Chuyên đề Đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Tây

Phát triển các doanh nghiệp đang là vấn đề được Đảng và Nhà Nước rất chú trọng, được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Để góp phần thực hiện nhiệm vụ trọng tâm đó, trong thời gian qua NHNo&PTNT Hà Tây đã có những hoạt động đầu tư cho vay doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh mình và đã đạt được những kết quả bước đầu. Song, quy mô cho vay đối với doanh nghiệp của ngân hàng còn quá nhỏ bé và vẫn còn nhiều hạn chế trong hoạt động cho vay. Chính vì vậy, đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp đang là vấn đề cấp thiết trước mắt cũng như lâu dài trong chiến lược kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Tây. Sau quá trình thực tập và nghiên cứu tại NHNo&PTNT Hà Tây em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp “Đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tai chi nhánh NHNo&PTNT Hà Tây” với các nội dung được đề cập trong chuyên đề là: 1. Nghiên cứu lý luận hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại từ đó khẳng định vai trò của ngân hàng thương mại trong hoạt động cho vay doanh nghiệp. 2. Phân tích rõ tình hình hoạt động kinh doanh và hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây. Từ đó chỉ ra những mặt đã đạt được, những hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp. 3. Nghiên cứu những định hướng trong hoạt động cho vay doanh nghiệp của ngân hàng và dựa trên cơ sở thực tiễn đã phân tích đề xuất một số ý kiến và kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại NHNo&PTNT Hà Tây. Tuy nhiên, do thời gian có hạn và lượng kiến thức tích luỹ được còn hạn chế nên những ý kiến đề xuất của em chỉ là một trong tổng thể các ý kiến nhằm giúp cho NHNo&PTNT Hà Tây đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp. Vì vậy, em rất mong nhận được sự giúp đỡ của các cô, chú cán bộ trong ngân hàng và cô giáo, Th.S Hoàng Lan Hương để chuyên đề được hoàn chỉnh hơn nữa. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn những sự giúp đỡ quý báu đó!

doc69 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1135 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
100% (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng năm 2004, 2005, 2006) Bảng số liệu cho ta thấy: Từ năm 2004 đến năm 2006, trong hoạt động cho vay của NHNo&PTNT Hà Tây, tỷ trọng cho vay doanh nghiệp tương đối cao so với cho vay các thành phần kinh tế khác, tuy nhiên vẫn thấp hơn so với hộ SX, tư nhân và hộ GĐ. Năm 2004, dư nợ cho vay doanh nghiệp chiếm tỷ trọng 40,2% tổng dư nợ, năm 2005 chiếm 37,6% tổng dư nợ, năm 2006 chiếm 36% tổng dư nợ. Mặc dù tỷ trọng dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp trong tổng dư nợ có xu hướng giảm qua các năm nhưng về số tuyệt đối thì dư nợ cho vay doanh nghiệp thì lại tăng qua các năm. Cụ thể như sau: Năm 2004, dư nợ cho vay doanh nghiệp là 1.466.042 triệu đồng. Năm 2005 dư nợ cho vay doanh nghiệp là 1.593.877 triệu đồng, tăng 127.835 triệu đồng so với dư nợ cho vay doanh nghiệp năm 2004. Năm 2006, dư nợ cho vay doanh nghiệp là 1.905.360 triệu đồng, tăng 311.483 triệu đồng so với dư nợ cho vay doanh nghiêp năm 2005. Nếu chỉ xét riêng khối doanh nghiệp, kết quả cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây trong thời gian qua được thể hiện thông qua bảng số liệu và biểu đồ như sau: Bảng 8: Kết quả cho vay phân theo loại hình doanh nghiệp Đơn vị: Triệu đồng Loại hình DN 2004 2005 2006 DNCV Tỷ trọng DNCV Tỷ trọng DNCV Tỷ trọng 1. DNNN 348.745 23,8% 219.581 13,8% 159.689 8,4% 2. Cty CP- Cty TNHH 867.078 59,1% 1.089.221 68,3% 1.436.738 75,4% 2. DN tư nhân 250.579 17,1% 285.075 17,9% 308.933 16,2% Tổng 1.466.042 100% 1.593.877 100% 1.905.360 100% (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng năm 2004, 2005, 2006) Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay đối với từng loại hình doanh nghiệp được thể hiện thông qua bảng số liệu sau: Bảng 9: Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay của khối doanh nghiệp Loại hình doanh nghiệp Tốc độ tăng trưởng DNCV 2005 so 2004 Tốc độ tăng trưởng DNCV 2006 so 2005 1. DNNN -37% -27% 2. Cty CP- Cty TNHH 26% 32% 3. DN tư nhân 14% 8% (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng năm 2004, 2005, 2006) Kết quả trên được biểu diễn trên biểu đồ như sau: Biểu đồ 3: Dựa vào bảng số liệu và biểu đồ ta thấy: Trong thời gian qua dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây liên tục tăng và tăng với tốc độ ngày càng lớn, năm 2005 tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay là 9%, năm 2006 tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay là 19 %. Xét cụ thể từng loại hình doanh nghiệp ta thấy: Dư nợ cho vay đối với khối DNNN giảm liên tục qua các năm cả về số tuyệt đối và số tương đối và giảm mạnh vào năm 2005 với mức giảm tốc độ tăng là -37%. Năm 2004, dư nợ cho vay của NHNo&PTNT Hà Tây đối với khối doanh nghiệp này là 348.745 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 23,8% so với tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp. Nhưng đến năm 2005, dư nợ cho vay đối với khối doanh nghiệp này giảm xuống còn 219.581 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 13,8% so với tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp. Năm 2006, dư nợ cho vay chỉ còn 15.689 triệu đồng, ở mức thấp nhất so với các loại hình doanh nghiệp khác, chiếm tỷ trọng 8,4% so với tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay là -27%. Khối DN tư nhân dư nợ cho vay có tăng qua các năm nnhwng tăng không đáng kể. Năm 2004, dư nợ cho vay là 250.579 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 17,1% so với tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp. Năm 2005, dư nợ cho vay doanh nghiệp là 285.075 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 17,9% so với tổng dư nợ. Năm 2006, dư nợ cho vay là 308.933 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 16,2% so với tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay đối với khối doanh nghiệp này không đồng đều qua các năm, năm 2005 tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay so với năm 2004 là 14 %, nhưng năm 2006 tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay so với năm 2005 chỉ là 8%. Chiếm tỷ lệ dư nợ cho vay cao nhất trong những năm qua là khối Cty cổ phần và Cty TNHH. Năm 2004, dư nợ cho vay đối với khối doanh nghiệp này là 867.078 triệu đồng, chiến tỷ trọng 59,1% so với tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp. Năm 2005, dư nợ cho vay là 1.089.221 triệu đồng, chiểm tỷ trọng 68,3% so với tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp, với tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay là 26% so năm 2004. Năm 2006, mức dư nợ cho vay đối với khối doanh nghiệp này là 1.436.738 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 75,4 % so với tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp, với tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay so với 2005 là 32%. Nếu xem xét dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây dựa trên kỳ hạn cho vay, kết quả cho vay như sau: Bảng 10: Dư nợ cho vay doanh nghiệp phân theo kỳ hạn cho vay Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 DNCV Tỷ trọng DNCV Tỷ trọng DNCV Tỷ trọng 1. Cho vay ngắn hạn 51.312 3,5% 36.659 2,3% 45.729 2,4% 2. Cho vay trung hạn 1.015.967 69,3% 1.169.906 73,4% 1.497.612 78,6% 3. Cho vay dài hạn 398.763 27,2% 387.312 24,3% 362.018 19% 4. Tổng 1.466.042 100% 1.593.877 100% 1.905.360 100% (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng năm 2004, 2005, 2006) Dựa vào bảng số liệu trên ta thấy: Trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây thời gian qua chủ yếu là cho vay trung hạn, cho vay dài hạn chiếm ở mức trung bình và một phần rất nhỏ là cho vay ngắn hạn. Cụ thể như sau: Dư nợ cho vay trung hạn luôn ở mức cao nhất và liên tục tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối, năm 2004 dư nợ cho vay trung hạn là 1.015.967 triệu đồng với tỷ trọng là 96,3% trong tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp, năm 2005 dư nợ cho vay trung hạn là 1.169.906 triệu đồng với tỷ trọng là 73.4% so với tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp, năm 2006 dư nợ cho vay trung hạn đạt 1.4973.612% với tỷ trọng là 78.6% so với tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp. Dư nợ cho vay dài hạn trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp thấp hơn và có xu hướng giảm cả về số tuyệt đối và số tương đối qua các năm. Cụ thể là: Năm 2004, dư nự cho vay dài hạn là 398.763 triệu đồng với tỷ trọng là 27,2% trong tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp. Năm 2005, dư nợ cho vay dài hạn là 387.312 triệu đồng với tỷ trọng là 24,3% trong tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp. Năm 2006, dư nợ cho vay dài hạn là 362.018 triệu đồng với tỷ trọng là 19% trong tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp. Dư nợ cho vay ngắn hạn luôn ở mức thấp nhất, năm 2004 dư nợ cho vay ngắn hạn là 51.312 triệu đồng với tỷ trọng là 3,5% trong tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp, năm 2005 dư nợ cho vay ngắn hạn là 36.659 triệu đồng với tỷ trọng là 2,3% trong tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp, năm 2006 dư nợ cho vay ngắn hạn là 45.729% với tỷ trọng là 2,4% trong tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp. 2.3.5. Chất lượng hoạt động cho vay doanh nghiệp tại NHNo&PTNT Hà Tây Chất lượng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây trong thời gian qua được đánh giá qua tình hình nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu trong hoạt động cho vay doanh nghiệp là tỷ số giữa dư nợ xấu và tổng dư nợ trong hoạt động cho vay. Thời gian qua, trong hoạt động cho vay của NHNo&PTNT Hà Tây, nợ xấu của khối doanh nghiệp luôn nhỏ hơn nợ xấu của khối tư nhân, hộ sản xuất, hộ gia đình. Thực tế này được thể hiện thông qua bảng số liệu sau: Bảng 11:Tình hình nợ xấu của NHNo&PTNT Hà Tây Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu Nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu Nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu 1. Hộ SX, t/nhân, hộ GĐ 21.225 0,58% 99.637 2,35% 75.829 1,43% 2. Doanh nghiệp 11.775 0,32% 40.363 0,95% 25.171 0,48% 3. Tổng nợ xấu của NH 33.000 0,9% 140.000 3,3% 101.000 1,91% (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng năm 2004, 2005, 2006) Dựa vào bảng số liệu trên ta thấy: Thời gian qua dư nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu của khối doanh nghiệp luôn nhỏ hơn so với nợ xấu của khối hộ sản xuất, tư nhân và hộ gia đình. Cụ thể là: Năm 2004, dư nợ xấu của doanh nghiệp là 11.775 triệu đồng, với tỷ lệ nợ xấu là 0,32%, trong khi đó dư nợ xấu của hộ SX, tư nhân, hộ GĐ là 21.225 triệu đồng, lớn gấp gần 2 lần so với dư nợ xấu của khối doanh nghiệp, với tỷ lệ nợ xấu là 0,58%. Năm 2005, nợ xấu của khối doanh nghiệp và khối hộ SX, tư nhân, hộ GĐ đều tăng lên nhanh chóng với dư nợ xấu lần lượt là 40.363 triệu đồng và 99.637 triệu đồng, tỷ lệ nợ xấu lần lượt là 0,95% và 2,35%. Nguyên nhân của tình trạng này là do năm 2005 trên địa bàn tỉnh dịch cúm gia cầm tái bùng phát gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Năm 2006, tình hình nợ xấu đã được cải thiện, dư nợ xấu của khối doanh nghiệp là 25.171 triệu đồng với tỷ lệ nợ xấu là 0,48%, dư nợ xấu của khối hộ GĐ, tư nhân, hộ SX là 75.829 triệu đồng với tỷ lệ nợ xấu là 1,43%. Với thực trạng như trên, trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của mình, NHNo&PTNT Hà Tây nên đẩy mạnh cho vay đối với khối doanh nghiệp Nếu chỉ xét riêng khối doanh nghiệp, tình hình nợ xấu trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây trong thời gian qua được thể hiện thông qua bảng số liệu dưới đây: Bảng 12: Tình hình nợ xấu phân theo loại hình doanh nghiệp Đơn vị: Triệu đồng Loại hình DN 2004 2005 2006 Nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu Nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu Nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu 1. DNNN 7.194 0,2% 24.053 0,57% 9.891 0,19% 2. Cty CP-Cty TNHH 4.013 0,11% 14.185 0,33% 12.487 0,24% 3. DN tư nhân 568 0,01% 2.125 0,05% 2.793 0,05% 4. Nợ xấu của khối DN 11.775 0,32% 40.363 0,95% 25.171 0,48% 5. Tổng nợ xấu của NH 33.000 0,9% 140.000 3,3% 101.000 1,91% (Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng năm 2004, 2005, 2006) Dựa vào bảng số liệu trên ta thấy: Trong thời gian qua tình hình nợ xấu trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây có nhiều biến động. Năm 2004 dư nợ xấu là 11.775 triệu đồng với tỷ lệ nợ xấu là 0,32%, đến năm 2005 dư nợ xấu tăng lên nhanh chóng lên tới mức báo động 40.363 triệu đồng với tỷ lệ nợ xấu là 0,95% nhưng đến năm 2006 tình hình trên đã được cải thiện dư nợ xấu còn 25.171 triệu đồng với tỷ lệ nợ xấu là 0,48%. Điều này đã thể hiện những cố gắng của NHNo&PTNT Hà Tây trong việc thu hồi nợ xấu. Trong số các khối doanh nghiệp thì DNNN có mức dư nợ xấu cao nhất, năm 2004 dư nợ xấu là 7.194 triệu đồng với tỷ lệ nợ xấu lên tới 0,2%, năm 2005 dư nợ xấu là 24.053 triệu đồng với tỷ lệ nợ xấu là 0,57%. Năm 2006, dư nợ xấu cond 9.891 triệu đồng với tỷ lệ nợ xấu là 0,19%. Mặc dù được cải thiện nhưng đây là một thực trạng xấu trong hoạt động cho vay đối với DNNN của NHNo&PTNT Hà Tây. Nguyên nhân của tình trạng này như đã nói ở trên, hầu hết các DNNN đều làm ăn thua lỗ đang trong quá trình cổ phần hoá chuyển thành công ty cổ phần. Vì vậy, đòi hỏi ngân hàng phải có những biện pháp tích cực hơn nữa trong việc thu hồi nợ của khối doanh nghiệp này. Đối với khối công ty cổ phần, công ty TNHH tình hình nợ xấu cũng có nhiều biến động. Năm 2004, dư nợ xấu chỉ có 4.013 triệu đồng với tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp là 0,11% nhưng năm 2005 thì nợ xấu lại tăng vọt lên 14.185 triệu đồng, tăng gấp hơn 3 lần so với năm 2004 với tỷ lệ nợ xấu lên tới 0,33%. Đến năm 2006, nợ xấu đã giảm xuống còn 12.487 triệu đồng với tỷ lệ nợ xấu là 0,24%. Đối với khối doanh nghiệp tư nhân, dư nợ xấu luôn ở mức thấp nhất so với các khối doanh nghiệp khác, do vậy tỷ lệ nợ xấu cũng nhỏ nhất trong các khối doanh nghiệp. Dư nợ xấu qua các năm 2004, 2005, 2006 của khối doanh nghiệp này lần lượt tương ứng là 568 triệu đồng, 2.125 triệu đồng và 2.793 triệu đồng. Với tỷ lệ nợ xấu của khối doanh nghiệp này là: năm 2004 là 0,01%, năm 2005 là 0,05%, năm 2006 cũng ở tỷ lệ 0,05%. 2.4. Đánh giá về hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây 2.4.1. Những mặt đã đạt được Từ việc nhận thức rõ tầm quan trọng của khách hàng doanh nghiệp đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nông nghiệp nói riêng. Ban lãnh đạo NHNo&PTNT Hà Tây đã chủ động tiếp cận, đầu tư vốn, cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp ngày một nhiều hơn, kết quả đạt được như sau: Thứ nhất: Dư nợ cho vay doanh nghiệp ngày càng tăng nhanh. Năm 2004 dư nợ cho vay doanh nghiệp đạt 1.466.042 triệu đồng, năm 2005 dư nợ cho vay doanh nghiệp tăng lên đạt 1.593.877 triệu đồng, năm 2006 dư nợ cho vay tiếp tục tăng lên tới 1.905.360 triệu đồng. Với mức tăng dư nợ cho vay như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đủ vốn để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời đã tạo điều kiện cho NHNo&PTNT Hà Tây mở rộng cho vay với nhiều đối tượng khách hàng doanh nghiệp và như vậy sẽ góp phần phân tán rủi ro do cho vay được nhiều doanh nghiệp hơn. Thứ hai: Về chất lượng hoạt động cho vay tương đối tốt thể hiện qua số dư nợ xấu ngày càng giảm, điều này cũng thể hiện những hiệu quả đạt được trong việc thu hồi nợ. Năm 2004, nợ xấu trong hoạt động cho vay doanh nghiệp là 11.775 triệu đồng, năm 2005 nợ xấu trong hoạt động cho vay doanh nghiệp là 40.363 triệu đồng do trong năm này dịch cúm gia cầm tái bùng phát trên địa bàn tỉnh, nhưng đến năm 2006 nợ xấu trong hoạt động cho vay doanh nghiệp của ngân hàng chỉ còn 25.171 triệu đồng. Như vây, có thể nói hầu hết các doanh nghiệp vay vốn sử dụng vốn vay đúng mục đích, phát huy hiệu quả vốn tín dụng trong sản xuất kinh doanh ,đảm bảo được khả năng trả nợ đúng thời hạn, đủ gốc và lãi cho ngân hàng. Xét một các tổng quát, tỷ lệ nợ xấu trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của ngân hàng đều ở mức thấp hơn so với mục tiêu đề ra. Thứ ba: Trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp, ngân hàng đã điều hành tốt công tác kế hoạch và có chính sách lãi suất linh hoạt, phù hợp có hiệu quả. Cụ thể như: Ưu tiên vốn kịp thời cho những chi nhánh có khu, cụm công nghiệp, có làng nghề (chẳng hạn như chi nhánh huyện Hoài Đức đây là huyện có làng nghề khắc tượng và làng nghề đồ gỗ)… Có chính sách lãi suất ưu tiên cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu, ưu tiên lãi suất trong cạnh tranh, đặc biệt các doanh nghiệp là khách hàng truyền thống và những doanh nghiệp mới có quan hệ vay vốn lần đầu nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao. Nhờ vậy mà ngân hàng đã thu hút được nhiều doanh nghiệp đến vay vốn, điều này được thể hiện qua số doanh nghiệp có quan hệ vay vốn ngân hàng ngày càng tăng: Năm 2004, số doanh nghiệp có quan hệ vay vốn ngân hàng là 593 doanh nghiêp, năm 2005 số doanh nghiệp có quan hệ vay vốn ngân hàng là 608 doanh nghiệp, năm 2006 số doanh nghiệp có quan hệ vay vốn ngân hàng là 776 doanh nghiệp. Bên cạnh đó, với việc gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ không áp dụng mức lãi suất trong hạn ghi trên hợp đồng mà áp dụng lãi suất trong hạn hiện hành hoặc tối đa bằng lãi suất quá hạn, đã tác động tốt đến chất lượng cho vay, giảm mạnh việc gia hạn nợ tràn nan, nâng cao năng lực tài chính cho ngân hàng, đồng thời ngăn chặn được những biểu hiện tiêu cực của cán bộ tín dụng. Thứ tư: Từ việc mở rộng cho vay doanh nghiệp đã mở rộng các hoạt động dịch vụ ngân hàng. Vì thực tế doanh nghiệp không chỉ là khách hàng vay vốn đơn thuần như hộ SX, tư nhân, hộ GĐ mà cùng với vay vốn là các hoạt động thanh toán trong nước, quốc tế, bảo lãnh, mua bán ngoại tệ, phát hành thẻ… Đây là hướng đi rất quan trọng trong thực hiện mục tiêu chiến lược về dịch vụ của NHNo&PTNT Việt Nam nói chung và NHNo&PTNT Hà Tây nói riêng. Thứ năm: Với những kết quả như trên đã mang lại thu nhập ngày càng cao cho ngân hàng, được thể hiện thông qua doanh thu của ngân hàng sau khi đã trừ đi các khoản chi phí (nhưng chưa trừ lương) trong những năm qua như sau: Năm 2004 đạt 87 tỷ đồng, năm 2005 đạt 111 tỷ đồng, năm 2006 đạt 153 tỷ đồng. Ngoài ra, vốn cho vay của NHNo&PTNT Hà Tây đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của doanh nghiệp ở các khu, cụm công nghiệp, làng nghề truyền thống, vùng nông thôn, góp phần thúc đẩy các ngành hàng xuất khẩu phát triển mạnh như mây tre đan, đồ gỗ, khảm trai…và tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng tích cực và hiệu quả, nâng cao năng lực kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, các doanh nghiệp tư nhân trong các làng nghề đã tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, nhất là các lao động tại chỗ chưa được đào tạo, tạo thu nhập thúc đẩy tiêu dùng, kích thích sự phát triển của thị trường nhất là thị trường nông nghiệp nông thôn, góp phần vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của Tỉnh, góp phần vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giảm tỷ trọng nông nghiệp. 2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân gây ra những hạn chế trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây 2.4.2.1. Hạn chế trong hoạt động cho vay doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây Bên cạnh những mặt đã đạt được ở trên, trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau: Thứ nhất: Số lượng khách hàng doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây mặc dù có tăng lên qua các năm song số lượng đó còn rất ít so với số lượng doanh nghiệp có trên địa bàn tỉnh. Toàn tỉnh có 3282 doanh nghiệp trong đó chỉ có 776 doanh nghiệp có quan hệ vay vốn ngân hàng, chỉ chiếm 23,6% số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Trong số đó có 26/82 doanh nghiệp là DNNN và 750/3200 doanh nghiệp là DNNQD, nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do hầu hết các doanh nghiệp không đáp ứng được các điều kiện vay vốn của ngân hàng. Thứ hai: Dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây mặc dù ngày càng tăng nhưng vẫn còn thấp so với hộ sản xuất, tư nhân và hộ gia đình. Trong thời gian qua, dư nợ cho vay doanh nghiệp luôn thấp hơn 41% so với tổng dư nợ cho vay và có xu hướng ngày càng giảm về số tương đối (năm 2006, tỷ trọng dư nợ cho vay doanh nghiệp đã giảm xuống chỉ còn 36% so với tổng dư nợ cho vay). Thứ ba: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp chưa được tốt vẫn còn nợ xấu (nợ nhóm 5), đặc biệt là khối DNNN tỷ lệ nợ xấu ở mức rất lớn gây báo động cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ đối với khối doanh nghiệp này. 2.4.2.2. Nguyên nhân * Nguyên nhân chủ quan từ phía NHNo&PTNT Hà Tây Trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp, Ngân hàng vẫn còn thụ động trong việc tiếp cận, nắm bắt, phân tích hoạt động của doanh nghiệp nên chưa có giải pháp cụ thể để tăng cường cho vay đối với doanh nghiệp. Trình độ một số cán bộ tín dụng còn hạn chế trước những yêu cầu mới về Marketing, phân tích thị trường, đánh giá hiệu quả dự án. Ở NHNo&PTNT Hà Tây, đội ngũ cán bộ ngân hàng nói chung và CBTD nói riêng đa phần được đào tạo trong thời kỳ bao cấp, phần lớn thiếu kinh nghiệm, thiếu kiến thức kinh doanh trong cơ chế thị trường, do vậy việc nắm bắt tình hình kinh tế tài chính khách hàng doanh nghiệp còn yếu, tuỳ tiện, không có trình độ phân tích, dự báo, dự đoán. Thêm vào đó là trình độ pháp luật của CBTD còn rất yếu do vậy sự hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật còn hạn chế. Đặc biệt là Luật kinh tế, còn sơ hở trong việc hoàn tất hồ sơ, thủ tục pháp lý kiểm tra trong và sau khi vay, hồ sơ tài sản thế chấp không chặt chẽ. Do vậy hiệu quả trong hoạt động cho vay doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng. Thông tin về khách hàng doanh nghiệp chưa đầy đủ, có thể nói việc thu thập thông tin về doanh nghiệp còn quá yếu về các mảng như tài chính, vốn, năng lực, uy tín của doanh nghiệp ở trong quá khứ, hiện tại và chiến lược kinh doanh trong tương lai. Chính vì việc thu thập những thông tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp rất ít nên việc đưa ra quyết định cho vay rất dễ sai lầm. Ở NHNo&PTNT Hà Tây, nhiệm vụ này chưa được đặt ra thành quy chế bài bản cho các cán bộ trong ngân hàng mà mới chỉ dừng lại ở CBTD là chính, do vậy chất lượng thông tin phụ thuộc hoàn toàn vào kinh nghiệm của CBTD. Ngoài ra, thông tin CIC (Bộ phận phòng ngừa rủi ro) đã hoạt động song chưa đồng bộ, còn hạn chế ở những doanh nghiệp lớn đôi khi thông tin nhận được chưa kịp thời. Thực tế, nợ xấu trong cho vay DNNN do nguyên nhân kinh doanh thua lỗ của doanh nghiệp là chính, nhưng mặt khác tại NHNo&PTNT Hà Tây một cán bộ tín dụng quản lý bình quân từ 400 đến 500 đối tượng khách hàng, cho nên việc theo dõi thông tin về doanh nghiệp rất thủ công như hiện nay sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu điều tra, thẩm định, sàng lọc, phân loại, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp. Do vậy, đã ảnh hưởng đến hiệu quả trong cho vay đới với doanh nghiệp của ngân hàng. Ngoài ra, chính sách tín dụng chưa phù hợp, vấn đề tài sản thủ tục thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vẫn là vấn đề vướng mắc đối với ngân hàng. Phần lớn tài sản của khách hàng đều chưa có giấy tờ sở hữu như: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chứng nhận sở hữu tài sản, chứng thực, công chứng tài sản, đăng ký chứng nhận bản sao đăng ký phương tiện giao thông, định giá tài sản thế chấp… chưa được triển khai đồng bộ giữa các ngành, các cấp. Từ đó, gây khó khăn trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp, ảnh hưởng đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng trong cho vay doanh nghiệp. Bên cạnh đó, quy trình cho vay chưa được chặt chẽ. Quy trình cho vay là quy trình bắt buộc thực hiện trong quá trình thẩm định cho vay, giám sát các khoản vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn, nâng cao chất lượng vốn cho vay. Song, trong quá trình thực hiện chưa đầy đủ nghiêm túc từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động cho vay doanh nghiệp, cụ thể là: + Bước chuẩn bị cho vay, phát tiền vay còn tồn tại như: Từ khi nhận được giấy đề nghị vay vốn của doanh nghiệp, qua quá trình tiếp cận thẩm định mục đích, điều kiện vay vốn, quyết định cho vay và hướng dẫn cho khách hàng doanh nghiệp hoàn tất thủ tục hồ sơ có lúc còn chưa tận tình, chi tiết. Từ đó, chưa đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời cho doanh nghiệp, còn phải để cho doanh nghiệp phải đi lại nhiều lần gây khó khăn cho doanh nghiệp. + Bước kiểm tra trong và sau khi cho vay thực hiện thiếu nghiêm túc, chưa đúng quy trình nghiệp vụ đối với các khoản vay đã cung ứng cho doanh nghiệp. Chính vì vậy còn xảy ra tình trạng nâng giá trị tài sản thế chấp, cầm cố, không thẩm định kỹ, kiểm tra trước, trong và sau khi cho nên để cho một số doanh nghiệp thế chấp nhiều nơi, vay nhiều nơi, sử dụng vốn sai mục đích. Do vậy, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây. * Nguyên nhân khách quan Ngoài những nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng như trên, trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây còn chịu ảnh hưởng bởi một số nguyên nhân khách quan như sau: Thứ nhất: Doanh nghiệp vay vốn đa phần thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý vì thế chưa chấp hành tốt chế độ báo cáo thống kê, báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa được kiểm toán hàng năm. Do đó công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa mới từ hộ kinh tế đi lên thành doanh nghiệp thì công tác kiểm tra càng gặp khó khăn nhiều hơn vì doanh nghiệp thực hiện chế độ báo cáo tài chính chưa cập nhật, thiếu tin cậy, chưa phản ánh đầy đủ thực trạng hoạt động của doanh nghiệp. Thứ hai: Vốn tự có của các DNNQD thấp nên không đủ tỷ lệ tham gia vào các dự án lớn theo quy định, trong khi trên địa bàn tỉnh DNNQD chủ yếu lại là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhiều doanh nghiệp khi tài sản cá nhân góp vào doanh nghiệp nhưng không làm thủ tục pháp lý chuyển quyền sở hữu (hoặc quyền sử dụng) như Luật doanh nghiệp đã quy định. Tài sản làm bảo đảm vốn vay còn thấp, chưa tách bạch rõ ràng tài sản của doanh nghiệp và tài sản của cá nhân, hộ gia đình. Điều này phản ánh mức độ thu hút tập trung vốn vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng thấp, dẫn đến việc mở rộng quy mô hoạt động, đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất mới, hiện đại gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, khi doanh nghiệp chưa có cơ hội đầu tư vào dự án lớn thì hoạt động cho vay của NHNo&PTNT Hà Tây cũng không có điều kiện để đầu tư vốn cho các doanh nghiệp và sẽ làm hạn chế việc đẩy mạnh hoạt động cho vay của ngân hàng. Ngoài ra, môi trường pháp lý chưa được hoàn chỉnh, nhiều doanh nghiệp lợi dụng những khe hở đó để hình thành lên những “doanh nghiệp ma” làm ăn phi pháp. Điều này gây nhiều biến động ảnh hưởng xấu đến hoạt động cho vay của NHNo&PTNT Hà Tây đối với doanh nghiệp. Chương III Ý kiến đề xuất nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Tây 3.1. Định hướng trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây Thực hiện phương châm hoạt động của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam “Agribank mang phồn thịnh đến cho khách hàng”, NHNo&PTNT Hà Tây tiếp tục đổi mới toàn diện hoạt động kinh doanh, phấn đấu giữ vững và nâng cao hơn nữa những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua. Từ những kết quả đã đạt ở trên, ngân hàng đã xác định các mục tiêu chủ yếu nhằm định hướng cho hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp trong thời gian tới như sau: - Tổng nguồn vốn huy động 6.080 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng 17%/năm, đảm bảo đủ nguồn vốn để đáp ứng các nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp khi có đủ điều kiện vay. - Dư nợ tín dụng là 6.080 tỷ đồng, tăng trưởng với tốc độ 14%/ năm. Trong đó dư nợ doanh nghiệp là 3.648 tỷ đồng, chiếm 60% tổng dư nợ. Tốc độ tăng trưởng dư nợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là 19%. - Giữ vững và phát triển thị phần cho vay doanh nghiệp trên địa bàn. Phấn đấu 50% các doanh nghiệp trên địa bàn được tiếp cận vay vốn NHNo&PTNT Hà Tây. Tiếp tục thực hiện sự chỉ đạo hoạt động tín dụng theo hướng doanh nghiệp (đặc biệt là DNNQD) là nhóm khách hàng tiềm năng, là khách hàng mục tiêu trong chiến lược phục vụ lâu dài. - Tỷ lệ nợ xấu dưới 2% - Cung cấp các sản phẩm, dịch vụ hiện đại cho khách hàng doanh nghiệp như: tín dụng, bảo lãnh, thấu chi, dịch vụ ngoại tệ, chuyển tiền, thanh toán trong nước và quốc tế, thẻ,… - Tiếp tục làm tốt công tác điều tra, khảo sát các doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh làm cơ sở để đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp. Đồng thời tiếp tục chủ động tìm đến các doanh nghiệp có tiềm năng để nắm bắt các nhu cầu về vốn, về các dịch vụ, từ đó ngân hàng có giải pháp để đáp ứng kịp thời các nhu cầu đó của doanh nghiệp. 3.2. Ý kiến đề xuất Từ những mặt đã đạt được, hạn chế, nguyên nhân gây ra hạn chế trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp và định hướng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây như trên, dưới đây em xin đề xuất một số ý kiến nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây như sau: 3.2.1. Nâng cao năng lực trình độ đội ngũ cán bộ tín dụng Năng lực trình độ đội ngũ CBTD là một vấn đề then chốt ảnh hưởng quyết định đến việc đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp. Có thể khẳng định rằng chất lượng cho vay không tốt nếu như ngân hàng có đội ngũ CBTD tồi. Ở NHNo&PTNT Hà Tây có tới 62% cán bộ trình độ trung cấp, sơ cấp, đa phần được đào tạo trong thời kỳ bao cấp. Vì vậy việc đào tạo, đào tạo lại và tuyển dụng CBTD mới nhằm nâng cao năng lực trình CBTD là nhiệm vụ trọng tâm quan trọng cả trước mắt và lâu dài trong chiến lược đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của ngân hàng. Trong chiến lược đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp đòi hỏi CBTD vừa phải có kiến thức nội ngành - là những kiến thức thuộc về chuyên môn trong hoạt động cho vay doanh nghiệp của ngân hàng, vừa phải có kiến thức ngoại ngành - là tất cả những kiến thức thuộc các mảng kinh tế, tài chính, pháp luật, thị trường… để khi tiếp cận doanh nghiệp CBTD đưa ra được những kết luận đúng đắn về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó giúp cho việc chấm điểm xếp hạng doanh nghiệp được chính xác, công bằng và do đó sẽ giúp cho quá trình thẩm định món vay, phê duyệt cho vay được chính xác, nhanh chónh và hiệu quả. Như vậy, để việc đào tạo và đạo tào lại CBTD có hiệu quả và đảm bảo phù hợp với điều kiện mình, NHNo&PTNT Hà Tây cần phải tiến hành như sau: + Trước hết cần khuyến khích tự học tới 100% CBTD: Với yêu cầu tự học, tự cập nhật kiến thức mới là yêu cầu bắt buộc với tất cả các CBTD để tránh lạc hậu so với tiến bộ đất nước. CBTD phải tự học qua các phương tiện thông tin đại chúng, tự học qua tập san, tạp chí khoa học của ngành ngân hàng, tự học văn bản chế độ thể lệ mới, chính sách pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động cho vay doanh nghiệp. + NHNo&PTNT Hà Tây cần tăng cường tập huấn nghiệp vụ cho CBTD về quy trình nghiệp vụ, văn bản chế độ mới, kiến thức pháp luật mới liên quan đến hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp. Gửi cho CBTD các bài tập về nghiệp vụ cho vay đối với doanh nghiệp để CBTD làm và gắn các nghiệp vụ đó với thực tiễn để đánh giá điểm phù hợp, điểm không phù hợp và điều chỉnh kịp thời nhằm cung cấp cho CBTD những kỹ năng kỹ xảo trong hoạt động cho vay doanh nghiệp. + Khuyến khích các CBTD có điều kiện về thời gian, có hiệu quả trong công tác nâng cao trình độ của họ bằng cách cử họ đi học tại các lớp đào tạo, đi học tại chức nhằm tạo ra một lực lượng CBTD có kiến thức toàn diện, vừa học vừa làm, phát huy những kiến thức đào tạo áp dụng vào thực tiễn công tác. + Tuyển dụng CBTD mới: Việc tuyển dụng CBTD mới là yêu cầu cần thiết vừa để trẻ hoá đội ngũ CBTD vừa để thu hút nhân tài. Với đội ngũ CBTD trẻ trung năng động, có đầy đủ kiến thức nên khi tiếp cận các doanh nghiệp họ sẽ có những nhận xét đánh giá nhanh nhậy và chính xác về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp sẽ đạt hiệu quả hơn. Để đạt được yêu cầu trên đòi hỏi ngân hàng phải công khai hoá việc tuyển dụng trên phương tiện thông tin đại chúng để thu hút đối tượng tuyển dụng có cơ hội được tuyển chọn, thành lập hội đồng thi tuyển, phỏng vấn trực tiếp và chấm bài đảm bảo khách quan chính xác. 3.2.2. Thực hiện tốt việc nghiên cứu, thu thập thông tin về doanh nghiệp Nắm bắt xử lý thông tin về khách hàng là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của NHNo&PTNT Hà Tây trong việc đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp. NHNo&PTNT Hà Tây có địa bàn hoạt động rộng, đa dạng. Hơn nữa, các doanh nghiệp trên địa bàn lại chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ quản lý còn thấp, sản xuất kinh doanh với quy mô nhỏ lẻ, manh mún, quá trình tổ chức sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống, với thực trạng này việc làm tốt công tác nghiên cứu thu thập thông tin về doanh nghiệp đang là vấn đề bức xúc trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại NHNo&PTNT Hà Tây. Để làm tốt công tác này nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp, ngân hàng cần làm tốt những việc sau đây: + Trước hết, các cán bộ lãnh đạo và CBTD phải xác định chiến lược cho vay doanh nghiệp một cách đúng đắn. Phải nhận thức được khi tiến hành cho doanh nghiệp vay vốn, nếu thiếu thông tin về doanh nghiệp sẽ có thể dẫn đến sai lầm và rủi ro. Hơn nữa khi không có đầy đủ thông tin thì việc xử lý thông tin để đưa ra quyết định cho vay sẽ chậm trễ và gây phiền hà bất lợi cho doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của ngân hàng với các ngân hàng đối thủ khác trên địa bàn. + Tiếp theo, NHNo&PTNT Hà Tây nên thành lập bộ phận tư vấn thông tin tín dụng doanh nghiệp, có nhiệm vụ theo dõi các doanh nghiệp trên các phương tiện lưu trữ thông tin hiện đại (máy vi tính), cập nhật thường xuyên tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, tổng kết đánh giá xếp hạng doanh nghiệp. Như vậy, với những thông tin thu thập, khi doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn của ngân hàng bộ phận này sẽ tư vấn giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn vay hiệu quả nhất, đồng thời bộ phận này sẽ tham mưu với các CBTD để lựa chọn hình thức cho vay, khối lượng cho vay phù hợp với thực trạng của doanh nghiệp nhằm giảm thiểu các rủi ro có thể phát sinh. + Ngoài ra, với thực trạng ngày càng có nhiều doanh nghiệp được thành lập dưới nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, NHNo&PTNT Hà Tây nên có quy chế cụ thể để điều tra phân loại doanh nghiệp, đồng thời phải xây dựng những tiêu chuẩn để phân đoạn thị trường doanh nghiệp, xây dựng hệ thống đánh giá chấm điểm doanh nghiệp để sàng lọc những doanh nghiệp hiện tại hoạt động kinh doanh không hiệu quả, xác định được doanh nghiệp tiềm năng. Từ đó, ngân hàng sẽ có được chính sách cho vay phù hợp và những chính sách ưu đãi nhằm thu hút các doanh nghiệp tiềm năng này đến vay vốn ngân hàng. 3.2.3. Mở rộng hệ thống màng lưới để tiếp cận được nhiều hơn và gần hơn với doanh nghiệp Mở rộng hệ thống mạng lưới có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây nói riêng. Trong thời gian qua, hệ thống ngân hàng liên xã, ngân hàng lưu động được mở rộng củng cố, vừa tạo điều kiện cho việc mở rộng cho vay, nâng cao được chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp không có điều kiện đến ngân hàng vay vốn, vừa nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị trường với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Tuy nhiên, việc mở rộng hệ thống mạng lưới đối với NHNo&PTNT Hà Tây cần đảm bảo các yêu cầu cơ bản là: + Mở rộng hệ thống mạng lưới trên cơ sở điều kiện khả năng cho phép, NHNo&PTNT Hà Tây nên mở rộng mạng lưới ở những môi trường có điều kiện kinh doanh tốt, những nơi gần khu công nghiệp, cụm công nghiệp, những nơi kinh tế hàng hoá phát triển để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp vay vốn, rút ngắn thời gian đi lại của doanh nghiệp. Mặt khác, mạng lưới mở rộng của ngân hàng phải kết hợp được với cấp uỷ chính quyền địa phương để khai thác nắm bắt thông tin về doanh nghiệp, từ đó có đầy đủ thông tin để đưa ra quyết định cho vay chính xác, kịp thời, vừa đáp ứng được nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, vừa đẩy mạnh hoạt động cho vay có hiệu quả. + Mở rộng hệ thống mạng lưới phải đảm bảo nâng cao được khả năng cạnh tranh, tạo khả năng mở rộng thị phần khách hàng doanh nghiệp. Mở rộng thị phần hoạt động trên cả lĩnh vực nông nghiệp nông thôn để đáp ứng kịp thời vốn cho các doanh nghiệp tư nhân trong các làng nghề. 3.2.4. Tiếp tục làm tốt công tác khoán tài chính đến từng CBTD Trong thời gian qua, NHNo&PTNT Hà Tây đã thực hiện khoán tài chính đến từng CBTD gắn với chỉ tiêu kế hoạch nguồn vốn. Để đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp, thời gian tới trong công tác khoán tài chính, ngân hàng nên đưa ra kế hoạch cụ thể về doanh số cho vay doanh nghiệp, doanh số thu nợ doanh nghiệp trong từng tháng, quý và khoán cho từng CBTD. Đến cuối tháng, cuối quý ngân hàng sẽ tiến hành tổng kết và có khen thưởng đối với CBTD vượt khoán và có chất lượng cho vay tốt, đồng thời xử phạt nghiêm minh với những CBTD không hoàn thành kế hoạch, chất lượng cho vay chưa tốt nhằm gắn trách nhiệm cá nhân với việc thu hồi nợ của các doanh nghiệp. 3.2.5. Hoàn thiện chính sách tín dụng, trong đó chính sách lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp cần phải linh hoạt hơn và các phương thức cho vay đối với doanh nghiệp cần phải đa dạng hơn. Trong thời gian qua NHNo&PTNT Hà Tây đã quy định mức lãi suất chung áp dụng cho mọi đối tượng khách hàng có nhu cầu vay vốn. Vì vậy, để đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp, trong thời gian tới ngân hàng nên có chính sách lãi suất linh hoạt và ưu đãi cần thiết đối với doanh nghiệp đặc biệt là đối với khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo hướng các doanh nghiệp xếp loại A quan hệ vay vốn thường xuyên, trả nợ tốt sẽ được áp dụng lãi suất cho vay ưu đãi, doanh nghiệp có quan hệ vay vốn lần đầu nhưng có bề dày hoạt động, lịch sử hoạt động kinh doanh tốt cũng được hưởng lãi suất ưu đãi. Ngoài ra, ngày càng có nhiều doanh nghiệp được mọc lên trên địa bàn Hà Tây, do vậy nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp ngày càng phong phú đòi hỏi NHNo&PTNT Hà Tây không ngừng mở rộng, cải tiến các phương thức cho vay phù hợp. Hiện nay, ở NHNo&PTNT Hà Tây, phương thức cho vay chủ yếu nhất và phổ biến nhất đối với doanh nghiệp vẫn là phương thức cho vay từng lần. Vậy, để giải quyết được vấn đề này đòi hỏi NHNo&PTNT Hà Tây cần phải đa dạng hoá các phương thức cho vay phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp nhằm phát huy những hiệu quả đã đạt được, khắc phục những tồn tại với mục đích đáp ứng đầy đủ kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi về vốn cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh dịch vụ. Cùng với phương thức cho vay trực tiếp từng lần và cho vay theo hạn mức, ngân hàng nên cho doanh nghiệp vay dưới các phương thức khác phù hợp với điều kiện của từng doanh nghiệp. Ngân hàng cũng nên mở rộng áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức chứ không nhất thiết phải áp dụng phương thức cho vay từng lần đối với doanh nghiệp vay vốn lần đầu nhưng đủ điều kiện nhằm đơn giản thủ tục và đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho doanh nghiệp. 3.2.6. Hoàn thiện quy trình cho vay đối với doanh nghiệp, trong đó khâu thẩm định tài sản bảo đảm cần phải thông thoáng và khâu kiểm tra kiểm soát trong và sau khi cho vay cần phải được nâng cao Hiện nay, trong quy trình cho vay đối với doanh nghiệp, khâu thẩm định tài sản bảo đảm vốn vay NHNo&PTNT Hà Tây tuân theo quy định của NHNN Việt Nam. Nhưng thực tế các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây chủ yếu là DNNQD có qui mô vừa và nhỏ, thường không có đủ tài sản bảo đảm để vay vốn nên không được tiếp cận được với vốn vay của ngân hàng. Do vậy, trong thời gian tới, NHNo&PTNT Hà Tây cần phải nới lỏng các điều kiện cho vay trong quy trình cho vay, không nên quá gò bó theo quy định, nên quan tâm sâu sắc hơn nữa đến tính khả thi của phương án SXKD của doanh nghiệp khi quyết định cho vay. Thực tế cho thấy, bảo đảm vốn vay không phải là tài sản thế chấp mà là tính khả thi của phương án SXKD của doanh nghiệp, nếu thực hiện được điều này thì NHNo&PTNT Hà Tây sẽ khôi phục được tình trạng thiếu tài sản thế chấp của doanh nghiệp khi vay vốn. Vì vậy, trong thời gian tới NHNo&PTNT Hà Tây cần phải đổi mới chính sách và cơ cấu cho vay đối với doanh nghiệp theo hướng căn cứ chủ yếu vào tính khả thi và hiệu quả của dự án để quyết định cho vay. Đây là một xu hướng rất phù hợp với đặc điểm của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây. Bên cạnh đó, khâu kiểm tra kiểm soát trong và sau khi cho vay cần phải được nâng cao. Thời gian qua, NHNo&PTNT Hà Tây luôn xác định rõ, khâu kiểm tra kiểm soát trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp là một công việc vô cùng quan trọng để đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp. Nâng cao kiểm tra, kiểm soát trong và sau khi cho vay nhằm hoàn thiện quy trình cho vay đối với doanh nghiệp, phát hiện những sai sót trong quá trình cho vay để kịp thời ngăn chặn, sửa chữa, cải tiến nâng cao hiệu quả cho vay, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Có thể khẳng định rằng những sai sót công tác kiểm tra kiểm soát quá trình cho vay đối với doanh nghiệp là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm sút hiệu quả hoạt động cho vay của NHNo&PTNT Hà Tây. Vì vậy, trong thời gian tới ngân hàng nên có biện pháp gắn trách nhiệm của CBTD với chất lượng công tác kiểm tra kiểm soát để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động cho vay doanh nghiệp. Trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp, CBTD cần phải nhận thức được việc tự kiểm tra, tự kiểm soát là yêu cầu bắt buộc trong quy trình cho vay, xác định rõ “tự kiểm tra, tự tìm sai, tự sửa là tự cứu lấy mình”. Đồng thời tổ chức tốt công tác kiểm tra chéo giữa các CBTD, cán bộ phụ trách những doanh nghiệp này kiểm tra doanh nghiệp khác, cán bộ phụ trách vùng này kiểm tra cán bộ phụ trách vùng khác để đảm bảo tính khách quan và phát hiện những sai sót, từ đó có biện pháp sửa chữa kịp thời nhằm giảm thiểu những rủi ro thiệt hại. Ngoài ra, công tác kiểm tra phân tích nợ hàng tháng, hàng quý theo từng loại hình doanh nghiệp, theo từng phương thức cho vay cũng phải được thực hiện tốt. Hàng tháng, hàng quý, kết hợp kế toán, CBTD, cán bộ kiểm soát tiến hành phân tích nợ đến hạn, xác định khả năng thu hồi, khả năng giãn nợ, gia hạn nợ, chuyển nợ xấu từ đó có kế hoạch đôn đốc các doanh nghiệp trả nợ nhằm giảm nợ xấu đến mức thấp nhất, nâng cao hiệu quả trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp. 3.2.7. Triển khai nghiệp vụ cho thuê tài chính, đổi mới công nghệ ngân hàng và phát triển các dịch vụ đi kèm với hoạt động cho vay doanh nghiệp Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ cho nên nhiều doanh nghiệp không có đủ điều kiện về tài sản đảm bảo để vay vốn ngân hàng hoặc chỉ được vay một số vốn nhỏ hơn so với nhu cầu. Do vậy, để giúp cho các doanh nghiệp có thể hiện đại hoá sản xuất theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới kể cả trong điều kiện thiếu vốn, NHNo&PTNT Hà Tây trong thời gian tới nên triển khai nghiệp vụ cho thuê tài chính. Với nghiệp vụ cho thuê tài chính, các doanh nghiệp sẽ có đầy đủ điều kiện sản xuất bằng cách đi thuê máy móc thiết bị của ngân hàng, do đó hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ hiệu quả hơn, đây là một tiền đề tốt để NHNo&PTNT Hà Tây có thể đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp. Mặt khác, để thu hút được nhiều doanh nghiệp đến vay vốn, bên cạnh hoạt động cho vay đơn thuần, NHNo&PTNT Hà Tây nên đổi mới các thiết bị công nghệ và cung cấp thêm các dịch vụ đi kèm với hoạt động cho vay nhằm mang lại lợi ích tối đa cho các doanh nghiệp khi đến vay vốn ngân hàng. Trong những năm gần đây, NHNo&PTNT Hà Tây đã có nhiều đóng góp cùng hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam từng bước cải tiến, hiện đại hoá công nghệ, đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng như: Trang bị công nghệ hiện đại, tham gia hệ thống thanh toán bù trừ, chuyển tiền nhanh qua máy vi tính trên phạm vi cả nước, hoà nhập mạng thanh toán quốc tế qua SWIFT, thanh toán điện tử, máy rút tiền tự động ATM… Song, so với yêu cầu hiện nay với số lượng các doanh nghiệp vay vốn nhiều và đa dạng, mạng lưới rộng khắp, đòi hỏi NHNo&PTNT Hà Tây cần phải tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, thực hiện tốt hơn nữa công tác đổi mới công nghệ, đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, phát triển các sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp, gắn cho vay với việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ thanh toán, tiền gửi, mua bán ngoại tệ, bảo lãnh... tạo thành quy trình khép kín trong quan hệ với doanh nghiệp. Để làm tốt công tác này nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp, ngay từ bây giờ NHNo&PTNT Hà Tây nên tập trung vào việc mở rộng thị trường thanh toán không dùng tiền mặt nhằm mục đích vừa thu hút được vốn vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp yên tâm sản xuất trong quá trình thanh toán, trao đổi tiền tệ qua ngân hàng được an toàn chính xác. Mặt khác, thông qua quá trình thanh toán ngân hàng sẽ nắm bắt được việc sử dụng vốn vay, quá trình luân chuyển vốn của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng nên từng bước tiếp cận doanh nghiệp bằng cách làm thí điểm dịch vụ thanh toán đối với các doanh nghiệp như: dịch vụ trả tiền điện nước, tiền điện thoại, tiền nhà, tiền lương, bảo hiểm xã hội… thực hiện thanh toán điện tử thẻ tín dụng, trả tiền kiều hối. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam NHNo&PTNT Việt Nam cần phải chỉ đạo và hướng dẫn cụ thể, kịp thời các chủ trương, chính sách của Chính phủ và NHNN Việt Nam để hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của ngân hàng. Khi Chính phủ và NHNN Việt Nam đưa ra những văn bản pháp luật để chỉ đạo hoạt động của ngân hàng, NHNo&PTNT Việt Nam nên có văn bản hướng dẫn cụ thể đến từng chi nhánh trên địa bàn các tỉnh để giải đáp kịp thời những vướng mắc nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Chẳng hạn như: tiêu chí phân loại khách hàng theo công văn 1261 cần được xem xét điều chỉnh cho phù hợp đặc biệt là đối với doanh nghiệp vay vốn lần đầu và doanh nghiệp mới được hình thành do quá trình đi lên của hộ sản xuất hay quy chế bảo lãnh năm 2006, NHNo&PTNT Việt Nam không có văn bản hướng dẫn cụ thể. Hỗ trợ NHNo&PTNT Hà Tây triển khai nghiệp vụ cho thuê tài chính. Đồng thời tạo điều kiện để ngân hàng có thể nâng cấp được cơ sở vật chất kỹ thuật, trang bị mới hệ thống máy tính, thay thế các máy tính đã cũ, lạc hậu đảm bảo cho việc giao dịch phục vụ doanh nghiệp đến vay vốn được nhanh chóng, chính xác. Hiện tại, ở bộ phận cho vay trực tiếp doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây mới được trang bị một máy tính trong khi có tới 4 cán bộ tín dụng phụ trách ở bộ phận này, do vậy không đảm bảo năng suất hiệu quả trong công việc của các CBTD. Đề nghị NHNo&PTNT Việt Nam cho phép NHNo&PTNT Hà Tây được đầu tư một số doanh nghiệp lớn trên địa bàn Hà Nội vì hiện nay ngân hàng đã có một chi nhánh ở Thanh Xuân Nam. Đồng thời, nới rộng khung lãi suất để các đơn vị thành viên chủ động trong việc cạnh tranh thu hút các doanh nghiệp đến vay vốn trên cơ sở tính toán đảm bảo nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng đẩy mạnh hoạt động cho vay doanh nghiệp. Đề nghị NHNo&PTNT Việt Nam thường xuyên quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lại nguồn nhân lực, đặc biệt là trình độ, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ tác tác nghiệp cho vay và quản lý doanh nghiêp. Củng cố mạng lưới thông tin tín dụng và thông tin doanh nghiệp, giúp chi nhánh NHNo&PTNT Hà Tây thẩm định và quản lý doanh nghiệp an toàn và hiệu quả hơn. Đồng thời sớm có quy chế cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa cởi mở, thông thoáng hơn trong việc cấp tín dụng, tài sản bảo đảm và xử lý tín dụng. Ngoài ra, NHNo&PTNT Việt Nam cần phải tiếp tục mở các lớp đào tạo cho cán bộ tín dụng để nâng cao trình độ cho họ. 3.3.2. Kiến nghị đối với NHNN Việt Nam Đề nghị NHNN Việt Nam cần phải có chính sách xử lý rủi ro đối với nợ cho vay có tài sản đảm bảo nhưng không bán được. Đồng thời giảm thời gian thử thách chuyển về nhóm nợ thấp hơn đối với nợ gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn khi đã trả hết nợ. Hiện nay, thời gian thử thách chuyển về nhóm nợ thấp hơn là 6 tháng. Đề nghị NHNN Việt Nam cho phép chi nhánh NHNo&PTNT Hà Tây giữ nguyên số chi nhánh hiện có và tiếp tục mở thêm các chi nhánh ngân hàng cấp II, cấp III tại các khu công nghiệp, nơi kinh tế tập trung. Đồng thời, cho phép NHNo&PTNT Hà Tây nâng cấp các phòng giao dịch hiện có thành cho nhánh cấp III để đảm bảo phù hợp với tình hình kinh doanh và đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp. 3.3.3. Kiến nghị đối với UBND tỉnh Hà Tây UBND tỉnh Hà Tây cần có cơ chế quản lý chặt chẽ hơn nữa đối với các doanh nghiệp đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa về đăng ký kinh doanh, góp vốn, về hạch toán kế toán để đánh giá đúng thực chất hoạt động của từng doanh nghiệp. Tăng cường kiểm tra và xử lý đối với những doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ chế độ báo cáo kế toán theo quy định. Đồng thời, phải xử lý nghiêm minh đối với các doanh nghiệp tồn tại mà không sản xuất kinh doanh, kiểu “doanh nghiệp ma” để tạo một môi trường doanh nghiệp trong suốt, lành mạnh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho NHNo&PTNT Hà Tây trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp. UBND tỉnh Hà Tây cần có chính sách khuyến khích và cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư để thu hút thêm doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả về địa phương. Đồng thời, thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo trang bị cho chủ các doanh nghiệp về kiến thức quản lý, hạch toán kinh doanh và các kiến thức về hội nhập nhằm giúp các doanh nghiệp vững tin hơn trên bước đường sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh và phát triển. Khi các doanh nghiệp đã có các quyết định pháp lý về đất như: quyết định giao đất, biên bản bàn giao đất, hợp đồng thuê đất… Đề nghị các ban, ngành trên địa bàn tỉnh có liên quan cải tiến thủ tục và đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để các doanh nghiệp này có thể dùng nó làm các giấy tờ đảm bảo khi vay vốn của ngân hàng. Thực tế hiện nay số các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rất ít. Kết luận Phát triển các doanh nghiệp đang là vấn đề được Đảng và Nhà Nước rất chú trọng, được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Để góp phần thực hiện nhiệm vụ trọng tâm đó, trong thời gian qua NHNo&PTNT Hà Tây đã có những hoạt động đầu tư cho vay doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh mình và đã đạt được những kết quả bước đầu. Song, quy mô cho vay đối với doanh nghiệp của ngân hàng còn quá nhỏ bé và vẫn còn nhiều hạn chế trong hoạt động cho vay. Chính vì vậy, đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp đang là vấn đề cấp thiết trước mắt cũng như lâu dài trong chiến lược kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Tây. Sau quá trình thực tập và nghiên cứu tại NHNo&PTNT Hà Tây em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp “Đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tai chi nhánh NHNo&PTNT Hà Tây” với các nội dung được đề cập trong chuyên đề là: 1. Nghiên cứu lý luận hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại từ đó khẳng định vai trò của ngân hàng thương mại trong hoạt động cho vay doanh nghiệp. 2. Phân tích rõ tình hình hoạt động kinh doanh và hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp của NHNo&PTNT Hà Tây. Từ đó chỉ ra những mặt đã đạt được, những hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp. 3. Nghiên cứu những định hướng trong hoạt động cho vay doanh nghiệp của ngân hàng và dựa trên cơ sở thực tiễn đã phân tích đề xuất một số ý kiến và kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại NHNo&PTNT Hà Tây. Tuy nhiên, do thời gian có hạn và lượng kiến thức tích luỹ được còn hạn chế nên những ý kiến đề xuất của em chỉ là một trong tổng thể các ý kiến nhằm giúp cho NHNo&PTNT Hà Tây đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp. Vì vậy, em rất mong nhận được sự giúp đỡ của các cô, chú cán bộ trong ngân hàng và cô giáo, Th.S Hoàng Lan Hương để chuyên đề được hoàn chỉnh hơn nữa. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn những sự giúp đỡ quý báu đó! Danh mục tài liệu tham khảo Frederic S.Mishkin, 2001, Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và Kỹ thuật. Peter S.Rose, 2004, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính. GS. TS. Lê Văn Tư, 2004, Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính. PGS. TS. Lê Văn Tề, 2002, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB Thống kê. TS. Nguyễn Hữu Tài, 2002, Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống kê. TS. Phan Thị Thu Hà, 2004, Giáo trình ngân hàng thương mại, NXB Thống kê. Sổ tay tín dụng, 2004, NHNo&PTNT Việt Nam. Báo cáo KQ hoạt động kinh doanh 2004, 2005, 2006 của NHNo&PTNT Hà Tây. Báo cáo KQ hoạt động tín dụng 2004, 2005, 2006 của NHNo&PTNT Hà Tây. Luật doanh nghiệp 2005. Luật đất đai 2001. Nghị định 178/1900/NĐ – CP của Chính phủ ngày 29/12/1999 Quyết định 1627/2001/QĐ – NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng. Phạm Văn Bình, Đỗ Thanh Tùng, 2007, “Định giá tài sản bảo đảm vay vốn ngân hàng trong điều kiện hội nhập”, Tạp chí Ngân hàng, số 2 tháng 1/2007, tr.18 – 20. Trần Luyện, 2007, “Để hạn chế rủi ro trong cho vay của các TCTD”, Tạp chí Ngân hàng, số 2 tháng 1/2007, tr.21 – 22.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0041.doc
Tài liệu liên quan