Chuyên đề Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty TNHH nhà nước một thành viên Xuất Nhập Khẩu & Đầu Tư Hà Nội - Unimex

Việt Nam đang tiếp tục thực hiện chính sách đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong chiến lược phát triển của mình, hàng nông sản đã và đang là một mặt hàng thế mạnh không thể thay thế do bề dày lịch sử và lợi thế so sánh của ngành nông nghiệp Việt Nam. Thực tế đã chứng minh rằng lĩnh vực xuất khẩu nông sản của ta trong thời gian qua là rất đáng khích lệ, thể hiện sự phát triển của ngoại thương. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được vẫn chưa tưng xứng với tiềm năng dồi dào của nông sản nước ta, chủ yếu do các điều kiện kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất còn mang nặng tính thủ công. Trong khi đó, các bạn hàng, các đối thủ cạnh tranh trên thưng trường quốc tế đã hết sức sành sỏi về kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh nên để có thể cạnh tranh bình đẳng mà không bị thua thiệt là điều không dễ thực hiện. Do đó, việc tìm hiểu nghiên cứu xuất khẩu trong cơ chế thị trường đặc biệt khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO sao cho hiệu quả, theo kịp tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế là công việc cấp bách và hết sức cần thiết của Đảng và Nhà nước, các doanh nghiệp và các chuyên gia kinh tế Việt Nam. Là một thành viên trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, Công ty Unimex Hà Nội đã góp phần không nhỏ trong việc đưa sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam đến với nhiều bạn hàng trên thế giới. Với bề dày kinh nghiệm trong kinh doanh xuất nhập khẩu, Công ty đã tạo được chỗ đứng nhất định cho mình trên lĩnh vực đấy. Song trước những yêu cầu ngày càng khắt khe hơn về chất lượng và những biến động của thị trường thì Công ty cần có biện pháp cụ thể nhằm củng cố và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu mặt hàng này. Khi đó, Công ty mới có thể khẳng định được hướng đi đúng đắn của mình trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và hội nhập nhanh vào cộng đồng quốc tế cũng như khu vực. Đây là một nhiệm vụ phức tạp, cần nhiều thời gian, công sức để nghiên cứu, cọ sát rồi từ đó đưa ra những quyết sách thích hợp để phát triển mặt hàng này. Qua chuyên đề thực tập này em muốn đưa ra một cái nhìn tổng quát về thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Công ty Unimex với những thành tựu đã đạt được cũng như các mặt hạn chế còn tồn tại. Em xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị kèm theo. Em mong rằng nó có thể phần nào đó giúp Công ty giảm bớt các hạn chế đó và ngày càng phát triển hơn nữa. Do thời gian thực tập có hạn nên phần nội dung chính của bài chuyên đề chỉ tập trung vào mặt hàng nông sản xuất khẩu. Tuy nhiên, do trình độ có hạn nên báo cáo tổng hợp không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự bổ sung, góp ý của các thầy cô, bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn.

doc69 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1147 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty TNHH nhà nước một thành viên Xuất Nhập Khẩu & Đầu Tư Hà Nội - Unimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hó tính như thị trường Mỹ, EU (tham khảo thống kê tại bảng 7). Sự biến đổi thị trường thể hiện cụ thể ở: nếu như trước kia Công ty chỉ xuất khẩu sang các thị trường Đông Âu, Nga theo các nghị định thư thì nay kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này giảm 2,2% năm 2005 (xem bảng 7) trong khi đó kim ngạch này đối với thị trường đầy tiềm năng nhưng cũng rất khắt khe như thị trường Mỹ lại tăng cao (6,3% năm 2004 và 4,9% năm 2005) ta có thể tham khảo số liệu trong bảng tỷ trọng xuất khẩu của Công ty Unimex sang thị trường Mỹ làm ví dụ. Điều này thể hiện Công ty đã thoát ra khỏi tình trạng bao cấp và đã năng động hơn đặc biệt khi quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đang ngày càng phát triển. Bảng 9: Tỷ trọng xuất khẩu hàng nông sản của Công ty sang thị trường Mỹ từ 2003 - 2006 Đơn vị: 1000 USD Năm 2003 2004 2005 2006 Kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Mỹ 205.91 753.42 303.71 495.66 Tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản 5565.1 11959.1 6198.2 9178.8 Tỷ trọng (%) 3.7 6.3 4.9 5.4 (Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh) 3.1.4. Giải quyết việc làm, thu nhập Hiện toàn bộ Công ty có khoảng 700 cán bộ công nhân viên với thu nhập từ 1,7 triệu trở lên. Ngoài ra, tất cả các cán bộ công nhân viên trong Công ty đều được hưởng đầy đủ các khoản bảo hiểm y tế, các chế độ đãi ngộ khác. Công ty cũng thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ và cử một số cán bộ chủ chốt ra nước ngoài học tập kinh nghiệm. Ngoài việc nâng cao trình độ nghiệp vụ Công ty còn quan tâm đến đời sống vật chất tinh thần của cán bộ công nhân viên như: thành lập quỹ khen thưởng, tổ chức thăm quan dã ngoại, đại hội công nhân viên…Như vậy, hàng năm Công ty đã đảm bảo công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên đồng thời không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người lao động. Trong thời gian tới, đây cũng là một trong những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. 3.2. Những tồn tại và nguyên nhân 3.2.1. Những hạn chế trong hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty Unimex Mặc dù đã gặt hái được một số thành tựu nhất định trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu mặt hàng nông sản nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế mà Công ty Unimex cần phải khắc phục trong thời gian tới: Thứ nhất, trong thời gian qua hàng nông sản xuất khẩu của Công ty chủ yếu ở dạng thô hoặc mới qua sơ chế nên hiệu quả xuất khẩu chưa cao (trên 80% qua các năm). Thứ hai, Công ty là một đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp, do vậy Unimex không phải là đơn vị chuyên kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản. Phần lớn hàng nông sản phải mua qua các cơ sở sản xuất, chưa có kho thu mua hàng và dự trữ hàng dẫn tới giá thành cao, không chủ động được nguồn hàng, nên để thu gom được một lượng hàng lớn là rất khó vì vậy dẫn đến kim ngạch xuất khẩu chưa thật ổn định. Dẫn tới hàng năm công tác hoàn thuế VAT ở Công ty bị kéo dài. Công ty chỉ có các chi nhánh ở cảng Hải phòng, thành phố HCM tiện cho việc giao dịch, thu mua và xuất khẩu. Khi có hàng tới hoặc là xuất đi ngay, hoặc là Công ty phải thuê kho để hàng. Vì vậy chi phí kho bãi lớn vì các mặt hàng nông sản chiếm diện tích lớn. Thứ ba, thông tin về thị trường bên ngoài còn nhiều hạn chế, thiếu chính xác và không cập nhật do đặc điểm kinh doanh của Công ty là giao khoán chỉ tiêu về kim ngạch xuất khẩu cho các phòng nghiệp vụ và chi nhánh. Ngoài ra, Công ty chưa có phòng Marketing đảm nhận công tác nghiên cứu thị trường và thiết kế các kế hoạch kinh doanh do đó dẫn tới sự cạnh tranh không cần thiết trong nội bộ Công ty, đồng thời không kịp phản ứng trước những biến động khi thị trường giá nông sản biến động. Thứ tư, cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu nghèo nàn, tỷ trọng hàng xuất khẩu thô và sơ chế vẫn còn khá cao, chưa có nhiều mặt hàng đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới chủ yếu là do giá thành sản xuất cao, chất lượng, mẫu mã bao bì chưa phù hợp với đòi hỏi của thị trường nên hiệu quả xuất khẩu chưa cao. Công ty hiện chưa có văn phòng đại diện ở nước ngoài nên chưa có hệ thống phân phối sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng. Thứ năm, công tác thu mua tạo nguồn hàng còn gặp nhiều khó khăn, nguyên liệu tại chỗ chưa đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu cả về chủng loại, chất lượng và số lượng. Do vậy, Công ty phải nhập nguyên liệu từ các nước khác nên kim ngạch nhập khẩu hàng năm của Công ty thường cao hơn kim ngạch xuất. Nhà máy chế biến của Công ty thường phải hoạt động cầm chừng do thiếu nguyên liệu. Thứ sáu, hoạt động xuất khẩu của Công ty còn rất bị động, mặc dù vốn kinh doanh của Công ty không phải là ít nhưng do còn phải kinh doanh nhiều mặt hàng khác do vậy nguồn vốn dành cho hoạt động xuất khẩu nông sản còn ít. Vì vậy, Công ty thường thực hiện các hợp đồng có giá trị nhỏ, số lượng ít chưa thu hút được những hợp đồng có tính dài hạn, lâu dài. Thứ bẩy, thủ tục quản lý trong nội bộ Công ty còn phiền hà, chậm trong phối hợp công việc đôi lúc dẫn đến khó khăn và mất khách hàng trong khi những thủ tục xuất khẩu cần nhanh gọn chính xác. 3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại 3.2.2.1 Nguyên nhân chủ quan a. Từ phía Công ty - Cơ chế làm việc của cán bộ công nhân viên còn mang nặng tính bao cấp nên trong quá trình làm việc còn nhiều lúng túng. Đội ngũ lãnh đạo còn thiếu. Nguyên nhân là do công tác đào tạo bồi dưỡng chưa được tăng cường, đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, thành thạo ngoại ngữ rất mỏng. - Có sự chồng chéo trong công việc. Hiện nay do cơ sở hạ tầng còn thiếu, chưa có phòng marketing nên phòng Kế hoạch tổng hợp phải kiêm chức năng này. Vì vậy, cùng một lúc phòng phải đảm nhận nhiều công việc từ thu thập thông tin, xử lý, phân tích, lên phương án, lập báo cáo nên không thể tránh khỏi những thiếu xót. Ngoài ra, trong nội bộ Công ty chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa các phòng nghiệp vụ do các phòng đều bảo mật thông tin… nên chưa tạo được thế mạnh tổng thể. - Nguồn vốn kinh doanh chủ yếu là vốn vay Ngân hàng nên Công ty chưa mở rộng được quy mô sản xuất kinh doanh, chưa đầu tư mua sắm được trang thiết bị tiên tiến, chưa xây dựng được kho bãi bảo quản hàng hoá theo đúng tiêu chuẩn làm ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm. - Nguồn nguyên liệu tại chỗ thiếu do Công ty chưa quan tâm, hỗ trợ người nông dân trong sản xuất. Việc thu mua, chế biến sản phẩm của Công ty hoàn toàn tự phát, bị động theo thị trường nước ngoài. Ngoài ra, hiện tượng nông dân chạy theo năng suất, số lượng, phun thuốc sâu, thuốc tăng trọng một cách bừa bãi thiếu hướng dẫn của cơ quan chức năng, cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng nông sản xuất khẩu của Công ty. b. Từ phía Nhà nước - Cơ chế của Nhà nước không nhất quán và thiếu ổn định có thể thấy qua công tác phân bổ hạn ngạch đôi khi còn nhiều bất cập, tiêu cực gây tâm lý không ổn định cho doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu dân đến hiệu quả chưa cao. Mặt khác sự thay đổi trong cơ chế quản lý, bổ sung những chính sách mới đã mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu cho các đơn vị kinh doanh đã làm tăng số lượng doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Điều này tuy hợp lý song đã làm giảm vai trò của các Công ty chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu như Unimex. - Các văn bản về quản lý vừa thiếu vừa không ổn định thiếu nhất quán, thường xuyên thay đổi ví dụ như việc kiểm dịch hàng qua biên giới còn kéo dài gây cản trở nhiều cho hoạt động xuất khẩu, làm chậm tiến độ giao hàng đặc biệt với hàng nông sản rất dễ bị thối hỏng, dập nát khi vận chuyển đường dài. - Thủ tục hải quan, giấy tờ gây chậm trễ làm cho công tác giao chuyển hàng mất thời gian, dễ gây hỏng hóc cho sản phẩm nông sản. - Thủ tục hành chính, vay vốn và việc thực thi quy định ưu đãi của chính phủ còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. 3.2.2.2. Nguyên nhân khách quan Trong những năm qua, Công ty Unimex cũng như nhiều doanh nghiệp khác trong cả nước đều chịu ảnh hưởng của các biến động thị trường như: thị trường nông sản biến động xấu như cúm gia cầm, sâu bệnh, thiên tai, lũ lụt, thị hiếu của khách thay đổi khó tính hơn… Mặt khác, hàng nông sản xuất khẩu của Công ty còn phải đối mặt với những hàng rào phi thuế quan, bảo hộ khi thâm nhập vào các thị trường tiềm năng nhưng rất khó tính như EU và Mỹ. Đó là những quy định về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm trong nhiều trường hợp người ta có thể gọi đó là hình thức bảo hộ trá hình nhằm ngăn cản hàng hoá nước ngoài tràn vào nước mình. Chính vì vậy, Công ty không những phải cạnh tranh với các đối thủ trong nước mà còn phải cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài trong khi trình độ sản xuất và năng suất lao động của ta còn thấp, khả năng chế biến nông sản còn nhiều hạn chế. Một nguyên nhân nữa là do giá cánh kéo giữa hàng nông sản dạng thô, sơ chế và hàng nông sản xuất khẩu đã qua chế biến ngày càng giãn ra. Trong khi các nước phát triển chủ yếu xuất khẩu hàng nông sản đã qua chế biến. Do đó, mặc dù các nước đang phát triển như Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản chủ yếu, sản lượng nông sản của các nước phát triển có xu hướng giảm nhẹ và không cao hơn sản lượng của các nước đang phát triển trong những năm qua nhưng tỷ trọng tổng giá xuất khẩu nông sản của các nước phát triển trong tổng trị giá xuất khẩu của thế giới vẫn giữ vai trò chi phối thị trường nông sản thế giới. Trong những năm gần đây thời tiết, khí hậu thế giới có những biến động rất xấu không theo quy luật tự nhiên. Thiên tai, lũ lụt, hạn hán đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản của Công ty. CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN TẠI CÔNG TY UNIMEX 1. Định hướng xuất khẩu nông sản của Công ty Unimex trong thời gian tới 1.1. Thuận lợi và khó khăn trong hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty trong thời gian tới 1.1.1 Thuận lợi Cơ chế xuất khẩu của Nhà nước ngày càng thông thoáng, những cải tiến trong chính sách thuế, các chính sách khuyến khích xuất khẩu…Nền kinh tế trong nước cũng tiếp tục ổn định và phát triển với môi trường chính trị ổn định. Việt Nam được nhiều bè bạn quốc tế đánh giá cao, là một quốc gia có an ninh vào loại tốt nhất thế giới. Nền kinh tế thế giới cũng có dấu hiệu phát triển ổn định hơn, đặc biệt là sự phục hồi kinh tế của các khu vực sau khủng hoảng, dịch bệnh… Công ty đã và sẽ được phép tham gia một số chương trình của Bộ Thương Mại như nhận vốn ODA, đi nghiên cứu và xúc tiến thị trường nước ngoài… Sau hơn 40 năm xây dựng và phát triển, đội ngũ cán bộ của Công ty đã trải qua nhiều khó khăn thử thách, thăng trầm nên đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, có khả năng xử lý tình huống nhạy bén đáp ứng đòi hỏi của khách hàng. Hiện nay Công ty Unimex đã trực tiếp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu với 30 thị trường, có quan hệ với trên nhiều Công ty ở Châu Á, Đông Âu, và Trung Đông. Ngoài ra, Công ty cũng có hai chi nhánh ở hai thành phố lớn có cảng biển rất thuận lợi cho việc xuất khẩu đó là thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng. Đồng thời Công ty cũng xây dựng được một mạng lưới cơ sở tương đối tin cậy. Hệ thống cơ sở vật chất của Công ty đã được liên tục thay đổi trong những năm gần đây như dự án xây mới khu Văn phòng 41 Ngô Quyền, dự án 172 Ngọc Khánh - Ba Đình - Hà Nội…sẽ giúp cho quá trình kinh doanh diễn ra nhanh chóng thuận tiện hơn. 1.1.2 Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi kể trên là những thách thức mà Công ty phải vượt qua trong thời gian tới như: quá trình hội nhập đã đặt doanh nghiệp vào tình thế tồn tại hay tiêu vong trong bối cảnh cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ chưa thực sự thích nghi với cơ chế thị trường, năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu còn kém, thiếu thông tin về thị trường, thiếu chân hàng và cơ chế quản lý đồng bộ trong Công ty. Khâu chế biến sản phẩm vẫn là một gánh nặng. Việc mở rộng và phát triển kinh doanh đầu tư cho khâu chế biến và bảo quản sản phẩm đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn và một đội ngũ cán bộ kỹ thuật có tay nghề cao, được đào tạo bài bản. Thời tiết, khí hậu trong những năm gần đây có những biến động xấu do hậu quả của sự tàn phá môi trường cũng ảnh hưởng đến chất lượng của mặt hàng nông sản. Một khó khăn nữa mà Công ty sẽ gặp phải trong thời gian tới đó là cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế Giới - WTO vào tháng 11/2006, theo hiệp định nông nghiệp, Việt Nam sẽ phải cắt giảm trợ cấp xuất khẩu bao gồm: + Trợ cấp trực tiếp của Chính phủ hoặc các cơ quan Chính phủ có liên quan đến kết quả thực hiện xuất khẩu như: thưởng xuất khẩu, tín dụng xuất khẩu… + Trợ cấp cho nông sản với điều kiện tham gia vào xuất khẩu + Các khoản thanh toán xuất khẩu nông sản do Chính phủ thực hiện + Việc bán và thanh lý dự trữ nông sản phi thương mại của Chính phủ với giá thấp hơn giá so sánh trên thị trường nội địa. Điều đáng nói ở đây là lộ trình cắt giảm trợ cấp nông nghiệp của Việt Nam diễn ra trong một thời gian tương đối ngắn (3 năm), mức độ cắt giảm cũng tương đối lớn nên không thể tránh khỏi những bỡ ngỡ. Đặc biệt là khi nền sản xuất nông nghiệp của Việt Nam là sản xuất manh mún ở trình độ thấp, tính cạnh tranh không cao nên khó có thể đứng vững trên thị trường mà không có sự trợ giúp của Chính phủ. 1.2. Định hướng phát triển xuất khẩu nông sản của nước ta Hiện nay nhóm hàng nông sản xuất khẩu chiếm một tỷ trọng lớn với các mặt hàng chủ đạo như: gạo, chè, cà phê, quế, hoa hồi, hạt điều…Do sản xuất nông nghiệp phải chịu những hạn chế về công nghệ kỹ thuật, bên cạnh đó thì nhu cầu có hạn, giá không ổn định. Để khắc phục những hạn chế kỹ thuật, cơ cấu, hướng phát triển chủ đạo của nhóm hàng này trong thời gian tới là chuyển dịch cơ cấu, nâng cao năng suất, chất lượng. Cần có sự đầu tư thích đáng hơn nữa về cây giống, chế biến, đóng gói, bảo quản, vận chuyển để tạo ra những đột phá về năng suất, chất lượng. - Về gạo: Cần đa dạng hoá chủng loại gạo, cấp loại gạo xuất khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường gạo thế giới. Sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, dù đó là nhu cầu loại gạo gì, cấp loại nào, quy mô lớn hay nhỏ. Ngoài ra, đa dạng hoá xuất khẩu chủng loại gạo cần phải theo hướng tăng dần tỷ trọng gạo đặc sản chất lượng cao. Kết hợp chặt chẽ giữa đa phương hoá và tập trung hoá thị trường xuất khẩu, trong đó cần ưu tiên những thị trường lớn, ổn định lâu dài như : Bắc Mỹ, Tây Âu, Châu á. Cần coi những thị trường đó là những thị trường chiến lược. Cần hoàn thiện bảng tiêu chuẩn gạo Việt Nam, mặc dù hiện nay Việt Nam có bảng tiêu chuẩn gạo do Tổng cục tiêu chuẩn đo lường công bố nhưng còn khá đơn giản so với tiêu chuẩn gạo phổ biến trong hoạt động gạo mậu dịch thế giới như: tiêu chuẩn gạo của Thái Lan hay ISO - Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế. Chẳng hạn, tiêu chuẩn gạo của Thái có 18 mục định nghĩa làm cơ sở quy định tiêu chuẩn của 11 loại gạo trắng trong khi Việt Nam chỉ quy định trong bảng biểu thông số kỹ thuật của 3 nhóm gạo trắng xuất khẩu: Nhóm hạt dài gồm gạo nguyên 100% loại A và B Nhóm hạt dài gồm các loại 5,10, 15, 20, 25% tấm Nhóm hạt trung bình và ngắn có các loại từ 10 đến 45% tấm Vì có những khác biệt đó, nên trong thực tế khi mua các loại gạo cao cấp, khách hàng nước ngoài thường xuyên yêu cầu đơn vị kiểm phẩm nước ngoài kiểm tra và cấp chứng chỉ chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế mà họ lựa chọn. Vì vậy, trong thời gian tới các cơ quan quản lý chất lượng như Vinacontrol, Foodcontrol… cần tập trung nghiên cứu nhu cầu khách hàng, bổ sung, hoàn thiện bảng biểu tiêu chuẩn gạo làm cơ sở hướng dẫn cho các nhà sản xuất nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng gạo xuất khẩu. - Về cà phê: do sản lượng và giá cả phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết nên rất khó dự báo chuẩn xác về khối lượng và giá trị xuất khẩu trong những năm tới. Để đạt giá trị cao cần chú trọng thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến cà phê rang xay và cà phê hoà tan. Thị trường xuất khẩu chính vẫn là EU, Mỹ, Singapore. Nhìn chung, về xuất khẩu cà phê trong thời gian tới sẽ không gặp khó khăn. - Với mặt hàng cao su: Chính phủ đã có đề án phát triển. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu cao su có thể đạt 500 triệu USD vào năm 2010. Trước nhu cầu xuất khẩu cao su tăng cao, các đơn vị của Tổng Công ty Cao su Việt Nam cần tập trung chăm sóc và khai thác tốt trên 170.000 ha diện tích đang cho mủ trong tổng diện tích khoảng 220.000 ha hiện có (theo thống kê của Bộ NNPTNT). Các Công ty, nông trường thực hiện nhiều biện pháp , tập trung lực lượng lao động, phương tiện bám sát vườn cây, tranh thủ khai thác mủ ở những thời điểm cho năng suất cao nhất đồng thời thực hiện nhiều biện pháp phòng chống mất cắp mủ và bảo vệ vườn cây đề phòng bị chặt phá trộm. Ngoài ra, các Công ty, nông trường cần tranh thủ tổ chức mạng lưới thu mua để đưa vào chế biến, đầu tư thêm trang thiết bị máy móc, thiết bị hiện đại, xây dựng các phòng kiểm phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. - Chè: Theo dự báo của Bộ NNPTNT, sau khi chúng ta trở thành thành viên của WTO thì khả năng mở rộng thị trường chè sẽ gặp nhiều thuận lợi. Nhu cầu chè trên thế giới tiếp tục tăng, hiện nay đạt mức 1,3 triệu tấn/năm. Ta có tiềm năng phát triển, có thể tăng kim ngạch lên mức 200 triệu USD tức là gấp 4 lần hiện nay, trong đó cần tăng tỷ trọng chè chất lượng cao cho các thị trường khó tính như Nhật Bản, Đài Loan đồng thời tăng cường hợp tác đóng tại Nga để tăng cường xuất khẩu tại thị trường này. Tuy nhiên, có thể nói nhược điểm lớn nhất của ngành chè hiện nay là chất lượng chưa cao nên thị trường xuất khẩu dù nhiều song lại không ổn định. Do thiếu nguyên liệu nên nhiều cơ sở không quan tâm đến kiểm soát chất lượng nguyên liệu đầu vào, đặc biệt là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, chăm sóc chưa đúng quy cách… Trong thời gian tới Việt Nam cần phát triển một thương hiệu chè trên cơ sở những vùng nguyên liệu sạch, đảm bảo tiêu chuẩn nghiêm ngặt của Châu Âu, Nhật Bản…Cần đầu tư thêm cho giống chè, thay thế những giống cho chất lượng thấp bằng những giống chè chất lượng cao. Giúp đỡ người dân vùng chè và phát triển cơ sở hạ tầng, kêu gọi đầu tư nước ngoài. Quan trọng hơn, là việc quy hoạch các cơ sở chế biến phải gắn với vùng chè, khắc phục tình trạng thừa nhà máy thiếu nguyên liệu. - Hạt tiêu: xuất khẩu trên thế giới khoảng 200.000 tấn/năm, giá cả dao động lớn. Ta có khả năng mở rộng sản xuất, gia tăng sản lượng lên 230-250 triệu USD so với 160 triệu USD hiện nay. Thị trường chủ yếu là Châu âu, Mỹ, Nhật. 1.3. Mục tiêu trong thời gian tới của Công ty Mục tiêu chiến lược của Công ty đến năm 2010 là : “Xây dựng đơn vị thành một doanh nghiệp mạnh của Tổng Công ty Thương Mại Hà Nội trong các lĩnh vực xuất nhập khẩu và dịch vụ thương mại. Đầu tư xây dựng một số cơ sở sản xuất tạo thêm sản phẩm, không ngừng nâng cao thu nhập cho cán bộ công nhân viên, thu hút thêm nhiều lao động mới, đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước và ngân sách của thành phố”. Mục tiêu chiến lược của Công ty được xây dựng trên một số căn cứ chủ yếu sau: + Căn cứ vào chiến lược phát triển xuất khẩu của thành phố Hà Nội. + Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh doanh của Tổng Công ty Thương Mại Hà Nội. + Căn cứ vào thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và cơ sở vật chất kỹ thuật (cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, nguồn vốn lao động…) hiện có của Công ty, uy tín đơn vị thực hiện truyền thống trong và ngoài nước. + Huy động mọi nguồn vốn đầu tư để mở rộng sản xuất kinh doanh. + Phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh theo xu thế phát triển của thị trường. + Phấn đấu đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh và phân phối công bằng. Một số chỉ tiêu chủ yếu từ nay đến năm 2010: + Tổng doanh thu tăng từ 15% đến 16% + Nộp ngân sách tăng từ 15% đến 17% + Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 16% đến 18% + Thu nhập bình quân tăng từ 15% đến 20% 1.4. Định hướng xuất khẩu nông sản của Công ty Trong thời gian tới, nhiệm vụ chung của toàn Công ty vẫn lấy kinh doanh thương mại tổng hợp là chính, đẩy mạnh và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu để có thể đạt được lợi nhuận cao nhất. Mặt khác, đẩy nhanh vòng quay của vốn, bảo toàn và phát triển nguồn vốn, nâng cao mức sống của cán bộ công nhân viên. Tập trung phát triển Công ty theo chiều sâu, xác định mặt hàng thế mạnh, đầu tư cho hoạt động chế biến bảo quản nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể cạnh tranh tranh trên thị trường, đáp ứng đòi hỏi của khách hàng. Tạo dựng vị thế tốt, không ngừng nâng cao uy tín của Công ty trên thị trường trong nước và nước ngoài. Xây dựng một hệ thống quản lý mạnh, nhạy bén, thích ứng với cơ chế thị trường. Công ty tiếp tục thực hiện cơ chế mở cửa cho phép cán bộ kinh doanh được phép giao dịch, đối nội, đối ngoại thực hiện hợp đồng, thoả thuận giá cá, thực hiện việc giao khoán cho các phòng ban kinh doanh và các chi nhánh nhằm phát huy sáng tạo của đội ngũ cán bộ trong Công ty. Củng cố xây dựng mạng lưới thu mua nguồn hàng ổn định, ưu tiên đặt hàng cho các cơ sở truyền thống, từng bước trực tiếp thu mua tận nguồn cung ứng, thực hiện thanh toán sòng phẳng, đúng hạn. Về mặt hàng, thực hiện phương châm đa dạng hoá mặt hàng, xây dựng cơ cấu hàng nông sản hợp lý, tăng số lượng các mặt hàng xuất khẩu đã qua chế biến, giảm tỷ trọng các mặt hàng thô. Về thị trường, trên cơ sở xác định được mặt hàng chủ lực Công ty xác định được thị trường tiêu thụ chính của mình trong thời gian tới là thị trường Mỹ, EU, đặc biệt chú trọng đến thị trường ASEAN. Bên cạnh việc củng cố các thị trường trên, Công ty mở rộng các thị trường mới như: Mỹ la tinh, Châu Phi… đây là những thị trường mới nhưng lại có nhu cầu về nông sản rất cao hơn nữa những thị trường này không khó tính như thị trường Mỹ, EU. 2. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty 2.1. Mở rộng thị trường Công ty cần nâng cao thị phần ở các thị trường truyền thống như thị trường Châu á, đặc biệt là thị trường ASEAN và Trung Quốc, ấn Độ hai quốc gia đông dân nhất thế giới. Vì vậy đối với những thị trường này ngoài việc đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng thì Công ty cần có chính sách giá linh hoạt. Ví dụ như đối với các mặt hàng tương tự như đối thủ cạnh tranh, Công ty nên khuyến khích mua hàng thông qua giảm giá đối với những khách hàng truyền thống hay khách hàng mua đầu tiên hay mua với số lượng lớn. Ngoài ra, Công ty cần đẩy mạnh thâm nhập vào các thị trường mới đặc biệt là thị trường Mỹ, Nhật và EU. Mặc dù đây là những thị trường có nhu cầu nông sản lớn song Công ty vẫn chưa có chỗ đứng thực sự trên các thị trường này. Để thâm nhập thành công các thị trường này cần: - Chất lượng sản phẩm của hàng nông sản phải đặt lên hàng đầu. Vì vậy công tác thu mua đóng vai trò hết sức quan trọng. Vì vậy phải đầu tư các khoá học ngắn hạn, bổ sung, nâng cao trình độ cho các nhân viên thu thập hàng, kiểm kê,... - Phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các nhân viên nghiên cứu thị trường với các nhân viên trực tiếp thu thập hàng nông sản xuất khẩu. Để từ đó đảm bảo các hàng hoá được thu về đúng chất lượng, đúng yêu cầu mang đi xuất khẩu. - Phải nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về chất lượng vệ sinh, an toàn môi trường: phải có chứng chỉ về ISO 9001 -2000, ISO 14000, HACCP,... Ngoài ra phải xây dựng uy tín với khách hàng bằng cách đảm bảo về chất lượng, dịch vụ (vận chuyển, giao hàng, thanh toán...) với khách hàng từ đó xây dựng thương hiệu cho mình. - Học tập các chiến lược thâm nhập thị trường của các đối thủ cạnh tranh trực tiếp với nước ta như Trung Quốc, Thái Lan... - Nghiên cứu kĩ các đặc tính thị trường, sở thích thị hiếu - nhiệm vụ của phòng đối ngoại, marketing. Có đáp ứng được những yêu cầu này thì Công ty mới xác định được các bước đi cụ thể để thâm nhập thị trường. Hơn nữa, trong thời gian tới Công ty cần có kế hoạch cụ thể để tiếp cận các thị trường châu Phi, Mỹ La tinh… 2.2. Tổ chức tốt công tác nghiên cứu thị trường, nắm bắt thông tin “Bí quyết để đảm bảo sức mạnh kinh doanh của một Công ty trước hết là thông tin”. Do đó, thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng, nó là chìa khoá dẫn đến thành công của Công ty. Nghiên cứu thị trường đòi hỏi Công ty cần tiếp xúc, cọ sát nhiều với thị trường, nắm bắt được thông tin cần thiết của thị trường. Xác định tiềm năng của thị trường về các mặt hàng cần bán qua số liệu thống kê, bán hàng thử, thăm dò ý kiến khách hàng… Hiện nay phương pháp nghiên cứu của Công ty mới chỉ giới hạn nghiên cứu tại phòng thông qua báo chí, giá cả thị trường, tin tức từ Bộ Thương Mại, Tổng Cục Thống Kê, các tổ chức tư vấn thị trường. Đây là phương pháp có phần thụ động đôi khi không hiệu quả trong khi thị trường thế giới biến động từng ngày. Do chưa có một phòng chuyên nghiên cứu về thị trường dẫn đến tình trạng ỷ lại giữa các phòng, bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh. Do đó, để khắc phục tình trạng trên trong thời gian tới Công ty cần thực hiện: - Thành lập một bộ phận chuyên trách về việc thu thập và xử lý thông tin, điều tra, thăm dò nhu cầu thị trường hay còn gọi là phòng Marketing. Tuy nhiên, các phòng kinh doanh trong Công ty cũng phải nỗ lực tìm kiếm thông tin thị trường, bạn hàng, mở rộng thị trường đồng thời trao đổi thông tin với phòng Marketing và các phòng kinh doanh khác để có được những thông tin cập nhật và chính xác nhất đặc biệt không được ỷ lại vào phòng Marketing. Ngoài ra, các phòng kinh doanh cũng cần trích phần trăm thích đáng trong doanh thu của mình để hỗ trợ cho phòng Marketing trong hoạt động thu thập xử lý thông tin. - Công ty nên chọn thị trường nào chấp nhận hàng với khối lượng lớn, có chính sách ưu tiên cả về số lượng bán và trả giá hợp lý. - Xây dựng mối quan hệ hợp tác, thường xuyên trao đổi thông tin với các nhà cung ứng, sản xuất, khách hàng vì đây là những thông tin sát thực có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của Công ty. - Đưa hàng hoá thâm nhập thị trường thông qua các hội trợ triển lãm - Lập kế hoạch Marketing cho Công ty - Đầu tư cho các đoàn nghiên cứu khảo sát thị trường nước ngoài về nhu cầu sở thích người tiêu dùng, dung lượng thị trường, tình hình giá cả, văn hóa - xã hội... của các nước đang đầu tư nghiên cứu. Từ đó có các biện pháp, có sự thay đổi trong kế hoạch, chiến lược phát triển thị trường, phát triển mặt hàng xuất khẩu cho phù hợp. - Tranh thủ sự hỗ trợ của hệ thống các tham tán, quán sứ Việt Nam ở nước ngoài, các tham tán quán sứ các nước và các tổ chức quốc tế tại Hà Nội. Đẩy mạnh hoạt động của VPĐD và một số đại diện liên kết tại các thị trường nước ngoài. Các tham tán phụ trách về các mảng thương mại, xuất nhập khẩu hàng hoá của một nước. Vì vậy phải tranh thủ mối quan hệ với các tham tán của nước ta ở nước ngoài để tìm hiểu thị hiếu của người dân nước ngoài, tìm hiểu phong tục, tập quán, đời sống văn hoá tinh thần của họ... Ngoài ra, các tham tán quán sứ các nước và các tổ chức quốc tế tại Hà Nội có thể giúp Công ty có thêm mối quan hệ, có thêm bạn hàng qua các cuộc gặp gỡ, giới thiệu. - Công ty cần tập trung nghiên cứu thị trường trọng điểm như: Trung Quốc, ASEAN, là các thị trường khu vực vừa gần gũi về địa lý vừa phù hợp về hàng hoá, vận chuyển, ngoài ra nên chú ý các thị trường Mỹ, Nhật, Châu Phi… - Thời gian gần đây nước ta đón nhiều tổ chức nước ngoài, các thương nhân tìm đến cơ hội hợp tác làm ăn ở Việt Nam, Công ty nên tranh thủ thu thập thông tin, tiếp xúc với doanh nghiệp để tìm kiếm cơ hội, thông tin. Tóm lại, công tác nghiên cứu thị trường trong thời gian tới cần một bộ phận chuyên trách và được trang bị tốt. Đây không phải là nhiệm vụ duy nhất của một bộ phận nào mà là nhiệm vụ của tất cả các phòng, ban, các cá nhân trong Công ty. 2.3. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại Đây là hoạt động mà Công ty cần trú trọng nhiều hơn nữa trong thời gian tới. Để nâng cao tính chủ động sáng tạo trong kinh doanh trong thời gian tới hoạt động xúc tiến nên được tổ chức theo hướng sau: - Thành lập bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường, phòng marketing như đã đề cập ở phần trên để tổ chức, lập kế hoạch và thực hiện các chương trình quảng cáo, khuyến mại, xúc tiến bán hàng, hội chợ… - Với đặc điểm là bán buôn nên việc quảng cáo sẽ chủ yếu được thực hiện thông qua tạp chí chuyên ngành về nông sản xuất khẩu. Xây dựng hệ thống catalog có hình thức đẹp, các đơn chào hàng đa dạng để gửi tới khách hàng. - Công ty cần tích cực tham gia các hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước. Đây là một cơ hội tốt để nâng cao uy tín, trao đổi thông tin, nắm bắt nhu cầu thị trường và để quảng cáo các sản phẩm nông sản của mình. - Thành lập thêm các văn phòng đại diện vừa để tiếp cận với thị trường nước ngoài vừa dễ dàng tham dự các hội chợ, triển lãm quốc tế. - Công ty nên thuê gian hàng trưng bày sản phẩm tại một số nước (những nước sau khi nghiên cứu kĩ tiềm năng thị trường, về khả năng đáp ứng....) để quảng bá sản phẩm của mình. Công tác xúc tiến thương mại cần phải được quan tâm nhằm liên kết người tiêu dùng với sản phẩm. Cụ thể quy định mức giảm giá với thay đổi linh hoạt cho từng khách hàng, từng số lượng mua cụ thể. 2.4. Thực hiện tốt công tác thu mua hàng nông sản Hiện nay công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của Công ty còn nhiều bất cập, chưa thiết lập được một mạng lưới thu mua hàng ổn định ngay tại địa phương. Việc cung ứng nguyên liệu chưa phát triển vững chắc do quan hệ giữa Công ty và người cung ứng chưa chặt chẽ. Một số chủng loại nông sản theo nhu cầu xuất khẩu thì số lượng tiêu thụ nhỏ, khó phát triển. Do vậy, nguồn hàng cung cấp cho Công ty bấp bênh, không ổn định, công tác kiểm tra chất lượng hàng hoá sau khi mua chưa tốt, quá trình vận chuyển, giao hàng chưa được giám sát chặt chẽ. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần: Xây dựng quan hệ tốt với các địa phương sản xuất hàng nông sản xuất khẩu của Công ty, các đối tác, đại lý phân phối khi đó quá trình thu mua sẽ thuận lợi hơn nhiều, khối lượng sẽ ổn định và chất lượng sẽ tốt hơn, thời gian thu gom hàng đảm bảo. Để làm được việc này, Công ty cần tiến hành các công việc như: - Gặp gỡ các đại biểu ở các địa phương ngay từ đầu vụ sản xuất để trao đổi, bàn bạc, ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm. - Đưa ra các biện pháp khuyến khích vật chất đối với hoạt động thu mua có hiệu quả, như quy định một mức thưởng cho cán bộ thu mua được khối lượng lớn, chất lượng đảm bảo yêu cầu của Công ty, nhưng cũng kiên quyết xử lý các trường hợp gian lận, tráo hàng làm ảnh hưởng uy tín Công ty. - Cải thiện công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm thu mua. Hiện nay, hoạt động này còn nhiều hạn chế mà nguyên nhân là do Công ty chưa có đội ngũ chuyên kiểm tra, kiểm nghiệm chất lượng có kinh nghiệm. Vì vậy, công tác kiểm tra còn mang nặng cảm tính và phụ thuộc vào kinh nghiệm của cán bộ thu mua. - Công ty phải tổ chức xây dựng các kho bãi đảm bảo yêu cầu để tiện lợi cho việc kiểm tra cũng như dự trữ hàng hoá. - Công ty có thể ứng trước vốn cho các cơ sở sản xuất đầu tư trang thiết bị cần thiết, mua nguyên vật liệu. Điều này thiết lập mối quan hệ giữa TCÔNG TY với người sản xuất, thêm nữa nguồn hàng cung cấp được đảm bảo về số lượng, chất lượng lẫn thời gian giao hàng. - Tận dụng mối quan hệ với các Công ty con, Công ty liên doanh liên kết của Công ty mẹ để chia sẻ thông tin, mối quan hệ, hợp đồng. Ngoài ra, có thể CÔNG TY sẽ giao một phần hợp đồng mà tự mình không thể thực hiện hết được cho đơn vị liên kết và ngược lại Công ty sẽ thực hiện một phần hợp đồng của đơn vị liên kết khi họ không đủ khả năng thực hiện toàn bộ hợp đồng. Sự liên kết này có thể phát huy lợi thế giữa các Công ty khắc phục tình trạng thừa thiếu năng lực kinh doanh. 2.5. Tăng cường đầu tư máy móc cho công tác chế biến bảo quản nông sản Như đã trình bày ở phần trên, hàng nông sản có tính thời vụ và chịu ảnh hưởng lớn của thời tiết khí hậu nên rất khó bảo quản. Đặc biệt đối với những nước có khí hậu nóng ẩm như Việt Nam thì hàng hóa bị nấm mốc, sâu mọt là chuyện bình thường. Vì vậy, đầu tư máy móc thiết bị cho công tác chế biến bảo quản giúp Công ty có thể tăng giá trị xuất khẩu và tạo ra lợi thế cạnh tranh về giá. Do đó, trong thời gian tới Công ty cần giải quyết một số vấn đề sau: - Đổi mới các máy móc thiết bị đã quá cũ, lạc hậu không còn phù hợp, sửa chữa sắp xếp lại những máy móc còn sử dụng được. Có thể nhập khẩu các thiết bị này từ nước ngoài nhưng phải thận trọng để tránh tình trạng nhập phải những thiết bị đã quá đát. Trước đây đã từng xảy ra tình trạng nhiều doanh nghiệp nước ta nhập phải những máy móc thiết bị quá cũ do bất cẩn trong công tác kiểm tra ký kết hợp đồng hoặc cố ý nhập những thiết bị cũ về nhưng khai báo là thiết bị mới nhằm thu lợi bất chính. - Liên doanh liên kết với các đơn vị hoặc tổ chức nước ngoài để nhận được sự hỗ trợ và chuyển giao công nghệ tiên tiến của nước ngoài. Tuy nhiên, việc đổi mới này không phải là đổi mới hàng loạt và tiến hành một cách ồ ạt mà phải đáp ứng một số yêu cầu như: thiết bị phải là những thiết bị tiên tiến, hiện đại. Mặt khác, những thiết bị này phải phù hợp với đặc điểm của sản xuất cũng như những đặc điểm của ngành đòi hỏi. Máy móc thiết bị phải đem lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu tức là không chỉ phù hợp với điều kiện hiện tại mà còn phù hợp cả trong tương lai. Ngoài ra, giá cả chuyển giao công nghệ phải phù hợp với khả năng tài chính của Công ty và điều kiện sản xuất, nếu như giá quá cao thì chi phí sản xuất tăng làm cho giá nông sản xuất khẩu tăng theo, điều này sẽ không tốt trên thị trường cạnh tranh. - Về khâu bảo quản: Cần đầu tư xây dựng các kho chứa bảo quản nông sản đạt tiêu chuẩn về nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng… Cần có một hệ thống máy móc tự động hỗ trợ cho con người trong công tác bảo quản nông sản xuất khẩu để phát hiện kịp thời những biến động xấu trong quá trình bảo quản làm ảnh hưởng đến chất lượng nông sản. 2.6. Bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ Bất cứ một Công ty nào dù nguồn vốn lớn hay nhỏ, trang thiết bị hiện đại mà nguồn nhân lực không đảm bảo yêu cầu thì không thể tồn tại và phát triển, bởi nhân tố con người là cực kỳ quan trọng quyết định đến sự thành bại của Công ty. Đối với hoạt động xuất khẩu, yêu cầu cán bộ phải giỏi nghiệp vụ ngoại thương, có đầu óc kinh doanh nhạy bén, năng động, sáng tạo ứng phó kịp thời với biến động phức tạp trên thị trường, thông thạo ngoại ngữ, có khả năng giao tiếp trực tiếp với đối tác nước ngoài. Tuy nhiên đối với Công ty Unimex số cán bộ đạt được trình độ này còn rất ít, nguồn nhân lực vừa thừa vừa thiếu, tỷ lệ lao động có tuổi với trình độ dưới đại học khá lớn, đây là những người ít nhiều chịu ảnh hưởng của cơ chế cũ nên trong số họ dù rất cố gắng nhưng vẫn thiếu sáng tạo, không dám mạo hiểm. Chính vì vậy Công ty cần phải - Xây dựng một đội ngũ cán bộ có chuyên môn giỏi. Để thực hiện điều này Công ty cần phải gửi cán bộ đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài. - Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ theo định kỳ nhằm cập nhật những vấn đề mới: mời giáo viên ở các trường đại học Ngoại thương, Kinh Tế Quốc Dân, khuyến khích cán bộ công nhân viên học ngoại ngữ thông qua việc trợ cấp một phần học phí. Đồng thời cũng cần có chính sách khuyến khích vật chất tinh thần đối với những cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu giỏi. Bố trí các nhân viên trẻ có năng lực song thiếu kinh nghiệm làm việc với các nhân viên lớn tuổi có kinh nghiệm thực tiễn để bổ sung những thiếu sót cho nhau. Công tác bố trí cán bộ cũng cần phải dựa theo trình độ năng lực, tránh hiện tượng cân nhắc theo mối quan hệ cá nhân làm mất đoàn kết nội bộ. - Công ty cũng cần mạnh dạn tuyển thêm cán bộ trẻ để trẻ hoá đội ngũ nhân viên, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật có đủ khả năng kiểm tra, giám định hàng hoá, đảm bảo chất lượng hàng hoá. 2.7. Chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập kinh tế Hội nhập kinh tế là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta để phát huy lợi thế của đất nước. Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết được nhiều hiệp định thương mại song phương, tham gia vào các tổ chức kinh tế hàng đầu thế giới như WTO, APEC, AFTA, ASEAN…Song quá trình này mới chỉ dừng lại ở cấp Nhà nước, còn đối với các doanh nghiệp thì việc chuẩn bị cho quá trình hội nhập xem ra còn nhiều điều phải bàn, Công ty Unimex cũng nằm trong xu hướng này. Vì vậy, trong thời gian tới, Công ty phải có những bước đi cụ thể chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập. + Ban giám đốc phải xác định được mức độ tác động của quá trình hội nhập tới Công ty. Từ đó đưa ra các định hướng chiến lược phù hợp, phổ biến cho toàn thể Công ty nhằm phát huy sức mạnh đoàn kết nỗ lực hết mình, vượt qua mọi khó khăn để nắm bắt cơ hội kinh doanh mới. + Cử đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm nghiên cứu hết sức kỹ càng các hiệp định thương mại đã ký kết để từ đó xác định được lợi ích cần phát huy và những khó khăn phải vượt qua. + Chuẩn bị tốt về tài chính, cơ sở vật chất và đặc biệt là nguồn nhân lực để nắm bắt các cơ hội sẽ đến trong quá trình hội nhập. 2.8. Tăng cường huy động các nguồn vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu Vốn là yếu tố quyết định đến quy mô của hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó giúp cho mọi hoạt động của Công ty được liên tục và hiệu quả. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn giúp cho Công ty tránh được những chi phí không cần thiết và những rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Vấn đề bất cập hiện nay tại Công ty là nguồn vốn cho kinh doanh không đủ, chủ yếu là do không huy động được vốn. Hiện nay tại Công ty nguồn vốn kinh doanh chủ yếu được lấy từ chính lợi nhuận kinh doanh của kỳ trước sang nên còn hạn hẹp vì có năm kinh doanh được nhưng có năm chỉ đủ để bù đắp lại phần chi phí bỏ ra. Sau đây là một số biện pháp huy động vốn mà Công ty có thể áp dụng: - Vốn vay từ các tổ chức tín dụng Hiện nay, việc vay vốn từ các tổ chức tín dụng đã trở nên phổ biến và tiện lợi hơn rất nhiều. Nó giúp cho quá trình kinh doanh của Công ty được thuận lợi và an toàn hơn cả. Tuy nhiên, Công ty cần phải tính toán, xem xét kỹ lưỡng về số lượng và thời hạn vay sao cho hiệu quả nhất. Công ty có thể chọn các hình thức vay ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn tùy thuộc vào điều kiện cụ thể. - Vốn huy động từ nội bộ Công ty Bên cạnh nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng Công ty có thể huy động vốn từ nguồn vốn nhàn rỗi trong nội bộ Công ty từ các cán bộ công nhân viên trong Công ty để bổ sung cho nguồn vốn kinh doanh. Nguồn vốn từ lực lượng này khá lớn vì vậy Công ty cần có chế độ hợp lý để khuyến khích cán bộ tham gia. Có thể trả lãi cao hoặc ưu tiên trong công việc đối với những người cho Công ty vay vốn: khen thưởng, tạo cơ hội việc làm cho con em họ…Cần đưa ra những phương án thanh toán để cán bộ có thể lựa chọn hình thức phù hợp với mình, phải thực hiện cam kết giữa hai bên và có giấy tờ giao nhận. Ngoài ra, Công ty còn có thể sử dụng một số hình thức huy động vốn khác như: vay vốn từ các bạn hàng, khách hàng truyền thống, liên kết đầu tư với nước ngoài… nhằm huy động tối đa nguồn vốn phục vụ trong kinh doanh. Tuy nhiên, Công ty cũng cần chú ý đến việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, cần lưu ý chữ “Tín” trong vay vốn cũng như trong kinh doanh, tránh thất thoát. - Công ty mau chóng hoàn thành các thủ tục giấy tờ để chuyển sang cổ phần hoá. Có như vậy Công ty mới nhanh chóng huy động vốn từ thị trường bên ngoài bằng cách phát hành trái phiếu và cổ phiếu. - Công ty có thể tận dụng hình thức huy động vốn bằng cách mua trả chậm hoặc dùng vốn của khách hàng ứng trước. 3. Một số kiến nghị với nhà nước Như đã trình bày ở trên, khi gia nhập WTO Việt Nam phải cam kết cắt giảm trợ cấp xuất khẩu theo hiệp định nông nghiệp từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, do nước ta đang phát triển ở trình độ thấp lại trong quá trình chuyển đổi nên ta yêu cầu và được WTO chấp nhận cho hưởng một thời gian chuyển đổi. Hơn nữa, ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho các nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài ra, các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế. Từ những điều kiện trên, Chính phủ cần có những chính sách nhằm tranh thủ khai thác triệt để những ưu tiên mà Việt Nam được hưởng, từng bước thực hiện những cam kết đã ký, cụ thể: 3.1. Tăng cường hỗ trợ các hoạt động sản xuất chế biến hàng nông sản Trong thời gian qua Nhà nước ta cũng có quan tâm đến các hoạt động sản xuất và chế biến hàng nông sản nhưng chưa nhiều nên chất lượng hàng nông sản của Việt Nam trong đó có Công ty Unimex chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường khó tính nhưng có nhiều tiềm năng chi trả lớn như EU, Nhật Bản, Mỹ… Do đó hiệu quả từ hoạt động sản xuất, xuất khẩu hàng nông sản chưa cao. Do đó, trong thời gian tới Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản ở mức độ cho phép, tranh thủ trong thời gian quá độ này đồng thời chuyển dần sang hỗ trợ kỹ thuật khi bước vào giai đoạn thực hiện các cam kết WTO. 3.1.1. Hỗ trợ về giống, phổ biến kiến thức cho nông dân Hiện nay, nhiều nông dân Việt Nam chưa hiểu biết đầy đủ các kiến thức về nông nghiệp như giống cây nào phù hợp đất nào, giống nào thị trường cần. Nói chung dựa nhiều vào kinh nghiệm, nên hiệu quả chưa cao. Vì vậy Nhà nước cần tổ chức nghiên cứu hoặc nhập các loại giống tốt, cho năng suất cao, phù hợp điều kiện tự nhiên từng vùng và quan trọng hơn là phù hợp đòi hỏi của thị trường. Bên cạnh đó không ngừng phổ biến kiến thức trồng trọt thông qua phương tiện thông tin đại chúng như chương trình “Khuyến Nông”, tổ chức các lớp học và phát hành các ấn phẩm phổ biến kiến thức. 3.1.2. Tổ chức công tác thu mua nông sản cho nông dân Hoạt động thu hoạch của nông dân diễn ra dồn dập trong một thời gian ngắn do đặc tính thời vụ nên đối với nông dân khả năng về vốn có hạn, quy mô sản xuất nhỏ thì không thể đầu tư cho dự trữ, bảo quản một cách đồng bộ nên họ phải bán nông sản ngay sau khi thu hoạch. Điều này dẫn tới tình trạng bị tư thương ép giá do không có kho bãi để lưu trữ, bảo quản. Đây cũng là nhân tố ảnh hưởng đến nguồn hàng xuất khẩu của Công ty. Trong thời gian tới Nhà nước cần đầu tư xây dựng thêm kho chứa, mạng lưới thu mua khi vào vụ. Đặc biệt cần lập quỹ dự phòng giảm giá đối với hàng nông sản để giảm bớt thiệt hại cho nông dân khi giá nông sản xuống thấp. Ngoài ra, cần tăng cường đầu tư tạo ra các vùng nguyên liệu tập trung dựa trên lợi thế về tự nhiên và xã hội của từng địa phương mà Nhà nước tập trung đầu tư để hình thành những vùng chuyên canh như cà phê ở cao nguyên, cao su ở Đông Nam Bộ… 3.1.3. Đầu tư cho phát triển công nghiệp chế biến nông sản Đầu tư cho công tác chế biến nông sản dường như quá sức đối với các Công ty tham gia xuất khẩu bởi việc này đòi hỏi một số lượng vốn lớn để nhập khẩu các trang thiết bị hiện đại. Tuy nhiên, nhà nước không thể trực tiếp quản lý các nhà máy mà sẽ giao vốn hoặc giao nhà máy cho các doanh nghiệp quản lý. Đồng thời có chính sách ưu đãi và kêu gọi đầu tư nước ngoài. 3.2. Trợ giúp các Công ty xuất khẩu 3.2.1. Hỗ trợ cung cấp thông tin về thị trường nông sản Hiện nay, Công ty đang thiếu các thông tin về tình hình cung, cầu, giá cả và dự báo về thị trường nông sản, các thông tin về văn hoá - chính trị, khách hàng và nhu cầu của họ. Do đó, nhà nước cần lập các ngân hàng dữ liệu chứa đựng các thông tin liên quan đến thị trường nông sản trong nước và thế giới như nguồn hàng cung ứng, giá mua vào, giá bán ra. Thành lập các viện, các tổ chức chuyên nghiên cứu và phân tích thông tin về tình hình nông sản thế giới từ đó đưa ra các dự báo và định hướng phát triển. Tổ chức hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hội trợ, triển lãm quốc tế. Thành lập các hiệp hội chuyên kinh doanh các mặt hàng nông sản như: hiệp hội cà phê, hiệp hội gạo… 3.2.2. Hỗ trợ chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản xuất khẩu Trong quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá được sản xuất trên cơ sở công nghệ cao đóng vai trò hết sức quan trọng trong cạnh tranh quốc tế. Vì vậy, Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và các hoạt động phát triển kỹ thuật khác. 3.2.3. Thực hiện các chương trình hỗ trợ đào tạo Mở các lớp đào tạo ngắn hạn và dài hạn do các chuyên gia trong và ngoài nước giảng dạy. Khuyến khích các doanh nghiệp tự đào tạo. Nhà nước có thể trích một phần thuế trong nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp giữ lại làm quỹ đào tạo. 3.3. Hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu 3.3.1. Đồng bộ các hệ thống văn bản pháp lý Hiện nay, ta đang rơi vào tình trạng các văn bản pháp lý vừa thiếu lại vừa yếu, tính bền vững không cao. Có những văn bản vừa ban hành nhưng đã bị lỗi thời do không phù hợp đòi hỏi của thực tiễn như thiếu chế tài, văn bản ra sau không tiến bộ hơn trước là mấy còn nhiều kẽ hở, thay đổi liên tục khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện… Chính vì vậy, hệ thống văn bản pháp lý phải đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh hàng xuắt khẩu. Chính sách thuế Giá trị gia tăng hiện nay đang cản trở đến hợp đồng xuất khẩu của Công ty. Để nộp thuế Công ty phải đi vay ngân hàng tuy nhiên quá trình hoàn thuế lại diễn ra chậm với thủ tục phiền hà. Điều này làm ảnh hưởng đến nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, trong thời gian tới cần cải cách thủ tục nộp thuế Giá trị gia tăng một cách nhanh chóng, đơn giản hơn nhưng không được tạo ra kẽ hở để doanh nghiệp lợi dụng gian lận. 3.3.2. Đơn giản cơ chế quản lý xuất khẩu Hiện nay công tác quản lý xuất khẩu của Nhà nước còn nhiều bất cập, thủ tục rườm rà và phức tạp, gây lãng phí thời gian của các doanh nghiệp. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền vẫn còn khá phổ biến. Chính vì vậy, trong thời gian tới Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu cho phù hợp với yêu cầu hội nhập đó là đơn giản, nhanh chóng, chính xác, thực hiện chính sách “ Một cửa, một dấu”, tuy nhiên đơn giản không có nghĩa là buông lỏng quản lý tạo ra kẽ hở để gian thương lợi dụng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phân bổ rõ chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với ngoại thương. Nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức của cán bộ, công chức Nhà nước. Tăng cường kỷ cương hành chính và xử phạt nghiêm khắc các trường hợp vi phạm. KẾT LUẬN Việt Nam đang tiếp tục thực hiện chính sách đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong chiến lược phát triển của mình, hàng nông sản đã và đang là một mặt hàng thế mạnh không thể thay thế do bề dày lịch sử và lợi thế so sánh của ngành nông nghiệp Việt Nam. Thực tế đã chứng minh rằng lĩnh vực xuất khẩu nông sản của ta trong thời gian qua là rất đáng khích lệ, thể hiện sự phát triển của ngoại thương. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được vẫn chưa tưng xứng với tiềm năng dồi dào của nông sản nước ta, chủ yếu do các điều kiện kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất còn mang nặng tính thủ công. Trong khi đó, các bạn hàng, các đối thủ cạnh tranh trên thưng trường quốc tế đã hết sức sành sỏi về kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh nên để có thể cạnh tranh bình đẳng mà không bị thua thiệt là điều không dễ thực hiện. Do đó, việc tìm hiểu nghiên cứu xuất khẩu trong cơ chế thị trường đặc biệt khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO sao cho hiệu quả, theo kịp tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế là công việc cấp bách và hết sức cần thiết của Đảng và Nhà nước, các doanh nghiệp và các chuyên gia kinh tế Việt Nam. Là một thành viên trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, Công ty Unimex Hà Nội đã góp phần không nhỏ trong việc đưa sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam đến với nhiều bạn hàng trên thế giới. Với bề dày kinh nghiệm trong kinh doanh xuất nhập khẩu, Công ty đã tạo được chỗ đứng nhất định cho mình trên lĩnh vực đấy. Song trước những yêu cầu ngày càng khắt khe hơn về chất lượng và những biến động của thị trường thì Công ty cần có biện pháp cụ thể nhằm củng cố và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu mặt hàng này. Khi đó, Công ty mới có thể khẳng định được hướng đi đúng đắn của mình trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và hội nhập nhanh vào cộng đồng quốc tế cũng như khu vực. Đây là một nhiệm vụ phức tạp, cần nhiều thời gian, công sức để nghiên cứu, cọ sát…rồi từ đó đưa ra những quyết sách thích hợp để phát triển mặt hàng này. Qua chuyên đề thực tập này em muốn đưa ra một cái nhìn tổng quát về thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Công ty Unimex với những thành tựu đã đạt được cũng như các mặt hạn chế còn tồn tại. Em xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị kèm theo. Em mong rằng nó có thể phần nào đó giúp Công ty giảm bớt các hạn chế đó và ngày càng phát triển hơn nữa. Do thời gian thực tập có hạn nên phần nội dung chính của bài chuyên đề chỉ tập trung vào mặt hàng nông sản xuất khẩu. Tuy nhiên, do trình độ có hạn nên báo cáo tổng hợp không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự bổ sung, góp ý của các thầy cô, bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS Vũ Hữu Tửu (2000), Giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, Nhà xuất bảnGiáo dục. 2. GS. TS Bùi Xuân Lưu (2000), Giáo trình Kinh Tế Ngoại Thưng, Nhà xuất bảnGiáo dục. 3. Incoterm 2000 - ICC. 4. GS. TS Tô Xuân Dân và TS. Vũ Chí Lộc (1997), Giáo trình Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế, Nhà xuất bản Giáo dục. 5. Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty Unimex. 6. Thủ Tướng Chính Phủ, Quyết định số 132/2000 về một số chính sách phát triển ngành nghề nông thôn. 7. Thủ Tướng Chính Phủ, Quyết định số 80/2000 QĐTTg (ngày 24/6/2002) về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng. 8. Nghị định của Chính Phủ số 56/2005 NĐ - CP ngày 226/4/2005 về khuyến nông khuyến ngư. 9. Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010 Bộ Thương Mại. 10. Kim ngạch xuất nhập khẩu VN - Asean ( Bộ Thương Mại) 11. Phụ lục xuất khẩu 5 năm từ 2001 - 2005 ( Bộ Thương Mại) 12. Một số thành tựu của ngành thương mại sau 20 năm đổi mới ( Bộ Thương Mại) 13. Dự báo mới nhất về thị trường gạo 20/7/2006 ( Bộ Thưng Mại) 14. Dự báo mới nhất về thị trường cà phê thế giới 8/11/2006 ( Bộ Thưng Mại) 15. Phạm Thị Cải (Viện Nghiên Cứu TM - Bộ Thương Mại), Các giải pháp dụng phương thức kinh doanh TM của doanh nghiệp trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài 2003 - 78 – 007 16. GS.TS.Nguyễn Thành Độ - TS.Nguyễn Ngọc Huyền, Giáo trình quản trị kinh doanh Tổng Hợp, Nhà xuất bản lao động – Xã Hội 17. Các Website liên quan: www.mot.gov.vn Bộ Thương Mại. www.wto.org.vn Tổ Chức Thơng Mại Thế Giới www.undp.org.vn Chương Trình Phát Triển Của Liên Hiệp Quốc www.agroviet.gov.vn Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0560.doc
Tài liệu liên quan