Chuyên đề Đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta

Đối với các dự án chưa triển khai và không có triển vọng thực hiện, kiên quyết thu hồi giấy phép đầu tư, dành địa điểm cho các nhà đầu tư khác. - Kiểm soát chặt chẽ việc thành lập mới các khu công nghiệp và đánh giá tình hình triển khai các khu công nghiệp đã có quyết định thành lập, Bộ Kế hoạch và đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ phương án dừng hoặc dãn tiến độ xây dựng đối với các khu công nghiệp không đủ yếu tố khả thi. Bổ sung, sửa đổi quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ theo hướng: thu hẹp khoảng cách và tiến tới thống nhất cơ chế, chính sách đối với đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu công nghiệp, bổ sung các mô hình về khu công nghiệp nhỏ phục vụ cho việc phát triển ngành nghề ở nông thôn và chỉnh trang đô thị, điều chỉnh cơ chế chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào, tách việc cho thuê đất nguyên thổ và kinh doanh hạ tầng. - Tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài cho Uỷ ban nhân dân cấp Tỉnh trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất quản lý về quy hoạch, cơ cấu, chính sách và cơ chế, trong đó chú trọng phân cấp quản lý Nhà nước đối với hoạt động sau giấy phép của các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra của các Bộ, ngành Trung ương. Có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm luật pháp, chính sách, quy hoạch trong việc thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài, kể cả việc chấm dứt hiệu lực của các giấy phép đầu tư cấp sai quy định.

doc93 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1679 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tập trung thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp tập trung đã hình thành theo quy định được phê duyệt. Thứ ba, khuyến khích các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng về tài chính và nắm công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển, tiếp tục thu hút các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài ở khu vực. Có kế hoạch vận động các tập đoàn, công ty lớn đầu tư vào Việt Nam, đồng thời chú ý đến các công ty có quy mô vừa và nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại, khuyến khích, tạo thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. 3, Các nhân tố tác động tới việc thu hút FDI trong tình hình mới 3.1: Nhân tố trong nước 3.1.1: Thuận lợi Trước hết là sự ổn định về chính trị. Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng cộng sản Việt Nam, được củng cố từ TW tới địa phương, được sự ủng hộ nhiệt tình của quần chúng nhân dân đã tạo môi trường chính trị ổn định lâu dài cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Về môi trường pháp lý, Luật Đầu tư nước ngoài lần đầu tiên được ban hành năm 1987 không tránh khỏi tình trạng chưa hoàn thiện, còn sơ hở và ít hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, chúng ta đã bổ sung và hoàn thiện dần, bước đầu lôi cuốn được các nhà đầu tư. Đến thời điểm này, nếu so sánh với các nước ASEAN khác thì Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã đạt tới mức độ tương đối hấp dẫn. Về trình độ và tiềm năng phát triển kinh tế, đến nay, chúng ta thừa nhận nền kinh tế Việt Nam còn đang ở trình độ kém phát triển hơn các nước ASEAN khác. Tuy vậy, khi xem xét các thành quả mà Việt Nam đã đạt được trong những năm gần đây đã có nhiều ý kiến đánh giá cao tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam. Không những thế, nhiều người còn đặt sự quan tâm đến vị trí địa lý và vị thế chính trị khá thuận lợi của Việt Nam. Về nhân tố lao động, Việt Nam là một nước có lực lượng lao động dồi dào về số lượng, có trình độ tiên tiến. Trong điều kiện sản xuất như hiện nay, về cơ bản, người lao động Việt Nam đáp ứng được yêu cầu và có mặt bằng tiền lương thấp hơn các nước ASEAN khác. Hơn nữa, người lao động Việt Nam nói chung đều có ý thức tuân thủ kỷ cương, kỷ luật lao động, ít có đình công, bãi công tự do. Đây là một trong các yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư. Về dung lượng thị trường, hiện nay, nhiều nhà đầu tư xếp Việt Nam là một trong những thị trường lớn trong khu vực (thị trường tiềm năng). Họ cho rằng, với vị trí địa lý khá thuận lợi của Việt Nam, đầu tư vào đây không những tiếp cận được nhu cầu của một thị trường hơn 75 triệu người ở nước sở tại mà đây còn là địa bàn để cung cấp hàng hoá cho một số thị trường nước láng giềng như Lào, Campuchia, Mianma và vùng Tây Nam Trung Quốc. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN là nhân tố quan trọng thúc đẩy đầu tư vì từ nay, các nước ASEAN xem Việt Nam như là một đối tác thích hợp và đáng tin cậy hơn. Việt Nam là địa chỉ đáng tin cậy để các nước ASEAN dịch chuyển những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động mà hiện tại tuy họ vẫn còn có ưu thế (về trình độ tay nghề) song đang mất dần vì giá nhân công trong nước của họ tăng nhanh. Bản thân Việt Nam cũng chấp nhận đầu tư trong lĩnh vực đó vì nó phù hợp với trình độ phát triển trong giai đoạn hiện nay. 3.1.2: Khó khăn Về môi trường pháp lý: Nếu xét về môi trường pháp lý cho việc thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài thì Việt Nam còn phải tiếp tục hoàn thiện nhiều để tương đồng với các nước trong khu vực. Việt Nam phải nhanh chóng ban hành các chính sách có liên quan tới đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhằm tạo ra một hệ thống văn bản pháp quy đồng bộ cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như sự vận hành nền kinh tế nói chung. Đó là việc ban hành các đạo luật còn thiếu và sửa đổi các đạo luật trái với thông lệ quốc tế. Về thủ tục hành chính: Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá thủ tục hành chính của Việt Nam còn nhiều phức tạp, gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Hoạt động quản lý chồng chéo, nhiều tầng nhiều lớp. Cán bộ quản lý lại thiếu thông hiểu về pháp luật, thiếu kinh nghiệm chuyên môn trong việc xử lý một số tình huống phát sinh và nhìn chung các nhà quản lý Việt Nam mang đậm tác phong nông nghiệp. Về nhân tố lao động: Như trên đã phân tích, chi phí tiền lương cho lao động Việt Nam tương đối thấp, nó chỉ đúng trong điều kiện so sánh với các nước ASEAN trong giai đoạn hiện nay. Về lâu dài, khi trình độ sản xuất phát triển, nếu lao động Việt Nam không được đào tạo kịp thời thì lợi thế đó cũng sẽ mất đi. Nếu so sánh với các nền kinh tế phát triển thì các nước ASEAN vẫn đang giữ được lợi thế là thị trường lao động rẻ. Trong so sánh này, các nước ASEAN đang gặp phải một đối thủ cạnh tranh có tiềm lực, đó là Trung Quốc. Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN nên còn thiếu kinh nghiệm trong việc tạo lập một hệ thống thị trường đồng bộ. Chúng ta chưa có thị trường lao động (mới chỉ xuất hiện lẻ tẻ ở một vài địa phương), thị trường tài chính, tiền tệ mới đạt mức sơ khai. Đây là những thị trường rất quan trọng, quyết định sự phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Về các điều kiện để tiếp nhận và sử dụng vốn, công nghệ của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài: Để tiếp nhận được và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI, các nước sở tại phải có một số điều kiện tối cần thiết như: vốn đối ứng trong nước phải gấp 2 - 3 lần vốn đầu tư nước ngoài; có cơ sở hạ tầng tương đối phát triển; có năng lực nội tại đủ tiếp nhận các công nghệ phù hợp của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (như trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý sản xuất...) Từ một nền sản xuất nhỏ vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường, Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn trong việc tạo lập các điều kiện này. Đây là thử thách lớn của Việt Nam so với các nước ASEAN khác trong cuộc cạnh tranh thu hút FDI. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam còn có nhiều dấu hiệu nóng, phụ thuộc lớn vào đầu tư nước ngoài. Đầu tư chung tăng gấp đôi tốc độ tăng trưởng, có xu hướng gây ra cung vượt quá cầu ở một số mặt hàng như sắt, thép, xi măng, đường, phân bón... Bên cạnh đó, các yếu tố đầu vào phần lớn phụ thuộc vào thị trường nước ngoài (có tới 2/3 nguyên liệu vật tư, tỷ lệ của Thái Lan là 1/3) nên thường xuyên gây sức ép đối với hoạt động nhập khẩu, trong khi xuất khẩu tăng nhưng chưa đạt tốc độ và cơ cấu tương ứng. Để bảo vệ sản xuất trong nước, Nhà nước phải tăng thêm thuế nhập khẩu, tăng các biện pháp phi thuế quan, ngăn chặn nhập lậu. Tuy nhiên, vấn đề này không những chưa khắc phục được mà còn làm cho chi phí sản xuất tăng, đẩy giá bán lên cao, làm giảm tính cạnh tranh của hàng Việt Nam (trong khi chất lượng còn hạn chế). Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm chạp. Đầu tư chung cho công nghiệp hoá nông thôn thấp (10 - 12%). Lương thực, nông sản được mùa nhiều vụ, xuất khẩu gạo tăng nhưng người trồng trọt, chăn nuôi vẫn chưa phấn khởi do chênh lệch tỷ giá hàng công nghiệp và lương thực, thực phẩm dẫn tới giảm sức mua chung của thị trường nông thôn rộng lớn (với trên 80% dân số làm nông nghiệp, chiếm hơn 70% lực lượng lao động cả nước). Đó là nguyên nhân chủ yếu gây mất cân đối lớn về tổng cung, tổng cầu trong nề kinh tế mà nạn thiếu phát đang xuất hiện như điềm báo trước về nguy cơ khủng hoảng kinh tế. Sự thiếu nhất quán về hiệu lực thi hành các chính sách kinh tế vĩ mô, cộng với sự chậm trễ đổi mới, hiện đại hoá hệ thống tài chính ngân hàng đã và đang gây không ít trở ngại cho tiến trình đổi mơí kinh tế; vẫn còn sự lỏng lẻo trong quản lý tài chính doanh nghiệp Nhà nước và hoạt động tiền tệ như công cụ thuế chưa phát huy hết tác dụng, buôn lậu vẫn tái diễn, tín dụng ngân hàng ách tắc, cung cầu vốn thất thường, dự trữ ngoại tệ quốc gia còn nóng,... Nhìn chung, rủi ro tiền tệ là khá lớn do nợ của các ngân hàng tăng nhanh, vốn Nhà nước bị thất thoát nhiều. Hiện tượng đôla hoá khó giải toả đi liền với nhu cầu bức bách về vốn đầu tư mà nguy cơ lạm phát luôn rình rập, việc thi hành chính sách tỷ giá cố định cứng nhắc làm cho đồng tiền Việt Nam bị đánh giá cao so với đồng tiền của các nước trong khu vực, gây bất lợi cho cạnh tranh xuất khẩu của hàng Việt Nam, nhập khẩu luôn có xu hướng tăng (kể cả hàng tiêu dùng), thâm hụt cán cân vãng lai lớn. Hoạt động tín dụng ngân hàng lâm vào khó khăn trong việc cho vay bằng thế chấp bất động sản (như ở Thái Lan) và mở rộng bảo lãnh cho vay thanh toán đối ngoại. Từ đầu năm 1996 tới nay, thị trường bất động sản "nguội lạnh" khiến các ngân hàng bị chôn chặt vào đây hàng tỷ đồng. Vốn đầu tư trung và dài hạn chỉ đáp ứng được 42% nhu cầu của nền kinh tế. Hiệu quả đầu tư còn thấp do có hàng nghìn tỷ đồng đầu tư quá mức vào xây dựng khách sạn, văn phòng gây lãng phí do mới sử dụng hết 40 - 65% diện tích thiết kế. Những tồn tại trên cho thấy Việt Nam đang gặp khó khăn về tài chính tiền tệ. 3.2: Nhân tố bên ngoài 3.2.1: Thuận lợi Trong các nước ASEAN, chỉ trừ nền kinh tế của Singapore và ở một mức độ nhất định thì nền kinh tế của Malaysia là có tính chất bổ sung đối với nền kinh tế của Việt Nam, còn các nước có trình độ phát triển thấp hơn của khối này như Thái Lan, Indonesia, Philippines, hiện nay còn có nhiều ngành có lợi thế so sánh giống Việt Nam như nông nghiệp, công nghiệp khai khoáng, một số ngành công nghiệp nhẹ (giày dép, quần áo, dụng cụ thể thao,...). Do vậy, điều dễ hiểu là các nước ASEAN sẽ không đầu tư vào các ngành đó ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, trong tương lai, các nước này sẽ mất dần lợi thế so sánh của các lĩnh vực trên khi chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong nước tăng nhanh. Khi đó, họ sẽ đầu tư sang các nước vẫn còn lợi thế so sánh đó, trong đó có Việt Nam. Sự gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong tương lai là nhân tố quan trọng trong việc thu hút FDI bởi vì khi đó, hàng sản xuất tại Việt Nam không những có chi phí thấp (do có lợi thế về giá nhân công) mà còn được hưởng mức thuế ưu đãi khi xuất hàng sang các nước thuộc thị trường Bắc Mỹ, tạo cơ hội cho hàng hoá của Việt Nam thâm nhập vào thị trường Bắc Mỹ đầy tiềm năng. Việc Việt Nam gia nhập khối mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã tạo ra tính năng động đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Điều đó thể hiện ở các khía cạnh sau: Thứ nhất, dưới tác động của phân công lao động quốc tế trong nội bộ các nước ASEAN, các nước phải lựa chọn các mặt hàng xuất khẩu có lợi thế so sánh, đồng thời phải mở cửa thị trường của mình cho nhiều mặt hàng xuất khẩu từ ASEAN. Thứ hai, dưới tác động của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (CEPT), chu chuyển mậu dịch giữa các nước ASEAN sẽ được thúc đẩy và đặc biệt giá thành của sản phẩm cuối cùng sản xuất tại ASEAN sẽ giảm. Thứ ba, để có cơ hội chiếm lĩnh thị trường đáng kể ở ASEAN và được hưởng các điều kiện ưu đãi đối với các sản phẩm có nguồn gốc 40% là từ ASEAN, các nhà đầu tư quốc tế sẽ tích cực đầu tư vào ASEAN hơn là bảo vệ và mở rộng thị trường trước đây khi chưa có AFTA vì họ phải chu chuyển sản phẩm, hàng hoá của mình từ các cơ sở sản xuất bên ngoài ASEAN. Thứ tư, do sự lớn mạnh của thị trường ASEAN thông qua mức tăng cơ học về dân số, nhu cầu sức mua và sự sáng tạo văn minh thương mại cũng sẽ phát triển (tức là dưới tác động qua lại của tiêu dùng, một thị trường thống nhất, chất lượng và quy mô tiêu dùng sẽ được đổi mới). Với bốn lý do trên, nếu AFTA được thực hiện, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN, trong đó có Việt Nam chắc chắn sẽ thành công. 3.2.2: Khó khăn Mặc dù có những thuận lợi kể trên nhưng bối cảnh mới của nền kinh tế thế giới cũng đang đặt Việt Nam trước những khó khăn, thách thức. Vốn và công nghệ từ Mỹ, Nhật Bản, EU và các nước NIC Đông á sẽ đổ vào các nước ASEAN nhờ tạo dựng AFTA ở ASEAN và theo đó, ASEAN sẽ lấy lại được ưu thế về thu hút FDI so với so với các nền kinh tế chuyển đổi khác. AFTA sẽ không tác động mạnh đến đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nội bộ ASEAN như đối với việc thu hút FDI từ bên ngoài ASEAN. Vì thế, quan hệ giữa các quốc gia trong khối ASEAN về thu hút vốn FDI sẽ vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt hơn là sự hợp tác. Xét trên giác độ ngành nghề thì AFTA gần như không ảnh hưởng tới đầu tư trực tiếp nước ngoài trong các ngành công nghiệp phi chế biến như công nghiệp xây dựng, khai thác, đánh bắt thuỷ sản và nông nghiệp, do sản phẩm của các ngành xây dựng khó di chuyển, sản phẩm công nghiệp khai thác thì bị hạn chế do tài nguyên thiên nhiên hữu hạn, còn sản phẩm của ngành nông nghiệp thì phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên (khí hậu, thời tiết...). Ngược lại, AFTA lại tác động mạnh, trực tiếp tới đầu tư trực tiếp nước ngoài trong các ngành công nghiệp chế tạo, chế biến như chế biến thực phẩm, dệt may, cơ khí, hoá chất, điện tử và vật liệt xây dựng. Hiện tại, Việt Nam đang có lợi thế so sánh đối với những ngành sử dụng nhiều lao động như ngành dệt may, còn những ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi phải có trình độ công nghệ cao, vốn lớn. Việc sản xuất các sản phẩm thuộc ngành này đòi hỏi phải có kinh nghiệm nhiều năm và cần có sự hỗ trợ của các ngành công nghiệp liên quan. Các nước trong khối ASEAN đã có nền tảng và điều kiện thuận lợi tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những ngành này. Do đó, việc tham gia AFTA sẽ có trở ngại đối với Việt Nam trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghiệp chế biến. Khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực cũng là một trở lực lớn đối với Việt Nam. Theo các nhà chuyên gia kinh tế thế giới, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực sẽ còn kéo dài trong 3 - 5 năm tới. Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam được ít mà thiệt nhiều. Tóm lại, bức tranh toàn cảnh về tình hình trong nước và quốc tế cho thấy, việc thu hút vốn FDI trong những năm tới là hết sức khó khăn đối với Việt Nam. Vì vậy, Chính phủ cần có những định hướng phát triển và chính sách kinh tế đúng đắn, cải thiện môi trường đầu tư để thu hút ngày càng nhiều FDI. Điều đáng quan tâm là phải tạo điều kiện để các dự án FDI hoạt động hiệu quả trong thực tế. II. Các giải pháp cụ thể nhằm tăng cường thu hút FDI để tiến hành CNH- HĐH ở nước ta trong thời gian tới Cơ sở để đưa ra các giải pháp tăng cường thu hút FDI ở Việt Nam trong thời gian tới được hình thành dựa trên các xu hướng chung và các nhân tố chi phối sự vận động của dòng FDI trên thế giới, từ kinh nghiệm thành công của các nước trong khu vực trong việc thu hút FDI, từ bối cảnh chung trong nước và thế giới, từ đường lối phát triển kinh tế - xã hội, từ các yêu cầu, mục tiêu và định hướng thu hút FDI như đã trình bày ở trên. Các giải pháp tăng cường thu hút FDI nhằm khắc phục những hạn chế của môi trường đầu tư hiện tại, kế thừa các nhân tố góp phần tạo nên sự thành công của hoạt động thu hút FDI thời gian qua. Nội dung của từng giải pháp vừa vận dụng kinh nghiệm thu hút FDI thành công của các nước trong khu vực, vừa bám theo các điều kiện của môi trường đầu tư chuẩn, vừa bao hàm khả năng thực hiện trước mắt hay lâu dài, ở tầm vĩ mô hay vi mô. Vấn đề mang tính quyết định, qua đó hình thành và xây dựng một hệ thống các giải pháp tăng cường thu hút FDI trong thời gian tới là: Nhất quán chiến lược kinh tế hướng ngoại, coi trọng FDI trong phát triển kinh tế. Qua cách tiếp cận đó, chuyên đề này sẽ đề cập đến những giải pháp sau: 1, Đảm bảo môi trường chính trị, xã hội ổn định cho hoạt động thu hút FDI Thực tế cho thấy, đầu tư nước ngoài là một hoạt động tài chính, do vậy nó rất nhạy cảm với các thay đổi về chính trị, kinh tế - xã hội, luật pháp. Giữ vững ổn định chính trị là giải pháp quan trọng hàng đầu trong các giải pháp. Kinh nghiệm cho thấy nhiều quốc gia có tiềm năng lớn về tài nguyên thiên nhiên cũng như về thị trường rộng lớn song lại gặp khó khăn trong việc thu hút FDI do xảy ra xung đột chính trị. Đây là giải pháp kế thừa và phát triển nhân tố tích cực trong thu hút FDI trong thời gian qua ở nước ta. Để tạo lập môi trường chính trị, xã hội ổn định ở nước ta cần tăng cường hơn nữa vai trò, nâng cao năng lực cùng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, coi đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định. Đồng thời mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và nâng cao hiệu lực của Nhà nước trên các lĩnh vực từ quản lý kinh tế đến quản lý xã hội. Coi trọng giải quyết các vấn đề xã hội đang ngày càng bức xúc như tham nhũng, hối lộ, thất nghiệp, nghèo đói, tệ nạn xã hội. 2, Xây dựng quy hoạch chiến lược thu hút FDI, đổi mới công tác vận động, xúc tiến đầu tư 2.1: Xây dựng quy hoạch chiến lược thu hút FDI Việc quy hoạch thu hút FDI ngay từ đầu phải gắn với việc phát huy nội lực, đảm bảo về an ninh quốc phòng. Việc quy hoạch thu hút FDI phải gắn với quy hoạch ngành, sản phẩm, gắn với mỗi vùng, mỗi địa phương, phát huy được lợi thế so sánh của sản phẩm Việt Nam. Trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập quốc tế, tăng cường thu hút các dự án có công nghệ thích hợp, đầu tư vào những ngành kinh tế mũi nhọn. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần nhanh chóng lập quy hoạch các ngành, lãnh thổ cơ cấu kinh tế thống nhất trên phạm vi cả nước, các ngành cần hoàn chỉnh thêm một bước công tác quy hoạch, phối hợp với các thành phố và địa phương xây dựng quy hoạch trên địa bàn lãnh thổ. Trừ một số dự án đặc thù như khai thác, chế biến khoáng sản, nông sản gắn với vùng nguyên liệu, cần định hướng quy tụ các dự án FDI tập trung vào các khu công nghiệp, khu chế xuất để giảm tỷ lệ dự án đầu tư phân tán. Khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử, năng lượng, những ngành có thế mạnh về nguyên liệu và lao động. Cần có cơ chế, chính sách để tạo ra bước chuyển biến cơ bản. Hướng mạnh hơn nữa đầu tư vào xuất khẩu, góp phần tích cực làm chuyển biến kinh tế và phân công lao động xã hội. Trên cơ sở đó hình thành danh mục các dự án gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho thời kỳ 2001 - 2005. 2.2: Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động và xúc tiến đầu tư. Nghiên cứu xu hướng phát triển của thị trường vốn đầu tư trên thế giới, chính sách đầu tư của các khối, các nước, các tập đoàn công ty lớn để có đối sách thích hợp sẽ có tác dụng to lớn đối với hoạt động thu hút FDI. Chiến lược thu hút FDI cần chú trọng thu hút vốn của các tập đoàn lớn trên thế giới và nguồn vốn từ các nước có tiềm năng kinh tế lớn, thị trường lớn, công nghệ cao như Mỹ, Tây Âu... Thực hiện chủ trương đa phương hoá đối tác đầu tư nước ngoài để tạo thế chủ động trong mọi tình huống. Cùng với việc thu hút các nhà đầu tư truyền thống ở Châu á, ASEAN vào các dự án mà họ có kinh nghiệm và thế mạnh như chế biến nông sản, sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu,... cần chuyển hướng sang các nước Tây Âu, Bắc Mỹ, Bắc Âu nhằm tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại để nâng cao tiềm lực cạnh tranh của nền kinh tế, chú ý các dự án vừa và nhỏ nhưng có công nghệ hiện đại. Đổi mới về nội dung và phương thức vận động, xúc tiến đầu tư. Triển khai các chương trình xúc tiến đầu tư theo ngành, lĩnh vực, địa bàn với các dự án và đối tác cụ thể. Căn cứ vào danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài chuẩn bị kỹ một số dự án đầu tư quan trọng, lựa chọn, mời trực tiếp một vài tập đoàn lớn trong ngành, lĩnh vực nào đó để đàm phán, tham gia đầu tư vào các dự án. Chú trọng cả xúc tiến đầu tư để thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài mới và các hoạt động hỗ trợ các nhà đầu tư để triển khai hiệu quả các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động. Giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc để các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động thuận lợi. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, có đóng góp thiết thực vào xây dựng đất nước, đồng thời phê phán, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam. Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các diễn đàn quốc tế, các hoạt động hợp tác, xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ hợp tác AIA, ASEAN, APEC, ASEM, các cuộc hội thảo về đầu tư ở trong và ngoài nước, sử dụng tổng hợp các phương tiện xúc tiến đầu tư qua truyền thông đại chúng, mạng Internet, tiếp xúc trực tiếp... Đẩy mạnh việc tuyên truyền giới thiệu về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo dựng hình ảnh mới về Việt Nam, tạo sự đánh giá thống nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong dư luận xã hội. Các cơ quan đại diện ngoại giao - thương mại Việt Nam có trách nhiệm làm tốt việc vận động xúc tiến đầu tư vào Việt Nam, bố trí cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng điểm. Tăng cường cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở các Bộ, ngành, địa phương. Bố trí nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, ngành, địa phương. Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách đầu tư ra nước ngoài của các nước, các tập đoàn và công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin về đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng tuyên truyền đối ngoại trên cơ sở sử dụng thông tin hiện đại. Xây dựng và đưa vào hoạt động trang Web về đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ việc cung cấp thông tin cập nhật về chủ trương, chính sách pháp luật về đầu tư, giới thiệu các dự án kêu gọi đầu tư, biểu dương những dự án thành công... 3: Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, đổi mới cơ chế chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài 3.1: Tiếp tục nghiên cứu xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển theo đúng định hướng của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và phù hợp với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Môi trường đầu tư hấp dẫn trước hết ở hệ thống pháp luật. Việt Nam cần mạnh dạn hơn nữa việc tạo ra môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo xu hướng đồng bộ hoá về luật, tăng ưu đãi về tài chính cho nhà đầu tư đi đôi với việc kiểm soát chặt chẽ những điều kiện liên quan đến sự phát triển ổn định, bền vững cho phù hợp với tình hình trong nước và thông lệ quốc tế. Cần phải tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật. Đặc biệt, cần tién tới thống nhất chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. 3.2: Nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng: - Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung áp dụng cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh, đồng thời áp dụng một số quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực và từng thời kỳ. - Đa dạng hoá các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài để khai thác thêm các kênh đầu tư mới; nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư như công ty hợp doanh, công ty quản lý vốn, bổ sung Nghị định số 103/1999/NĐ-CP ngày 10/9/1999 của Chính phủ về giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước, theo hướng cho phép nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài mua, nhận khoán kinh doanh, quản lý, thuê các doanh nghiệp trong nước, nghiên cứu mô hình khu kinh tế mở. - Mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với cam kết trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Từng bước mở thị trường bất động sản cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia đầu tư ở Việt Nam; xây dựng cơ chế để doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài được xây dựng, kinh doanh nhà ở và xây dựng, kinh doanh phát triển khu đô thị mới, khuyến khích đầu tư trong các lĩnh vực dịch vụ, khoa học, công nghệ, dịch vụ thông tin, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, từng bước mở rộng khả năng hợp tác đt trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch. Trong thời gian tới cần thực hiện những công việc cấp bách sau: - Xây dựng đề án mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên cơ sở tổng kết, đánh giá những lĩnh vực đã cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài làm thí điểm, những lĩnh vực mà trong thời gian qua đã có chủ trương không cấp giấy phép hoặc hạn chế cấp giấy phép đầu tư, điều chỉnh danh mục các sản phẩm phải đảm bảo tỷ lệ xuất khẩu ít nhất 80%. Căn cứ vào đề án trên và các quy định hiện hành, nhà đầu tư chủ động lựa chọn các dự án đầu tư theo đúng quy định tại điều 3 Nghị định số 24/2000/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Các cơ quan quản lý Nhà nước không được tự ý đặt ra bất cứ hạn chế nào khác đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Xây dựng quy chế thực hiện thí điểm việc chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này được đăng ký tại thị trường chứng khoán. Nghiên cứu, sửa đổi các quy định cụ thể về thời hạn đàm phán dự án BOT và quy tắc, thẩm quyền chỉ định nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài làm dự án BOT và một số trường hợp cần thiết. - Ban hành các quy định về việc cho phép nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài được đầu tư vào dịch vụ nhập khẩu, dịch vụ phân phối trong nước theo tinh thần Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ. Thu hẹp danh mục hàng hóa không thuộc đối tượng doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài mua để xuất khẩu. - Nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi Nghị định số 60/CP của Chính phủ ngày 05/07/1994 về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất đai tại đô thị và Nghị định số 61/CP ngày 05/07/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai, ban hành Nghị định của Chính phủ quy định cụ thể người Việt Nam định cư ở nước ngoài có dự án đầu tư và thường trú tại Việt Nam được mua nhà ở. - Ban hành ngay các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách, quy định về hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học theo Nghị định số 06/2000/NĐ-CP ngày 06/03/2000 của Chính phủ để tăng cường thu hút được những dự án đầu tư có chất lượng và quản lý được hoạt động của các dự án trong lĩnh vực này. 3.3: Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài theo Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg ngày 26/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ. Thống nhất áp dụng phí đăng kiểm phương tiện cơ giới, phí cảng biển, phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hoàn thành sớm việc hoàn trả các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài số vốn hợp thức, thực tế mà các doanh nghiệp này đã bỏ ra để xây dựng các công trình điện ngoài hàng rào. 3.4: Để khuyến khích hoạt động FDI cần quan tâm đến một số chính sách sau: - Chính sách đất đai: giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án. Thí điểm việc cho phép tư nhân trong nước đã được cấp quyền sử dụng lâu dài được cho nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài thuê lại đất trong thời hạn được cấp quyền sử dụng đất. Nghiên cứu cách giải quyết yêu cầu của doanh nghiệp đầu tư thực hiện dự án lớn ở Việt Nam cần thế chấp giá trị quyền sử dụng đất đã được giao hoặc cho thuê dài hạn để vay vốn của các tổ chức tín dụng hoạt động ở nước ngoài trong trường hợp tổ chức tín dụng ở Việt Nam không có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn. Trong thời gian tới cần thực hiện các vấn đề cấp bách sau: + Đẩy nhanh tiến độ đền bù giải phóng mặt bằng, tạo thuận lợi cho việc triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Uỷ ban nhân dân địa phương kiên quyết tổ chức cưỡng chế thực hiện giải phóng mặt bằng các trường hợp đã được đối xử theo đúng chính sách và quy định của nhnh nhưng vẫn không chấp hành. + Ban hành văn bản hướng dẫn về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. + Ban hành văn bản hướng dẫn việc xử lý trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên đối với đất góp vốn vào liên doanh và trường hợp doanh nghiệp chuyển đổi hình thức đầu tư, bị phá sản và giải thể trước thời hạn. - Chính sách thuế và hỗ trợ tài chính: chính sách thuế và những ưu đãi tài chính gắn với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là một yếu tố chủ yếu cấu thành tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính sách thuế và những ưu đãi tài chính sẽ tiếp tục hoàn thiện theo hướng có hệ thống, ổn định và thích hợp với các nước trong khu vực. Loại bỏ những hạn chế do chính sách thuế và những ưu đãi tài chính gây ra. Phát huy tích cực tác dụng của chính sách thuế và ưu đãi tài chính đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Để thực hiện phương hướng trên, các giải pháp cần thực hiện là: + Thực hiện tốt luật thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập công ty. Đây là hai đạo luật thuế trong giai đoạn đầu áp dụng để đưa hoạt động thu thuế đối với các dự án đầu tư nước ngoài đi vào ổn định. + Tăng cường biện pháp ưu đãi tài chính cho các nhà đầu tư thông qua hệ thống giá cả áp dụng đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp thống nhất như giá điện, nước, giá cước vận tải, bưu điện, hàng không... Cho phép bên Việt Nam trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài được nộp thuế chậm, được bảo lãnh để vay vốn góp vào dự án hoặc được liên kết để tăng khả năng tài chính. + Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của các biện pháp ưu đãi tài chính như giải quyết nhanh vấn đề hoàn thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài, việc chuyển lợi nhuận ra về nước thuận tiện, vấn đề góp vốn được dễ dàng đặc biệt là không nên hạn chế hoặc đưa ra các quy định bắt buộc các nhà đầu tư nước ngoài phải góp vốn bằng tiền mặt khi họ đang gặp khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ. + Hỗ trợ cho các dự án đã được cấp giấy phép đầu tư được hưởng những ưu đãi của các quy định mới về thuế lợi tức, giá thuê đất mới, miễn giảm thuế doanh thu đối với các doanh nghiệp thực sự thua lỗ. + Hỗ trợ bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang thực sự gặp khó khăn. + Cho phép chuyển một số có lựa chọn các liên doanh thua lỗ nặng mà phía Việt Nam không có khả năng gánh chịu cùng thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. + Chủ động thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn nước ngoài, không nhất thiết phải ấn định tỷ lệ nguồn vốn, tranh thủ mọi nguồn vốn để phát triển. + Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cổ phần hóa để tăng vốn phát triển sản xuất kinh doanh. + Ban hành các chính sách thu phí thống nhất để tránh tình trạng thu phí bất hợp lý và không quản lý được, tránh thu phí tuỳ tiện ở các địa phương. Ký hiệp định thương mại để khắc phục khó khăn về tiền tệ cho các doanh nghiệp, thu hút mạnh hơn đầu tư công nghệ của các nước, tăng sản phẩm nội trên thị trường. - Chính sách lao động và tiền lương: tiếp tục hoàn thiện chính sách lao động và tiền lương đối với lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài. Giải quyết cho thoả đáng các tranh chấp về lao động và tiền lương. Hoàn thiện các loại thủ tục đối với lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như ký hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể và thành lập, phát huy vai trò của các tổ chức công đoàn, tổ chức Đảng và Đoàn thanh niên. Để thực hiện tốt các mục tiêu này, cần tập trung giải quyết các giải pháp sau: + Hoàn thiện các loại văn bản quy định áp dụng đối với người lao động trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Các văn bản đặc biệt chú trọng là quy định về tuyển dụng, lựa chọn lao động, chức năng của các cơ quan quản lý lao động, vấn đề đào tạo, đề bạt và sa thải lao động, các văn bản xử lý về tranh chấp lao động, tiền lương, thu nhập. + Hoàn thiện bộ máy hành pháp về quản lý lao động trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, thành lập phân toà lao động để xử lý các tranh chấp lao động đặc biệt là quy định về ký hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể, xử lý nghiêm minh những trường hợp làm sai quy định về trả công lao động, tính thuế thu nhập cho người nước ngoài. Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp. Công đoàn là người đại diện hợp pháp cho người lao động và bảo về quyền lợi cho người lao động. Tránh tình trạng hoạt động của công đoàn đi ngược lại với lợi ích của người lao động. Chú trọng đào tạo người lao động cả trong nước và nước ngoài để tiếp thu công nghệ. Đẩy mạnh hoạ động của các tổ chức chính trị như tổ chức Đảng, Đoàn thanh niên trong dự án để bảo vệ quyền lợi chính trị lâu dài cho người lao động, bảo đảm cho họ yên tâm làm việc lâu dài, tránh tình trạng “vội vàng” trong khi làm việc với các nhà đầu tư và sẽ gây khó khăn trong việc quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Phát huy vai trò của cơ quan thanh tra lao động trong việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách lao động và tiền lương của các dự án đầu tư nước ngoài đồng thời sửa đổi các chính sách về lao động và tiền lương cho thích hợp. - Chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm: Vấn đề định hướng thị trường và tiêu thụ sản phẩm cho các dự án đầu tư nước ngoài có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Thị trường cho các dự án này cần được nhìn nhận cả từ thị trường “đầu vào” và thị trường “đầu ra”. Đối với thị trường “đầu vào”, cần chú trọng các loại máy móc, thiết bị, công nghệ được đưa vào các dự án đầu tư với thế hệ mới, hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường. Đối với thị trường “đầu ra”, cần chú trọng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm cả ở thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Đẩy mạnh các hoạt động mở rộng thị trường cho các dự án đầu tư nước ngoài thông qua việc khuyến khích thúc đẩy xuất khẩu và xúc tiến thương mại. Khai thác các thế mạnh của bên nước ngoài trong hoạt động nghiên cứu thị trường để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các giải pháp cần thực hiện là: + Khuyến khích thúc đẩy xuất khẩu đặc biệt là các sản phẩm đã chế biến sâu, chế biến tinh, các sản phẩm chất lượng cao, nhất là các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam. + Định hướng tiêu thụ sản phẩm theo khuôn khổ pháp lý thích hợp để tránh tình trạng cạnh tranh về giá cả dẫn đến việc bán phá giá, bán hàng kém chất lượng ra thị trường. Cần nhanh chóng xây dựng và thông qua luật cạnh tranh, luật chống đầu cơ, chống bán phá giá các loại hàng hoá. Bảo hộ thị trường trong nước để khuyến khích các nhà đầu tư vào Việt Nam thông qua: + Định hướng các ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên, đặc biệt là những ngành nghề tạo ra tiềm lực công nghệ cho đất nước, hình thành đội ngũ cán bộ chất lượng cao như lĩnh vực điện tử - tin học, lĩnh vực cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, nông lâm ngư nghiệp hoặc những ngành mà Việt Nam chưa thể tự mình phát triển được. Giảm bớt nhập khẩu những mặt hàng sản xuất hoặc lắp ráp được từ trong nước, như ô tô, xe máy, đồ điện tử... + Sử dụng các công cụ bảo hộ thị trường trong nước như bảo hộ bằng thuế quan. áp dụng thuế nhập khẩu phân biệt đối với các hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam có giá bán quá thấp so với gía thông thường, vì bán phá giá gây khó khăn cho sự phát triển của các ngành sản xuất hàng hoá tương tự của các dự án đầu tư nước ngoài, các hàng hoá nhập khẩu với giá quá thấp do có trợ cấp của nước xuất khẩu. Chú trọng bảo hộ thị trường bằng công cụ phi thuế quan như hạn ngạch, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, sử dụng các biện pháp hành chính để chống buôn lậu, hàng giả, làm ăn thiếu nghiêm minh để hỗ trợ gián tiếp cho các nhà đầu tư nước ngoài. + Đảm bảo đối xử công bằng, thoả đáng và bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài. + Có chính sách khuyến khích người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm được sản xuất trong nước. - Về chính sách công nghệ: Để đạt được mục tiêu thu hút công nghệ hiện đại vào Việt Nam trong thời gian tới, điều đầu tiên cần phải được thực hiện là phải xây dựng một chiến lược thu hút công nghệ hữu hiệu. Chiến lược này phải chỉ ra được lộ trình dài hạn cho việc thu hút công nghệ nước ngoài với các biện pháp và công cụ khác nhau đặc biệt là việc xây dựng các chính sách thu hút công nghệ hợp lý với điều kiện của Việt Nam. Cần coi trọng việc hình thành các khu công nghệ cao, công nghệ sạch ở những vùng thích hợp trong nước với hệ thống quy chế rõ ràng, tạo điều kiện hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các loại máy móc, thiết bị đưa vào góp vốn đầu tư hoặc nhập khẩu từ nước ngoài cần phải thực hiện việc giám định chất lượng và giá cả một cách nghiêm minh theo các quy định của pháp luật để tránh tình trạng nhập khẩu hoặc chuyển giao thiết bị, máy móc lạc hậu với giá cao. 4: Xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài thì cơ sở hạ tầng kỹ thuật có vai trò quyết định quan trọng đến kết quả đầu tư, nó có ảnh hưởng tới công tác huy động và sử dụng vốn FDI. Trong thời gian qua, hệ thống cơ sở hạ tầng như giao thông, bến cảng, sân bay, hệ thống thông tin liên lạc, cấp thoát nước, điện lực…được cải thiện một cách đáng kể. Tiếp tục nâng cao vai trò của Nhà nước và xây dựng kết cấu hạ tầng nhất là hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp. Khi cấp giấy phép đầu tư cần phải bố trí vốn để xây dựng mạng lưới hạ tầng, coi đây là nguồn vốn đối ứng thực hiện FDI. Trong giai đoạn trước mắt, chúng ta cần tập trung đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng của ba vùng kinh tế trọng điểm quyết định đến tăng trưởng kinh tế. Cần phải chấp nhận phương án “phát triển mất cân đối” trong giai đoạn đầu để tạo ra sự cân đối sau này nhằm mục tiêu tăng trưởng nhanh trong ngắn hạn. Ba vùng kinh tế trọng điểm làm đầu tàu cho cả nền kinh tế nhưng không phát triển độc lập mà liên kết với các vùng kinh tế khác thông qua thị trường hàng hoá, thị trường lao động và thị trường các yếu tố sản xuất khác. Trong thực tế, những địa bàn này đã và đang là nơi thu hút được nhiều dự án FDI nhất trong cả nước. Do đó, việc tập trung phát triển cơ sở hạ tầng để tập trung thu hút FDI tại ba vùng này sẽ đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư. Mặt khác, chúng ta cần xây dựng những quy chế ưu đãi rõ ràng, cụ thể đối với các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT vào các địa bàn trọng điểm để hình thức này nhanh chóng được các nhà đầu tư triển khai thực hiện, góp phần hỗ trợ vốn đầu tư cho ngân sách. Bên cạnh đó, khuyến khích đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc biệt trong tương lai không xa, chúng ta phải nghĩ đến việc thành lập các đặc khu kinh tế để cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng. 5: Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước - Các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được cấp giấy phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cần động viên khen thưởng kịp thời để khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động tốt, tiếp tục phát triển, đồng thời cần có biện pháp thích hợp để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, các nghĩa vụ thuế. Đối với các dự án đang triển khai thực hiện, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn nhất là trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng để nhanh chóng hoàn thành xây dựng cơ bản, đưa doanh nghiệp đi vào sản xuất kinh doanh. Đối với các dự án chưa triển khai, song xét thấy vẫn có khả năng thực hiện, cần thúc đẩy việc triển khai trong một khoảng thời gian nhất định và giải quyết các vướng mắc, kể cả việc điều chỉnh mục tiêu và quy mô hoạt động của dự án. Đối với các dự án chưa triển khai và không có triển vọng thực hiện, kiên quyết thu hồi giấy phép đầu tư, dành địa điểm cho các nhà đầu tư khác. - Kiểm soát chặt chẽ việc thành lập mới các khu công nghiệp và đánh giá tình hình triển khai các khu công nghiệp đã có quyết định thành lập, Bộ Kế hoạch và đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ phương án dừng hoặc dãn tiến độ xây dựng đối với các khu công nghiệp không đủ yếu tố khả thi. Bổ sung, sửa đổi quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ theo hướng: thu hẹp khoảng cách và tiến tới thống nhất cơ chế, chính sách đối với đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu công nghiệp, bổ sung các mô hình về khu công nghiệp nhỏ phục vụ cho việc phát triển ngành nghề ở nông thôn và chỉnh trang đô thị, điều chỉnh cơ chế chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào, tách việc cho thuê đất nguyên thổ và kinh doanh hạ tầng. - Tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài cho Uỷ ban nhân dân cấp Tỉnh trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất quản lý về quy hoạch, cơ cấu, chính sách và cơ chế, trong đó chú trọng phân cấp quản lý Nhà nước đối với hoạt động sau giấy phép của các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra của các Bộ, ngành Trung ương. Có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm luật pháp, chính sách, quy hoạch trong việc thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài, kể cả việc chấm dứt hiệu lực của các giấy phép đầu tư cấp sai quy định. 6: Cải tiến các thủ tục hành chính Đẩy mạnh cải cách hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế quản lý và tổ chức quản lý theo hướng một cửa, một đầu mối ở Trung ương và ở địa phương để tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để tạo bước chuyển căn bản về thủ tục hành chính, cần thực hiện các giải pháp sau: - Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và địa phương trong quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh, thực hiện chế độ giao ban định kỳ giữa các Bộ, ngành Trung ương với địa phương có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, duy trì thường xuyên việc tiếp xúc trực tiếp giữa cơ quan quản lý Nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài. - Cải tiến mạnh thủ tục hành chính liên quan đến các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng tiếp tục đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp giấy phép đầu tư. Lập tổ công tác liên ngành do Bộ Kế hoạch và đầu tư chủ trì để rà soát có hệ thống tất cả các loại giấy phép, các quy định liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, trên cơ sở đó có kiến nghị bãi bỏ những loại giấy phép, quy định không cần thiết đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Các Bộ, ngành, địa phương quy định rõ ràng, công khai các thủ tục hành chính, đơn giản hoá và giảm bớt các thủ tục hành chính không cần thiết, kiên quyết xử lý nghiêm khắc các trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm của cán bộ công quyền. 7: Công tác cán bộ và đào tạo Chú trọng tăng cường công tác cán bộ và đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật làm việc trong khu kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cần phải hoàn thành các vấn đề sau: - Xây dựng quy chế cán bộ Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị và quản lý doanh nghiệp liên doanh, quy định rõ tiêu chuẩn tuyển chọn về chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ; trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ làm việc tại các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Xây dựng đề án tổ chức đào tạo theo nhiều hình thức đối với cán bộ làm công tác đầu tư trực tiếp nước ngoài, cán bộ làm quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tổ chức thường xuyên việc tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp cho cán bộ Việt Nam hiện nay đang làm việc tại các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Xây dựng đề án tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, trước hết là phục vụ cho các khu công nghiệp lớn. Tóm lại, có thể nói các giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới như đã nêu ở trên có thể chưa đủ, nhưng đó là các giải pháp cơ bản cần được thực hiện đồng bộ, liên tục và nhất quán nhưng linh hoạt theo không gian và thời gian cụ thể. Đồng thời cân nhắc tới tính hai mặt của một số giải pháp để có biện pháp điều chỉnh phù hợp. Trong các giải pháp trên, giải pháp “đảm bảo môi trường chính trị - xã hội ổn định cho hoạt động thu hút FDI” là giải pháp quan trọng hàng đầu vì nó đảm bảo cho sự an toàn của các nhà đầu tư. Vấn đề con người mà cụ thể là “công tác cán bộ và đào tạo” được coi là giải pháp vừa mang tính chiến lược, vừa mang tính cấp bách. Tuy nhiên nếu chú trọng từng giải pháp thì chưa cải thiện chung môi trường đầu tư hiện tại, bởi vì đảm bảo sự hài hoà giữa lợi ích Nhà nước - chủ đầu tư - người lao động trở thành yêu cầu và tiêu chuẩn cao nhất để “định chuẩn” sự đúng đắn về liều lượng của các giải pháp thu hút FDI. Kết luận Có thể nói Việt Nam bước vào một giai đoạn mới, một thời kỳ mới, một cơ hội mới để đưa nền kinh tế phát triển nhanh chóng, đưa đất nước hoà nhập với các nước trong khu vực và các nước phát triển trên thế giới. Để có được điều đó phải kể đến vai trò to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên để đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng có hiệu quả thiết thực hơn, thúc đẩy sự phát triển chung của các ngành kinh tế, tạo ra sản phẩm xã hội dồi dào, làm động lực cho sự nghiệp CNH - HĐH ở nước ta thì trước hết, các cơ quan quản lý nhà nước cần nghiên cứu tổng thể rút ra những cái được và chưa được trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài để từ đó có những khuynh hướng cho việc sữa đổi, bổ sung ngày càng hoàn chỉnh và trở nên hấp dẫn hơn, thiết thực hơn trong quá trình thực hiện công cuộc CNH - HĐH đất nước. Nhưng để thực hiện thành công chiến lược thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH yêu cầu chuíng ta phải giải quyết những vấn đề bức xúc như việc cải thiện môi trường pháp lý, ổn định kinh tế vĩ mô, cải tạo và xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài và phải vượt qua được những thử thách trước mắt. Bằng những thuận lợi cùng với những nỗ lực khắc phục khó khăn còn tồn tại chúng ta cần đề ra những giải pháp cụ thể để thực hiện định hướng căn bản phát triển kinh tế - xã hội và những diễn biến tình hình quốc tế thuận lợi, quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam ngày càng tốt đẹp cho phép chúng ta đặt hy vọng lớn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài không những góp phần thực hiện mục tiêu đề ra : Nhanh chóng thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa đến năm 2020 mà góp phần thực hiện ý đồ chiến lược của nhà nước, biến Việt Nam trở thành một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật của các nước trong khu vực. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế đầu tư - Trường ĐH Kinh tế quốc dân 2. Thời báo kinh tế Việt Nam và thế giới 2001-2002 3. Tạp chí Thị trường giá cả - năm 2000 4. Tạp chí nghiên cứu kinh tế 5. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV 6. Nghị quyết 09/2001/NQ-CP của Chính phủ 7. Các báo cáo tình hình đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư 8. Công nghiệp hoá - một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm các nước - Trần Kiên - 1994 9. Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở Việt Nam - 2000 Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I Cơ sở lý luận về FDI và CNH - HĐH 3 I. Khái niệm và đặc điểm của FDI 3 1. Khái niệm về FDI 3 2. Đặc điểm của FDI 5 3. Các nhân tố ảnh hưởng tới FDI 6 3.1. Các yếu tố khách quan 6 3.2. Các yếu tố chủ quan 7 II. Khái niệm về CNH - HĐH và các vấn đề cần nghiên cứu khi thực hiện CNH - HĐH 9 1. Khái niệm về CNH - HĐH 9 2. Bước đi của CNH - HĐH nền kinh tế quốc dân 10 3. Nhũng vấn đề cần nghiên cứu khi tiến hành CNH - HĐH 12 III. Sự cần thiết phải thu hút FDI để thực hiện sự nghiệp CNH - HĐH ở Việt Nam 14 1. Quan điểm của Lê nin và các nhà kinh tế về FDI 14 2. Vai trò của FDI đối với CNH - HĐH ở các nước đang phát triển 17 2.1. Tác động tích cực 17 2.2. Những tác động tiêu cực 20 IV. Xu hướng vận động của dòng FDI hiện nay và kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước 22 1. một số xu hướng vận động của dòng FDI hiện nay 22 2. Kinh nghiệm huy động và sử dụng FDI của một số nước trong khu vực 30 Chương II: Thực trạng thu hút FDI và tác động của nó đối với sự nghiệp CNH - HĐH ở Việt Nam những năm gần đây 33 I. Thực trạng FDI vào Việt Nam 33 1. Về quy mô và nhịp điệu đầu tư 33 2. Về cơ cấu đầu tư theo đối tác 39 3. Về cơ cấu đầu tư theo vùng kinh tế 41 4. Về cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế 43 5. Về cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư 46 6. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số ngành công nghiệp mũi nhọn 49 II. Đánh giá tổng quát hoạt động FDI trong công cuộc CNH - HĐH taị Việt Nam trong thời gian qua 51 1. Những thành tựu đạt được 51 2. Nhũng vấn đề tồn tại 58 3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động FDI 63 3.1. Các nguyên nhân khách quan 63 3.2. Các nguyên nhân chủ quan 64 Chương III: Phương hướng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm thực hiện sự nghiệp CNH - HĐH ở nước ta trong thời gian tới 67 I. Mục tiêu và định hướng thu hút FDI để thực hiện CNH - HĐH 67 1. Các mục tiêu chủ yếu về tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001-2005 67 2. Định hướng thu hút FDI trong thời gian tới 68 3. Các nhân tố tác động tới việc thu hút FDI trong tình hình mới 68 3.1. Nhân tố trong nước 68 3.2. Nhân tố bên ngoài 72 II. Các giải pháp cụ thể nhằm thu hút FDI để tiến hành CNH - HĐH ở nước ta trong thời gian tới 75 1. Đảm bảo môi trường chính trị, xã hội ổn định cho hoạt động thu hút FDI 75 2. Xây dựng quy hoạch chiến lược thu hút FDI, đổi mới công tác vân động xúc tiến đầu tư 76 3. Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, đổi mới cơ chế chính sách về FDI 78 4. Xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật 84 5. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước 85 6. Cải tiến các thủ tục hành chính 86 7. Công tác cấn bộ và đào tạo 87 Kết luận 89

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29071.doc
Tài liệu liên quan