Chuyên đề Định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gia vị của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế Quốc tế

Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế bao trùm chi phối toàn bộ sự phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, trong đó có Việt Nam. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu mặt hàng gia vị ở Việt Nam nói riêng đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước, phát huy nội lực để đẩy nhanh quả trình hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Qua nghiên cứu về các giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gia vị ở trên, chúng ta có thể thấy được những lợi thế của mặt hàng gia vị xuất khẩu nước ta cùng các hạn chế, bất cập gặp phải khi xuất khẩu mặt hàng gia vị trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó, có được những định hướng và giải pháp đối với nhà nước và các doanh nghiệp sản xuất hàng gia vị xuất khẩu để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng gia vị một cách có hiệu quả hơn trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam đi lên trong thời gian tới.

doc59 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gia vị của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế Quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại bao bì cho mặt hàng gia vị là: - Bao tải dệt: loại bao bì này được sử dụng phổ biến cho hàng gia vị xuất khẩu. Vật liệu truyền thống để làm bao bì này là đay và sisal. - Bao bì bằng giấy và bìa: được sử dụng cho xuất khẩu gia vị với nhiều loại kích kỡ khác nhau có nhiều tính năng hoá lý. Theo Hiệp hội gia vị Châu Âu, các nhà nhập khẩu Anh coi bao giấy lý tưởng theo tiêu chuẩn là 5kg hoặc 12,5kg đối với thảo dược, các lớp bao bì có thể thay đổi tuỳ thuộc vào sản phẩm và khoảng cách nhưng bao tải ba lớp là tốt nhất. Đối với các sản phẩm như hành và tỏi thì màng nhựa mỏng, không thẩm thấu được sử dụng làm bao bì bên trong. - Bao tải nhựa: thông thường được làm từ màng nhựa polyethylene. Có nhiều loại nhựa khác nhau và các màu sắc khác nhau. Tuỳ thuộc vào trọng lượng được bao gói mà độ dày của màng có thể thay đổi từ 60-100 microns - Thùng nhựa: Các thùng nhựa lớn đã phát triển từ các thùng bằng gỗ truyền thống, các thùng nhựa này thường dùng để chứa những hàng gia vị có giá trị cao. Hiện nay, các thùng nhựa có dung tích chứa từ 30-200 lit, bất kể hình dạng và hệ thống đóng mở như thế nào, hàng hoá được chứa đựng trong thùng nhựa đòi hỏi phải hoàn toàn khô ráo để phòng ngừa khả năng sinh ra mốc. Việc xếp dỡ thùng nhựa thường bằng các phương tiện máy móc. 2.3.3. Phương thức vận chuyển gia vị Người xuất khẩu căn cứ vào tính chất và đặc điểm hàng hoá của mình để lựa chọn các phương thức vận chuyển thích hợp: đường biển, đường không, đường sắt đường bộ…Những yếu tố chủ yếu quyết định trong việc lựa chọn phương thức vận chuyển là chi phí, thời gian, khoảng cách cùng với đặc điểm của hàng hoá như tính chất, kích kỡ, trọng lượng của hàng hoá. Chính xuất phát từ tính chất và dặc điểm của hàng gia vị mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phần lớn lựa chọn phương thức vận chuyển bằng đường biển. Trong trường hợp chuyên chở bằng containơ, hàng được giao cho người vận tải theo một trong hai phương thức: - Nếu hàng đủ một containơ, chủ hàng phải đăng ký thuê containơ, chịu chi phí chở containơ từ bãi containơ về cơ sở của mình, đóng hàng vào containơ rồi giao hàng cho người vận tải. - Nếu hàng không đủ một containơ thì chủ hàng phải giao cho người vận tải tại ga containơ. Việc thuê tàu, lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông tin về tình hình thị trường, thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê tàu. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, chủ hàng xuất khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu, lưu cước cho một công ty hàng hải. 2.4. Tình hình tiêu thụ gia vị trên thế giới trong thời gian qua Buôn bán gia vị của thế giới trong thời gian 1996-2000 đã tăng từ mức 984.000 tấn năm 1996 lên trên 1.162.000 tấn năm 2000 với trị giá tăng từ 2,01 tỷ USD lên 2,54 tỷ USD. Các loại gia vị được buôn bán phổ biến nhất trên thị trường thế giới hiên nay là hạt tiêu (37%), ớt (14%), hạt gia vị (7%), gừng (6%) đinh hương (5%)… Các thị trường tiêu thụ lớn nhất trên thế giới là EU, Mỹ, Nhật Bản. Trong thời gian 1996-2000, chỉ riêng 3 thị trường này đã mua hơn 60% lượng gia vị xuất khẩu của thế giới. Năm nước nhập khẩu lớn tiếp theo là Singapore(7,3%), Arapxeut (3,9%), Malayxia(2,5%), Mehico(2,4%). Canada (2,4%). Tựu trung lại 8 nước và khu vực này đã mua tới 80% lượng gia vị nhập khẩu của thế giới. Tiêu thụ gia vị phụ thuộc vào các yếu tố như: dân số, thu nhập và chịu ảnh hưởng bởi cơ cấu các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, các thói quen xã hội. Việc gia tăng số lượng các cộng đồng dân tộc ít người, tăng số lượng người đi du lịch nước ngoài và việc hộc hỏi cách chế biến các món ăn mới lạ về chế biến ở nhà, ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông…dẫn đến việc thay đổi lớn trong thói quen tiêu thụ. Tất cả những điều này làm tăng nhu cầu tiêu thụ gia vị trên thị trường thế giới. Như vậy có thể thấy, các nước nhập khẩu gia vị chủ yếu là các nước công nghiệp phát triển, ở đó các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm là ngành tiêu thụ gia vị quan trọng. Còn các nước sản xuất và xuất khẩu gia vị lại chủ yếu là các nước đang phát triển và các nước kém phát triển, các nước này tiêu thụ gia vị ít (chủ yếu là tiêu thụ bởi các hộ gia đình). 3. Vai trò của việc xuất khẩu gia vị của Việt Nam Như ở các phần trên đã nghiên cứu, chúng ta đều thấy rằng: điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của Việt Nam rất thích hợp cho việc sản xuất và phát triển xuất khẩu mặt hàng gia vị. Do đó mà việc phát triển sản xuất và xuất khẩu mặt hàng gia vị của Việt Nam đã và đang đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. Hàng năm, với lượng xuất khẩu tương đối lớn (chiếm khoảng 1,3-1,6% kim ngạch xuất khẩu năm 2000, đưa tỷ trọng xuất khẩu của nhóm hàng gia vị của tổng kim ngạch xuất khẩu chung của đất nước đạt 1,1%) góp phần đưa hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung của Việt Nam đi lên, giúp tăng trưởng kinh tế. Trong việc sản xuất và xuất khẩu hàng gia vị, thì sản xuất và xuất khẩu mặt hàng hạt tiêu có ý nghĩa quan trọng. Hiện nay, diện tích hồ tiêu cả nước đạt khoảng 26.000 ha, sản lượng 60.000 tấn, cần 60 ngày công/ha, hồ tiêu được trồng ở khu vực vùng núi, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ là chủ yếu đã góp phần giải quyết công ăn việc làm , cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho số đông người lao động ở các vùng này. Mặt khác, trong những năm gần đây, Việt Nam luôn nằm trong nhóm 7 nước xuất khẩu gia vị hàng đầu thế giới và nằm trong 3 nước xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất thế giới. Như vậy, xuất khẩu gia vị còn có vai trò nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất khẩu mặt hàng gia vị Việt Nam giúp nước ta có điều kiện hợp tác với các nước , tăng cường giao lưu, buôn bán và học hỏi kinh nghiệm của các nước để nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu gia vị của Việt Nam. Tóm lại, xuất khẩu mặt hàng gia vị có vai trò quan trọng đối với Việt Nam. Việc phát huy lợi thế so sánh của mặt hàng gia vị, thúc đẩy xuất khẩu gia vị sẽ góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam đi lên. Để làm được điều này, đòi hỏi Nhà nước và các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gia vị cần quan tâm hơn đến việc sản xuất, xuất khẩu gia vị thông qua việc xem xét thực trạng xuất khẩu gia vị để khắc phục những nguyên nhân làm cản trở hoạt động xuất khẩu hàng gia vị nước ta. III. Thực trạng xuất khẩu hàng gia vị của Việt Nam 1. Những hạn chế trong xuất khẩu gia vị của Việt Nam 1.1.Thuế và hàng rào phi thuế quan - Về thuế: Hiện nay, Nhà nước ta rất khuyến khích xuất khẩu mặt hàng gia vị, nhất là sản phẩm hồ tiêu, thuế xuất khẩu hồ tiêu là 0% và không có hạn ngạch xuất khẩu. Các nước nhập khẩu gia vị như Mỹ, Nhật Bản…cũng đánh thuế rất ít đối với sản phẩm gia vị nhập khẩu mà chủ yếu đưa ra các quy địng đối với hàng gia vị nhập khẩu. Do đó, vân đề thuế không đáng ngại đối với hàng gia vị xuất khẩu của Việt Nam. - Về hàng rào phi thuế quan: Hàng gia vị để thâm nhập được vào thị trường các nước thường phải chịu các quy định của nước nhập khẩu thông qua các đạo luật, các tiêu chuẩn môi trường…đối với hàng gia vị nhập khẩu. Với từng nước, các quy định về hàng gia vị nhập khẩu là khác nhau nhưng đều rất chặt chẽ, đảm bảo sản phẩm đến người sử dụng là sản phẩm có chất lượng, đảm bảo vệ sinh thực phẩm. Ví dụ, ở Nhật Bản, nhập khẩu gia vị vào thị trường Nhật Bản phải tuân thủ các quy định của luật bảo vệ và luật vệ sinh thực phẩm nhằm ngăn chặn tình trạng lây nhiễm các loại sâu bệnh, công trùng có thể làm ảnh hưởng đến cây trồng và mùa màng của Nhật Bản. Sau khi kiểm dịch thực vật, nhà nhập khẩu gia vị phải xuất trình “khai báo nhập khẩu thực phẩm” tại trạm kiểm dịch của cảng đến trước khi lô hàng được đưa vào Nhật Bản để đảm bảo gia vị không có độc tố hay những phụ gia có thể gây ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Ngoài ra, gia vị nhập khẩu vào Nhật Bản còn phải đảm bảo các quy định về nhãn mác gia vị, trọng lượng tịnh, bao bì… Đối với Mỹ, hàng gia vị nhập khẩu vào Mỹ phải tuân thủ các luật và quy định do 4 cơ quan nhà nước tham gia vào việc điều chỉnh. Đó là Cục dược và thực phẩm Mỹ (FDA), Cơ quan bảo vệ môi trường (EPA), Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), và Hải quan Mỹ. Với mỗi cơ quan có chức năng và nhiệm vụ riêng, ví dụ như với Bộ Nông nghiệp Mỹ thì chịu trách nhiệm bảo vệ ngành nông nghiệp Mỹ chống lại việc nhập khẩu giống loại hay côn trùng từ nước ngoài có thể gây hại và tạo ra sự phá hoại không kiểm soát được; hay với cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ thì chịu trách nhiệm kiểm tra dư lượng hoá chất trong hàng thực phẩm như thuốc trừ sâu, hoá chất được sử dụng nhằm kiểm soát hoặc loại bỏ các côn trùng, sâu mọt, nấm mốc và các loài găm nhấm… Nhìn chung, hàng gia vị Việt Nam khi xuất khẩu đều phải chịu sự quy định nghiêm ngặt của các nước nhập khẩu gia vị, đặc biệt là các nước phát triển. Đây là những trở ngại lớn đã gây cản trở phần nào tới hoạt động xuất khẩu hàng gia vị nước ta trong thời gian qua. 1.2. Trở ngại về đối thủ cạnh tranh Tuy xuất khẩu hàng gia vị Việt Nam những năm gần đây luôn là một trong những nước xuất khẩu gia vị nhiều nhất thế giới nhưng hoạt động xuất khẩu hàng gia vị của nước ta vẩn phải cạnh tranh với các mặt hàng cùng loại của các nước khác như:Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Singapore…Chẳng hạn như đối với mặt hàng tỏi: tỏi Việt Nam tuy thơm và hàm lượng tinh dầu cao hơn tỏi Trung Quốc 1,5 lần nhưng do củ nhỏ bé, năng suất thấp, nhiều tép vụn nên khi chế biến, các lát tỏi hay bị vỡ vụn, màu sắc tối, giá thành cao gấp 2 lần tỏi Trung Quốc nên mất dần khách hàng, do đó mà sản phẩm tỏi của nước ta không cạnh tranh được với sản phẩm tỏi của Trung Quốc. Điều này một phần là do công nghệ chế biến của Trung Quốc hiện đại hơn của Việt Nam. Trong hầu hết các nước đang phát triển, người ta chưa chú ý đến các chương trình nghiên cứu gia vị. Tuy nhiên, một số nước như ấn Độ, Inđônêxia… đã thực hiện nhiều sáng kiến và thu được thành công như các chưong trình đào tạo ở các cấp độ khác nhau được thiết kế cho các nhà trồng trọt, các thương nhân và nhà xuất khẩu về việc làm thế nào để cải tiến chất lượng gia vị. ở các nước này còn tổ chức thực hiện khâu bảo quản, chế biaến sau thu hoạch tốt các sản phẩm gia vị và có tiêu chuẩn hoá quốc gia tương đương với tiêu chuẩn quốc tế. Điều này ở Việt Nam chưa có, làm cho sản phẩm gia vị của Việt Nam kém chất lượng hơn các nước khác. Đây cũng là bài học kinh nghiệm mà Việt Nam cần học tập. 1.3. Các trở ngại khác (phong tục tập quán, thói quen sử dụng gia vị …của ngưòi dân) Ngoài các trở ngại ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng gia vị như đã kể trên thì phong tục tập quán, thói qủn sử dụng gia vị của người dân.. cũng ảnh hưởng đến khả năng thâm nhập vào thị trường thế giới nước ta. ở các nước công nghiệp phát triển, tiêu thụ gia vị chủ yếu ở ngành công nghiệp chế biến, trên thực tế vẫn còn nhiều người chưa hiểu biết về việc dùng gia vị và hương liệu cũng như xuất xứ của chúng. Do đó họ không có thói quen sử dụng nhiều gia vị trong gia đình. Ngoài ra, có thể thấy trong số các nước công nghiệp phát triển, nhiều nước tiêu thụ gia vị vẫn ở mức thấp do họ chưa hiểu biết hết tác dụng của gia vị, một số nước lại sử dụng phổ biến nhiều gia vị có mùi vị riêng đã quen dùng. Những nước này có thể tăng tiêu thụ gia vị dưới tác động của các hoạt động du lịch, các biện pháp quảng cáo và xúc tiến bán gia vị…Ví dụ ở Nhật Bản, gia vị đựoc đánh giá chủ yếu qua 3 yếu tố: hương thơm, vị cay nóng và màu sắc. Khoảng 1/10 số loại gia vị sử dụng phổ biến trên thị trường Nhật Bản có vị cay, nóng. Sự tưong xứng giữa hương vị với thành phần của gia vị xác định chất lượng của gia vị nhưng chỉ khoảng 10% tổng lựong gia vị tiêu thu trên thị trường Nhật Bản là tiêu thụ tại các hộ gia đình. Do đó, để thâm nhập được vào thị trường Nhật Bản thì nhà xuất khẩu gia vị phải đảm bảo về mùi vị của hàng hoá đảm bảo phù hợp với người tiêu dùng Nhật Bản; Mặt khác, cần phải quảng cáo về tác dụng của việc sử dụng gia vị để khuyến khích tiêu thụ gia vị tăng lên. 1.4. Những tồn tại và vấn đề đặt ra trong xuất khẩu gia vị của Việt Nam Trong thời gian qua, tuy xuất khẩu gia vị Việt Nam ở mức cao so với các nước khác trên thế giới nhưng hoạt động xuất khẩu hàng gia vị vẫn còn những tồn tại và những vấn đề cần phải được khắc phục trong thời gian tới: Thứ nhất, Thiếu dự báo chính xác về thị trường. Do nước ta mới bước vào nền kinh tế thị trường nên cả Nhà nước, người nông dân và các nhà chế biến, kinh doanh đều chưa có kinh nghiệm và rất yếu trong công tác dự báo thị trường. Cụ thể là về phía doanh nghiệp, chủ yếu là hoạt động xuất nhập khẩu nên thấy lãi là làm, sự nghiên cứu chiến lược lâu dài cho thị trường còn yếu. Về phía nông dân, phần lớn là sản xuất nhỏ, tự phát, thiếu quy hoạch, trình độ thông tin còn lạc hậu, tiếp xúc ít, gặp nhiều trở ngại trong tìm hiểu thị trường nên nhiều khi họ sản xuất theo kiểu “phong trào”, thấy người khác làm thu lãi lớn là họ cũng làm theo, không tính toán đến hiệu quả lâu dài cũng như sự ổn định của mặt hàng đó. Ví dụ, từ năm 1998, hầu hết các nước sản xuất hồ tiêu đều tăng rất mạnh diện tích cây tiêu (trung bình từ 30-45%/năm). Người trồng tiêu tại Việt Nam hầu như không nắm được thông tin này, nên cùng thời gian này, diện tích trồng tiêu của ta cũng tăng lên chóng mặt. Kết quả là cung vượt quá cầu khá lớn (20-30%) và đương nhiên là giá bị giảm mạnh, gây thiệt hại cho người sản xuất và cả nhà xuất khẩu. Thứ hai, Chưa có hợp đồng bao tiêu sản phẩm hay tính khả thi trong thực hiện hợp đồng còn thấp giữa người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu. Phần lớn việc mua các mặt hàng gia vị trong nước các doanh nghiệp đều thông qua các đầu mối tư nhân nên còn bị động nhiều trong số lượng và giá cả. Hợp đồng có thể được ký kết nhưng việc phá vỡ hợp đồng bị xảy ra thường xuyên do với tác động của nhiều đối tác theo kiểu: Ai trả giá cao hơn thì bán cho người đó. Có điều này là do sản xuất hàng gia vị nước ta còn khá manh mún, doanh nghiệp chỉ có thể ký hợp đồng dài hạn với người sản xuất khi họ có đầu ra ổn định (mà trong bối cảnh biến động về giá cả, đầu vào… như hiện nay thì việc có đầu ra ổn định là rất ít). Thêm vào đó, trên thực tế thường xảy ra tình trạng người sản xuất không thực hiện đúng theo hợp đồng đã cam kết, sản xuất hàng không đúng chất lượng, hoặc từ chối giao hàng cho doanh nghiệp để bán ra thị trường khi thấy giá cao hơn, bỏ qua những đầu tư đã nhận trước của doanh nghiệp như giống, công nghiệp chăm sóc khiến nhiều doanh nghiệp bị thua thiệt hàng tỷ đồng và không có hàng để giao để giao cho đối tác dẫn đến mất bạn hàng. Thứ ba, Các doanh nghiệp Việt Nam còn ở thế bị động trong kinh doanh. Mặc dù là nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu hạt tiêu nhưng hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực này còn bị phụ thuộc vào biến động giá trên thị trường thế giới. Các doanh nghiệp xuất khẩu hạt tiêu Việt Nam về tổng thể chưa đủ sức chi phối thị trường quốc tế, do đó mà không tạo được thế chủ động trong kinh doanh. Thứ tư, Việc sản xuất hàng gia vị xuất khẩu của Việt Nam còn thiếu các cơ sở chế biến. Từ trước đến nay, chúng ta chỉ xuất khẩu nguyên liệu thô nên chất lượng sản phẩm chưa cao so với sản phẩm cùng loại của các nước khác trên thế giới. Vài năm gần đây, tổng công ty xuất nhâp khẩu nông sản thực phẩm (Vinafimex) có liên kết với một đối tác nước ngoài cho ra đời một cơ sở chế biến hạt tiêu sạch xuất khẩu, đã nâng được giá xuất khẩu lên 20% so với xuất thô nhưng số lượng chưa nhiều (mới chiếm 30% tổng lượng hạt tiêu xuất khẩu hàng năm của nước ta). Một số doanh nghiệp phía Bắc cũng có ý tưởng tìm đối tác liên doanh nhằm xây dựng nhà máy chế biến hạt tiêu tại phía Nam cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu nhưng sau khi tìm hiểu, họ cho rằng chi phí quá tốn kém, nhất là thương hiệu cho mặt hàng mà hiệu quả cuối cùng gặp nhiều rủi ro, trong khi xuất khẩu nguyên liệu thô dễ hơn nhiều. Thứ năm, Về mặt sản xuất hàng gia vị vẫn còn phân tán theo quy mô nhỏ của từng hộ gia đình, trang trại nên rất khó khăn trong việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, tổ chức thu gom, bảo quản, vận chuyển, sơ chế, phân loại sản phẩm để xuất khẩu. Thiếu sự vững chắc và ổn định trong sản xuất và xuất khẩu gia vị. Việc tổ chức thu gom, bảo quản, dự trữ chuẩn bị nguồn hàng xuất khẩu chưa có sự gắn kết đồng bộ theo hệ thống chặt chẽ. Do đó, sản phẩm của ta thiếu sự cạnh tranh trên thị trường thế giới. 2. Nguyên nhân 2.1. Nguyên nhân khách quan Việc sản xuất gia vị ở Việt Nam là tự phát, chưa có định hướng quy hoạch, nghiên cứu cụ thể, sản xuất phụ thuộc nhiều vào khí hậu, thời tiết, côn trùng, dịch bệnh…Do đó, khi các yếu tố này thay đổi theo hướng bất lợi thì sẽ gây cản trở, khó khăn trong việc sản xuất, chế biến cũng như xuất khẩu gia vị. Ví dụ, do đặc tính của cây hồ tiêu là chịu được hạn nhưng khi thời tiết không cho phép như mưa nhiều kéo dài thì sẽ dẫn đến ngập úng, từ đó sẽ tạo điều kiện cho côn trùng, dịch bệnh xâm nhập vào cây trồng, làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. 2.2. Nguyên nhân chủ quan Việc sản xuất và xuất khẩu hàng gia vị nứơc ta gặp nhiều khó khăn như ở trên, phần lớn là do các nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất, Vai trò của Nhà nước đối với sản xuất và xuất khẩu gia vị còn mờ nhạt. Nhà nước chưa quan tâm đúng mức đến việc sản xuất và xuất khẩu gia vị, do đó sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ theo kiểu kinh tế hộ gia đình, trang trại là chủ yếu, nông dân cứ thấy lãi là làm, do vậy mà chất lượng sản phẩm không cao. Chúng ta lấy đơn cử mặt hàng hạt tiêu và ớt – hai mặt hàng gia vị có thế mạnh ở Việt Nam làm ví dụ: Đối với hạt tiêu, Nghị quyết 09/2000/NQ/CP ngày 15/6/2000 của Chính phủ có ghi: Hồ tiêu là một loại cây lâu năm có hiệu quả kinh tế cao, diện tích 50.000 ha, sản lượng 100.000 tấn/năm, phải bánm sát yêu cầu thị trường thế giới để xen xét mức sản xuất phù hợp, đảm bảo hiệu quả bền vững; song, việc triển khai Nghị quyết còn chậm và không đồng bộ. Cho đến nay, quy hoạch, kế hoạch, tổ chức sản xuất, đầu tư, thị trường, xuất khẩu loại sản phẩm này vẫn chưa có hoặc chưa đầy đủ, trong khi thị trường thế giới luôn biến động mà người sản xuất và các doanh nghiệp không nắm chắc nguồn hàng và thị trường. Điều này gây cản trở cho việc tăng năng xuất, chất lượng của sản phẩm hạt tiêu thời gian qua. Đối với mặt hàng ớt thì hầu như chưa có sự hỗ trợ nào của Nhà nước. Cơ chế và các chính sách khuyến khích sản xuất vad xuất khẩu hạt tiêu, ớt chưa hình thành đồng bộ. Vai trò chỉ đạo của các Bộ, ngành ở trung ương và chính quyền các cấp ở địa phương còn rất mờ nhạt, thiếu các giải pháp khả thi. Toàn bộ hoạt động sản xuất, thu gom, tiêu thụ và xuất khẩu hạt tiêu, ớt cho đến nay về cơ bản vẫn do các hộ gia đình và các tổ chức, doanh nghiệp tự lo liệu. Thông tin thị trường thế giới vốn đã thiếu lại lạc hậu, không có tác dụng hướng dẫn các nhà sản xuất theo yêu cầu của Chính phủ. Thứ hai, Các Bộ, ngành có liên quan (như Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Thương mại, Hiệp hội hạt tiêu Việt Nam…) chưa phối hợp với nhau để thống nhất quy hoạch, chính sach và giải pháp đối với sản xuất và xuất khẩu gia vị. Bộ NN&PTNT chưa có bộ phận theo dõi và chỉ đạo sản xuất các mặt hàng gia vị tương xứng với tiềm năng của cây trồng. Các hoạt động khuyến nông, nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học, tổ chức bảo quản sau thu hoạch…chưa được quan tâm và đàu tư thoả đáng. Bộ Thương Mại chưa quan tâm nhiều đến các hoạt động xúc tiến thương mại, sản phẩm hạt tiêu xuất khẩu tuy nhiều nhưng vẫn chưa có thương hiệu riêng choa chính mình. Về phía Hiệp hội, trong khi một số nước sản xuất gia vị lâu năm khác như ấn Độ với Hiệp hội gia vị và hạt tiêu ấn Độ (IPSTA), Inđônêxia với Hiệp hội xuất khẩu tiêu Inđônêxia (AIPE) hay Braxin với Hiệp hội sản xuất ,xuất khẩu hạt tiêu Braxin (ABEP) đã được thành lập từ lâu, đang chỉ đạo có hiệu quả mọi hoạt động xuất khẩu hạt tiêu của các nước này, đồng thời ảnh hưởng rất lớn đến thị trường hạt tiêu thế giới thì ở Việt Nam chưa có một tổ chức tương ứng, thích hợp. Hiệp hội hạt tiêu Việt Nam (VPA) mới được thành lập cuối năm 2001 với 41 thành viên là các nhà sản xuất, chế biến, buôn bán hạt tiêu, chưa phát huy được hết vai trò của mình trong việc hỗ trợ các thành viên trong hoạt động xuất khẩu cũng như giải quyết những bất cập trong sản xuất, kinh doanh gia vị. Về phía doanh nghiệp thì vẫn còn hạn chế trong khâu chế biến do thiếu công nghệ sản xuất hiện đại. Mặt khác, hoạt động quảng bá sản phẩm ở thị trường nước ngoài còn kém, chưa xác định rõ thị trường xuất khẩu chủ lực của hàng gia vị Việt Nam…Do đó mà chưa tạo dựng được thương hiệu riêng cho sản phẩm của mình… Thứ ba, Sự chậm tiến trong công nghệ chế biến hàng gia vị. Việc chế biến sản phẩm trước khi xuất khẩu là công việc quan trọng. Hiện nay, công nghệ chế biến gia vị sau thu hoạch ở Việt Nam còn đơn giản, chủ yếu làm thủ công theo phương pháp truyền thống (do chi phí thấp, dễ làm) nhưng tạp chất cao, không đảm bảo độ ẩm tiêu chuẩn, không loại bỏ hết các vi khuẩn, nấm mốc…nên chất lượng kém, không đủ sức cạnh tranh cũng như thâm nhập vào thị trường nước ngoài như sản phẩm cùng loại của các nước khác. Bên cạnh đó, máy móc thiết bị lạc hậu, đã qua sử dụng nên sản phẩm sản xuất ra chất lượng không cao. Do đó mà chúng ta chủ yếu xuất khẩu gia vị dưới dạng thô, phải bán qua các nước trung gian, các doanh nghiệp thường phải bán với giá thấp hơn giá trực tiếp từ 5-10% và dễ bị khách hàng ép cấp, ép giá. Thứ tư, trình độ của người lao động còn hạn chế. Mặc dù người lao động ở Việt Nam năng động, sáng tạo trong sản xuất nhưng trong sản xuất và xuất khẩu gia vị, đa phần là lao động thủ công, chưa qua đào tạo, họ thường thấy lãi là làm mà không tính các yếu tố liên quan. Về phía các doanh nghiệp xuất khẩu và các Bộ, ngành có liên quan thì trình độ cán bộ còn thấp, họ chưa tổ chức sản xuất một cách có hiệu quả theo mô hình kinh tế cụ thể (VD: kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại) mà nông dân thường sản xuất tự phát, nhỏ lẻ…Cán bộ quản lý chưa nắm rõ thông tin về nhu cầu thị trường, do đó mà sản xuất đạt kết quả không cao. Thứ năm, Bên cạnh các nguyên nhân kể trên, vấn đề tổ chức và quản lý như hiện nay cũng là một nguyên nhân dẫn đến những yếu kém và hạn chế kết quả sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm gia vị. Trong các mặt hàng gia vị xuất khẩu Việt Nam thì có hai mặt hàng hạt tiêu và ớt là xuất khẩu với số lượng lớn nhưng chỉ có hạt tiêu là có Hiệp hội hạt tiêu chi phối nhưng vai trò của Hiệp hội vừa mờ nhạt, vừa yếu kém. Còn ớt chưa có một tổ chức nào chịu trách nhiệm chính về tổ chức sản xuất, thu mua, chế biến và xuất khẩu. Hầu hết các hoạt động trong lĩnh vực thị trường hàng gia vị cho đến nay đều phụ thuộc vào cá nhân từng hộ sản xuất, từng hoạt động thương mại riêng lẻ. Tóm lại, so với mặt hàng nông sản khác như gạo, cà phê…thì mặt hàng gia vị (như hạt tiêu, ớt) có tiềm năng lớn, chịu được điều kiện khí hậu khắc nghiệt hơn. Nhưng trên thực tế, các mặt hàng gia vị ít được các ngành, các địa phương và doanh nghiệp nhà nước quan tâm nhất. Do vậy mà tính tự phát, manh mún, tự cung tự cấp, quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, thị trường bấp bênh, giá cả không ổn định là điều dễ hiểu. Các thông tin về sản xuất và xuất khẩu sản phẩm gia vị cũng rất nghèo nàn, vừa thiếu, không đồng bộ và độ tin cậy thấp. Đây là vấn đề cần quan tâm và có giải pháp cụ thể, thiết thực trong thời gian tới. Chương III: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gia vị của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Dự báo nhu cầu tiêu thụ gia vị của thế giới trong thời gian tới 1. Xu hướng nhu cầu tiêu thụ gia vị thời gian tới Trong thời gian tới, tiêu thụ gia vị trên thế giới dự đoán tiếp tục tăng lên, đó là kết quả của các xu hướng tiêu thụ sau: - Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và ngành ăn uống công cộng sẽ tiếp tục phát triển nhanh ở cả các nước công nghiệp phát triển và đang phát triển sẽ dẫn đến tăng nhu cầu tiêu thụ gia vị ở quy mô thế giới. - ở các nước công nghiệp phát triển, tiêu thụ các thực phẩm tiêu dùng và các thực phẩm cá biệt dự đoán sẽ tăng lên vì ngày càng có nhiều người háo hức với những hương vị lạ và đa dạng của các thực phẩm ngoại. Nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều người chưa hiểu biết về việc dùng gia vị và hương liệu cũng như xuất xứ của chúng. Đồng thời, cộng đồng người nhập cư cũng ngày càng đông đảo ở các nước này cũng mở ra cơ hội tiêu thụ gia vị lớn hơn. - ở các nước đang phát triển, nhu cầu tiêu thụ gia vị dự đoán sẽ tăng nhanh hơn ở các nước công nghiệp phát triển do được kích thích bởi yếu tố tăng dân số, tăng thu nhập và sự có sẵn các nguồn cung cấp. Thời gian tới, tiêu thụ gia vị dự đoán tăng nhanh hơn ở các nước như ấn Độ, Inđônêxia và khu vực Trung đông. 2. Cơ hội mới trong tiêu thụ hàng gia vị trên thế giới trong thời gian tới Vì gia vị là sản phẩm hoàn toàn tự nhiên chứ không phải là các chất nhân tạo nên được đánh giá cao và tiêu thụ gia vị sẽ tiếp tục tăng. Gia vị không chỉ sử dụng trong các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, ăn uống công cộng và tiêu thụ gia đình mà gia vị còn được nghiên cứu, ứng dụng vào các ngành sản xuất hương vị, các thành phần tạo hương vị…Ngoài ra, nhu cầu tăng đối với các gia vị hữu cơ ở các thị trường phát triển như EU, Mỹ, Nhật Bản. ở các thị trường này, cả ngành công nghiệp chế biến và người tiêu thụ trực tiếp ngày càng tập trung mối quan tâm vào các thực phẩm có lợi cho sức khoẻ, có nguồn gốc hoàn toàn tự nhiên như gia vị hữu cơ… 3. Những thách thức mới trong hoạt động tiêu thụ gia vị trong thời gian tới Bên cạnh những cơ hội kể trên, việc tiêu thụ gia vị trên thế giới cũng gặp phải những thách thức không nhỏ. Đó là sự cạnh tranh trong ngành công nghiệp tập trung vào chất lượng và sự ổn định chất lượng thông qua các hoạt động nghiên cứu và phát triển nhằm tạo ra các hương liệu và giống gia vị mới. Việc nhấn mạnh đến chất lượng là nhằm củng cố niềm tin của người tiêu dùng. Các nhà chế biến thực phẩm và đồ uống đòi hỏi chất lượng rất cao nên có xu hướng quan hệ chặt chẽ với các nhà cung cấp lâu năm và đã có đủ độ tin cậy, những đối tác có thể tham gia liên kết để phát triển sản phẩm mới và trong trường hợp đó, giá cả chỉ đứng ở hàng quan trọng thứ hai. Mức độ chuyên môn hoá cần các nhà cung cấp gia vị đã thành công và điều này khiến cho các nhà xuất khẩu mới trở nên khó khăn hơn trong cạnh tranh. Mặt khác, các kênh phân phối hầu như mở hoàn toàn với các nhà xuất khẩu mới là kênh của các nhà nhập khẩu và các thương nhân mua các sản phẩm gia vị thô, khối lượng lớn và các gia vị chưa xay. Còn đối với các gia vị được chế biến và bao gói ở nước xuất xứ, nhu cầu rất thấp do thông thường, các nhà chế biến, đóng gói và nhập khẩu ở chính quốc đã thiết lập mạng lưới buôn bán lâu năm với người tiêu dùng nên họ ở vị trí tốt hơn so với các nhà chế biến của các nước xuất khẩu trong việc nắm bắt nhu cầu, thị hiếu của người tiêu thụ cuối cùng và những biến động của thị trường. Chính vì vậy mà triển vọng xuất khẩu gia vị chế biến trực tiếp từ các nước sản xuất gia vị là rất khó khăn và một tỷ lệ lớn nhập khẩu của gia vị thế giới là dưới dạng thô, đã làm sạch nhưng chưa chế biến dưới dạng khác. 2. Dự đoán về nhu cầu tiêu thụ gia vị trên thế giới thời gian tới Căn cứ vào xu hướng nhu cầu tiêu thụ gia vị thời gian tới và tình hình tiêu thụ thời gian qua (như đã đề cập ở phần trên), giả sử thời gian tới, nhịp độ tăng nhập khẩu gia vị hàng năm vẫn là 3% về mặt lượng và tỷ trọng các loại gia vị vẫn duy trì như mức của năm 2000 thì khối lượng gia vị của thế giới vào năm 2005 sẽ đạt 1.350.000 tấn, dự báo cụ thể được thể hiện qu bảng sau: Bảng 3.1: Dự báo nhập khẩu gia vị của thế giới vào năm 2005 Loại gia vị Thực hiện năm 2000 DB nhập khẩu 2005 Lượng (tấn) Tỷ trọng(%) PA thấp (+1,5%/năm) PA cao (3%/năm) Tổng gia vị 1.162.722 100 1.250.000 1.350.000 Hạt tiêu 232.715 20 250.000 270.000 ớt 225.518 CAPut!’,4 242.500 261.900 Vani 4.237 0,36 4.555 4.860 Quế 79.728 6,8 85.721 91.800 Đinh hương 47.489 4,0 50.000 54.000 Bạch đậu khấu và nhục đậu khấu 35.504 3,0 38.169 40.500 Hạt gia vị 182.020 15,6 195.689 210.600 Gừng 192.838 16,5 207.313 222.750 Rau thơm, nghệ, lá nguyệt quế 15.624 1,3 16.796 17.550 Các loại gia vị khác 147.349 12,6 158.409 170.100 Các thị trường nhập khẩu gia vị chính của thế giới thời gian tới dự đoán vẫn là EU, Mỹ, Nhật Bản và các nước Trung đông và dự đoán nhập khẩu của các nước này vẫn sẽ chiếm khoảng 70-80% khối lượng nhập khẩu gia vị của thế giới. II. Những điều kiện mới của hội nhập kinh tế quốc tế 1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan, là một xu hướng không thể lẩn tránh đối với các quốc gia trong thời đại ngày nay. Hội nhập kinh tế quốc tế được hiểu là việc một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các định chế kinh tế, tài chính quốc tế, thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư bao gồm các lĩnh vực sau: - Đàm phán cắt giảm thuế quan, tiến tới thực hiện thuế xuất bằng không đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. - Giảm thiểu, tiến tới loại bỏ những hàng rào phi thuế quan gây cản trở đối với thương mại. - Giảm thiểu các hạn chế đối với thương mại và dịch vụ, tức là tự do hóa việc cung cấp và kinh doanh các loại hình thức dịch vụ. Theo phân loại của WTO, hiện nay có khoảng 12 nhóm gia vị được đưa vào đàm phán, từ dịch vụ tư vấn giáo dục, tin học cho đến các dịch vụ ngân hàng, tài chính, viễn thông, giao thông vận tải… - Giảm thiểu các hạn chế đối với đầu tư để mở rộng cho tự do hóa hơn nữa thương mại. - Điều chỉnh các chính sách quản lý thương mại theo những quy tắc và luật chơi chung quốc tế, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến giao dịch thương mại như thủ tục hải quan, quyền sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh… - Triển khai những hoạt động hợp tác kinh tế, văn hoá xã hội nhằm nâng cao năng lực của các nước trong quá trình hội nhập. Như vậy, có thể thấy khái niện hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả các lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hóa và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và rào cản vô hình đối với trao đổi thương mại. 2. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước trên thế giới Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước diễn ra bằng các hình thức khác nhau từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp như tham gia vào các liên kết kinh tế như sau: - Khu vực mậu dịch tự do (khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á- AFTA, khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ- NAFTA…): là khu vực mà ở đó các quốc gia thành viên cùng nhau thoả thuận thống nhất xác lập một biểu thuế quan chung về một hay một số loại mặt hàng nào đó, giữa các nước thành viên và phần còn lại của thế giới được độc lập với nhau. - Liên minh thuế quan: là một khu vực mậu dịch tự do nhưng giữa các nước thành viên ngoài việc xác lập một biểu thuế quan với nhau còn phải xác lập thêm một biểu thuế quan với phần còn lại của thế giới. -Liên minh kinh tế: là một liên kết kinh tế quốc tế trong đó các nước thành viên thống nhất với nhau các chính sách về kinh tế, tài chính, tiền tệ. - Diễn đàn hợp tác kinh tế (diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương- APEC, diễn đàn hợp tác á-Âu-ASEM): là một liên kết kinh tế quốc tế trong đó các nước thành viên cùng thoả thuận hợp tác với nhau về kinh tế, kỹ thuật, tiến dần đến tự do hoá thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên. - Tổ chức thương mại thế giới (WTO): đây là một hình thức cao của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tham gia vào WTO, các nước thành viên sẽ được đối xử công bằng về các hoạt động thương mại, đầu tư, thực hiện tự do hóa mậu dịch, cất giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan để mở đường cho thương mại phát triển. Đối với Việt Nam, từ năm 1986, chúng ta đã chủ động mở cửa hợp tác với các nước trên thế giới. Tham gia tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế: là thành viên của AFTA,APEC…và đang trong tiến trình gia nhập WTO. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế một cách mạnh mẽ sẽ thúc đẩy nhanh hơn sự phát triển nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. 3. Những nguyên tắc khi hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Việc tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Việt Nam là một quá trình tất yếu. Để cho quá trình này đạt được hiệu quả trước hết cần thống nhất một số nguyên tắc nhất quán sau: Thứ nhất, chủ động hội nhập khu vực trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Thứ hai, hội nhập khu vực theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, vừa hợp tắc, vừa đấu tranh Thứ ba,hội nhập khu vực trên cơ sở sự chuẩn bị cả về tiềm năng, vị trí,về kế hoạch bước đi, không ngừng phát huy nội lực, nâng cao khả năng cạnh tranh của các dn, các ngành kinh tế. Trên cơ sở các nguyên tắc trên, Đảng ta đã có chủ trương về vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế sau: Chủ trương của đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế Đối với Việt Nam hiện nay vấn đề đặt ra là làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo được lợi ích dân tộc, nâng cao hiệu quả kinh tế, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội trong quá trình hội nhập. Báo cáo Chính trị Đại hội IX của Đảng, nhất là nghị quyết 07- NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế đã nhấn mạnh quan điểm: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”. Đây là một chủ trương lớn trong chính sách kinh tế đối ngoại, hội nhập của Đảng và Nhà nước ta. Theo quan điểm nay hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia phân công hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước và nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của nền kinh tế quốc tế nói chung, vừa là nhu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế đất nước. Hội nhập giúp cho việc mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế giới, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó có điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển kinh tế đất nước. III. Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gia vị Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Qua nghiên cứu về tình hình xuất khẩu mặt hàng gia vị Việt Nam đã cho ta thấy được tiềm năng sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này ở nước ta là rất lớn nhưng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc xuất khẩu mặt hàng này cũng gặp không ít khó khăn cần giải quyết. Để khắc phục khó khăn đồng thời khai thác tối đa tiềm năng vốn có của việc xuất khẩu gia vị Việt Nam đòi hỏi Nhà nước và các doanh nghiệp cần phối hợp thực hiện các giải pháp cụ thể sau: 1. Giải pháp về đầu tư và tài chính - Chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư trong nước đối với sản xuất, xuất khẩu các gia vị chính: Hạt tiêu, ớt…đã được xác định là một số loại gia vị xuất khẩu chính của nước ta. Vì vậy, Nhà nước đã có biện pháp khuyến khích đầu tư cho lĩnh vực sản xuất và chế biến gia vị xuất khẩu, nhất là một số loại gia vị chính, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Những dự án sẽ được hưởng ưu đãi về vốn, về lãi suất như: đầu tư cho trồng trọt, chế biến gia vị, đầu tư cho chọn giống, ứng dụng công nghệ sinh học theo quy mô công nghiệp trong sản xuất giống, thuốc trừ sâu bệnh, đầu tư cho xây dựng các nhà máy, phân xưởng chế biến… Những ưu đãi được hưởng: + Miễn giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất + Ưu đãi về thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp + Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn + Miễn thuế thu nhập bổ sung + Miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị máy móc tạo thành tài sản cố định theo dự án Nếu nhà đầu tư sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu thì nhoài những ưu đãi trên còn được hưởng thêm các ưu đãi miễn hay giảm số thuế tu nhập doanh nghiệp. Hơn nữa, các nhà đầu tư còn được vay vốn đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư từ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu và Thưởng xuất khẩu. Tuy nhiên, những khuyến khích trên cho tới nay chỉ mang tính chất tạm thời, không đủ để xoay chuyển tình thế. Về lâu dài, những hỗ trợ của nhà nước nên tập trung vào các khâu trọng điểm, đó là giống cây, là nâng cấp và cải thiện cơ sở hạ tầng vùng chuyên canh cây gia vị lớn và hỗ trợ đổi mới hay xây dựng mới các dây chuyền chế biến gia vị hiện đại. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cho sản xuất, chế biến gia vị xuất khẩu; để làm được điều này, Việt Nam cần tạo được một môi trường đầu tư hấp dẫn thông qua: + Các biện pháp chính sách của chính phủ khuyến khích và ưu đãi đầu tư trực tiếp nước ngoài: các ưu đãi về thuế gồm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và thuế xuất nhập khẩu. Ví dụ, các doanh nghiệp FDI sẽ được miễn thuế nhập khẩu và thuế VAT nhập khẩu khi nhập khẩu những vật tư mà trong nước không sản xuất được phục vụ trong sản xuất, chế biến gia vị. + Tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư: Các tổ chức xúc tiến cần tăng cường các hoạt động tuyên truyền, quảng bá, tổ chức các hội nghị, hội thảo…giới thiệu về luật pháp, chính sách mới của Việt Nam liên quan đến FDI… + Nhà nước khuyến khích các hình thức liên doanh, liên kết để tạo ra một mô hình sản xuất, chế biến và xuất khẩu gia vị khép kín, khuyến khích thành lập các Quỹ bảo hiểm rủi ro để đảm bảo sự ổn định và phát triển của ngành gia vị. 2. Giải pháp chế biến hàng gia vị xuất khẩu Hiện nay, gia vị xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là dưới dạnh nguyên liệu thô, gia vị hỗn hợp hay gia vị nghiền và các dạng gia vị chế biến khác hầu như chưa xuất khẩu được. Để khắc phục được tình trạng này, có các giải pháp sau: Đối với Nhà nước: - Tăng cường hoàn thiện năng lực và hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về kiểm tra và chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm, kiểm dịch hiện nay. - Tăng cường đàm phán quốc tế song phương và đa biên để đảm bảo có sự công nhận lẫn nhau về bằng cấp, chứng chỉ vệ sinh thực phẩm… Đối với doanh nghiệp: - Bản thân các doanh nghiệp phải đi sâu vào công nghiệp hoá để tăng giá trị hàng hoá. Điều này đòi hỏi công nghệ hiện đại về bảo quản. Vậy các doanh nghiệp cần theo sát nhu cầu thị trường để hiện đại hoá công nghệ của mình. - Các doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý đến đào tạo nguồn nhân lực. Công nhân cần được đào tạo phù hợp với trình độ công nghệ của nhà máy và có khả năng sẵn sàng áp dụng các công nghệ mới. Ngoài ra, công nhân cần có những kiến thức cần thiết cơ bản về an toàn vệ sinh thực phẩm. - Các doanh nghiệp cần nâng cấp chất lượng nguyên liệu, giảm giá đầu vào, hỗ trợ phát triển vùng nguyên liệu gia vị để đảm bảo phát triển ngành công nghiệp chế biến về lâu dài. 3. Giải pháp về thị trường Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa sống còn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu sản phẩm không tiêu thụ được thifsex không thể sản xuất được. Chính vì vậy mà muồn phát triển hoạt động sản xuất gia vị thì phải có các biện pháp mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm này, đó là các biện pháp: Từ phía Nhà nước: - Nhà nước cần tiếp tục đàm phán các hoạt động thương mại song phương và đa phương nhắm mở rộng hơn nữa điều kiện tiếp cận thị trường nước ngoài cho các doanh nghiệp Việt Nam. - Nhà nước cần thiết lập mạng lưới thông tin thương mại quốc gia hiện đại và lưu thông thông suốt, phủ sóng rộng khắp cả trong nước và quốc tế,đảm bảo cho các doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân có nhu cầu tiếp cận được các thông tin về môi trường kinh doanh tổng thể của Việt Nam, các dự báo trung và dài hạn về nhu cầu sản phẩm gia vị… Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp chú trọng đa dạng hoá thị trường xuất khẩu sản phẩm gia vị để hạn chế những rủi ro và tổn thất có thể xảy ra do những biến động đột ngột của thị trường gây ra, ổn định và phát triển sản xuất. - Nhà nước phối hợp với cá tổ chức hỗ trợ thương mại và các doanh nghiệp xúc tiến việc xây dựng các trung tâm trưng bày, giới thiệu sản phẩm và trung tâm thương mại của Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là các thị trường Mỹ, EU, Nga, Trung Đông, Nhật Bản…trong đó có trưng bày, giới thiệu các sản phẩm gia vị Việt Nam. Từ phí doanh nghiệp: - Các doanh nghiệp cần tăng cường nghiên cứu thị trường, marketing để nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của khtt, tiến hành phân đoạn thị trường cho sản phẩm gia vị của Việt Nam. Các doanh nghiệp cũng cần chủ động tìm kiếm bạn hàng và chú trọng xây dựng quan hệ làm ăn lâu dài, gắn bó với các đối tắc ngay từ khi trồng trọt, chế biến thông qua các quan hệ liên doanh, đầu tư… - Các doanh nghiệp được sự hỗ trợ, điều phối và chỉ đạo của nhà nước cần chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược kinh doanh của mình (như chiến lược thâm nhập thị trường, chién lược gias cả…). Đặc biệt, các doanh nghiệp xuất khẩu phải có chiến lược phát triển thương hiệu doanh nghiệp và xúc tiến, quảng bá thương hiệu doanh nghiệp trên các thị trường trọng điểm nhập khẩu gia vị của thế giới. - Các doanh nghiệp cần chủ động và tham gia tích cực vào Hiệp hội hạt tiêu Việt Nam, Hiệp hội rau quả xuất khẩu để dưới sự hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức này phát huy tốt vai trò, chức năng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp, tiến hành xúc tiến thương mại. 4. Giải pháp ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trong chế biến gia vị xuất khẩu Khoa học và công nghệ là yếu tố quyết địng năng suất, chất lượng và hiệu quả hoạt động trồng trọt và chế biến gia vị. Thực tế, công nghệ sản xuất và chế biến gia vị ở nước ta còn lạc hậu, do đó Nhà nước và doanh nghiệp cũng như người sản xuất cần thực hiện các giải pháp sau: - Nghiên cứu, lựa chon nhập khẩu những công nghệ chế biến hiện đại phù hợp với thực tế về nguyên vật liệu và điều kiện tài nguyên của đát nước. - Tăng cường đầu tư cho công nghệ chế biến, bảo quản sản phẩm gia vị, công nghệ vật liệu bao bì…đảm bảo chất lượng sản phẩm, mẫu mã phù hợp với thị hiếu khách hàng. - áp dụng các hình thức khen thưởng thoả đáng để động viên, khuyến khích kịp thời các sáng tạo khoa học công nghệ của mọi tổ chức, cá nhân. 5. Giải pháp giáo dục và đào tạo Đào tạo nguồn nhân lực là mối quan tâm ở quy mô doanh nghiệp, quy mô quốc gia và quốc tế. Vì vậy, Nhà nước và các doanh nghiệp cũng như cả người dân cùng tham gia đầu tư xây dựng nguồn nhân lực sẽ mang lại hiệu quả cao. Đào tạo thông qua viẹc nâng cao trình độ văn hoá và canh tắc cho nông dân kết hợp với các chương trình quốc gia lớn về giáo dục và đào tạo, xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế vùng sâu, vùng xa. Ngoài ra, Nhà nước và các doanh nghiệp nâng cao trình độ của người quản lý thông qua việc cử cán bộ đi học nước ngoài, học hỏi kinh nghiệm của các nước, học đi đôi với thực hành, phát huy tính tích cực, sáng tạo của học viên… 6. Giải pháp đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật Nhà nước và doanh nghiệp cần tập trung vốn, vật tư để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành nông nghiệp, ưu tiên vào những vùng trọng điểm, đồng thời đưa nhanh các công trình dự án vào sản xuất, khai thác nhằm đảm bảo hiệu quả đầu tư. Bên cạnh đó, cần sử dụng có hiệu quả viên trợ nước ngoài và các hoạt động hợp tác quốc tế, thu hút caasc hoạt động có vốn đầu tư trực tiếp, đặc biệt trong chế biến các hàng gia vị có giá trị kinh tế cao. 7. Giải pháp phát triển công nghệ sau thu hoạch sản phẩm gia vị xuất khẩu của Việt Nam hiên nay chưa có tác động của công nghệ sau thu hoạch như công nghệ phơi sấy, phân loại, bảo quản sơ chế, chế bién, bao bì, đóng gói. Vì vậy, tỷ lệ hao hụt cao, chất lượng không đều, giá cả thấp. Do đó, để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm gia vị xuất khẩu, các ngành, cấc doanh nghiệp cần có chính sách đầu tư vốn, khoa học công nghệ và cán bộ khoa học kỹ thuật cho các hoạt động này. Trước hết là xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở kho tàng bảo quản sản phẩm để tạo ra những sản phẩm đạt tiêu chuẩn, bao bì phù hợp với thi hiếu khách hàng. V. Kiến nghị với Nhà nước: Trong bối cảnh toàn cầu hoá và các quốc gia cùng tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, hàng gia vị ngày càng được sử dụng và tiêu thụ rộng rãi ở khắp nơi trên thế giới. Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng gia vị Việt Nam, bên cạnh những giải pháp kể trên mà Nhà nước, các doanh nghiệp và nhân dân cùng phối hợp thực hiện trong thời gian tới, em xin đưa ra một số ý kiến kiến nghị với Nhà nước để góp phần thúc đẩy xuất khẩu gia vị Việt Nam, đó là: Thứ nhất, Nhà nước cần có biện pháp tín dụng xuất khẩu và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng gia vị trong điầu kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, Nhà nước nên tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bán hàng theo phương thức thanh toán chậm. Nếu tiềm lực tài chính của doanh nghiệp yếu thì Nhà nước hỗ trợ bằng cách “mua lại” khoản nợ mà nhà nhập khẩu chưa thanh toán hay bảo lãnh cho cấc khoản nợ này để các doanh nghiệp có thể chiết khấu chứng từ tại các Ngân hàng Thương mại. Biện pháp này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của ta bán được hàng, nhất là khi làm việc với những đối tác chưa đủ khả năng thanh toán tiền hàng ngay. Thứ hai, Nhà nước có biên pháp bảo hiểm rủi ro không thanh toán. Rủi ỏ không thanh toán là rủi ro chính cản trở các doanh nghiệp xuất khẩu khi các doanh nghiệp này tiếp cận với thị trường mới vì trong trường hợp này, quá trình hợp tác giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu chỉ mới bắt đầu do đó mà nhà xuất khẩu thường quan tâm đến khả năng thanh toán của đối tác. Để các doanh nghiệp có khả năng mở rộng thị trường, tìm kiếm bạn hàng mới thì Nhà nước cần khuyến khích các công ty Bảo hiểm Việt Nam cung ứng dịch vụ bảo hiểm rủi ro không thanh toán cho các nhà xuất khẩu trên cơ sở nguyên tắc kinh doanh baor hiểm của các công ty boả hiểm đó. Thứ ba, đẩy mạnh sự ra đời của các sàn giao dịch hàng hoá. Sàn giao dịch hàng hoá giúp nông dân và các doanh nghiệp có được sự đảm bảo chắc chắn hơn về giá cả cà cơ hội tiêu thụ hàng hoá trong tương lai gần. Nhà nước nên hỗ trợ cho hàng gia vị, đặc biệt là mặt hàng hạt tiêu nên thiết lập sàn giao dịch riêng cho mình, góp phần giảm thiểu rủi ro của thị trường hàng hoá giao ngay. Thứ tư, nâng cao khả năng nhận biết với các rào cản phi thuế quan. Hình thức biểu hiện của các rào cản thương mại trên thế giới ngày càng trở nên tinh vi. Các tiêu chuẩn không liên quan đến thương mại như tiêu chuẩn lao động, tiêu chuẩn vệ sinh môi trường…được sử dụng ngày càng nhiều. Vấn đề an toàn thực phẩm, nhãn mác hàng hoá cũng được sử dụng một cách thái quá để tạo thêm rào cản cho thương mại quốc tế. Mặt hàng gia vị xuất khẩu cũng gặp phải các rào cản đó. Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước cần phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành các Hiệp hội để nâng cao khả năng nhận biết và đối phó với các rào cản phi thuế quan kiểu mới. Hiệp hội hạt tiêu Việt Nam cần có lực lượng tư vấn riêng, có đội ngũ cán bộ hiểu rõ về luật quốc tế và thương mại quốc tế để tăng khả năng nhận biết với các cản trở thương mại. Thứ năm, Nhà nước có chính sách thị trường đối với hàng gia vị xuất khẩu. Hàng gia vị xuất khẩu Việt Nam cần được mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng bạn hàng mới đồng thời giữ vững thị trường truyền thống. Nhà nước cần hỗ trợ thiết thực hơn đối với các doanh nghiệp trong vấn đề này như: cung cấp thông tin, vốn…cho các doanh nghiệp về thị trường để giảm rủi ro về giá cả, về thanh toán khi tiếp cận với thị trường, bạn hàng mới. Thứ sáu, xây dựng kho bảo quản, chế biến hàng gia vị. Nhà nước cần tạo điều kiện hơn trong việc vay vốn tín dụng, ưu đãi về giá thuê đất làm nhà xưởng chế biến gia vị nói chung và hạt tiêu sạch nói riêng nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu. Các kho bảo quản, chế biến hàng gia vị phải đáp ứng được việc cất trữ, bảo quản lượng gia vị phù hợp với diện tích đất trồng. Trên đây là một số ý kiến đề xuất nhằm thúc đẩy nhanh hoạt động xuất khẩu gia vị Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Các ý kiến được đưa ra dựa trên tình hình thực tế của việc xuất khẩu gia vị nước ta và khả năng cạnh tranh của hàng gia vị xuất khẩu trong thời gian qua. Hy vọng, trong thời gian tới, với sự quan tâm của Nhà nước và sự hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp thì hoạt động xuất khẩu hàng gia vị Việt Nam sẽ đạt kết quả cao, có đủ sức cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các nước trên thế giới, tạo ra thế mạnh của hàng gia vị xuất khẩu Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Kết luận Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế bao trùm chi phối toàn bộ sự phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, trong đó có Việt Nam. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu mặt hàng gia vị ở Việt Nam nói riêng đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước, phát huy nội lực để đẩy nhanh quả trình hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Qua nghiên cứu về các giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gia vị ở trên, chúng ta có thể thấy được những lợi thế của mặt hàng gia vị xuất khẩu nước ta cùng các hạn chế, bất cập gặp phải khi xuất khẩu mặt hàng gia vị trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó, có được những định hướng và giải pháp đối với nhà nước và các doanh nghiệp sản xuất hàng gia vị xuất khẩu để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng gia vị một cách có hiệu quả hơn trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam đi lên trong thời gian tới. Phụ lục Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình kinh tế quốc tế Giáo trình kinh doanh quốc tế Giáo trình quản trị dự án FDI Tạp chí kinh tế Châu á- Thái Bình Dương sản xuất, xuất khẩu hàng gia vị Việt Nam: chính sách, giải pháp và chiến lược phát triển- TS. Nguyễn Đình Long, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp Hàng gia vị- tiềm năng, triển vọng , những hạn chế và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu- Hà Quang Doãn, chuyên viên chính Vụ Âu- Mỹ, Bộ Thương mại Chính sách, giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm hồ tiêu của Việt Nam trong những năm tới- TS. Vũ Ngọc Tân, Vụ Kế hoạch và QH, Bộ Nông nghiệp và PTNT Chiến lược phát triển Việt Nam và khả năng xuất khẩu –TS. Phạm Công Dũng, Cục chế biến Bộ NN&PTNT Báo cáo nghiên cứu thị trường gia vị- Viện nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương mại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33627.doc
Tài liệu liên quan