu không có hoạt động khắc phục hữu hiệu. Những ngân hàng đặc biệt không tuân thủ các quy định và luật pháp sẽ có thể thuộc nhóm này. Nhìn chung những ngân hàng này là mối quan tâm của thanh tra và cần sự giám sát chặt chẽ hơn mức bình thường để khắc phục những yếu kém. Năng lực về tài chính và sức mạnh nhìn chung dễ dẫn đến phá sản. Loại 4 – Các ngân hàng thuộc nhóm này có quá nhiều yếu kém nghiêm trọng về tài chính hoặc là cả những yếu kém về tài chính và những yếu tố khác đều không đạt yêu cầu. Các vấn đề nghiêm trọng hoặc chủ yếu hoặc tình hình không lành mạnh và không an toàn có thể không giải quyết được. Trừ khi những hoạt động hữu hiệu được thực hiện để khắc phục, những khiếm khuyết này có thể phát triển đến mức độ có thể làm suy yếu khả năng tồn tại trong tương lai và đe dọa đến các khách hàng gửi tiền, các chủ nợ hoặc các cổ đông. Khả năng cao về phá sản đang hiện hữu tuy nhiên chưa xảy ra hoặc chưa được thông báo, Những ngân hàng thuộc nhóm này cần sự kiểm soát chặt chẽ và giám sát về tài chính cũng những kế hoạch để khắc phục. Loại 5 – Những ngân hàng thuộc nhóm này là những ngân hàng có khả năng phá sản rất cao. Số lượng và mức độ yếu kém hoặc tình hình không lành mạnh và yếu kém ở mức độ khẩn cấp cần sự gấup đỡ kịp thời của các cổ đông hoặc các nguồn tài chính khác từ khu vực tư nhân hoặc nhà nước. Nếu thiếu các biện pháp khắc phục kịp thời và kiên quyết tình hình sẽ trở nên trầm trọng hơn ví dụ như phá sản hoặc mất khả năng thanh toán với người gửi tiền chủ nợ và cổ đông. 2.3 Thực trạng hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng tại Việt Nam Cho đến nay, có thể nói các cơ chế để thực thi việc giám sát, quản trị hệ thống vẫn còn yếu, đặc biệt là giám sát các Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh. Bộ tài chính là người có vai trò thông báo tình hình hoạt động của các Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh nhưng cơ chế để thực thi việc quản lý các ngân hàng này còn yếu. Cụ thể, Ban giám sát có đại diện của bộ tài chính tỏ ra không hiệu quả trong vai trò giám sát từ xa cũng như với vai trò là cổ đông. Vụ tài chính ngân hàng trực thuộc Bộ tài chính là bộ phận có quyền hướng dẫn ,kiểm travà giám sát tài chính với toàn bộ hệ thống tài chính trong lĩnh vực ngân hàng và tín dụng nhưng trên thực tế bộ phận này chỉ thu thập một số thông tin về các khoản bù đắp rủi ro và các thông tin trong tương lai. Ngoài ra,lương của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc và cán bộ do Bộ lao động thương binh xã hội quy định có sự tham gia của Bộ tài chính mà không có sự liên hệ chặt chẽ với hoạt động tài chính của các Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh và không tính đến khả năng xảy ra rủi ro lhi đánh giá đến hoạt động chung. Thực tế, Ngân hàng nhà nước mới có vai trò ảnh hưởng đến các Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh. Theo luật ngân hàng hiện hành, Ngân hàng nhà nước được can thiệp vào hoạt động,quản lý và hầu hết các thay đổi của Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh. Các thành viên Hội đồng quản trị, được bổ nhiệm bởi Thống đốc Ngân hàng nhà nước.Thủ tướng Chính Phủ quyết định Hội đồng quản trị và tổng giám đốc trên cơ sở đề nghị của Thống đốc Ngân hàng nhà nước. Như vậy luật phát hiện hành cho phép Ngân hàng nhà nước được phép can thiệp về việc quản lý của hệ thống ngân hàng mnhiều hơn so với thường thấy trong hệ thống ngân hàng hoạt động trên thị trường. Về phương diện vốn, do vốn của các Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh đều do Nhà nước cấp và một phần không nhỏ hoạt động của các ngân hàng này được chính phủ bảo lãnh một cách gián tiếp về khả năng chi trả và thanh toán nên ít có động lực cho các ngân hàng này tạo lợi nhuận và khuyến khích các thành viên của các Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh quản lý tốt tài chính của ngân hàng mình. Điều này sẽ hạn chế khách hàng tiếp cận với các Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh có tình hình tài chính lành mạnh.Do vậy cần nâng cao quản trị tài chính của các Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh để các ngân hàng này sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của Chính phủ. Ngoài ra một số quy định hiện hành không phù hợp để các ngân hàng quản lý tài chính tốt như : Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc các thành viên Hội đồng quản trị có thẻ đồng thời giữ chức Tổng giám đốc và chủ tịch ban giám sát trong khi đó luật Tổ chức tín dụng quy định phải tách biệt chức năng điều hành và chức năng giám sát. Hội đồng quản trị có thể quyết định tăng lương thưởng cho Tổng giám đốc nhưng điều này bị hạn chế bởi quy định tại điều 22 Nghị định 166. Cách tính lợi nhuận ít căn cứ vào tính hiệu quả của việc sử dụng vốn ngân hàng và sự ổn định về lợi nhuận trong dài hạn hay mức độ rủi ro của ngân hàng. Kiểm soát nội bộ để đảm bảo việc tuân thủ các chính sách, thủ tục và đảm bảo cho việc quản trị tốt thường được gộp với các chức năng kiểm toán nội bộ. ĐIều này không phù hợp với vai trò kiểm toán nội bộ. Trên góc độ giám sát toàn bộ hệ thống tài chính thì hoạt động thanh tra vẫn còn nhiều bất cập. Công tác giám sát từ xa của thanh tra chưa đáp ứng được nhu cầu kịp thời nắm bắt thông tin và những vấn đề nổi cộm trong hoạt động của tổ chcs tín dụng, do đó chưa phát huy được tác dụng cảnh báo sớm và phòng ngừa rủi ro đối với các tổ chức tín dụng.Hoạt động thanh tra tại chỗ chưa có quy trình thanh tra thống nhất,chủ yếu thực hiện trên cơ sở thanh tra việc tuân thủ của các ngân hàng, đôi khi lại can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ của tổ chức tín dụng hoặc mang nặng tính chữa cháy, thậm chí làm thay công việc của kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng mà chưa tập trung sâu phân tích đánh giá rủi ro tổng thể về tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng. Việc phối hợp giữa hoạt động thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa thời gian qua đã đạt được kết quả nhất định nhưng hiệu quả chưa cao. Giám sát từ xa chưa thực sự có tác dụng phân tích định hướng và chỉ điểm cho thanh tra tại chỗ. Về tổ chức, mô hình thanh tra hiện tại chưa cho phép thanh tra hoạt động độc lập với Ngân hàng nhà nước, vừa chịu sự quản lý của Ngân hàng nhà nước vừa chịu sự quản lý của thanh tra Nhà nước nên cơ chế điều hành còn chồng chéo, không kịp thời trong công tác chỉ đạo làm giảm tính hiệu quả hiệu lực trong hoạt động thanh tra. Việc tuyển dụng quản lý đào tạo cán bộ thanh tra còn hạn chế có biểu hiện tụt hậu so với nhu cầu hội nhập quốc tế về ngân hàng. So với chẩn mực quốc tế, thì chức năng thanh tra còn phân tán ở nhiều Vụ, Cục, môi tỷường pháp lý chưa hoàn thiện mới dựa vào Pháp lệnh thanh tra, thiếu luật thanh tra và chế độ thông tin báo cáo nên trách nhiệm báo cáo chưa cao, chưa xác định rõ tính độc lập của thanh tra để hoạt động hiệu quả. Các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng còn chậm chỉnh sửa bổ sung cho hợp vơí thông lệ quốc tế. Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á cuối những năm 90 cho thấy hệ thống tài chính có đủ mạnh mới cho phép nền kinh tế chống đỡ được những cú sốc tài chính bên ngoài. Thực trạng hệ thống tài chính nêu trên cho thấy hệ thống tài chính của Việt Nam, đặc biệt là hệ thống ngân hàng còn non yếu về cả phương diện tài chính,công nghệ thông tin, khả năng cạnh tranh, trình độ quản lý rủi ro cũng như khả năng giám sát. Đặc biệt,hiện nay Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh vẫn chiếm vai trò chủ đạo trên thị trường tiền tệ do có lợi thế về quy mô kinh tế và sức mạnh có được từ sự sở hữu của Nhà nước. Tuy nhiên, trong thời gian tới khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế và thực hiện và thực hiện các cam kết về tự do hóa hoạt động ngân hàng thì vai trò này của các Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh sẽ có xu hướng giảm dần. Ngoài ra, do vốn của các Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh thấp hơn nhiều so với mức huy động và cho vay cho thấy sự thiếu vốn của các ngân hàng này, do vậy, hệ số an toàn vốn của 4 ngân hàng náy là thấp, ước tính 3,4% - 5% thấp hơn hệ số an toàn vốn theo yêu cầu quốc tế là 8%. Điều này cho thấy thách thức đối với các ngân hàng này trrong thời gian tới khi hội nhập kinh tế toàn cầu, từng bước tự do hoá các giao dịch vốn sẽ chứa đựng rủi ro khi có biến động của thị trường tài chính quốc tế. Để chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu, từng bước tự do hoá cán cân vốn, thì hệ thống tài chính, đặc biệt là hệ thống ngân hàng cần phải đổi mới nhiều mặt. Trước hết các Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh cần phải được tăng cường vốn để đảm bảo chỉ tiêu an toàn vốn. Nợ tồn đọng cần phải được xử lý dứt điểm. Các ngân hàng thương mại cần được trang bị các công nghệ thông tin hiện đại để kịp thời nắm bắt các thông tin, diễn biến trên thị trường trên toàn hệ thống. Các cán bộ ngân hàng cần được nâng cao trình động về quản lý rủi ro trên cơ sở tài sản nợ có. Các Ngân hàng thương mại cần có các chiến lược Ngân hàngằm nâng cao khả năng cạnh tranh để chuẩn bị khi các Ngân hàng nước ngoài thực hiện nhiều hơn các loại hình dịch vụ không bị thôn tính thực hiện phần. Bên cạnh đó, các Ngân hàng thương mại cần nâng cao công tác kiểm soát nội bộ để dự báo rủi ro. Để giảm thiểu rủi ro trong quá trình hội Ngân hàngập trong bối cảnh còn nhiều lỗ hổng về thể chế, rủi ro có nhiều khả năng phát sinh do lợi nhuận thấp và thực hiệnếu vốn và với sự cạnh tranh mạnh mẽ của Ngân hàng nước ngoài khi mở rộng hơn hoạt động cho các Ngân hàng nước ngoài thì việc quản trị tài chính của các Ngân hàng thương mại quốc doanh cần phải được cải thiện đồng thời về phương diện Chính phủ mà người thay mặt là Ngân hàng nhà nước cần phải nâng cao khả năng giám sát tài chính toàn hệ thống tài chính. Để giám sát hiệu quả hệ thống tài chính, về phía Ngân hàng nhà nước, cần tăng cường công tác giám sát từ xa cũng như công tác thanh tra tại chỗ, xây dựng các chỉ tiêu giám sát theo CAMELS, thiết lập hệ thống xếp loại các tổ chức tín dụng theo CAMELS, xây dựng hệ thống cảnh báo và hệ thống thông tin quản lý để kịp thời trấn chỉnh hoạt động các tổ chức tín dụng cũng như hệ thống tài chính. Bên cạnh đó, cần tài chính công tác phòng ngừa rủi ro,đặc biệt là rủi ro ngoại hối cho toàn hệ thống. Các hạn mức như trạng thái ngoại hối tỷ trọng huy động và cho vay ngoại tệ dài hạn so với nguồn vốn huy động ngắn hạn, tỷ lệ đầu tư vào các cổ phần cổ phiếu ở nước ngoài của các tổ chức tín dụng cần được điều chỉnh kịp thời để đặc biệt tính thanh khoản và an toàn của toàn hệ thống. Chế độ thông tin báo cáo cần được cải thiện trên phương diện mẫu biểu cũng như hệ thống mạng hiện đại để đặc biệt Ngân hàng nhà nước có được các thông tin về hệ thống tài chính mmột cách kịp thời,chính xác.Có như vậy Ngân hàng nhà nước mới có đủ dữ liệu để phân tích và cảnh báo cho toàn hệ thống cũng như can thiệp khi cần thiết. Về phía Chính phủ, khả năng các nước cho thấy cần thiết phải có luật giám sát thanh tra để hoạt động giám sát thanh tra được thực hiện theo luật và để giám sát tốt hệ thống tài chính thì thanh tra cần có vai trò độc lập với hệ thống tài chính, đặc biệt độc lập với Ngân hàng nhà nước để thanh tra có đủ quyền lực giám sát hoạt động Ngân hàng. Khi tự do hóa tài khoản vốn thì doanh nghiệp cũng nhu hệ thống Ngân hàng đã được trao quyền tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình đồng thời cũng tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện đúng Pháp luật bao gồm trách nhiệm báo cáo đầy đủ theo quy định. Để việc thực thi báo cáo của doanh nghiệp và hệ thống Ngân hàng có hiệu quả, cần ban hành luật thông tin báo cáo như kinh nghiệm của Hàn Quốc và Trung Quốc tránh tình trạng mặc dù đã có quy định nhưng Ngân hàng nhà nước vẫn không có thông tin báo cáo từ Ngân hàng và doanh nghiệp một cách đầy đủ như hiện nay. Ngoài ra, Chính phủ nên cổ phần hóa một số các Ngân hàng thương mại quốc doanh để các Ngân hàng này sở hữu độc lập để khuyến khích các Ngân hàng này quản trị doanh nghiệp tốt trên cơ sở lợi nhuận và dự phòng rủi ro và hạn chế bảo lãnh một cách gián tiếp cho các Ngân hàng thương mại quốc doanh, cần xác định mục tiêu hoạt động rõ ràng cho đội ngũ quản lý của Ngân hàng thương mại quốc doanh, đảm bảo khả năng giám sát từ xa là độc lập với việc quản lý các Ngân hàng thương mại, tách chức năng thanh tra khỏi chức năng quản lý của Ngân hàng nhà nước. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu, từng bước tự do hóa cán cân vốn, mức độ can thiệp của Chính phủ vào các giao dịch này sẽ ngày càng giảm và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên, để duy trì sự ổn định chung của nền kinh tế vĩ mô, Chính phủ cần phải kiểm soát được toàn bộ các giao dịch của hệ thống tài chính bao gồm cả giao dịch vốn theo nghĩa nắm được mọi diễn biến, can thiệp một cách gián tiếp thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô để hạn chế hay khuyến khích các luồng vốn vào và ra. Để làm được điều này, công tác thống kê phải được đặc biệt chú trọng. Hệ thống báo cáo phải đảm bảo cung cấp những số liệu thống kê một cách chính xác, kịp thời để các cơ quan quản lý tiền tệ có thể đánh giá đúng được xu hướng vận động của các luồng vốn, phát hiện sớm những rủi ro và có biện pháp ứng phó thích hợp. Tuy nhiên, điểm hạn chế lớn nhất của hệ thống thống kê của Việt Nam hiện nay là sự phối hợp lỏng lẻo giữa các cơ quan có trách nhiệm cung cấp số liệu bởi chưa có một chế tài đủ mạnh nhằm bắt buộc thực hiện chế độ thông tin báo cáo.Mặt khác, do khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thống kê còn hạn chế nên số liệu thống kê chưa đảm bảo tính cập nhật. Do vậy, giám sát tốt hệ thống tài chính theo kinh nghiệm của Trung Quốc và một số nước trong khu vực thì cần luật hóa chế độ báo cáo thống kê để nâng cao tính hiệu lực thi hành báo cáo của Ngân hàng và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hệ thống báo cáo theo quy định 477 cần được trtiển khai sớm để thống nhất mẫu biểu báo cáo qua kênh mạng thay vì chế độ báo cáo theo giấy tờ trước đây. Đầu mối thông tin cần tập trung tại tổng cục thống kê để tránh chồng chéo trong thu thập số liệu gây khó khăn cho Ngân hàng và doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần tăng cường công tác phối hợp chia sẻ thông tin giữa các bộ nghành, cụ thể là giữa tổng cục thống kê với Ngân hàng, bộ tài chính bộ kế hoạch và đầu tư. Về phía các tổ chức tín dụng, cần nâng cao hiểu biết về các rủi ro đi kèm với các khoản tiền gửi,tín dụng, xây dựng các quy định kiểm soát rủi ro trên cơ sở tài sản nợ - có,xây dựng các hạn mức đầu tư, trạng thái ngoại hối riêng của mình, cải thiện công tác kiểm soát nội bộ và tuân thủ các giới hạn an toàn theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Từ các khuyến nghị trên có thể đưa ra lộ trình cải tổ công tác giám sát hệ thống tài chính trong thời gian sắp tới như sau : Trong ngắn hạn cần xây dựng đề án cải cách thanh tra giám sát phù hợp với chuẩn mực quốc tế về tổ chức,nghiệp vụ cơ chế điều hành giám sát mà cụ thể là ban hành quy chế mới đánh giá, xếp hạng các tổ chức tín dụng theo tiêu chuẩn CAMELS, bổ sung điều chỉnh quy chế kiểm toán độc lập cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế.Hoàn thiện quy định về an toàn hoạt động Ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế, sửa đổi quy định về vốn tự có, phân loại tài sản có, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro. Trong trung hạn cần xây dựng khuôn khổ quy trình và phương pháp thanh tra giám sát dựa trên cơ sở rủi ro, thiết lập hệ thống cảnh báo sớm để phát hiện các tổ chức tín dụng đang gặp khó khăn thông qua giám sát từ xa và xếp hạng tổ chức tín dụng, xây dựng sổ tay thanh tra tại chỗ các tổ chức tín dụng Việt Nam để các thanh tra viên sử dụng như cẩm nang thanh tra giám sát. Ban hành quy định về tiêu chuẩn và yêu cầu tối thiểu đối với hệ thống quản lý rủi ro hiệu quả tại tổ chức tín dụng, bao gồm hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ, hệ thống quản lý tài sản nợ có và hệ thống quản lý rủi ro tín dụng rủi ro thanh khoản rủi ro thị trường đồng thời đảm bảo việc tuân thủ các quy định này.Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và tham gia các hiệp ước, thỏa thuận quốc tế về thanh tra giám sát Ngân hàng và an toàn hệ thống tài chính. Tăng cường trao đổi thông tin với các cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng nước ngoài để phối hợp hoạt động trong kiểm soát rủi ro và tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật công nghệ thanh tra giám sát tiên tiến. Phát triển đội ngũ cán bộ thanh tra giám sát đủ về số lượng và có trình độ nghiệp vụ cao, có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt, được trang bị kiến thức Pháp luật, quản lý và các công cụ thực thi nghiệp vụ. xây dựng và triển khai kế hoạch đào tạo ở trong và ngoài nước các cán bộ thanh tra Ngân hàng về nghiệp vụ tài chính – Ngân hàng hiện đại, quản trị rủi ro và các phương pháp thanh tra giám sát tiên tiến. 2.4 Các phương thức hoạt động của thanh tra ngân hàng tại Việt Nam Trước yêu cầu đổi mới về hoạt động Thanh tra ngân hàng trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc đổi mới trong tổ chức, thanh tra ngân hàng đang dần thay đổi phương thức hoạt động của mình, từ thanh tra từng vụ việc là chính sang thực hiện hai phương thức giám sát từ xa và giám sát tại chỗ, từng bước kết hợp hai phương thức này thành công nghệ thanh tra hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra ngân hàng. Hai phương thức thanh tra trên là kết quả của quá trình phát triển hệ thống ngân hàng ở nước ta. Hiện nay nhiều nước trên thế giới đang thực hiện việc giám sát các ngân hàng thương mại theo các tiêu chí CAMELS. 2.4.1 Phương thức giám sát từ xa Giám sát từ xa là quá trình thu thập, xử lý số liệu báo cáo của các tổ chức tín dụng, tiến hành phân tích đánh giá tình hình hoạt động của các tổ chức tín dụng, lập báo cáo và ra các văn bản khuyến cáo đối với các tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo sự tuân thủ Pháp luật của các tổ chức tín dụng, cảnh báo sớm, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra, có tác dụng định hướng cho thanh tra tại chỗ, đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Phương thức giám sát từ xa phụ thuộc vào các yếu tố khuôn khổ luật pháp, hệ thống kiểm toán, chế độ hạch toán, kỷ luật thông tin báo cáo ở từng nước có vận dụng khác nhau về nội dung, về quy mô của phương thức này. Song có nét chung sau đây: Việc giám sát được thực hiện tại trụ sở của cơ quan giám sát, chứ không phải tại trụ sở của tổ chức tín dụng. Dựa vào nguồn thông tin từ chế độ thông tin báo cáo theo quy định, từ số liệu lịch sử và các nguồn thông tin khác. Xử lý thông tin, phân tích rút ra những nhận xét về thực trạng của từng tổ chức tín dụng và của cả hệ thống. Việc giám sát được thực hiện liên tục theo các định kỳ ngắn, thường là hàng tháng, hàng quý. Các chỉ số phân tích xếp loại đều dựa trên khuôn khổ CAMELS. Các chương trình giám sát được thực hiện trên mạng máy tính. Giám sát từ xa được kết hợp với thanh tra tại chỗ chỉ ra những lĩnh vực và những đơn vị cần thanh tra tại chỗ. Để thực hiện phương thức giám sát từ xa đòi hỏi phải cung cấp đầy đủ và chính xác thông tin. Các tổ chức tín dụng có nghĩa vụ pháp lý gửi theo định kỳ, tháng quý, năm theo báo cáo tài chính đến thanh tra. Ngoài ra thanh tra ngân hàng còn thu thập các thông tin từ bên ngoài có liên quan đến ngân hàng và các lần tiếp xúc số liệu lịch sử, hồ sơ lưu trữ để thực hiện giám sát từ xa. Tại Việt Nam công tác giám sát từ xa bắt đầu được thực hiện từ năm 1991, qua các năm nghiên cứu củng cố và hoàn thiện chương trình giám sát từ xa ngày 09/11/1999 Thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành quy định số 398/1999/QĐ-NHNN3 về việc ban hành quy chế giám sát từ xa với các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam Từ khi quy chế giám sát từ xa ra đời thanh tra ngân hàng thực hiện giám sát tổ chức tín dụng theo hai cấp gồm Thanh tra ngân hàng nhà nước ; thanh tra chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh. Đối tượng giám sát - Đối với Thanh tra ngân hàng nhà nước + Tổ chức tín dụng nhà nước + Tổ chức tín dụng liên doanh + Chi nhánh ngân hàng nước ngoài + tổ chức tín dụng phi ngân hàng 100% vôn nước ngoài + Quỹ tín dụng nhân dân Trung Ương - Thanh tra ngân hàng nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố + Tổ chức tín dụng cổ phần của nhà nước và nhân dân + Các chi nhánh tổ chức tín dụng nhà nước + Chi nhánh tổ chức tín dụng phi ngân hàng 100% vốn nước ngoài + Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Nội dung giám sát Thông qua tổng hợp và phân tích các báo cáo nhận được từ các tổ chức tín dụng để đánh giá các nội dung sau : Diễn biến cơ cấu tài sản nợ và có Chất lượng tài sản nợ và có Vốn tự có Tình hình thu nhập chi phí và kết quả kinh doanh. Việc chấp hành quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng và các quy định khác của Pháp luật Các vấn đề liên quan khác. Việc đánh giá các nội dung trên dựa vào việc phân tích các chỉ số tài chính của tổ chức tín dụng. Kết quả việc thực hiện các nội dung giám sát có vai trò quan trọng trong việc đánh giá xếp loại các tổ chức tín dụng và đưa ra những cảnh báo cho các tổ chức tín dụng về những vấn đề quan tâm. Hiện nay tại nhiều nước trên thế giới phương thức giám sát từ xa đối với các ngân hàng thương mại được chọn làm phương thức giám sát thanh tra chủ yếu. Phương thức này có tính tích cực cao vì nó góp phần cảnh báo, phòng ngừa rủi ro đối với các ngân hàng thương mại. 2.4.2 Phương thức thanh tra tại chỗ. Phương thức thanh tra tại chỗ là phương thức thanh tra cổ điển những không có phương pháp nào thay thế được nó. Thanh tra tại chỗ được thực hiện tại trụ sở của tổ chức tín dụng. thanh tra viên được tiếp cận với chứng từ sổ sách hồ sơ con người và sự việc cụ thể. Những kết luận quan trọng nhất có thể được đưa ra sau khi đã thanh tra tại chỗ và đcj ghi vào trong kết luận thanh tra. Thanh tra tại chỗ được tiến hành định kỳ hoặc đột xuất thường được tổ chức dưới hình thức đoàn thanh tra để thanh tra một đơn vị trong một thời gian nhất định. Mục tiêu của thanh tra tại chỗ Đánh giá tình hình chấp hành chính sách, Pháp luật, các chế độ, thể lệ của ngành ngân hàng. Giúp các tổ chức tín dụng thấy được mặt tích cực , những mặt còn tồn tại để tiếp tục phát huy những mặt tích cức, khắc phục những tồn tại và kiến nghị những biện pháp trấn chỉnh đảm bảo tổ chức tín dụng hoạt động đúng chính sách Pháp luật, chế độ, thể lệ, và hoạt động có chất lượng, hiệu quả hơn. Phát hiện những vấn đề mới phát sinh, những quy định chưa hợp lý để kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện theo quy định hiện hành. Nội dung của thanh tra tại chỗ Thanh tra quản trị điều hành. Thanh tra nguồn vốn Thanh tra chất lượng tín dụng Thanh tra nghiệp vụ bảo lãnh Thanh tra hoạt động kinh doanh ngoại tệ Thanh tra hùn vốn liên doanh Thanh tra nghiệp vụ tài chính kiểm toán. Ở Việt Nam hoạt động thanh tra tại chỗ của ngân hàng nhà nước đối với ngân hàng thương mại thực sự được chú trọng từ khi pháp lệnh thanh tra và pháp lệnh ngân hàng ra đời. Trong điều kiện khi các phương tiện và việc xây dựng các tiêu chí cho việc giám sát từ xa còn hạn chế, các ngân hàng thương mại chưa xây dựng cho mình được hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ hữu hiệu thì phương thức thanh tra kiểm tra tại chỗ vẫn có vai trò rất quan trọng trong việc phát hiện ra sai phạm và ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng. 2.4.3 Phương pháp đánh giá và xếp loại các tổ chức tín dụng theo CAMELS vận dụng ở Việt Nam Ở Việt Nam việc xếp loại các ngân hàng thương mại cổ phần đã bắt đàu được thực hiện từ năm 1998 theo quyết định số 292/1998/QĐ – NHNN5 ngày 27/08/1998 của thống đốc ngân hàng nhà nước. Sau đó để phù hợp với các quy định hiện hành và tình hình hoạt động của các ngân hàng thương mại ngày 16/04/2004 Thống đốc ngân hàng nhà nước đã ban hành quyết định số 400/2004/QĐ-NHNN thay thế cho quyết định trước đó. Quyết định này đã đưa việc xếp loại các tổ chức tín dụng Việt Nam tương đối gần với cách phân loại đánh giá các ngân hàng thương mại theo tiêu chí CAMELS Các chỉ tiêu đánh giá xếp loại theo quyết định trên của ngân hàng nhà nước bao gồm : Vốn tự có Chất lượng hoạt động Công tác quản trị, kiểm soát, điều hành. Kết quả kinh doanh Khả năng thanh khoản Vốn tự có : Mức điểm tối đa là 15 điểm, tối thiểu là -2 điểm Các tổ chức tín dụng đạt 10 điểm về vốn tự có phải có đủ các điều kiện sau: - Vốn điều lệ đủ mức vốn pháp định - Đảm bảo an toàn vốn mà cụ thể là + duy trì vốn điều lệ thực có không thấp hơn vốn điều lệ đã đăng ký tại sở kế hoạch và đầu tư tỉnh, thành phố nơi tổ chức tín dụng đặt trụ sở. + Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đạt mức quy định của ngân hàng nhà nước + Đảm bảo các quy định cua ngân hàng nhà nước về cổ đông cổ phần cổ phiếu Điểm thưởng tối đa là 5 điểm : Các tổ chức tín dụng được cộng thêm 5 điểm phải có vốn điều lệ trên 300% vốn pháp định Chất lượng hoạt động : Mức điểm tối đa 35 điểm - Chất lượng tín dụng : Mức điểm tối đa 25,tối thiểu 0 điểm. Tổ chức tín dụng đạt tối đa 25 điểm về chỉ tiêu chất lượng tín dụng phải đảm bảo: + Tỷ lệ giữa tổng các khoản nợ xấu so với tổng dư nợ nhỏ hơn hoặc bằng 2 + không có nợ khó đòi và nợ khó đòi ròng nhỏ hơn hoặc bằng 0. - Chất lượng bảo lãnh : Mức điểm tối đa 5 điểm, tối thiểu 0 điểm Tổ chức tín dụng đạt điểm tối đa 5 điểm về chỉ tiêu chất lượng bảo lãnh phải không có nợ bảo lãnh quá hạn. (3) Quản trị, kiểm soát, điều hành : Mức điểm tối đa 15 điểm, tối thiểu 0 điểm Tổ chức tín dụng đạt điểm tối đa 15 điểm phải đảm bảo các điều kiện sau: Thành viên hội đồng quản trị, kiểm soát viên phải có đủ số lượng theo quy định Ban hành và thực hiện tốt các quy chế nội bộ Hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ tưng xứng với quy mô ngân hàng và hoạt động hiệu quả, đảm bảo các rủi ro quan trọng luôn được nhận dạng, đo lường kiểm tra kiểm soát một cách liên tục. Các thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, ban điều hành có năng lực, đoàn kết, có ý thức chấp hành Pháp luật, có trách nhiệm, thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn trong việc quản trị kiểm soát điều hành tổ chức tín dụng Kết quả kinh doanh : Tổng số 20 điểm Kết quả kinh doanh : tối đa 15 điểm với điều kiện có lãi trước thuế so với vốn chủ sở hữu từ 20% trở lên. Tỷ lệ thu dịch vụ trong tổng thu nhập đạt 40% trở lên được thưởng 5 điểm Khả năng thanh khoản : Mức điểm tối đa 15 điểm, tối thiểu -6 điểm Khả năng thanh toán ngay = tài sản có có thẻ thanh toán ngay /tài sản nợ phải thanh toán ngay. Tổ chức tín dụng đảm bảo tỷ lệ khả năng chi trả theo quy định của ngân hàng nhà nước đạt điểm tối đa là 9 điểm. Tỷ lệ sử dụng vốn trung và dài hạn : Tổng dư nợ cho vay trung dài hạn/ Nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn, nếu đạt 100% hoặc nhỏ hơn 6 điểm. Trên đây là mức điểm tối đa các tổ chức tín dụng đạt được còn nếu không đạt được các điều kiện trên sẽ bị trừ điểm tùy theo mức ở điều kiện nào. Phương pháp đánh giá xếp loại : Việc đánh giá xếp loại các tổ chức tín dụng được căn cứ vào số điểm của từng chỉ tiêu đã quy định. Nguyên tắc tính điểm là lấy điểm tối đa trừ đi số điểm bị trừ của từng chỉ tiêu. Những tổ chức tín dụng không có hoạt động nghiệp vụ theo các quy định tại quy định này thì không cho điểm đối với các chỉ tiêu quy định tại nghiệp vụ đó. Số liệu để xem xét cho điểm được căn cứ : Số liệu trên bảng cân đối tài khoản (cấp III, IV, V), số liệu báo cáo thống kê của tổ chức tín dụng tại thời điển 31/12 hàng năm., số liệu qua công tác thanh tra giám sát của ngân hàng nhà nước, các số liệu khác có liên quan như kết quả kiểm toán, báo cáo tài chính của tổ chức tín dụng Tổ chức tín dụng xếp loại A có tổng số điểm đạt từ 80 trở lên và có điểm của từng chỉ tiêu không thấp hơn 65% điểm tối đa của từng chỉ tiêu đó Tổ chức tín dụng xếp loại B có tổng số điểm đạt từ 60 điểm đến 79 điểm và có điểm của từng chỉ tiêu không thấp hơn 50% điểm tối đa của từng chỉ tiêu đó; hoặc có tỏng số điểm cao hơn 79 nhưng có điểm số của từng chỉ tiêu từ 50% đến 65% số điểm tối đa của chỉ tiêu đó. Tổ chức tín dụng xếp loại C có tổng số điểm đạt từ 50 điểm đến 59 điểm và có điểm của từng chỉ tiêu không thấp hơn 45% điểm tối đa của từng chỉ tiêu đó.Hoặc có tổng số điểm cao hơn 59 điểm nhưng điểm số của từng chỉ tiêu từ 45% đến dưới 50% số điểm tối đa của chỉ tiêu đó. Tổ chức tín dụng xếp loại D có tổng số điểm duới 50 điểm hoặc có tổng số điểm cao hơn 50 điểm nhưng có điểm số của từng chỉ tiêu thấp hơn 45% số điểm tối đa của chỉ tiêu đó.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0103.doc
Tài liệu liên quan