Chuyên đề Đánh giá hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - Chi nhánh Hoàng Mai

Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng TMCPCTVN – Chi nhánh Hoàng Mai em đã tìm hiểu thêm được nhiều hoạt động của toàn Chi nhánh: hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp nói riêng. Trong điều kiện hiện nay, với sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế trong năm 2009 thì vấn đề mở rộng cho vay phải đề ra một cách hợp lý, sao cho vừa hiệu quả , vừa an toàn. Đảm bảo được sự phát triển của Chi nhánh nói riêng và Ngân hàng Công thương nói chung trong sự suy thoái của kinh tế toàn cầu. “Đánh giá hoạt động cho vay các doanh nghiệp” là rất quan trọng với sự phát triển của Ngân hàng. Qua phân tích ở trên có thể thấy hoạt động cho vay doanh nghiệp tại Chi nhánh đã đạt được hiệu quả đáng kể: ngày càng tăng về doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ, và ngày càng giảm dần tỷ lệ nợ quá hạn. Đó thực sự là một kết quả đáng khích lệ cho Chi nhánh trong giai đoạn kinh tế suy thoái vì không phải Ngân hàng nào cũng làm được. Đặc biệt là với một Chi nhánh còn non trẻ trong thâm niên hoạt động như Ngân hàng TMCPCTVN -Hoàng Mai.

doc55 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - Chi nhánh Hoàng Mai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lên đến 208,5 tỷ đồng (năm 2009 so với năm 2008) tương ứng với sự tăng lên của tốc độ tăng từ 19,75% lên 71.65%. Tóm lại, Ngân hàng chủ yếu và đã đáp ứng hiệu quả nhu cầu vốn của các doanh nghiệp quốc doanh. Đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mặc dù đã có sự chú trọng song vẫn chưa khai thác hết tiềm năng của đối tượng này. 2.1.2. Cơ cấu cho vay khách hàng doanh nghiệp theo thời hạn cho vay Theo cách này, phân loại cho vay tại Ngân hàng TMCPCTVN – Chi nhánh Hoàng Mai chia thành : Cho vay ngắn hạn : Là hình thức cho vay trong đó thời hạn của các khoản vay là từ một năm trở xuống. Hình thức vay này nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Phần lớn các khoản vay này có thế chấp hoặc cầm cố tài sản. Các doanh nghiệp bán lẻ, chế biến thực phẩm, sản xuất hàng theo thời vụ là khách hàng chủ yếu của Ngân hàng. Cho vay trung và dài hạn : Là hình thức vay trong đó thời hạn cho vay lớn hơn một năm. Doanh nghiệp có nhu cầu vay trung và dài hạn để mua trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kỹ thuật, công nghệ. Để tồn tại nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng cao. Một trong những yêu cầu cho vay của Ngân hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư, cũng như quy trình thực hiện dự án. Thẩm định dự án là điều kiện để Ngân hàng quyết định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp. Phân tích trong mục 1.2.3 và mục 2.1 nêu trên cho thấy cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn hơn so với cho vay trung và dài hạn, điều này thể hiện rõ rệt nhất trong năm 2007: cho vay ngắn hạn đạt 219 tỷ đồng chiếm 90,1%; trung, dài hạn đạt 24 tỷ đồng chiếm 9,9 % trong tổng doanh số cho vay. Tuy nhiên trong các năm 2008, 2009 thì tỷ trọng này giảm dần: cho vay ngắn hạn năm 2008 và năm 2009 lần lượt đạt 229,5 tỷ đồng và 327 tỷ đồng, tỷ trọng tương ứng với doanh số giảm dần từ 78,9% xuống 65,5 %; trung, dài hạn năm 2008 và 2009 lần lượt đạt 61,5 tỷ đồng và 172,5 tỷ đồng, tỷ trọng tương ứng với doanh số tăng từ 21,2 % lên 34,5 %. Điều này là thực trạng chung trong hầu hết các NHTM. Như trên đã phân tích ta thấy rõ dù tỷ trọng cho vay ngắn hạn ngày càng giảm qua các năm nhưng điều đó không có nghĩa doanh số cho vay và tốc độ tăng doanh số cho vay ngắn hạn giảm. Ngược lại, ta thấy sự gia tăng doanh số cho vay ngắn hạn là khá nhanh. Năm 2008 so với năm 2007 tăng 10,5 tỷ đồng, đến năm 2009 so với năm 2008 tăng lên đến 97,5 tỷ đồng, tương ứng với sự gia tăng của tốc độ tăng từ 4,79% lên 42,48%. Bên cạnh đó doanh số cho vay dài hạn cũng không ngừng tăng. Đáng nói hơn, sự tăng lên doanh số cho vay trung, dài hạn của năm sau so với năm trước đó là một con số thực sự đáng kể : năm 2008 so với năm 2007 tăng 37,5 tỷ đồng, năm 2009 so với năm 2008 tăng 111 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng từ 156,25% lên 180,49% và tốc độ tăng này cũng có chiều hướng tăng lên. Qua phân tích cho thấy, bên cạnh nghiệp vụ chủ yếu là cho vay ngắn hạn Chi nhánh vẫn không ngừng mở rộng hình thức cho vay trung và dài hạn. Điều này cũng phần nào cho thấy sự phát triển ngày càng lớn mạnh của Chi nhánh. Phải huy động được một lượng vốn đủ lớn Ngân hàng mới có thể tăng cường cho doanh nghiệp vay theo loại hình trung và dài hạn. Như đã nói ở trên, thông thường các Ngân hàng lớn thường mở rộng cho vay trung và dài hạn khi họ có một lượng tiền gửi dài hạn ngày càng tăng lên. Đây quả là điều đáng khích lệ đối với hoạt động cho vay của Ngân hàng và Ngân hàng cần tiếp tục phát huy và tận dụng tối đa những lợi thế từ kết quả đã đạt được. 2.2. Doanh số thu nợ khách hàng doanh nghiệp Trong nghiệp vụ cho vay, quá trình cho vay và thu nợ là hai giai đoạn có mối liên hệ vô cùng mật thiết. Công tác cho vay phải luôn được đảm bảo rằng chắc chắn phải đòi được nợ. Nếu chỉ một mặt chú trọng đến việc cho vay mà thả lỏng khâu đòi nợ thì chắc chắn Ngân hàng sẽ phải đối mặt với các khoản nợ quá hạn. Điều này cũng đồng nghĩa với việc Ngân hàng tự đưa mình vào kết cục của sự phá sản nếu các khoản nợ quá hạn là một con số không nhỏ. Xuất phát từ vấn đề đó, nội dung phân tích dưới đây nhằm làm rõ thực trạng thu nợ của Ngân hàng TMCPCTVN – Chi nhánh Hoàng Mai trong ba năm gần đây. 2.2.1. Doanh số thu nợ khách hàng doanh nghiệp theo khu vực kinh tế Ngân hàng thực hiện cho vay khách hàng doanh nghiệp tại hai khu vực kinh tế: quốc doanh và ngoài quốc doanh. Công tác thu nợ nhìn chung đạt hiệu quả. Doanh số thu nợ tăng dần qua các năm và tăng ở cả hai khu vực. Tuy nhiên công tác thu nợ trong năm 2008 gặp một chút khó khăn đối với khu vực kinh tế quốc doanh và Ngân hàng đã có những biện pháp phù hợp để thu hồi nợ đạt hiệu quả cao hơn ngay trong năm sau đó. Cụ thể ta xem xét bảng số liệu đây. Bảng 8.1: Tình hình thu nợ khách hàng doanh nghiệp theo khu vực kinh tế của Ngân hàng TMCPCTVN – Chi nhánh Hoàng Mai giai đoạn 2007- 2009 Đơn vị : Tỷ đồng Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh giai đoạn 2007 - 2009 Ngân hàng TMCPCTVN - Chi nhánh Hoàng Mai Cũng theo phân tích trong mục 1.3.2, doanh số thu nợ trong khu vực doanh nghiệp quốc doanh chiếm cao hơn so với ngoài quốc doanh. Thu nợ khu vực kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh lần lượt trong các năm là: năm 2007: 130,5 tỷ đồng và 55,5 tỷ đồng, tương ứng với tỷ trọng 70,2 % và 29,8 %; năm 2008: 129 tỷ đồng và 88,5 tỷ đồng, tương ứng với tỷ trọng 59,3 5 và 40,7 %; năm 2009: 229 tỷ đồng và 105,5 tỷ đồng, tương ứng với tỷ trọng 69,5 % và 30,5 %. Có sự thay đổi trong thu nợ nhìn chung là theo chiều hướng giảm dần tỷ trọng thu nợ quốc doanh và tăng dần tỷ trọng thu nợ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tuy nhiên sự thay đổi đó chưa nhiều. Tỷ trọng thu nợ ngoài quốc doanh trong năm 2008 đã có sự tăng lên so với năm 2007 từ 29,8% lên 40,7 % nhưng đến năm 2009 thì lại giảm đi còn 30,5 % mặc dù so với năm 2007 là vẫn tăng. Điều này có thể tạm đánh giá rằng công tác thu hồi vốn của Ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là chưa hiệu quả bằng việc thực hiện thu vốn đối với các doanh nghiệp quốc doanh. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào việc so sánh tỷ lệ giữa doanh số thu nợ của hai đối tượng doanh nghiệp này để đi đến kết luận trên là thiếu sót . Vì rất có thể Ngân hàng đã làm tốt công tác thu nợ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhưng do tỷ trọng doanh số cho vay của đối tượng doanh nghiệp này là thấp nên kết quả thu về là tỷ trọng thu hồi nợ cũng thấp theo. Do vậy, cần xem xét thêm các chỉ tiêu về chêch lệch và tốc độ tăng thu nợ mới có thể có cái nhìn toàn diện, chính xác vấn đề này. Năm 2008 so với năm 2007 doanh số thu nợ khu vực quốc doanh giảm 1,5 tỷ đồng tương ứng với tốc độ giảm là 1,15 % chứng tỏ việc thu hồi nợ khu vực quốc doanh trong năm 2008 là kém hiệu quả hơn so với năm 2007. Tuy nhiên, trong năm 2009 Ngân hàng đã khắc phục tốt nhược điểm trên. Thể hiện qua việc doanh số thu nợ quốc doanh tăng so với năm 2008 là 100,5 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng là 72,2 %. Riêng khu vực là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại có chiều hướng ngược lại. Năm 2008 so với năm 2007 tăng 33 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng 59,5 %, song sang năm 2009 doanh số thu nợ so với năm 2008 chỉ tăng 12 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng 13,56 %. Như vậy có thể thấy xét tại thời điểm gần nhất với thời điểm nghiên cứu thì việc thu hồi nợ tại khu vực doanh nghiệp quốc doanh là hiệu quả hơn so với khu vực ngoài quốc doanh. 2.2.2. Doanh số thu nợ khách hàng doanh nghiệp theo thời hạn cho vay Do tính chất của vốn trung, dài hạn là thời gian cho vay từ trên một năm trong khi Ngân hàng hoạt động mới hơn ba năm nên có một lượng vốn trung, dài hạn xét đến thời điểm hiện tại là chưa đến hạn thu hồi. Vì thế không thể tránh khỏi việc lượng vốn trung, dài hạn đã cho vay trong các năm là chưa thể thu hồi hết được. Điều này không có nghĩa là Ngân hàng không làm tốt việc thu hồi loại vốn này. Để làm rõ thực trạng thu hồi vốn của Ngân hàng ta xem xét bản số liệu sau. Bảng 9.1: Doanh số thu nợ khách hàng doanh nghiệp theo thời hạn cho vay của Ngân hàng TMCPCTVN – Chi nhánh Hoàng Mai giai đoạn 2007 – 2009 Đơn vị : Tỷ đồng Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh giai đoạn 2007 - 2009 Ngân hàng TMCPCTVN - Chi nhánh Hoàng Mai Doanh số thu nợ ngắn hạn chiếm tỷ lệ lớn hơn rất nhiều so với thu nợ trung và dài hạn. Điều này cũng dễ hiểu là do tính chất của loại hình cho vay này là ngắn hạn và do đó các khoản cho vay ngắn hạn thì khả năng hoàn vốn là nhanh hơn rất nhiều so với cho vay trung, dài hạn. Mặt khác hoạt động cho vay chủ yếu của Ngân hàng là cho vay ngắn hạn. Lý do cũng dễ giải thích vì với loại hình cho vay này tuy lãi suất thấp hơn so với cho vay trung, dài hạn nhưng lại mang đến cho Ngân hàng ít yếu tố rủi ro hơn với khả năng thu hồi vốn cao, vòng quay của vốn nhanh hơn. Tuy nhiên không phải vì thế mà Ngân hàng một mực chú trọng vào cho vay ngắn hạn. Mặt khác ta nhận thấy là càng ngày tỷ lệ thu hồi nợ trung và dài hạn càng tăng lên. Điều đó cũng có thể xem là càng ngày doanh số cho vay trung và dài hạn càng tăng và công tác thu hồi nợ trung và dài hạn ngày càng hoạt động hiệu quả. Thu hồi nợ trung và dài hạn của Chi nhánh hoạt động ngày càng hiệu quả. Tốc độ tăng thu nợ của năm sau so với năm trước tăng lên : năm 2008 so với năm 2007 là 7,5 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng là 125%. Con số này vẫn tiếp tục tăng trong năm 2009 so với 2008 là 21 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng là 155,56%. Thu hồi nợ ngắn hạn hoạt động tương đối ổn đinh. Tốc độ tăng chưa thật cao như thu hồi nợ trung và dài hạn nhưng nhìn chung với sự gia tăng của giá trị chênh lệch giữa năm sau so với năm trước đó từ 24 tỷ đồng lên 91,5 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng thu hồi nợ từ 13,3% lên 44,9% là hoàn toàn chấp nhận được. Tóm lại, việc thu hồi nợ ngắn hạn và trung, dài hạn đã đạt được kết quả khá khả quan: tổng doanh số thu hồi nợ tăng lên qua các năm: năm 2008 so với năm 2007 tăng 31 tỷ dồng, tương ứng với tốc độ tăng 16,9 %; năm 2009 so với năm 2008 tăng 112,5 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng 51,7 %. 2.3. Dư nợ khách hàng doanh nghiệp Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, chỉ tiêu tổng dư nợ là một trong những chỉ tiêu hàng đầu đánh giá hoạt động cho vay của các Ngân hàng. Bất kỳ một Ngân hàng nào muốn tồn tại và phát triển cũng đều cần phải quan tâm. Tại Ngân hàng TMCPCTVN – Chi nhánh Hoàng Mai doanh số dư nợ khách hàng doanh nghiệp tăng theo các năm ở cả hai khu vực kinh tế và hai loại hình cho vay theo thời hạn. Điều này hoàn toàn phù hợp với chính sách tăng trưởng tổng dư nợ của Ngân hàng. 2.3.1. Dư nợ khách hàng doanh nghiệp phân theo khu vực kinh tế Doanh số cho vay doanh nghiệp khu vực quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn hơn so với cho vay ngoài quốc doanh đã có tác động đến tổng dư nợ tại các khu vực kinh tế. Dư nợ khu vực kinh tế quốc doanh lớn hơn dư khu vực ngoài quốc doanh. Bảng 10.1: Dư nợ khách hàng doanh nghiệp phân theo khu vực kinh tế của Ngân hàng TMCPCTVN – Chi nhánh Hoàng Mai giai đoạn 2007 – 2009 Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu QD NQD Dư nợ Năm 2007 73,5 57 130,5 Tỷ lệ (%) 56,3 47,3 100 Năm 2008 126 78 204 Tỷ lệ (%) 61,8 38,2 100 Năm 2009 258 115,5 373,5 Tỷ lệ (%) 69,1 30,9 100 2008 so với 2007 Chênh lệch (tỷ đồng) 52,5 21 73,5 Tốc độ tăng (%) 71,4 36,8 56,3 2009 so với 2008 Chênh lệch (tỷ đồng) 132 37,5 169,5 Tốc độ tăng (%) 104,8 48,1 83,1 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh giai đoạn 2007 - 2009 Ngân hàng TMCPCTVN - Chi nhánh Hoàng Mai Dư nợ khu vực doanh nghiệp quốc doanh luôn chiếm tỷ lệ cao hơn khu vực ngoài quốc doanh. Tỷ lệ này càng ngày càng tăng lên theo các năm. Cụ thể tỷ lệ dư nợ khu vực doanh nghiệp quốc doanh là : Năm 2007 : 56,3%; năm 2008 : 61,8% ; năm 2009 : 69,1%. Dư nợ khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn chiếm tỷ lệ ít hơn và còn có xu hướng ngày càng giảm tỷ lệ này: năm 2007 : 43,7 %; năm 2008 : 38,2 %; năm 2009 : 30,9 %. Trong khu vực này doanh số dư nợ tăng lên cùng với tốc độ gia tăng thấp hơn so với khu vực quốc doanh. Năm 2008 so với năm 2007 dư nợ ngoài quốc doanh tăng 21 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng 36,8%; năm 2009 so với năm 2008 tăng 37,5%, tương ứng với tốc độ tăng 48,1 %. Tốc độ tăng dư nợ khu vực quốc doanh tăng. Chênh lệch năm 2008 so với năm 2007 là 52,5 tỷ đồng, sang năm 2009 chênh lệch so với năm 2008 là tăng lên đến132 tỷ đồng. Tương ứng với sự gia tăng của tốc độ tăng là: từ 71,4% lên 104,8% tăng 33,4%, gần gấp 3 lần so với tốc độ tăng dư nợ ngoài quốc doanh: từ 36,8% lên 48,1% tăng 11.3%. Do có sự tăng trưởng lớn dư nợ trong khu vực doanh nghiệp quốc doanh mà tổng dư nợ cũng tăng lên với một sự gia tăng lớn: năm 2008 so với năm 2007 là 73,5 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng 56,3%; năm 2009 so với năm 2008 tăng 169,5 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng là 83,1%. Chênh lệch tổng dư nợ trong năm 2009 so với năm 2008 (169,5 tỷ đồng) lớn hơn nhiều so với chênh lệch dư nợ của năm 2008 so với năm 2007 (73,5 tỷ đồng). Sự tăng trưởng của tổng dư nợ khách hàng doanh nghiệp cũng là một điều đáng khích lệ cho hoạt động cho vay doanh nghiệp của Ngân hàng. 2.3.2. Dư nợ khách hàng doanh nghiệp theo thời hạn cho vay Dư nợ khách hàng doanh nghiệp theo thời hạn cho vay cũng tăng lên qua các năm. Chủ yếu trong sự gia tăng tổng dư nợ khách hàng doanh nghiệp là sự gia tăng của dư nợ loại hình vốn vay trung, dài hạn. Dư nợ trung và dài hạn trong năm 2007 bị dư nợ ngắn hạn chiếm ưu thế song qua từng năm ưu thế này giảm dần và đến năm 2009 tình thế đã bị đảo ngược. Thể hiện cụ thể qua bảng 11.1 dưới đây thấy: cơ cấu tổng dư nợ theo thời hạn cho vay qua các năm: năm 2007, 2008, 2009 tỷ trọng dư nợ ngắn hạn và trung, dài hạn lần lượt là: 71,3 % và 28,7 5; 58,1 % và 41,9 %; 40,2 % và 59,8 %. Điều này cho thấy rõ đường lối chỉ đạo của lãnh đạo Ngân hàng là tập trung vào nâng cao dư nợ trung và dài hạn. Bảng 11.1: Dư nợ khách hàng doanh nghiệp theo thời hạn cho vay của Ngân hàng TMCPCTVN - Chi nhánh Hoàng Mai giai đoạn 2007 – 2009 Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu NH TDH Tổng dư nợ Năm 2007 93 37,5 130,5 Tỷ lệ (%) 71,3 28,7 100 Năm 2008 118,5 85,5 204 Tỷ lệ (%) 58,1 41,9 100 Năm 2009 150 223,5 373,5 Tỷ lệ (%) 40,2 59,8 100 2008 so với 2007 Chênh lệch (tỷ đồng) 25,5 48 73,5 Tốc độ tăng (%) 27,4 128 16,9 2009 so với 2008 Chênh lệch (tỷ đồng) 31,5 138 169,5 Tốc độ tăng (%) 26,6 161,4 83,1 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh giai đoạn 2007 - 2009 Ngân hàng TMCPCTVN - Chi nhánh Hoàng Mai Theo dõi bảng trên ta nhận thấy sự tăng về tốc độ tăng của dư nợ trung và dài hạn là khá cao, từ 128 % lên 161,4 %. Trong khi đó dư nợ ngắn hạn vẫn tăng đều qua từng năm, tuy rằng tỷ lệ tăng này có giảm đi chút ít nhưng không đáng kể, từ 27,4 % giảm xuống còn 26,6 %. Như vậy, có thể đánh giá là dư nợ cho vay của Ngân hàng tăng trưởng khá đều và ổn định, có sự thay đổi trong cơ cấu của tổng dư nợ theo thời hạn có chiều hướng tốt. 2.4. Nợ quá hạn của doanh nghiệp Nợ quá hạn là một chỉ tiêu phản ánh trực tiếp chất lượng hiệu quả hoạt động tín dụng nói chung và cho vay nói riêng đối với Ngân hàng. Nó cho biết mặt yếu kém của hoạt động cho vay nếu tỷ lệ nợ quá hạn là cao và ngược lại. Nợ quá hạn của doanh nghiệp Tỷ lệ nợ quá hạn của doanh nghiệp = Dư nợ khách hàng doanh nghiệp 2.4.1. Nợ quá hạn của doanh nghiệp theo khu vực kinh tế Chất lượng tín dụng của Ngân hàng là tốt. Tỷ lệ nợ quá hạn luôn ở mức an toàn (< 2%). Tỷ lệ nợ quá hạn luôn giảm theo các năm. Tổng nợ quá hạn cao nhất trong năm 2007, thấp nhất trong năm 2008. Nợ quá hạn tập trung chủ yếu ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Bảng 12.1: Tình hình nợ quá hạn theo khu vực kinh tế của doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCPCTVN – Chi nhánh Hoàng Mai giai đoạn 2007 – 2009 Đơn vị:Triệu đồng Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh giai đoạn 2007 - 2009 Ngân hàng TMCPCTVN - Chi nhánh Hoàng Mai Nợ quá hạn khu vực quốc doanh cao nhất trong năm 2008, ngược lại khu vực ngoài quốc doanh năm 2008 có nợ quá hạn thấp nhất. Khu vực quốcdoanh có nợ quá hạn là: năm 2007: 330 triệu đồng; năm 2008: 532,5 triệu đồng; năm 2009: 330 triệu đồng. Khu vực ngoài quốc doanh có nợ quá hạn là: năm 2007: 2242,5 triệu đồng; năm 2008: 1327,5 triệu đồng; năm 2009: 1615,5 triệu đồng. Nợ quá hạn khu vực ngoài quốc doanh chiếm phần lớn trong tổng nợ quá hạn. Khu vực doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh có sự tăng giảm tốc độ tăng đối nghịch nhau. Năm 2008 nợ quá hạn ở các doanh nghiệp quốc doanh ngày càng giảm trong khi ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng tăng. 2.4.2. Nợ quá hạn của doanh nghiệp theo thời hạn cho vay Nợ quá hạn theo thời hạn cho vay đạt thấp nhất trong năm 2008. Nợ quá hạn ngắn hạn giảm dần qua các năm trong khi nợ quá hạn trung, dài hạn tăng dần qua các năm. Bảng 14.1: Tình hình nợ quá hạn theo thời hạn cho vay của doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCPCTVN - Chi nhánh Hoàng Mai giai đoạn 2007 – 2009 Đơn vị: Triệu đồng Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh giai đoạn 2007 - 2009 Ngân hàng TMCPCTVN - Chi nhánh Hoàng Mai Trong những năm qua, doanh số cho vay trung, dài hạn ngày càng tăng lên, cơ cấu cho vay thay đổi theo hướng tăng dần tỷ trọng cho vay trung, dài hạn, đó là điều đáng khích lệ. Song việc Ngân hàng tăng cường cho vay mà lại không thu hồi được vốn về thì thực sự là việc làm nguy hiểm. Điều đó có nghĩa là đối với hình thức cho vay trung, dài hạn, Ngân hàng cần hết sức chú ý và tìm biện pháp khắc phục. 2.5. Hệ số sử dụng vốn huy động Trong những năm vừa qua Ngân hàng đã không ngừng huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư và có sử dụng những đồng vốn đó một cách hiệu quả. Nguồn vốn đi vay ngắn hạn được sử dụng một cách linh hoạt trong cả hoạt động cho vay ngắn hạn và trung, dài hạn theo đúng quy định của Ngân hàng Trung ương về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn. Vì vậy mà nguồn vốn của Ngân hàng luôn đảm bảo an toàn, hữu ích. Tổng dư nợ Hệ số sử dụng vốn = Vốn huy động Bảng 15.1: Hệ số sử dụng vốn huy động khách hàng doanh nghiệp của Ngân hàng TMCPCTVN - Chi nhánh Hoàng Mai giai đoạn 2007 - 2009 Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Vốn huy động 201 306 434,7 Tổng dư nợ 159,5 240 419,5 Hệ số sử dụng vốn (%) 79,35 78,43 96,5 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh giai đoạn 2007 - 2009 Ngân hàng TMCPCTVN - Chi nhánh Hoàng Mai Hệ số sử dụng vốn qua các năm lần lượt là: năm 2007: 79,35 %; năm 2008: 78,43 %; năm 2009: 96,5 % %. Hệ số này luôn lớn hơn 50%,điều này nghĩa là cho vay của Ngân hàng mở rộng so với tốc độ huy động vốn. Và tốc độ này là ngày càng tăng lên qua các năm tuy năm 2008 có giảm đôi chút so với năm 2007 là 0,92 %; năm 2009 so với năm 2008 là 18,07 %. Điều đó chứng tỏ quy mô hoạt động cho vay của Ngân hàng ngày càng được mở rộng. Nguồn vốn nhàn rỗi huy động được từ các tổ chức kinh tế và trong dân cư đã được Ngân hàng sử dụng ngày càng hiệu quả. 3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của Ngân hàng TMCPCTVN – Chi nhánh Hoàng Mai 3.1. Các nhân tố thuộc về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Thông tư số 15/2009/TT-NHNN, quy định tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam, trừ quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Theo đó, các Ngân hàng thương mại được sử dụng tối đa 30% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Tỷ lệ tương tự cũng áp dụng với công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính. Còn Quỹ tín dụng Nhân dân Trung ương chỉ được sử dụng 20%. Năm 2005, Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành quy định về vấn đề này, trong đó cho phép Ngân hàng thương mại được dùng 40% vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn. Các tổ chức tín dụng khác thực hiện theo tỷ lệ 30%. Thông tư mới ban hành cũng quy định cụ thể hơn về các nguồn vốn ngắn hạn, nguồn vốn trung hạn, dài hạn của tổ chức tín dụng và cách xác định tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn.Thông tư sẽ có hiệu lực thi hành sau 45 ngày kể từ ngày ký. Kể từ ngày thông tư có hiệu lực thi hành, tổ chức tín dụng có tỷ lệ vượt trần cho phép không được tiếp tục sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn và phải có biện pháp, kế hoạch điều chỉnh để đảm bảo đến ngày 1/1/2010 phải tuân thủ đúng tỷ lệ quy định. Như vậy, để thực hiện tốt Thông tư mới theo quy định của Ngân hàng Nhà nước thì Ngân hàng TMCPCTVN – Chi nhánh Hoàng Mai cần phải tăng cường hoạt động huy động vốn trung, dài hạn để đảm bảo có đủ vốn cho vay các khoản vay trung, dài hạn. Bên cạnh đó Ngân hàng cũng cần phải tăng cường hoạt động huy động vốn ngắn hạn hơn nữa để có thể có được nhiều vốn ngắn hạn hơn, kéo dài vòng quay của nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung, dài hạn. Năm 2010 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng tới tăng trưởng tín dụng hợp lý. Gần đây, NHNN đã phát đi tín hiệu về  khống chế tăng trưởng tín dụng 25% trong 2010 chỉ cao hơn một chút so với năm 2008, năm thắt chặt chính sách tiền tệ để chống lạm phát. Theo đó, năm 2010, tăng trưởng tín dụng sẽ bị kiểm soát chặt chẽ, tốc độ tăng trưởng sẽ bị siết chặt và chỉ bằng khoảng 2/3 so với năm 2009. Cụ thể, NHNN sẽ khống chế tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế chỉ tăng khoảng 25% trong 2010, thấp hơn nhiều so với mức 37,73% năm 2009. Định hướng này chắc chắn sẽ đảm bảo lãi suất không quá căng cho năm 2010. Điều này một mặt có tác động tốt là sẽ đảm bảo lãi suất ở các Ngân hàng ổn định trong năm 2010, tạo được sự yên tâm cho doanh nghiệp khi có nhu cầu vay vốn, thúc đẩy họ vay vốn nhiều hơn. Nhưng mặt khác nó cũng có tạo ra những thách thức giành cho Ngân hàng là khó thực hiện các chính sách ưu đãi về lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay, khó tạo ra sự khác biệt với các Ngân hàng khác. Điều đó đồng nghĩa với việc Ngân hàng càng phải có những cách thức mới để tạo ra sức cạnh tranh cho mình, thu hút các đối tượng khách hàng tham gia vào quá trình huy động và cho vay của mình. 3.2. Các nhân tố thuộc về Ngân hàng Công thương Việt Nam  Ngân hàng Công thương Việt Nam trong năm 2010 tiếp tục bám sát mục tiêu chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, phát triển tích cực các mặt hoạt động kinh doanh, thực hiện các bước đi vững chắc tiến đến xây dựng phát triển Tập đoàn Ngân hàng tài chính hàng đầu tại Việt Nam. Phương châm hoạt động của Ngân hàng CTVN là :  ‘An toàn - Hiệu quả - Hiện đại - Tăng trưởng bền vững’. Các chỉ tiêu kế hoạch của Ngân hàng CTVN năm 2010 : Tổng tài sản đạt 300 ngàn tỷ đồng, tăng trưởng 25%  Tổng nguồn vốn huy động tăng 30% Cho vay nền kinh tế tăng 30% Tỷ lệ nợ nhóm 2 < 3% Nợ xấu < 2% Tỷ lệ cho vay có đảm bảo bằng tài sản 85% Tỷ lệ cho vay trung, dài hạn < 42% Lợi nhuận trước thuế : 4.000 tỷ đồng Thu dịch vụ đạt: 1.500 tỷ đồng Là Chi nhánh của Ngân hàng Công thương Việt nam, mọi hoạt động của Ngân hàng TMCPCTVN – Chi nhánh Hoàng Mai đều chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ phía Ngân hàng CTVN. Với định hướng hoạt động trong năm 2010 nói trên của Ngân hàng CTVN, hoạt động cho vay của Chi nhánh phải đảm bảo đạt được mức lợi nhuận như kế hoạch đề ra trong tổng lợi nhuận của toàn Chi nhánh. Đặc biệt phải luôn đảm bảo duy trì tỷ lệ nợ nhóm 2 dưới 3 %, tỷ lệ nợ xấu dưới 2% theo đúng sự chỉ đạo của Ngân hàng CTVN. 4. Đánh giá hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCPCTVN – Chi nhánh Hoàng Mai 4.1. Những thành tựu Thứ nhất, trong những năm qua, doanh số cho vay của Ngân hàng tăng nhanh ở hầu hết các đối tượng và thời hạn cho vay, với tốc độ tăng cao hơn ở các năm sau so với các năm trước đó. Kết quả này cho thấy hoạt động cho vay của Ngân hàng đã kịp thời phục vụ nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp. Chính vì thế các doanh nghiệp dưới sự hỗ trợ vốn của Ngân hàng đã tăng cường và mở rộng được hoạt động sản xuất kinh doanh. Thành công của các doanh nghiệp góp phần làm tăng lợi nhuận cho Ngân hàng. Qua đó Ngân hàng đã đóng góp vào sự phát triển chung cho Ngân hàng Công thương và nền kinh tế của đất nước. Thứ hai, cơ cấu cho vay đối với các doanh nghiệp đa dạng hơn. Chi nhánh mở rộng cho vay đủ mọi thành phần kinh tế : kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh. Điều này cho thấy chi nhánh đã chú trọng tới mọi thành phần kinh tế. Chi nhánh cho vay mọi ngành nghề kinh doanh với việc áp dụng kỳ hạn khác nhau phù hợp với từng loại hình,ngành nghề kinh doanh. Vì vậy mà Chi nhánh có thể vừa đảm bảo tăng trưởng, vừa san sẻ rủi ro, đem lại hiệu quả kinh doanh cho cả Ngân hàng và doanh nghiệp. Thứ ba, dư nợ cho vay toàn chi nhánh ngày càng tăng. Cơ cấu dư nợ cho vay cũng thay đổi theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng dư nợ cho vay trung và dài hạn, giảm tỷ trọng dư nợ cho vay ngắn hạn. Điều này góp phần giúp cho Ngân hàng ngày càng mở rộng và phát triển hình thức cho vay trung và dài hạn song song với hình thức cho vay ngắn hạn. Thứ tư, chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngày càng được nâng cao. Hệ số sử dụng vốn trong các năm đều lớn hơn 50% Trong 3 năm qua, tuy có làm phát sinh các khoản nợ quá hạn song tỷ lệ nợ quá hạn càng ngày càng giảm theo các năm và luôn nằm trong mức an toàn. Đặc biệt trong khu vực kinh tế quốc doanh có tỷ lệ trong tổng dư nợ cao nhưng tỷ lệ nợ quá hạn rất thấp. Đó là sự nỗ lực của cả Ngân hàng và của cả doanh nghiệp vay vốn. Đội ngũ cán bộ Ngân hàng đã phải rất cẩn trọng trong việc thẩm định khách hàng vay vốn, dự án vay vốn cũng như giám sát theo dõi món vay một cách chặt chẽ. Những chuyển biến tích cực đó đã tạo cơ hội cho doanh nghiệp có thể dễ dàng hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng và càng ngày càng có nhiều cơ hội mở rộng sản xuất. Ngân hàng Công thương nói chung và Ngân hàng TMCPCTVN- Chi nhánh Hoàng Mai nói riêng khi tiếp cận với nhóm các khách hàng doanh nghiệp cũng tạo ra thế và lực riêng cho mình trong cuộc chạy đua với các ngân hàng khác. 4.2. Những hạn chế Thứ nhất, dù đã dành nhiều sự chú ý đến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhưng khối lượng cho vay các doanh nghiệp còn thấp, quy mô còn nhỏ bé so với cho vay các doanh nghiệp quốc doanh. Mặt khác tỷ lệ nợ quá hạn của khu vực này chiếm tỷ lệ cao so với khu vực các doanh nghiệp quốc doanh. Điều này đã tạo ra những khó khăn trong công tác thu hồi vốn của Ngân hàng, phần nào ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng và chưa thực sự tạo ra được bước phát triển mạnh cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thứ hai, mặc dù hết sức chú trọng vào công tác thẩm định tài chính, thu hồi vốn và đã tạo nên được những thành tựu đáng kể là tỷ lệ nợ quá hạn luôn trong mức an toàn. Song Ngân hàng vẫn còn có các khoản nợ xấu. Điều này là khó tránh khỏi trong hoạt động cho vay của hầu hết các Ngân hàng. Nhưng giảm tỷ lệ nợ xấu vẫn phải luôn luôn được coi là một trong những yêu cầu cần thiết nhất. Và một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng chính là phải làm sao để đưa tỷ lệ nợ xấu giảm xuống thấp nhất đến mức có thể và tốt nhất là về không. Thứ ba là tuy đã có sự phân loại đối tượng các doanh nghiệp cho vay thành hai nhóm thuộc thành phần kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh; song chưa có sự phân loại đa dạng hơn các đối tượng cho vay. Chính vì thế, qua các số liệu thu được không thể tổng hợp, đánh giá được hiệu quả cho vay doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Như vậy sẽ thiếu sót bởi vì sự phân loại này quyết định không nhỏ đến việc xác định cơ cấu cho vay phù hợp. Bởi lẽ lượng vốn cho vay của Ngân hàng cũng như nhu cầu vốn vay của hai loại hình doanh nghiệp này là tương đối khác nhau. Các doanh nghiệp lớn chính là đối tượng khách hàng cần nhiều vốn hơn, cũng như có khả năng chi trả gốc và lãi cao hơn; mang lại phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng. Lẽ tất nhiên các doanh nghiệp nhỏ và vừa không phải vì thế mà không đáng được chú ý . Vì hiện nay đối tượng này cũng đang được coi là một thị trường có nhiều tiềm năng. Như vậy với cách phân loại đối tượng cho vay đa dạng hơn, phần nào có thể có những đóng góp to lớn trong việc xác định phương hướng hoạt động cho công tác cho vay của Ngân hàng. 4.3. Những nguyên nhân 4.3.1. Về phía Nhà nước Trong cơ chế cho vay do Ngân hàng Nhà nước ban hành không có sự phân biệt, bất bình đẳng về việc cho thành phần kinh tế nào vay, vay bao nhiêu, song với những qui định khắt khe về tài sản đảm bảo…đã gây khó khăn cho doanh nghiệp khi tiếp cận nguồn vốn vay của Ngân hàng.. Cụ thể là doanh nghiệp đi vay phải có ít nhất là 30% vốn tự có trong tổng vốn một dự án đầu tư. Nghị định 178 về bảo đảm tiền vay đã bộc lộ nhiều bất cập. Bất cập trong việc chứng minh nguồn gốc tài sản đem thế chấp, cầm cố. Bất cập trong việc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay của các món vay quá hạn. Trong những trường hợp phát sinh khiếu kiện thì thủ tục tiến hành xét xử rất phiền hà, gây cho Ngân hàng tổn thất về thời gian và chi phí. Nếu Ngân hàng có thắng kiện buộc doanh nghiệp phải trả cả gốc lẫn lãi trong một thời gian nhất định thì việc thi hành án gặp nhiều khó khăn, đôi khi gây tổn thất cho Ngân hàng. 4.3.2. Về phía doanh nghiệp Khó khăn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là có qui mô vốn nhỏ, tài sản đảm bảo có giá trị thấp, không đủ để có thể vay lượng vốn lớn như doanh nghiệp mong muốn; hoặc doanh nghiệp có tài sản đảm bảo nhưng lại thiếu những giấy tờ chứng minh nguồn gốc, tính hợp pháp của tài sản đảm bảo. Trong khi các doanh nghiệp quốc doanh lại có được sự đầu tư vốn khá ổn định và quản lý chặt chẽ từ phía Nhà nước. Do vậy tỷ trọng doanh số cho vay, dư nợ của các doanh nghiệp này là thấp hơn các doanh nghiệp quốc doanh. Ngoài ra, các khoản nợ quá hạn phát sinh đều bắt nguồn từ phía một số doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Kết quả kéo theo là doanh nghiệp thua lỗ, không có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Hoặc một số doanh nghiệp cố tình giả mạo hồ sơ, lừa đảo nhằm chiếm dụng vốn của Ngân hàng. Cho dù Ngân hàng cố gắng cẩn trọng hết sức trong công tác thẩm định tài chính dự án của doanh nghiệp; nhưng cũng khó tránh khỏi những sai sót trước những thủ đoạn lừa đảo hết sức tinh vi đó. 4.3.3. Về phía ngân hàng Về công tác định giá tài sản bảo đảm. Mặc dù hiện nay Ngân hàng Nhà nước đã cho phép định giá tài sản bảo đảm theo giá thị trường, tuy nhiên để đảm bảo an toàn vốn vay, Ngân hàng vẫn phải định giá tài sản bảo đảm thấp hơn nhiều so với giá thị trường. Do vậy với một lượng vốn không đủ lớn lại thêm tác động từ phía Ngân hàng thì việc tiếp cận vốn của các doanh nghiệp là càng khó khăn hơn. Ngân hàng không có những thông tin đầy đủ chính xác về các doanh nghiệp, hay nói một cách khác, khả năng thu thập và xử lý thông tin của Ngân hàng (cụ thể nhất là của cán bộ tín dụng) còn chưa thực sự tốt. Các thông tin mà Ngân hàng thu thập được chủ yếu là do khách hàng cung cấp. Vì vậy việc đánh giá uy tín của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là khó đảm bảo chính xác. Và hậu quả kéo theo là các khoản nợ khó đòi, hoặc gây một số khó khăn nhất định cho Ngân hàng trong quá trình ra quyết định cho vay. CHƯƠNG II: GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG TMCPCTVN - CHI NHÁNH HOÀNG MAI 1. Định hướng phát triển hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCPCTVN - Chi nhánh Hoàng Mai Trước áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các Ngân hàng Thương mại trên địa bàn trong thời kỳ đất nước hội nhập. Để không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp. Đặc biệt hơn trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế như hiện nay, Ngân hàng TMCPCTVN – Chi nhánh Hoàng Mai đã đề ra một số định hướng cụ thể cho hoạt động của mình. Cụ thể như sau : Đẩy mạnh công tác huy động vốn. Tăng cường thêm các hình thức huy động vốn nhằm tăng nhanh nguồn vốn nội, ngoại tệ ổn định và vững chắc; khuyến khích huy động vốn trung và dài hạn và ngoại tệ. Mở rộng cho vay mọi đối tượng thuộc các thành phần kinh tế. Tăng cường cho vay các doanh nghiệp lớn và chú trọng khai thác tiềm năng các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Không ngừng tìm kiếm các dự án đầu tư hiệu quả. Tìm cách tiếp cận các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, các dự án trung và dài hạn nhằm tạo ra sự đột phá trong khâu kinh doanh nguồn vốn cả về tăng trưởng nguồn vốn lẫn thu dịch vụ thông qua việc giải ngân dự án. Thực hiện tốt hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ. Triển khai các dịch vụ thanh toán hiện đại, ứng dụng thương mại điện tử vào quy trình thanh toán, nâng cao tiện ích của các loại thẻ thanh toán nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng trong nước và quốc tế. Triển khai các tổ thu tiền lưu động ở cơ sở, làm tốt các thao tác, quy trình trong nghiệp vụ ngân quỹ nhằm đảm bảo an toàn kho quỹ. Nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ các hoạt động của Chi nhánh như: hệ thống các phòng làm việc, máy tính, các trạm rút tiền tự động,..Đặc biệt chú trong việc nâng cấp, mở rộng thêm các phòng giao dịch để tạo ra những lợi thế so sánh trong hoạt động kinh doanh với khách hàng của Ngân hàng so với các ngân hàng khác. Thực hiện việc đào tạo lại và tự đào tạo các cán bộ công nhân viên trong toàn Chi nhánh nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, kỹ năng nghiệp vụ cho họ; góp phần hết sức quan trọng vào sự phát triển của Chi nhánh trong những năm tiếp theo. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ để kịp thời phát hiện những sai sót để chấn chỉnh kịp thời, đảm bảo an toàn cho tài sản và nguồn vốn của Ngân hàng. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ban ngành liên quan, đặc biệt là Ngân hàng Công thương Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm tạo ra sự đồng bộ trong chủ trương chính sách hoạt động trong toàn hệ thống. Thực hiện kịp thời, đúng đắn các chế độ về lương bổng, khen thưởng, kỷ luật nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy đội ngũ nhân viên làm việc hiệu quả. Căn cứ vào tình hình hoạt động thực tiễn trong năm 2009 và các năm trước, cùng với xu hướng triển vọng trong những năm tiếp theo, Chi nhánh dự kiến đề ra những mục tiêu sau trong kết quả hoạt động kinh doanh năm 2010: Nguồn vốn huy động : 700 tỷ đồng Dư nợ cho vay : 500 tỷ đồng Lợi nhuận hạch toán : 25 tỷ đồng Tỷ lệ nợ quá hạn : 0,1% 2. Giải pháp tăng cường hoạt động cho vay Ngân hàng TMCPCTVN - Chi nhánh Hoàng Mai 2.1. Đẩy mạnh công tác huy động vốn Về nguyên tắc, để cho vay trung, dài hạn, các ngân hàng phải sử dụng nguồn vốn huy động, đúng chức năng, mục đích sẽ đảm bảo an toàn cho hoạt động thanh toán. Nhưng trên thực tế đang xảy ra tình trạng mất cân đối cơ cấu nguồn vốn huy động, với nhu cầu vay vốn trung, dài hạn lớn trong khi các NHTM lại thừa vốn ngắn hạn nhưng thiếu vốn trung, dài hạn cho vay. Mặc dù trước đây NHNN đã cho các NHTM sử dụng 30 % vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn nhưng Chi nhánh vẫn cần phải tích cực tìm kiếm được các nguồn vốn huy động trung, dài hạn. Để đạt được diều đó, trước hết Ngân hàng phải có chính sách lãi suất đủ để chấp dẫn khách hàng, phù hợp với từng thời gian địa điểm. Ngân hàng phải tạo ra được một danh mục các loại dịch vụ phong phú, đa dạng, phải có các các chiến lược thu hút khách hàng bằng cách giới thiệu, quảng cáo về các loại hình dịch vụ phục vụ khách hàng, làm thế nào để khách hàng hiểu được tính tiện ích, thuận lợi và dễ dàng khi đến với Ngân hàng. Chẳng hạn như dịch vụ gửi tiền vào một điểm và có thể rút ra ở nhiều điểm khác nhau, thẻ rút tiền tự động ATM, phát hành, mua bán các loại trái phiếu trung, dài hạn cho dân, phải mua bảo hiểm tiền gửi nhất là đối với các loại huy động trung, dài hạn để khách hàng an tâm gửi tiền vào Ngân hàng trong thời gian dài. 2.2. Xây dựng cơ chế cho vay phù hợp,linh hoạt vói các doanh nghiệp Một trong những nguyên nhân khiến cho tỷ trọng doanh số cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi nhánh còn thấp là do Ngân hàng chưa có những chính sách tín dụng thật sự hợp lý hướng đến đối tượng này. Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp này dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn của Ngân hàng, Chi nhánh cần phối hợp xây dựng một chính sách tín dụng phù hợp, linh hoạt. Về thủ tục cho vay: Cần phải đơn giản hóa thủ tục cho vay, gọn nhẹ mà vẫn đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng. Rút ngắn thời gian xét duyệt hồ sơ xin vay. Cần tạo sự đơn giản dễ hiều trong hồ sơ tín dụng, phù hợp với trình độ của mọi khách hàng đồng thời vẫn đảm bảo được điều kiện cơ bản trong hoạt động cho vay. Về điều kiện cho vay: Cần phải nới lỏng điều kiện vay vốn. Hiện nay, một vấn đề khiến các doanh nghiệp khó tiếp cận được với vốn vay Ngân hàng là điều kiện tài sản thế chấp. Để vay được một khoản tiền từ Ngân hàng thì doanh nghiệp cần thế chấp tài sản có giá trị lớn hơn khoản vay đó để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé, vốn chủ sở hữu là quá ít ỏi, giá trị tài sản không cao thì đây là thách thức lớn. Trên thực tế, một khoản vay cho dù có tài sản thế chấp nhưng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không hiểu quả thì cũng dẫn tới việc Ngân hàng mất vốn hoặc đọng vốn. Vì vậy, việc giải quyết, xử lý tài sản thế chấp ở nước ta hiện nay không đơn giản và dễ dàng chút nào. Ngược lại, cũng có một số khoản vay có thể không đáp ứng được điều kiện về thế chấp nhưng Ngân hàng vẫn quyết định cho vay. Nếu doanh nghiệp có phương án, dự án kinh doanh có tính khả thi cao, chủ doanh có uy tín và làm ăn có hiệu quả. Qua đó cho ta thấy, vẫn biết rằng tài sản thế chấp là tiêu chuẩn xét duyệt cho vay nhưng Ngân hàng cũng cần nhận thức rõ tài sản thế chấp không còn là điều kiện quan trọng nhất để Ngân hàng xem xét cho vay nữa, hay nói cách khác nó không phải điều kiện bắt buộc. Khi xem xét cho vay thì điều kiện quan trọng nhất chính là kết quả, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có được do vốn vay đem lại, uy tín trong làm ăn và sự sẵn lòng trả nợ của doanh nghiệp. Về thời hạn cho vay và kỳ trả nợ: Nhu cầu vốn của các doanh nghiệp là rất lớn, do phải đổi mới công nghệ sản xuất, mua mới, thay thế trang thiết bị. Một hợp đồng tín dụng có thời hạn cho vay phải căn cứ vào tình hình thực tế, khả năng sinh lợi và tuổi thọ máy móc. Cũng giống như thời hạn cho vay việc xác định kỳ hạn trả phù hợp hay không phụ thuộc vào chính bản thân Ngân hàng, mà cụ thể là cán bộ tín dụng trực tiếp quản lý món vay đó. Và phải luôn đảm bảo thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ tương thích với chu kỳ sản xuất kinh doanh. Về lãi suất cho vay: Ngân hàng có thể áp dụng các mức lãi suất khác nhau đối với từng loại hình cho vay, từng đối tượng doanh nghiệp cho vay, các ngành nghề kinh doanh khác nhau. Cần chú ý khuyến khích các doanh nghiệp đi vay bằng nhiều hình thức như: giảm lãi suất cho vay, khuyến mại các dịch vụ, sản phẩm tín dụng đi kèm. Về hình thức cho vay: Trong hoạt động tín dụng Ngân hàng trên thế giới có rất nhiều hình thức cho vay. Song hiện nay ở Việt Nam các hình thức này còn đơn điệu, một số hình thức cho vay không đúng như nhu cầu của khách hàng. Chẳng hạn như: các doanh nghiệp cần vay vốn trung, dài hạn nhưng bắt buộc phải vay vốn ngắn hạn để đầu tư trung, dài hạn, dẫn đến tình trạng lung túng về tài chính kể cả phải lo đảo nợ khi đáo hạn. Do đó, Ngân hàng cần tiếp tục tăng cường, đa dạng hóa, mở rộng hơn nữa các hình thức cho vay hợp lý, hiệu quả và phù hợp với từng doanh nghiệp như: Cho vay tín chấp: Dựa trên uy tín của khách hàng để quyết dịnh cho vay. Nên áp dụng với các donh nghiệp là bạn hàng lâu năm, đáng tin cậy. Cho vay bảo lãnh: Dựa trên sự bảo lãnh của một bên thứ ba có uy tín mà doanh nghiệp được phép vay vốn như: các doanh nghiệp lớn, các tổ chức khác có quan hệ tín dụng đáng tin cậy đối với Ngân hàng,… Cho vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu: Trong quan hệ mua bán giữa các doanh nghiệp với nhau thường xảy ra tình trạng mua bán chịu do các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để thu hút khách hàng. Với các doanh nghiệp đã có ít vốn lại bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn nên càng khó khăn, không đủ vốn để mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ. Để giúp đỡ các doanh nghiệp khắc phục khó khăn này, Ngân hàng đã tiến hành cho vay dưới dạng chiết khấu thương phiếu. Cùng với việc Pháp lệnh thương phiếu được ban hành có hiệu lực thì nhu cầu chiết khấu thương phiếu để bổ sung vốn lưu động thiếu hụt tạm thời ngày càng tăng. Đối với Ngân hàng thì đây là một hình thức cấp tín dụng có ít rủi ro, có tính thanh khoản cao vì khi có nhu cầu tiền mặt, Ngân hàng có thể mang thương phiếu đến tái chiết khấu tại NHNN. Với các doanh nghiệp, hình thức này giúp họ không bị gián đoạn trong sản xuất kinh doanh, bảo đảm vốn cho tiến trình phát triển. 2.3. Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp 2.3.1. Nâng cao hiệu quả khâu thẩm định Thẩm định hồ sơ vay vốn là khâu đầu tiên trong toàn bộ quá trình cho vay. Chất lượng thẩm định thế nào sẽ ảnh hưởng quyết định đến chất lượng tín dụng sau này. Cán bộ tín dụng nghiên cứu hồ sơ vay vốn cần chú ý các vấn đề cốt lõi sau: Năng lực pháp lý của khách hàng: Để đánh giá năng lực pháp lý, Ngân hàng căn cứ vào các giấy tờ chứng nhận về tư cách pháp nhân hoặc thể nhân của khách hàng. Ví dụ như: giấy phép thành lập, giấy đăng ký kinh doanh, điều lệ hoạt động, người đại diện pháp luật của doanh nghiệp,…Các giấy tờ đó phải chứng minh doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo đúng các quy định trong các luật tổ chức hoạt động của loại doanh nghiệp đó như: Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã, Luật đầu tư nước ngoài,… Năng lực tài chính của khách hàng: Được đánh giá qua các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp và các thông tin thu thập được từ các nguồn bên ngoài, trên cơ sở phân tích các chỉ tiêu tài chính chủ yếu. Từ đó, các bộ tín dụng có cái nhìn tổng quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, những con số trong các bản báo cáo tài chính chỉ cho chúng ta thấy những số liệu trong quá khứ. Để đưa ra được những quyết định đúng đắn nhất về khả năng thực sự của khách hàng, cán bộ tín dụng phải biết cách kết hợp những số liệu trên với những thông tin thu thập được. Từ đó, dự báo những tình huống có thể xảy ra trong quá trình thực hiện dự án để có biện pháp đối phó kịp thời. Hiệu quả phương án vay vốn và trả nợ: Thực tế và lý luận đã chứng minh điều kiện về tài sản thế chấp không phải là điều kiện quan trọng nhất. Tính khả thi, hiệu quả của phương án, dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn mới là điều kiện tiên quyết và không thể thiếu để Ngân hàng xem xét cho vay. Để đánh giá được một phương án, dự án có tính hiện thực, khả thi, hiệu quả thì cán bộ tín dụng cần tính toán các chỉ tiêu tài chính của dự án như: giá trị hiện tại ròng, tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư, thời gian hòa vốn, vòng quay của vốn lưu động,…Đối với những dự án thuộc lĩnh vực phức tạp, vượt khỏi tầm thẩm định của các cán bộ tín dụng thì phải thuê chuyên gia về lĩnh vực đó tư vấn thêm. Đánh giá các bảo đảm tiền vay: Tài sản đảm bảo tiền vay là các khoản thu để bù đắp khoản vốn mà Ngân hàng bỏ ra trong trường hợp khách hàng không trả được nợ. Trong quá trình thẩm định, cán bộ tín dụng phải kiểm tra thủ tục hồ sơ pháp lý, giấy tờ sở hữu, tiêu chuẩn tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh phải đúng với những quy định hiện hành. Tuy nhiên cần lưu ý là điều kiện doanh nghiệp phải đủ tài sản thế chấp chỉ là một trong những biện pháp bảo đảm vốn vay, phòng ngừa rủi ro khi dự án sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, hoặc gặp rủi ro ngoài dự kiến, hoạt động không hiệu quả. 2.3.2. Công tác giám sát quá trình sử dụng vốn vay Nâng cao vai trò công tác kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi cho vay là công việc quan trọng để đảm bảo chất lượng cho vay. Cán bộ tín dụng phải luôn ở thế chủ động giám sát quá trình sử dụng vốn vay của doanh nghiệp, đặc biệt là giám sát quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhanh chóng phát hiện kịp thời những tình huống có vấn đề và nguyên nhân của nó. Trên cơ sở đó đề ra những biện pháp khắc phục hoặc có phương cách bảo toàn được vốn vay, tránh thất thoát tiền vay. 2.3.3. Công tác xử lý nợ tồn đọng Cần tranh thủ sự ủng hộ của NHNH, Ngân hàng CTVN, chính quyền địa phương, cơ quan ban ngành để đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ và áp dụng các biện pháp mạnh đối với những con nợ chây ỳ. 2.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tín dụng Đào tạo không những về chuyên môn mà còn về khả năng giao tiếp với khách hàng, có thể giúp đỡ khách hàng trong việc thực hiện các dự án, phương án sản xuất kinh doanh. Củng cố và hoàn thiện đội ngũ cán bộ nói chung. Ngân hàng phải tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ tín dụng đi học nâng cao nghiệp vụ, đó là các điều về thời gian, tài chính. Ngoài ra, Ngân hàng cũng cần đề ra các chế độ thưởng phạt hợp lý để khuyến khích cán bộ tích cực trong công tác tín dụng. Khen thưởng kịp thời đối với những cán bộ có thành tích tốt, ngược lại cần có biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những người làm sai quy tắc, gây thiệt hại cho Ngân hàng. 3. Điều kiện thực hiện giải pháp Như đã phân tích ở trên, nguồn vốn huy động của Ngân hàng là tăng lên theo các năm. Năm 2007: 201 tỷ đồng, năm 2008: 306 tỷ đồng, năm 2009: 434,7 tỷ đồng. Đây chính là điều kiện tốt để Ngân hàng tiến hành giải pháp đẩy mạnh huy động vốn. Sự gia tăng của nguồn vốn huy động có thể sẽ kéo theo cả sự tăng lên của vốn huy động trung, dài hạn, giúp Ngân hàng có được một nguồn vốn trung, dài hạn lớn hơn phục vụ cho vay theo hình thức trung, dài hạn. Như vậy, giải pháp tăng cường vốn huy động cho Ngân hàng là khả thi. Về điều kiện thực hiện giải pháp xây dựng cơ chế cho vay phù hợp, linh hoạt với các doanh nghiệp có những thuận lợi, khó khăn nhất định. Cụ thể: Việc đa dạng hóa các hình thức cho vay với các hình thức kể trên là việc Ngân hàng có thể làm được, đặc biệt với hình thức cho vay bảo lãnh. Vì hiện nay đã có sự ra đời của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do đó hình thức cho vay này càng tỏ ra có ứng dụng thiết thực với doanh nghiệp có quy mô vốn ít ỏi vì vẫn có thể vay được vốn. Trong khi Ngân hàng vẫn có thể yên tâm thu hồi được vốn. Tuy nhiên, với hình thức cho vay tín chấp thì chưa khả thi vì số năm hoạt động của Ngân hàng mới chỉ trên ba năm, khó có cơ sở xác định được đối tượng doanh nghiệp nào là có chữ tín. Việc giảm lãi suất cho vay cũng nằm trong khả năng của Ngân hàng. Song Ngân hàng phải biết áp dụng khéo léo với từng đối tượng doanh nghiệp để mang về lợi nhuận cao nhất cho Ngân hàng từ doanh số cho vay tăng lên. Công tác đơn giản hóa thủ tục cho vay thực tiễn cho thấy là việc làm không hề dễ dàng. Hiện nay, tuy Ngân hàng CTVN đã sử dụng thống nhất một bộ hồ sơ cho vay đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp nhưng thực tế cho thấy vẫn có sự cồng kềnh trong thủ tục đi vay. Sự đơn giản hóa nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn trong hoạt động cho vay là vấn đề cần có thời gian và phải nghiên cứu hết sức kỹ lưỡng mới có thể thực hiện được. Việc nâng cao chất lượng tín dụng bằng cách nâng cao nghiệp vụ thẩm định tài chính dự án là một việc làm vô cùng khó khăn, đòi hỏi Ngân hàng phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng thành nghiệp vụ và giàu kinh nghiệm thực tế. Hiện tại, Ngân hàng đã tập hợp được một đội ngũ cán bộ tín dụng trẻ, giỏi kiến thức nghiệp vụ. Tuy nhiên, hạn chế là do trẻ nên họ chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm thực tế. Do vậy, tuy kết quả nợ xấu giảm dần nhưng vẫn còn trong các năm. Để thực hiện giải pháp này Ngân hàng nên có những thay đổi để có một cơ cấu cán bộ tín dụng theo độ tuổi hợp lý. Việc giám sát hoạt động của doanh nghiệp là hết sức khó khăn. Mặc dù cán bộ tín dụng có thể tận dụng sự phát triển của hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, các mối quan hệ với khách hàng trước đó và các mối quan hệ khác để đánh giá, giám sát hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác có thể dựa vào các báo cáo kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp để phần nào biết được tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Cần lưu ý rằng phần lớn các con số báo cáo của doanh nghiệp là thiếu trung thực. Công tác tăng cường đào tạo cán bộ tín dụng là hoàn toàn thực hiện được. Bởi lẽ nguồn thu nhập của Ngân hàng qua các năm hoàn toàn đủ khả năng để tảng trải cho hoạt động này mà vẫn đảm bảo cho việc chi cho các hoạt động khác. Hơn nữa, cán bộ tín dụng trẻ tuổi có thể học hỏi kinh nghiệm từ các cán bộ công tác lâu năm khác, học hỏi lẫn nhau để nâng cao kỹ năng nghiệp vụ, kinh nghiệm làm việc cho mình. KẾT LUẬN Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng TMCPCTVN – Chi nhánh Hoàng Mai em đã tìm hiểu thêm được nhiều hoạt động của toàn Chi nhánh: hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp nói riêng. Trong điều kiện hiện nay, với sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế trong năm 2009 thì vấn đề mở rộng cho vay phải đề ra một cách hợp lý, sao cho vừa hiệu quả , vừa an toàn. Đảm bảo được sự phát triển của Chi nhánh nói riêng và Ngân hàng Công thương nói chung trong sự suy thoái của kinh tế toàn cầu. “Đánh giá hoạt động cho vay các doanh nghiệp” là rất quan trọng với sự phát triển của Ngân hàng. Qua phân tích ở trên có thể thấy hoạt động cho vay doanh nghiệp tại Chi nhánh đã đạt được hiệu quả đáng kể: ngày càng tăng về doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ, và ngày càng giảm dần tỷ lệ nợ quá hạn. Đó thực sự là một kết quả đáng khích lệ cho Chi nhánh trong giai đoạn kinh tế suy thoái vì không phải Ngân hàng nào cũng làm được. Đặc biệt là với một Chi nhánh còn non trẻ trong thâm niên hoạt động như Ngân hàng TMCPCTVN -Hoàng Mai. Tuy nhiên vì là Chi nhánh mới hoạt động do đó Ngân hàng cũng không tránh khỏi những thiếu sót cần khắc phục. Cụ thể ở đây là: vẫn còn có một lượng vốn cho vay bị tồn đọng lại ở các doanh nghiệp mà Ngân hàng chưa thu hồi hết được.Cần có kế hoạch cụ thể để thực hiện các giải pháp đã được đề cập ở trên, đặc biệt chú trọng vào giải pháp về lãi suất, nâng cao hiệu quả khâu thẩm đinh tài chính doanh nghiệp, để hoạt động cho vay và các hoạt động khác của Ngân hàng đạt hiệu quả hơn. Một lần nữa em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thạc sỹ Hoàng Hương Giang cùng toàn thể các thầy cô trong Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế, và các cô chú, anh chị trong Ngân hàng TMCPCTVN – Chi nhánh Hoàng Mai đã tạo điều kiện tốt nhất cho em hoàn thành chuyên đề cuối khóa. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Tài liệu và số liệu do cán bộ tín dụng Ngân hàng TMCPCTVN – Chi nhánh Hoàng Mai cung cấp. 2.Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại – Giáo trình ĐHKTQD 3.Kế toán Ngân hàng – Giáo trình ĐHKTQD 4.Các tạp chí Ngân hàng các năm 2007, 2008, 2009.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25693.doc
Tài liệu liên quan