Chuyên đề Đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam từ năm 2001 đến nay

Kết quả của các dự án đầu tư nói chung và từ nguồn vốn ngân sách nhà nước nói riêng chịu ảnh hưởng rất nhiều của các tổ chức điều hành liên quan đến quá trình ban hành cơ chế chính sách, quá trình quản lý dự án đầu tư: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, vận hành khai thác kết quả đầu tư. Vì vậy, một dự án muốn thực hiện đảm bảo chất lượng, thời gian tiến độ thực hiện, chi phí thực hiện hợp lý cần: • Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đầu tư. Chất lượng của quy hoạch, kế hoạch xây dựng và thực hiện dự án của Việt Nam hiện nay còn rất thấp. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng đầu tư dàn trải không có trọng điểm, vì vậy cần phải có những biện pháp nâng cao chất lượmg của quy hoạch và kế hoạch cho chương trình, dự án đầu tư phát triển ngành giáo dục của Việt Nam trong thời gian tới như: tổ chức các buổi hội thảo về vấn đề xây dựng kế hoạch, quy hoach, tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn cho các đối tượng trực tiếp thực hiện lập quy hoạch, kế hoạch cho các chương trình dự án. Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước là đội ngũ trực tiếp liên quan đến kế hoạch phân bổ vốn đầu tư, chất lượng của cơ chế chính sách, cách thức điều hành và quản lý nguồn vốn trong dự án. Quá trình quản lý nguồn vốn trong dự án từ lúc hình thành dự án đến khi dự án được đưa vào vận hành khai thác là một quá trình bao gồm rất nhiều chủ thể tham gia, để đảm bảo cho quá trình đó vận hành đúng theo tiến trình đã đề ra và thực sự có chất lượng hiệu quả, phát huy được tác dụng của công trình đó thì đội ngũ cán bộ quản lý phải có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm để thích ứng xử lý khi cần có điều chỉnh đảm bảo sự hợp lý nguồn vốn cho các dự án. Tuy kế hoạch phân bổ vốn là kế hoạch dài hạn nhưng trong quá trình thực hiện các dự án nếu dự án nào thực hiện đúng quy trình và có hiệu quả nhưng còn thiếu vốn thực hiện thì có thể cắt giảm vốn từ dự án được cấp vốn nhưng dự án đó thực hiện không có hiệu quả, điều này sẽ đảm bảo thời gian giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và đảm bảo cho dự án được đầu tư có chất lượng cao. • Nâng cao năng lực của các tổ chức tư vấn trong nước. Sau khi gia nhập WTO Việt Nam chịu tác động rất nhiều ảnh hưởng từ những biến động của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế trong nước không chỉ đơn thuần bao gồm các doanh nghiệp trong nước hoạt động và cạnh tranh với nhau mà đã xuất hiện rất nhiều thành phần kinh tế nước ngoài tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế, chính vì vậy việc ban hành chính sách ngày càng đòi hỏi có sự khách quan đảm bảo quyền lợi của tất cả các thành phần kinh tế, không những vậy cơ chế chính sách của Việt Nam cần phải có yếu tố kích thích sự phát triển của các thành phần kinh tế. Việc hoạch định chính sách tổng quát đến những quy trình cụ thể để thực hiện các công việc cần có sự tham gia của rất nhiều bộ ngành, các tổ chức tư vấn đặc biệt là các tổ chức tư vấn uy tín của nước ngoài. Trong quá trình thực hiện giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, tổ chức tư vấn đóng vai trò quan trọng nhất là giai đoạn tư vấn về việc phân bổ vốn cho các ngành, các địa phương hợp lý, đầu tư trọng điểm, tránh dàn trải gây thất thoát, lãng phí nguồn vốn.

doc61 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1673 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam từ năm 2001 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a đáp ứng được nhu cầu vốn đầu tư của ngành. Về cơ sở vật chất nói chung của toàn ngành tuy đã có nhiều cải thiện nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng lên của xã hội, điều kiện về trường lớp, thiết bị giảng dậy, thư viện… chưa đáp ứng yêu cầu giảng dậy cho học sinh, sinh viên, định mức giáo dục trên đầu người chưa cao.Về đầu tư ký túc xá sinh viên: Trong những năm qua việc đầu tư xây dựng ký túc xá sinh viên tại các trường đại học, cao đẳng chiếm một tỷ trọng khá khiêm tốn trong tổng mức đầu tư (trung bình từ 15 – 17 %), vì nhu cầu đầu tư ký túc xá sinh viên là rất lớn, trong tổng số sinh viên có khoảng 70 – 80 % sinh viên có nhu cầu về chỗ ở nội trú, nhưng trong thực tế mới chỉ đáp ứng được 22 % số sinh viên hệ chính quy tập trung và chỉ là các đối tượng chính sách, còn lại đa số sinh viên phải tự thuê chỗ ở gây ra tình trạng học tập và sinh hoạt bị ảnh hưởng rất nhiều. Việc cải tạo xây dựng mới ký túc xá sinh viên là một nhu cầu rất bức xúc cần được giải quyết. Vốn xây dựng phòng học chuẩn cho tiểu học học 2 buổi một ngày, vốn cải tạo nâng cấp các phòng học cấp các phòng học cấp 4 của các trường phổ thông hiện có, vốn xây dựng các trung tâm hướng nghiệp tại các tỉnh hiện đã thực hiện nhưng còn khá nhỏ lẻ và còn tập trung tại các thành phố lớn; vốn để xây dựng và mở rộng các trung tâm giáo dục quốc phòng và xây dựng một số trung tâm mới một số trung tâm hiện tại năm 2006 mới bắt đầu thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư và tiến độ thực hiện đầu tư chậm. Nguyên nhân của việc thiếu vốn đầu tư giành cho giáo dục còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư của ngành là do nguồn vốn ngân sách nhà nước là nguồn vốn chủ yếu đầu tư phát triển ngành giáo dục đào tạo của Việt Nam, mà tổng nguồn vốn ngân sách rất hạn chế. Nhu cầu đầu tư lớn trong khi đó khả năng đáp ứng của nhà nước còn rất hạn chế, Nhà nước chỉ đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu vốn đầu của ngành. Vì vậy, trong thời gian tới không thể chỉ dựa vào nguồn vốn ngân sách nhà nước để đầu tư phát triển ngành giáo dục đào tạo. Theo kế hoạch phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2010, ngành Giáo dục và đào tạo sẽ không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, nhân viên, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên, tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục. Muốn thực hiện đổi mới giáo dục toàn diện mà chỉ sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước rất khó có thể đáp ứng được các nhu cầu đầu tư . Vấn đề huy động các nguồn lực, và sự đóng góp của toàn xã hội vào sự nghiệp giáo dục là rất cần thiết. 2.2.2.2. Tiến độ giải ngân chậm, tiến độ giải ngân nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài (vốn ODA) còn chậm, chưa đảm bảo được kế hoạch thực hiện. Vốn ODA chiếm 5% tổng vốn ngân sách nhà nước giành cho giáo dục và đào tạo. Các dự án sửa dụng vốn ODA đầu tư phát triển ngành giáo dục đào tạo có tiến độ giải ngân quá chậm và sự đầu tư chồng chéo giữa các dự án. Sau 10 năm sử dụng nguồn vốn ODA trong giáo dục, số dự án giáo dục tiểu học chiếm khoảng 47%, trung học 33%, đại học 19%. Những dự án này đã giúp Việt Nam giải quyết những vấn đề cấp thiết là nâng cao chất lượng giáo dục và công bằng giáo dục, nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý. Tuy nhiên, mức độ giải ngân của các dự án chưa đảm bảo đúng yêu cầu, cả 3 dự án đã kết thúc ở Việt Nam đều chưa đạt được 100 % giải ngân. Tốc độ giải ngân giữa các năm không đều nhau, trong 3 năm đầu, tốc độ giải ngân hầu hết của các dự án chưa đạt tới 20%, và có xu hướng tăng qua các năm. Vì vậy, các dự án không đảm bảo được tiến độ thực hiện. Tiến độ giải ngân của các dự án chưa đúng tiến độ là do: quản lý thực hiện dự án: Hầu hết các dự án đều gặp phải vấn đề chung là phức tạp về quản lý, thực hiện dự án bởi lẽ phải tuân thủ song song hai hệ thống quản lý của Chính phủ Việt Nam và nhà tài trợ. Khó khăn hơn nữa là những trường hợp vấp phải mâu thuẫn trong quy định của hai phía đối với cùng một vấn đề. Các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam như Nghị định số 131/2006/NĐ – CP ngày 9/11/2006 ban hành quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức hay Luật đấu thầu được quốc hội thông qua ngày 26/11/2005 đều hướng dẫn thực hiện không thống nhất ở các ngành, các cấp quản lý. Mặc dù điều đó cũng mang lại một số hoạt động tích cực như: giảm thiểu rủi ro các hoạt động, đảm bảo ngân sách của dự án được triển khai theo đúng mục tiêu để ra, tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cập dần đến với một khuôn khổ quản lý lý hiện đại, từ đó hoàn thiện hệ thống quản lý của mình. Tuy nhiên thời gian và công sức của nhiều công việc trong nhiều trường hợp phải tăng lên gấp đôi so với dự án đầu tư hoàn toàn từ ngân sách nhà nước. Cấu trúc bộ tổ chức bộ máy quản lý ở một số dự còn cồng kềnh, kém linh hoạt và hiệu suất thấp, năng lực của cán bộ còn nhiều bất cập và không có tính chuyên nghiệp, mất khá nhiều thời gian để làm quen với các quy trình, thủ tục của các nhà tài trợ. Tùy theo nội dung và tính chất của dự án, cơ cấu tổ chức quản lý cũng có những khác biệt nhất định. Trong quá trình thực hiện dự án, có một số thay đổi về giá vật liệu xây dựng, nhân công và chính sách về giá đất nên công tác đền bù đất đai ở các địa phương, các nơi có dự án được xây dựng gặp nhiều khó khăn dẫn đến khởi công công trình xây dựng cơ bản chậm. Vấn đề thiếu vốn đối ứng cũng là nguyên nhân gây chậm tiến độ thực hiện và tiến độ giải ngân của một số dự án. Một nguyên nhân khách quan trong quá trình triển khai dự án là địa điểm thực hiện hầu hết là những vùng sâu, vùng xa, khó khăn về điều kiện kinh tế - xã hội, năng lực nhân sự còn thấp. 2.2.2.3. Nguồn vốn giành cho đầu tư giáo dục phân bổ dàn trải, quá trình đầu tư chưa có trọng điểm. Các nhu cầu đầu tư phát triển rất lớn, ngân sách nhà nước có hạn, vì vậy nếu như không có sự bố trí hợp lý các chương trình, dự án thì thời gian thực hiện của dự án sẽ kéo dài, dẫn đến thất thoát lãng phí nguồn vốn. Một công trình nếu như được đầu tư trong thời gian từ 10 năm hoặc 20 năm thì chi phí dự toán sẽ lớn hơn rất nhiều chi phí ban đầu trong kế hoạch, do các yếu tố thời gian của tiền, lạm phát…đặc biệt khi thực hiện trong thời gian dài như trên thì bản thiết kế xây dựng sẽ không còn phù hợp với điều kiện của 10 hoặc 20 năm sau này. Chính vì điều này, hiện nay trên toàn quốc có rất nhiều công trình của các trường đại học có tiến độ thực hiện chậm, và dở dang. Đầu tư phát triển ngành giáo dục đào tạo còn dàn trải chưa có trọng điểm là do việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển còn yếu, chưa phù hợp với đặc điểm kinh tế, điều kiện ngân sách hiện có. Thời gian thực hiện của các dự án kéo dài, một số dự án có hiện tượng lượng vốn bố trí qua các năm có xu hướng giảm dần. Một số thiết kế do phụ thuộc quá nhiều vào ý kiến của các tổ chức đầu tư nước ngoài dẫn đến tình trạng các dự án không phụ hợp và phải lập kế hoạch lại; dự án Giáo dục đại học thiết kế mô hình lựa chọn hỗ trợ các trường đại học dựa trên cơ sở cạnh tranh về năng lực thực hiện dự án dẫn đến hiện tượng đầu tư dàn trải kéo dài, làm giảm hiệu quả đàu tư phải gia hạn thời gian thực hiện thêm 18 tháng, hay như đối với dự án Giáo dục cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đề ra mục tiêu lớn nhằm xây dựng hơn 9.000 điểm trường tại 40 tỉnh trong toàn quốc. Tuy nhiên, do không tính hết đặc thù của từng vùng, miền nên đã không dự trù kinh phí để thiết kế mẫu trường hoặc điều chỉnh thiết kế cho phù hợp, vì vậy trong quá trình triển khai dự án gặp phải rất nhiều khó khăn. 2.2.2.4. Vấn đề thiết kế quy hoạch các dự án chưa hiệu quả, chưa có sự chủ động và vẫn còn chịu ảnh hưởng của nhà tư vấn nước ngoài, đặc biệt là các dự án có sử dụng nguồn vốn ODA. Các dự án được đầu tư xây dựng luôn chịu sự quản lý của nhà nước về vấn đề quy hoạch, tuy nhiên trong quá trình xây dựng, các quy hoạch luôn có tính động nên rất dễ bị phá vỡ. Về vấn đề thiết kế các dự án đã triển khai, trong quá trình vận động, đàm phán các chương trình, dự án ODA, việc thiết kế dự án còn thụ động, còn phụ thuộc vào nhà trài trợ tư vấn nước ngoài, dẫn đến một số dự án thiết kế chưa tốt và chưa phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Dự án Giáo dục đại học thiết kế mô hình lựa chọn hỗ trợ các trừng đại học trên cơ sở cạnh tranh về năng lực thực hiện dự án dẫn tới hiện tượng đầu tư dàn trải và kéo dài, làm giảm hiệu quả đầu tư và phải gia hạn thêm 18 tháng. Dự án Giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đề ra mục tiêu lớm nhằm xây dựng hơn 9.000 điểm trường tại 40 tỉnh trong toàn quốc. Tuy nhiên, do không tính hết đặc thù của từng vùng, miền nên đã không dự trù kinh phí để thiết kế mẫu trường hoặc điều chỉnh thiết kế cho phù hợp, vì vậy trong quá trình triển khai dự án gặp nhiều khó khăn. Vấn đề thiết kế quy hoạch chưa hiệu quả là do, chất lượng của các đồ án quy hoạch không đảm bảo được tính dự báo, không khả thi trong thực tiến, dẫn đến phải điều chỉnh. Nhiều quy hoạch của các trường đã không hoàn thành đúng thời hạn, không đáp ứng được yêu cầu chất lượng, làm ảnh hưởng đến quản lý xây ở một số công trình. Đội ngũ làm công tác quản lý quy hoạch và thiết kế quy hoạch còn yếu, chưa theo kịp với chương trình của các tổ chức đầu tư nước ngoài. Mặc dù trong các bộ Luật của Việt Nam đã có những quy định trong việc phân cấp quản lý quy hoạch xây dựng, đất đai, đầu tư nhưng hiện nay đội ngũ cán bộ chưa đủ khả năng làm tốt công viêc, và chưa có được khóa đào tạo kịp thời cho nội dung công việc mới. Hiện nay, trong các quy hoạch phát triển có nhiều quy hoạch cùng có hiệu lực trên một địa bàn địa phương với nhiều nội dung không thống nhất, gây khó khă rất nhiều khi bắt tay vào thực hiện công trình đặc biệt trong khâu giải phóng mặt bằng để triển khai xây dựng. Một số quy hoạch kém chất lượng là do quy hoạch được xây dựng nhưng rất nặng về lý thuyết, khi thực hiện gặp phải rất nhiều khó khăn vì các điều kiện của địa phương không phù hợp để thực hiện thiết kế của công trình. 2.2.2.5. Quy trình, thủ tục thanh toán phức tạp, mất thời gian, qua nhiều khâu, nhiều ngành, nhiều cấp liên quan. Mỗi nội dung chi đều có đóng góp của 2 nguồn vốn đến từ 2 nơi khác nhau (Kho bạc và ngân hàng thương mại) với những tỷ lệ thanh toán khác nhau. Vấn đề hoàn thuế GTGT còn rất nhiều khó khăn đặc biệt đối với những dự án được phê duyệt trước khi Luật thuế GTGT được ban hành. Mặc dù quá trình hạch toán Dự án thực hiện theo cơ sở dồn tích, nhưng Báo cáo tài chính luôn phải lập theo 2 phương pháp. Chưa có tập huấn, hướng dẫn chính thức nào về lập báo cáo theo cơ sở tiền mặt. Khối lượng công việc kế toán Dự án luôn gấp 2 lần so với kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp đơn thuần do luôn phải đáp ứng yêu cầu từ hai phía là Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng thế giới. Quy trình thanh toán phức tạp, mất thời gian, do bộ máy quản lý hiện nay còn khá cồng kềnh, nhiều nhiệm vụ còn bị quy định chồng chéo lên nhau, dẫn đến hiệu quả của công việc thực hiện kém hiệu quả, khi xảy ra những bất cập thì rất khó xác định rõ trách nhiệm của bộ phận sẽ giải quyết vấn đề đó. Các quy trình để hoàn thiện các quy trình thủ thục đầu tư mất nhiều thời gian, điều này làm tăng thêm nhiều chi phí quản lý dự án, thuê chuyên gia nước ngoài, kéo dài thời gian của quá trình chuẩn bị thực hiện dự án. Đặc biệt đối với các dự án sử dụng nguồn vốn đầu tư của nước ngoài như các dự án dự án sử dụng vốn ODA thì các dự án phải tuân thủ song song hai hệ thống quản lý của chính phủ Việt Nam và nhà tài trợ, những quy định của hai bên về các vấn đề không phải lúc nào cũng có sự thống nhất của các bên và thường có những mâu thuẫn trong cùng một vấn đề. Hiện nay, quá trình quản lý đầu tư và xây dựng còn tập trung khá nhiều công việc ở cấp quản lý nhà nước, trách nhiệm còn quy định chung chung, làm cho các địa phương, các trường đại học chưa chủ động trong sử dụng nguồn vốn đầu tư có hiệu quả. Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH GIÁO DỤC BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG THỜI GIAN 3.1. Chiến lược đầu tư phát triển ngành giáo dục đến năm 2020 3.1.1.Quan điểm đầu tư phát triển ngành giáo dục đến năm 2020 3.1.1.1 Quan điểm quy hoạch Xây dựng, phát triển mạng lưới các trường đại học, cao đẳng đến năm 2020 theo định hướng cơ bản sau: Mở rộng hợp lý quy mô đào tạo đại học, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và tiềm lực khoa học công nghệ của đất nước; góp phần nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực và đào tạo nhân tài; thực hiện điều chỉnh cơ cấu hệ thống đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, thực hiện đào tạo theo nhu cầu của xã hội; gắn công tác đào tạo với nghiên cứu khoa học và đời sống xã hội. Kết hợp hài hòa giữa việc khai thác mặt tích cực của cơ chế thị trường với việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý nhà nước; nhà nước tăng cường đầu tư từ ngân sách, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục đại học; tạo quỹ đất xây dựng trường lớp, thực hiện công bằng xã hội; ban hành chính sách hỗ trợ vùng khó khăn, hỗ trợ người học thuộc các đối tượng ưu tiên, khuyến khích học tập, đồng thời đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục nhằm huy động mọi nguồn lực trong xã hội nhằm tham gia phát triển giáo dục đại học. Thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về chính sách, quy hoạch, chất lượng đào tạo, chuẩn giảng viên, các yêu cầu quản lý tài chính, hợp tác quốc tế đối với bậc đại học, cao đẳng. Tăng cường phân cấp quản lý, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học, cao đẳng; xây dựng một số trường đại học cao đẳng mạnh hình thành các cụm đại học, khắc phục hiện trạng manh mún, phân tán của mạng lưới, nhiều trường nhỏ, đào tạo đơn ngành, chuyên môn hẹp; khuyến khích sự phối hợp giữa các địa phương trong việc mở trường. Phát triển mạng lưới các trường đại học, cao đẳng phải phù hợp với chiến lược phát triển và điều kiện kinh tế xã hội, tiềm lực khoa học công nghệ của dất nước gắn với từng vùng, từng địa phương; xây dựng cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo, bố trí theo vùng miền hợp lý; xây dựng một số trung tâm đào tạo nhân lực chất lượng cao, gắn với các vùng kinh tế trọng điểm, vùng kinh tế động lực; hình thành một số trung tâm đào tạo nguồn nhân lực tập trung theo vùng, một số khu đại học đáp ứng yêu cầu di dời của các trường trong khu vực nội thị thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và nhu cầu đầu tư mới. Đảm bảo các tiêu chí quy định về chất lượng đội ngũ giảng viên, quy mô diện tích đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật trang thiết bị phù hợp với khả năng đầu tư của ngân sách nhà nước, sự huy động nguồn lực xã hội. Ưu tiên thành lập các cơ sở mới có đủ tiềm lực và điều kiện, hạn chế việc nâng cấp các cơ sở hiện có, khuyến khích đào tạo những ngành nghề thuộc lĩnh vực công nghiệp; cân đối hợp lý cơ cấu đào tạo giữa các trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dậy nghề, giữa các ngành nghề, giữa khoa học cơ bản, khoa học kỹ thuật công nghệ, đảm bỏa tính liên thông giữa các loại hình, các trình độ đào tạo. Tập trung đàu tư xây dựng các trường đẳng cấp quốc tế, các trường trọng điểm, các trường ở vùng sâu vùng xa, các vùng khó khăn, các lĩnh vực then chốt; khuyến khích phát triển các trường tư thục nhằn huy động ngày càng nhiều hơn nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục, trên cơ sở bảo đảm chất lượng, công bằng xã hội, gắn với phát triển nhân tài 3.1.1.2. Mục tiêu quy hoạch Phấn đấu đến năm 2010 đạt 200 sinh viên / 1 vạn dân, 300 sinh viên / 1 vạn dân vào năm 2015 và 450 sinh viên/ 1 vạn dân vào năm 2020. Đến năm 2020 có khoảng 70 – 80% sinh viên đại học được đào tạo theo các chương trình nghề nghiệp ứng dụng và 20 – 30 % sinh viên được đào tạo theo các chương trình nghiên cứu; 30 – 40 % sinh viên học tại các cơ sở giáo dục đại học tư thục. Đến năm 2010 có trên 40% giảng viên đại hịc và trên 30% giảng viên cao đẳng có trình độ thạc sỹ trở lên, có trên 25 % giảng viên đại học và 5% giảng viên cao đẳng có trình độ tiến sĩ. Đến năm 2015 có 70% giảng viên đại học và trên 50% giảng viên cao đẳng có trình độ thạc sỹ trở lên, có trên 50% giảng viên cao đẳng có trình độ thạc sĩ trơe lên, có trên 50% giảng viên đại học và ít nhất 10% giảng viên cao đẳng có trình độ tiến sĩ. Đến năm 2020 có trên 90% giảng viên đại học và trên 70% giảng viên cao đẳng có trình độ thạc sỹ trở lên , có trên 75 % giảng viên đại học và ít nhất 20% giảng viên cao đẳng có trình độ tiến sĩ Sau năm 2010 diện tích đát đai và diện tích xây dựng của cá trường đạt chuẩn định mức quy định về diện tích tính bình quân trên 1 sinh viên, hình thành các khu đại hịc dành cho các trường đại học nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Vào năm 2010 đảm bảo đủ giáo trình, tài liệu dành cho sinh viên theo quy định đối với các môn học, ngành học. Đến năm 2010 có 10 trường đại học mà mỗi trường có ít nhất 1 khoa (ngành) hoặc lĩnh vực đào tạo đạt tiêu chí chất lượng tương đương so với các trường có uy tín trên thế giới, đến năm 2015 có 20 trường đại học đạt tiêu chí nêu trên và năm 2020 có 1 trường đại học được xếp hạng trong số 200 trường đại học hàng đầu thế giới Nội dung quy hoạch: Tổng quy mô đào tạo đại học, cao đẳng: nâng dần quy mô tuyển sinh mới hàng năm của cả mạng lưới để đạt mục tiêu khoảng 420.000 sinh viên trong năm 2010, gần 600.000 sinh viên trong năm 2015 và 1.200.000 sinh viên trong năm 2020. Tổng quy mô đào tạo đại học, cao đẳng của cả mạng lưới đạt khoảng 1,8 triệu người vào năm 2010, 3 triệu người vào năm vào năm 2015 và 4,5 triệu người vào năm 2020. Quy mô đào tạo của các trường đại học, cao đẳng được xác đinh trên cơ sở đảm bảo các điều kiện, các yếu tố ảnh hưởng chất lượng như: số lượng, chất lượng giảng viên, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, phòng học, phòng thí nghiệm, thực hành, ký túc xá sinh viên, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đào tạo, quản lý nhà trường…, đồng thời được cân đối phù hợp với đặc điểm của các trường, ngành nghề đào tạo, bậc đào tạo và năng lực quản lý để đảm bảo chất lượng đào tạo ngày càng được nâng cao. Định hướng quy mô đào tạo (số lượng sinh viên đã quy đổi theo hình thức đào tạo chính quy) của nhóm các trường đại học và cao đẳng như sau: Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh khoảng 42.000 sinh viên; các trường đại học trọng điểm khác khoảng 35.000 sinh viên; các trường đại học, học viện đào tạo các ngành nghề kỹ thuật – công nghệ, kinh tế, luật, sư phạm và các lĩnh vực khác có gắn với kinh tế - kỹ thuật : khoảng 15.000 sinh viên quy đổi; các trường đại học, học viện đào tạo các ngành y tế, văn hóa – xã hội khoảng 8.000 sinh viên; các trường đại học, học viện đào tạo các ngành năng khiếu khoảng 5.000 sinh viên; các trường cao đẳng đa ngành, đa cấp khoảng 8.000 sinh viên; các trường cao đẳng đào tạo theo lĩnh vực công nghệ và trường cao đẳng cộng đồng khoảng 5.000 sinh viên; các trường cao đẳng đào tạo các ngành năng khiấu khoảng 3.000 sinh viên Ngành nghề đào tạo: một số ngành nghề trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn; công nghệ thông tin; công nghệ cơ khí điện tử và tự động hóa; công nghệ sinh học; công nghệ vật liệu mới; một số ngành, nghề kỹ thuật và công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa ; đào tạo giáo viên và chuyên gia trình độ cao trong lĩnh vực dịch vụ. Điều chỉnh cơ cấu số lượng sinh viên được đào tạo theo nhóm các ngành, nghề đến năm 2020 đạt tỷ lệ: khoa học cơ bản 9%, sư phạm 12%, công nghệ kỹ thuật 35%, nông – lâm – ngư 9%, y tế 6%, kinh tế - luật 20% và các ngành khác 9%. Cơ cấu trình độ đào tạo: Giảm dần tỷ trọng sinh viên đại học so với tổng số sinh viên đại học, cao đẳng từ mức chiếm 78,4 % năm 2005 xuống mức chiếm 72% vào năm 2010; chiếm 64% vào năm 2015 và chiếm 56% vào năm 2020. Tiếp tục thành lập mới các trường trung cấp chuyên nghiệp và mở rộng các chương trình đào tạo trung cấp chuyên gnhiệp trong các trường cao đẳng, cao đẳng cộng đồng; nghiên cứu phát triển hệ cao đẳng 2 năm. Loại hình cơ sở giáo dục gồm: Trường công lập, trường tư thục, trường có vốn đầu tư nước ngoài (100% vốn hoặc liên kết, liên doanh). Hệ thống các cơ sở giáo dục đai học bao gồm: đại học quốc gia, các đại học, các trường đại học, học viện, trường cao đẳng, trường cao đẳng cộng đồng. Phân bổ mạng lưới trường đại học cao đẳng theo vùng. Các thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ là các trung tâm đào tạo, có nhiều trường đại học, cao đẳng. Trong các vùng kinh tế khác số lượng trường đại học, cao đẳng cũng có xu hướng ngày càng gia tăng. Lượng sinh viên, mạng lưới các trường được phân bố theo 3 vùng kinh tế trong điểm. Vùng kinh tế trọng điển phía Bắc (gắn với vùng đồng bằng sông Hồng): điều chỉnh giảm dần tỷ lệ sinh viên của vùng chiếm từ 43 % vào năm 2005 xuống còn 42 % vào năm 2010 và 40% vào năm 2020 so với tổng quy mô sinh viên của cả nước. Thu hút đầu tư thành lập một số trương đại học 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh, liên kết trong nước và nước ngoài Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (gắn với vung duyên hải Nam Trung Bộ): thành lập mới thêm một số trường đại học, cao đẳng, trong đó ưu tiên thành lập ở khu vực Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định nhằm đáp ứng yêu cầu nhân lưch cho công nghiệp hóa hiện đại hóa của các tỉnh miền Trung. Điều chỉnh tăng dần tỷ lệ sinh viên của vùng từ 8,3% vào năm 2005 tăng lên 10% vào năm 2010 và đạt 15 % vào năm 2020 so với tổng quy mô sinh viên của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (gắn với vùng Đông Nam Bộ): điều chỉnh giảm dần tỷ lệ sinh viên của vung chiếm từ 26% hiện nay xuống còn 25% vào năm 2010 và 24% vào năm 2020 so với tổng quy mô sinh viên của cả nước. Thu hút đầu tư thành lập một số trường đại học 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh, liên kết trong nước và nước ngoài. 3.1.2. Nhu cầu vốn đầu tư ngân sách nhà nước phát triển ngành giáo dục Sự bất cập giữa tốc độ tăng số lượng các cơ sở đào tạo và kết quả đầu tư đã làm cho các trường đại học chuyên nghiệp, trung cấp và dạy nghề (kể cả trường trung ương và trường địa phương) lâm vào tình trạng nghèo nàn, yếu kém và tụt hậu về hạ tầng kỹ thuật, cũng như các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo như hiện nay. Chỉ xét riêng về khía cạnh đất đai, khuân viên và môi trường sư phạm, diện tích đất bình quân chung / 1 sinh viên đại học cao dẳng của cả nước hiện nay chỉ vào khoảng 37,1 m2, vùng đồng bằng sông Hồng khoảng 12,8 m2, thấp hơn rất xa so với tiêu chuẩn xây dựng trường học Việt Nam. Một số trường ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh bình quân dưới 1 m2 (Trường Đại học Xây dựng: 0,84 m2, Trường ĐH Luật Hà Nội: 0,67 m2, Trường ĐH Lao động Xã hội: 0,65 m2, Trường Đại học Thương mại và Trường Đại học Ngoại thương là 1,08 m2 và 1,1 m2, Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân: 2,97 m2, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội: 4,9 m2…). Diện tích đất đai khuân viên chật chội nên diện tích khu học tập, thư viện, thực hành thí nghiệm đều thấp. Bình quân diện tích khu học tập / 1 sinh viên vùng Đồng bằng sông Hồng chỉ xấp xỉ 0,92 m2, thư viện 0,04 m2 và khu vực thực hành , thí nghiệm 0,13m 2. Vì vậy, yêu cầu đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cơ sở đào tạo đặt ra trong thời gian tới là phải đồng bộ, bao gồm cả đất đai, nhà cửa và các công trình kiến trúc, hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị, phòng thí nghiệm, thực hành, thực tập, phát triển đội ngũ cán bộ giảng dạy, cán bộ quản lý, phát triển chương trình đào tạo. Theo tính toán, riêng về đất đai đối với giáo dục đào tạo, giai đoạn 2008 – 2010 các cơ sở đào tạo đại học của cả nước có nhu cầu bổ sung 4.020 ha để vừa đáp ứng yêu cầu thành lập cơ sở mới, vừa mở rộng khuân viên các trường hiện có bảo đảm mữa bình quân 45 m2 / 1 sinh viên giai đoạn 2010 -2015 cần bổ sung khoảng 12.848 ha và giai đoạn 2015 -2020 cần bổ sung khoảng 13.925 ha. Tính chung từ nay đến năm 2016 và tần nhìn đến năm 2020, quỹ đát bổ sung cho giáo dục đại học cần khoảng 30.800 ha. Ngoài ra, còn cần khoảng 20.00 ha để bổ sung cho các cơ sở đào tạo trung cấp chuyên, dạy nghề dài hạn và ngắn han. Về vốn đầu tư xây dựng các cơ sở đào tạo, bao gồm vốn giải phóng mặt bằng, vốn xây dựng các công trình kiến trúc và vốn mua sắn trang thiết bị, giai đoạn đến năm 2010 cần khoảng 450.520 tỷ đồng (giáo dục đại học khoảng 320.520 tỷ đồng, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề khoảng 130.000 tỷ đồng); giai đoạn 2010 -2015 cần khoảng 1.655.00 tỷ đồng (giáo dục đại học 973.569 tỷ đồng, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề khoảng 681.000 tỷ đồng); giai đoạn 2015 – 2020 cần khoảng 3.008.266 tỷ đồng (giáo dục đại học khoảng 1.504.133 tỷ đồng, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề khoảng 1.504.133 tỷ đồng). Tính chung nhu cầu vấn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các cơ sở đào tạo cho cả 3 giai đoạn từ nay đến năm 2015 và tầm nhìn 2020 khoảng 5.113.788 tỷ đồng (giáo dục dại học: 2.798.222 tỷ đồng, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề: 2.315.566 tỷ đồng). Đây thực sự lad một khối lượng vốn rất lớn, cho dù ngân sách nhà nước giành cho Giáo dục và Đào tạo có thể tiếp tục tăng trong những năm sắp tới nhưng chắc chắn sẽ không đủ để đáp ứng yêu cầu đã tính toán như trên. Vì vậy, tình trạng bất cập về trang thiết bị, xưởng thực hành, cơ sở vạt chất kỹ thiật nhà trường của cả hệ thống đào tạo hiện nay vẫn còn kéo dài nếu không có một cơ chế huy động vốn đầu tư linh hoạt hơn. Để có thể đảm bảo vốn trong những năm tới, dự kiến từ năm 2010 – 2015, ngành giáo dục sẽ cần đến 1.2070 triệu USD vốn vay ODA thông qua 11 dự án. Trong đó lần đầu tiên sẽ thực hiện 2 chương trình, dự án dành cho giáo dục mầm non với tổng số vốn vay khoảng 150 triệu USD, nhưng nhiều nhất vẫn là giáo dục đại học với 6 dự án có tổng số vốn vay dự kiến hơn 700 triệu USD. 3.2. Một số giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước 3.2.1. Hoàn thiện cơ chế chính sách Quá trình đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn vốn ngân sách nhà được quản lý bởi một hệ thống luật khá chặt chẽ, như Luật Đầu tư, Luật đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Ngân sách. Trong đó, các dự án chịu quản lý trực tiếp của các nghị định về đầu tư như nghị định 52, nghị định 16, nghị định 12, nghị định 112; các nghị định về đấu thầu như nghị định 14, nghị định 58… Tuy nhiên, cơ chế chính sách của các bộ Luật và các Nghị định chưa đồng bộ, thống nhất, một số quy định trong các bộ Luật chưa có những quy định rõ ràng về chức năng nhiệm vụ của các tổ chức có liên quan dẫn đến việc nhiệm vụ thực hiện bị chồng chéo. Vì vậy, trong thời gian gian tới cần phải tiếp tục hoàn chỉnh bổ sung các điều luật, các thông tư, nghị định theo hướng: nâng cao trách nhiệm của người sử dụng vốn, cải cách thủ tục hành chính trong đầu tư, có những văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể sao cho ngày càng đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, xác định rõ trách nhiệm của các cá nhân; cụ thể như: Những văn bản cũ cần phải sửa đổi, thay thế: Thông tư số 81 / 2003/TTLT/ BTC – BGD & ĐT ngày 14/ 08/2003 của liên tịch Bộ Tài Chính và Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn nội dung, mức chi quản lý kinh phí thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo đến năm 2005, thông tư hướng dẫn này đã không còn phù hợp với điều kiện mới, cần có thông tư thay thế hướng dẫn thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục đào tạo đến năm 2010, thông tư số 87/2001/TT – BTC ngày 30/10/1001 của Bộ Tài chính hướng dẫn nội dung, mức chi xây dựng chương trình khung cho các ngành đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và biên soạn chương trình, giáo trình các môn học. Các mức chi này đến nay là quá thấp, không còn phù hợp, không khuyến khích được các giáo sư, nhà giáo giỏi tham gia biên soạn chương trình và giáo trình. Những văn bản cần nghiên cứu để ban hành: Chế độ cử tuyển vào học tại các cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; thực hiện Nghị định số 134/ 2006/ NĐ – CP ngày 14/ 11/2006 của Chính phủ và Thông tư liên tịch số 13/ 2008 / TTLT – BGDĐT –BLĐTBXH –BTC-BNV – UBDT ngày 07 /04/ 2008, tuy nhiên cần những hướng dẫn cụ thể thêm trong việc xác định chi phí trả cho cơ sở đào tạo hầu hết các cơ sở đào tạo đều yêu cầu mức phí đào tạo cao hơn mức học phí hiện hành (theo quyết định số 70/1998/ QĐ – TTg ngày 31 / 03/ 1998 của Thủ tướng Chính phủ) , điều này là thực tế vì học phí hiện nay chỉ bù đắp được một phần chi phí đào tạo. Phối hợp nghiên cứu xây dựng cơ chế tài chính đặc thù (định mức cấp ngân sách nhà nước, quản lý thu và sử dụng học phí…) đối với 04 trường Đại học cao đẳng cấp quốc tế, trong đó trường Đại học Việt Đức sẽ tuyển sinh khóa đầu tiên từ năm học 2008 -2009. Phối hợp nghiên cứu xây dựng chính sách tài chính cho các trường THPT chuyên tại các địa phương. Để đẩy mạnh hoạt động của các trường THPT chuyên nhằm đào tạo nguồn nhân tài của địa phương, cần thiết phải có một cơ chế tài chính thích hợp (chế độ đối với học sinh, giáo viên, định mức ưu tiên phân bổ ngân sách …). Bộ Tài chính chử trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng văn bản hướng dẫn việc thu và sử dụng đối với các khoản đóng góp tự nguyện của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cho các cơ sở giáo dục đào tạo; xây dựng cơ chế tài chính đối với cá trường đại học giảng dậy và học tập theo các chương trình tiên tiến; xây dựng chính sách hỗ trợ đối với các trường phổ thông bán trú tại miền núi, vùng dân tộc, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn Tích cực xây dựng kế hoạch trung hạn, kế hoạch năm có chất lượng cao, tính khả thi cao, đẩy nhanh tiến độ xây dựng khuôn khổ chỉ tiêu trung hạn của ngành Giáo dục và đào tạo làm cơ sở cho việc khai thác nguồn vốn ODA của các nhà tài trợ quốc tế theo hình thức Hỗ trợ ngân sách nhằm giảm thiểu các chi phí quản lý, chi phí giao dịch, tiến tới quản lý nguồn vốn ODA theo cơ chế quản lý ngân sách nhà nước và quản lý theo kết quả đầu ra. Tích cực tham gia quá trình vận động đàm phám các chương trình theo tinh thần chủ động xây dựng phù hợp với nhu cầu, điều kiện thực tế của ngành giáo dục. 3.2.2. Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước Nhà nước thực hiện việc kiểm tra, giám sát các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập, nhằm đảm bảo cho các cơ sở này phải tuân thủ các quy định của nhà nước. Các cơ sở giáo dục có trách nhiệm sử dụng kinh phí giáo dục đúng mục đích, có hiệu quả. Từng bước thực hiện kiểm toán tài chính hàng năm đối với các cơ sở giáo dục đào tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo phải chỉ đạo các địa phương xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục phổ thông và phối hợp với Bộ Xây dựng quy hoạch xây dựng hệ thống các mục tiêu, trong điểm; tránh đầu tư vào các ngành , lĩnh vực mà nhu cầu xã hội không cao, hoặc khu vực kinh tế tư nhân có thể làm tốt. Để tăng cường hiệu quả thì cơ chế quản lý nhà nước cần thay đổi trên các nội dung sau: Bộ Giáo dục Đào tạo cần có ý kiến thẩm tra khi phê duyệt dự án đầu tư cho các sử đào tạo trực thuộc các Bộ, ngành trung ương. Các Bộ ngành thực hiện chế độ báo cáo cho Bộ Giáo dục và Đào tạo để có thông tin kiểm tra, giám sát kế hoạch phát triển giáo dục đào tạo. Hoàn thiện cơ chế quản lý chung đối với các dự án ODA của ngành, tăng cường hoạt động giám sát của cơ quan quản lý nhà nước đối với các ban quản lý, ban điều phối dự án nhằm ngăn chặn những hành vi tiêu cực trong quá trình thực hiện các dự án và những vi phạm các quy định trong công tác mua sắm, đấu thầu. Cơ quan quản lý giáo dục của địa phương (ở cấp tỉnh, thành phố là Sở Giáo dục và Đào tạo, ở cấp quận, huyện là Phòng Giáo dục và Đào tạo) cần có ý kiến thẩm định đối với các hoạt động đầu tư phát triển giáo dục ở địa phương. Sở Giáo dục và Đào tạo là cơ quan đầu mối cấp tỉnh thực hiện tổng hợp kế hoạch và ngân sách giáo dục đào tạo ở địa phương để báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo. Xây dựng thống nhất bộ tiêu chuẩn quản lý tài chính giáo dục trong các cơ sở giáo dục và đào tạo và quy định báo cáo về tài chính của toàn bộ hế thống giáo dục cũng như của từng cơ sở. Chính phủ quy định chức năng nhiệm vụ quản lý tài chính giáo dục. Trong đó quy định rõ chức năng nhiệm vục ủa các Bộ, ngành trung ương, của các địa phương trong việc phối hợp quản lý, kiểm tra, giám sát và báo cáo với Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp tục tăng cường phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng cho địa phương, các trường đại học, cao đẳng, cùng với đó các định trách nhiệm cụ thể của các đơn vị trong quá trình xây dựng và triển khai cáca dự án đặc biệt là các dự án ODA. Đại diện phụ huynh học sinh ở các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông, đại diện học sinh, sinh viên và đại diện giáo viên, giảng viên ở các cơ sở đào tạo nghề chuyên nghiệp có quyền và trách nhiệm giám sát sử dụng kinh phí của cơ sở giáo dục đào tạo theo quy chế hoạt động của trường được cấp có thẩm quyền phê duyệt. 3.2.3. Giải pháp về đổi mới cơ chế tài chính Bộ Tài chính cần có những bước đổi mới trong phương thức xây dựng và giao kế hoạch ngân sách, cơ cấu lại chi ngân sách cho ngành giáo dục theo hướng lập kế hoạch và giao trần ngân sách trung hạn (3 năm), giúp ngành giáo dục có thể chủ động sắp xếp, bố trí kinh phí thực hiện các nhiệm vụ, hoạt động, chế độ chính sách phù hợp với trần ngân sách nhà nước giao, đồng thời có giải pháp huy động thêm nguồn lực để thực hiện những nhiệm vụ ưu tiên của ngành theo sự chỉ đạo của Chính phủ. Nhà nước cam kết dành đầu tư thỏa đáng và ngày càng tăng cho giáo dục và đào tạo, ngân sách Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc cung cấp nguồn lực thực hiện phổ cập giáo dục cho thực hiện phổ cập mẫu giáo 5 tuổi, phổ cập tiểu học và trung học cơ sở, mở rộng dần quy mô trung học phổ thông. Thực hiện phổ cập có sự đóng góp theo khả năng của người học. Ngân sách nhà nước đầu tư cho các cơ sở giáo dục đào tạo công lập đảm bảo đạt mức chất lượng tối thiểu ở các cấp học và trình độ đào tạo. Các địa phương có thể quy định mức chất lượng tối thiểu cao hơn, tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội của mình. Ở những trường mầm non và phổ thông công lập cung cấp dịch vụ giáo dục cao hơn mức chất lượng chuẩn. Thực hiện phân cấp quản lý tài chính cho các cơ sở tài chính cho các cơ sở giáo dục nhằm tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng ngân sách, tài chính, tài sản của các cơ sở theo tinh thần Nghị định 43/2006/NĐ – Cp ngày 25/ 04/ 2006 của Chính phủ, các cơ sở giáo dục xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ để tăng cường quản lý và điều hành thu chi tài chính. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước theo hướng giảm bao cấp tràn lan; cải tiến phương pháp phân bổ kinh phí theo chương trình mục tiêu (chương trình phát triên, dự án đầu tư) và trực tiếp cho người thụ hưởng một cách công bằng, không phân biệt dân lập hay tư thục. Thực hiện 3 công khai trong các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập để người học và xã hội giám sát, đánh giá: công khai chất lượng đào tạo, công khai các điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, công khai thu, chi tài chính, thực hiện 4 kiểm tra: kiểm tra việc phân bổ và sử dụng ngân sách giáo dục, đào tạo, kiểm tra việc thu và sử dụng học phí trong các nhà trường, kiểm tra việc sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của người dân và các tổ chức cho nhà trường, kiểm tra việc thực hiện chương trình kiên cố hóa trường, lớp học và xây dựng nhà công vụ cho giáo viên. Nhà nước cần xây dựng cơ chế thích hợp để huy động các nguồn lực cho giáo dục, có chính sách khuyến khích sự đóng hóp của xã hội cho giáo dục theo khả năng của hộ gia đình, của các nhà hảo tâm, ban hành những quy định để cơ sở giáo dục dễ dàng nhận và sử dụng có hiệu quả các khoản tài trợ của các doanh nghiệp. Khuyến khích thành lập và phát triển các cơ sở giáo dục đào tạo ngoài công lập, trong đó có các trường ngoài công lập chất lượng cao, chi phí cao nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ cao của đất nước và nhu cầu được giáo dục của con em gia đình có thu nhập cao. Ngân sách nhà nước hỗ trợ các cơ sở giáo dục ngoài công lập, hôc trợ đào tạo giảng viên có trình độ cao, thực hiện các chương trình bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, cấp bù học phí (với mức chi phí của các trường công lập trong vùng) cho con em các đối tượng chính sách học ở các trường mầm non, phổ thông ngoài công lập. Để có thể đảm bảo tạo ra sự công bằng trong giáo dục và phục vụ theo yêu cầu học của xã hội, bộ tài chính cần phân bố ngân sách nhà nước giành cho giáo dục theo hướng tập trung hỗ trợ cho vùng khó khăn, đào tạo các ngành nghề khoa học cơ bản, ngành nghề mới, công nghệ cao, đi tắt đón đầu và các ngành/nghề liên quan đến văn hoá dân tộc, ngành/nghề có chi phí đào tạo cao nhưng nhu cầu xã hội thấp. Xây dựng khuôn khổ pháp lý và quy định cụ thể nhằm thu hút sự tham gia và tăng nhanh vai trò của cộng đồng các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế để đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở đào tạo. Thực hiện nguyên tắc chia sẻ kinh phí giữa nhà nước, doanh nghiệp và người học. Xây dựng quỹ tín dụng ưu đãi cho cơ sở đào tạo vay để xây dựng cơ sở hạ tầng, không phân biệt công lập hay tư thục. Ưu tiên thu hút các nguồn vốn ODA và FDI để xây dựng cơ sở hạ tầng cơ sở đào tạo; đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục đại học để huy động các nguồn lực xã hội và cộng đồng. Nhà nước đi vay nước ngoài và các tổ chức quốc tế để trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cơ sở đào tạo hoặc cho cơ sở vay lại theo lãi xuất ưu đãi để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhà nước bảo lãnh cho cơ sở đào tạo được trực tiếp vay vốn của nước ngoài, các tổ chức tín dụng quốc tế. 3.2.4. Nâng cao năng lực của các tổ chức điều hành Kết quả của các dự án đầu tư nói chung và từ nguồn vốn ngân sách nhà nước nói riêng chịu ảnh hưởng rất nhiều của các tổ chức điều hành liên quan đến quá trình ban hành cơ chế chính sách, quá trình quản lý dự án đầu tư: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, vận hành khai thác kết quả đầu tư. Vì vậy, một dự án muốn thực hiện đảm bảo chất lượng, thời gian tiến độ thực hiện, chi phí thực hiện hợp lý cần: Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đầu tư. Chất lượng của quy hoạch, kế hoạch xây dựng và thực hiện dự án của Việt Nam hiện nay còn rất thấp. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng đầu tư dàn trải không có trọng điểm, vì vậy cần phải có những biện pháp nâng cao chất lượmg của quy hoạch và kế hoạch cho chương trình, dự án đầu tư phát triển ngành giáo dục của Việt Nam trong thời gian tới như: tổ chức các buổi hội thảo về vấn đề xây dựng kế hoạch, quy hoach, tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn cho các đối tượng trực tiếp thực hiện lập quy hoạch, kế hoạch cho các chương trình dự án. Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước là đội ngũ trực tiếp liên quan đến kế hoạch phân bổ vốn đầu tư, chất lượng của cơ chế chính sách, cách thức điều hành và quản lý nguồn vốn trong dự án. Quá trình quản lý nguồn vốn trong dự án từ lúc hình thành dự án đến khi dự án được đưa vào vận hành khai thác là một quá trình bao gồm rất nhiều chủ thể tham gia, để đảm bảo cho quá trình đó vận hành đúng theo tiến trình đã đề ra và thực sự có chất lượng hiệu quả, phát huy được tác dụng của công trình đó thì đội ngũ cán bộ quản lý phải có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm để thích ứng xử lý khi cần có điều chỉnh đảm bảo sự hợp lý nguồn vốn cho các dự án. Tuy kế hoạch phân bổ vốn là kế hoạch dài hạn nhưng trong quá trình thực hiện các dự án nếu dự án nào thực hiện đúng quy trình và có hiệu quả nhưng còn thiếu vốn thực hiện thì có thể cắt giảm vốn từ dự án được cấp vốn nhưng dự án đó thực hiện không có hiệu quả, điều này sẽ đảm bảo thời gian giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và đảm bảo cho dự án được đầu tư có chất lượng cao. Nâng cao năng lực của các tổ chức tư vấn trong nước. Sau khi gia nhập WTO Việt Nam chịu tác động rất nhiều ảnh hưởng từ những biến động của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế trong nước không chỉ đơn thuần bao gồm các doanh nghiệp trong nước hoạt động và cạnh tranh với nhau mà đã xuất hiện rất nhiều thành phần kinh tế nước ngoài tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế, chính vì vậy việc ban hành chính sách ngày càng đòi hỏi có sự khách quan đảm bảo quyền lợi của tất cả các thành phần kinh tế, không những vậy cơ chế chính sách của Việt Nam cần phải có yếu tố kích thích sự phát triển của các thành phần kinh tế. Việc hoạch định chính sách tổng quát đến những quy trình cụ thể để thực hiện các công việc cần có sự tham gia của rất nhiều bộ ngành, các tổ chức tư vấn đặc biệt là các tổ chức tư vấn uy tín của nước ngoài. Trong quá trình thực hiện giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, tổ chức tư vấn đóng vai trò quan trọng nhất là giai đoạn tư vấn về việc phân bổ vốn cho các ngành, các địa phương hợp lý, đầu tư trọng điểm, tránh dàn trải gây thất thoát, lãng phí nguồn vốn. Nâng cao năng lực của các nhà thầu: Các dự án đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước của ngành giáo dục nói riêng và các dự án đầu tư xây dựng cơ bản nói chung thì chủ đầu tư không đủ năng lực để thực hiện dự án, mà thường tiến hành lựa chọn một hoặc nhiều nhà thầu để thực hiện toàn bộ công trình hoặc từng phần của công trình theo Quy định trong Luật Đấu thầu đối với nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Hoạt động mua sắm thông qua cách thức đấu thầu không những có vai trò quan trọng với bên mời thầu mà còn có tác động tích cực với các nhà thầu, hoạt động này đáp ứng được mục đích nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Như vậy, thời gian hoàn thành và chất lượng công trình phụ thuộc rất lớn vào năng lực của nhà thầu. Năng lực của nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu sẽ đảm bảo được tiến độ công trình và tiến độ giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, ngược lại nếu năng lực của nhà thầu được chọn không thực sự đáp ứng được yêu cầu của gói thầu sẽ dẫn đến khi công trình được thực hiện có chất lượng kém, làm tăng nhiều chi phí phát sinh: chi phí quản lý giám sát, chi phí sửa lại lỗi sai…Điều này sẽ làm kéo dài tiến độ thi công công trình và chất lượng công trình không được đảm bảo. Nâng cao năng lực của nhà cung cấp thiết bị, nguyên vật liêu đầu vào. Nhà cung cấp thiết bị nguyên vật liệu đầu vào và cung cấp thiết bị ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của công trình xây dựng. Đối với các nguyên vật liệu và thiết bị trong nước, các doanh nghiệp cần phải luôn luôn có những biện pháp cải tiến sản phẩm để ngày càng có những sản phẩm chất lượng cao đáp ứng yêu cầu chất lượng và giá thành của các dự án xây dựng. Đối với nguyên vật liệu và máy móc thiết bị nhập khẩu từ nước ngoài, các nhà cung cấp thiết bị cần phải có khả năng kiểm định, kiểm tra, đánh giá chất lượng và mẫu mã sản phẩm một cách nghiêm túc và chính xác. 3.2.5. Giải pháp về tạo vốn ngân sách nhà nước giành cho đầu tư phát triển ngành giáo dục Đảng và nhà nước cần có những chính sách nhằm khuyến khích, huy động tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục. Hoàn thiện cơ sở lý luận, thực tiễn, cơ chế chính sách và các giải pháp xã hội hóa giáo dục, nhằm tạo sự nhất trí cao trong xã hội về nhận thức và tổ chức thực hiện, bổ sung và hoàn thiện những văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách vĩ mô khuyến khích mạnh mẽ các tổ chức kinh tế - xã hội, các cá nhân đầu tư cho phát triển giáo dục, tạo điều kiện vừa nâng cao chất lượng đào tạo của hệ thống các trường ngoài công cập, các hình thức giáo dục ngoài nhà trường và các trung tâm giáo dục cộng đồng. Hoàn thiện các cơ sở pháp lý chính sách để phát triển hệ thống các trường ngoài công lập. Phát triển các trường ngoài công lập, chuyển một số trường công lập thành trường ngoài công lập khi có đủ điều kiện thích hợp để lượng vốn ngân sách nhà nước có thể tập trung vào các trường, các địa phương có điều kiện khó khăn. Mở rộng các quỹ khuyến học, quỹ bảo trợ giáo dục, khuyến khích cá nhân và tập thể đầu tư phát triển giáo dục; đổi mới chế độ học phí của các trương đại học, cao đẳng công lập và ngoài công lập theo hướng đảm bảo tương xứng với chất lượng các dịch vụ giáo dục mà trường có thể cung cấp, phù hợp với khả năng của người học, đồng thời hỗ trợ và tiến hành miễn giảm học phí cho các đối tượng chính sách, gia đình có công và người nghèo Các đơn vị chịu trách nhiệm lập kế hoạch về phân bổ vốn đầu tư các năm, quy hoạch trường lớp, định hướng phát triển ngành học cần mở rộng và tăng cường các mối quan hệ của nhà trường với các ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội… tạo điều kiện để xã hội có thể đóng góp xây dựng cơ sở vật chất, góp ý kiến cho quy hoạch phát triển nhà trường, điều chỉnh cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ đào tạo, hỗ trợ kinh phí cho người học và tiếp nhận người tốt nghiệp, giám sát các hoạt động giáo dục và tạo lập môi trường giáo dục lành mạnh. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục nhằm huy động nguồn lực từ hợp tác quốc tế để tăng cường trang thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục phổ thông, đặc biệt ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Tăng số dự án viện trợ, vốn vay để đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật đáp ứng các yêu cầu về chuyển dịch cơ cấu lao động và xuất khẩu lao động. Hợp tác đầu tư xây dựng một số trung tâm công nghệ cao trong các cơ sở đào tạo đại học, nhập trang thiết bị thí nghiệm khoa học tiên tiến để nâng cao hiệu quả công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học. Phát triển các dự án hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu giáo dục nói riêng của cơ sở đào tạo đại học, các viện, các trung tâm chuyên nghiên cứu về giáo dục, trao đổi thông tin, tổ chức các hội thảo, hội nghị quốc tế , tham gia các hoạt động của các cơ quan Liên hiệp quốc, tổ chức các nước sử dụng Tiếng Pháp, các tổ chức thuộc khu vực Châu Á Thái Bình Dương, tổ chức Á Âu và các tổ chức khác. Khuyến khích các chủ đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm, tiềm lực, truyền thống và trình độ tiên tiến thành lập các cơ sở giáo dục 100% vốn ngoài hoặc liên doanh với các đối tác Việt Nam để đào tạo đại học, dạy nghề, giáo dục từ xa, mở các khóa học bồi dưỡng ngắn hạn có trình độ khu vực và quốc tế tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam. Các địa phương quy hoạch đất đai, xây dựng trường sở, phòng học, phòng thí nghiệm, thư viện hiện đại, ký túc xá sinh viên, khu văn hoá thể thao, các công trình dịch vụ để đáp ứng những yêu cầu trước mắt và tạo lập các điều kiện phát triển trong tương lai. Thành lập Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Giáo dục Đào tạo để tạo kênh thu hút vốn độc lập hỗ trợ cơ sở đào tạo đầu tư . Phân cấp phê duyệt dự án đầu tư cho cơ sở đào tạo. Trường đại học công lập phê duyệt dự án đến 100 tỷ đồng. Khuyến khích tổ chức kinh tế, doanh nghiệp trong nước và ngoài nước xây dựng cơ sở vật chất tập trung cho cơ sở đào tạo hoặc cho thuê lại, không phân biệt công lập hay tư thục, có những chính sách ưu đãi về thuế các doanh nghiệp khi doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục đào tạo. Khuyến khích các địa phương xây dựng các công trình phục vụ sinh viên ở các khu đại học tập trung, ácc thành phố lớn có nhiều cơ sở dào tạo. Các cơ sở đào tạo tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ; ký kết các hợp đồng nghiên cứu khoa học và công nghệ; đào tạo, bồi dưỡng nhân lực khoa học và công nghệ; đăng ký tham gia tuyển chọn thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; thành lập các tổ chức nghiên cứu và phát triển, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, doanh nghiệp trực thuộc theo qui định của Pháp luật. Cơ sở đào tạo được hợp tác, liên doanh, nhận tài trợ của tổ chức, cá nhân góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sở hữu trí tuệ để tiến hành các hoạt động khoa học và công nghệ và hoạt động sản xuất, kinh doanh; được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; chuyển giao, chuyển nhượng kết quả hoạt động khoa học và công nghệ; công bố kết quả hoạt động khoa học và công nghệ và các quyền khác theo qui định của pháp luật. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ ở các trường đại học; từng bước hình thành các trung tâm, viện nghiên cứu khoa học, công nghệ mạnh ở các trường đại học; xây dựng một số phòng thí nghiệm quốc gia trong các trường đại học trọng điểm, đầu ngành; giao nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản cho các trường đại học phù hợp. Nghiên cứu để tiến tới sáp nhập một số viện nghiên cứu khoa học cơ bản và nghiên cứu khoa học chuyên ngành vào trường đại học. Từng bước hỗ trợ để hình thành các cơ sở thực nghiệm về công nghệ trong các trường cao đẳng. Nguồn thu tài chính của cơ sở đào tạo thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghề và lao động sản xuất chiếm khoảng 30-40% tổng thu nhập hàng năm. Thực hiện chính sách ưu tiên cho thuê đất, chính sách vay vốn ưu đãi của Nhà nước, chính sách khuyến khích giáo viên các trường công lập chuyển sang tư thục; chính sách đào tạo đội ngũ giảng viên cho các trường tư....theo quy định của nghị định số 53/2006/NĐ-CP của Chính phủ. KẾT LUẬN Quá trình đổi mới giáo dục đào tạo ở Việt Nam diễn ra trong bối cảnh tình hình chính trị - xã hội của đất nước ổn định, an ninh quốc phòng được tăng cường, hệ thống chính trị được giữ vững, Việt Nam hội nhập ngày càng sâu hơn vào kinh tế thế giới, vị thế và uy tín của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Cùng với bối cảnh trong nước và xu hướng trên thế giới, nền giáo dục của nước ta đã có những bươc tiến lớn: một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất và đa dạng hóa đã được hình thành với đầy đủ các cấp học và trình độ đào tạo từ xa từ mầm non đến sau đại học, quy mô đào tạo của các cấp học tăng đều và ổn định qua hàng năm, thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia: phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ và tiến hành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tăng cường cơ sở vật chất cho các trường học, hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc ít người và vùng có nhiều khó khăn, đổi mới chương trình nội dung sách giáo khoa cho các lớp từ lớp 1 đến lớp 12… Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng ngân sách nhà nước vẫn còn một số hạn chế như nguồn vốn giành cho đầu tư giáo dục dàn trải chưa tập trung dẫn đến tiến độ giải ngân chậm, ảnh hưởng đến chất lượng công trình; vốn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn đầu tư của của ngành, vấn đề quy hoạch của các công trình chưa hiệu quả chưa chủ động. Để nâng cao hiệu quả đầu tư cần phải tăng cường hiệu quả đầu tư của nhà nước, đổi mới cơ chế tài chính, đổi mới phương thức xây dựng và giao kế hoạch ngân sách, cơ cấu lại chi ngân sách cho ngành giáo dục theo hướng lập kế hoạch, giao trách nhiệm cụ thể cho các đơn vị, địa phương, để các địa phương chủ động và sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước với hiệu quả cao, tránh lãng phí, thất thoát trong quá trình đầu tư sử dụng vốn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21693.doc
Tài liệu liên quan