Chuyên đề Giải pháp hoàn thiên hoạt động thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ ở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Kể từ khi Pháp lệnh về Ngân hàng ra đời năm 1990, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTM VN) đã đổi mới một cách căn bản về mô hình và tổ chức hoạt động. Các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng thương mại hiện đại đã được mở rộng và phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, trong đó có nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Thanh toán quốc tế là một mắt xích không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng ngày càng chứng tỏ vị trí và vai trò quan trọng của mình. Hoạt động thanh toán quốc tế không chỉ đơn giản là sự lựa chọn một phương thức thanh toán cho phù hợp hay sử dụng một phương tiện thanh toán thông dụng nào đó. Thanh toán quốc tế là một hoạt động mạnh nhất của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNT VN). Hoạt động thanh toán xuất khẩu là một nghiệp vụ quan trọng của thanh toán quốc tế. Yêu cầu đặt ra là: hoạt động thanh toán xuất khẩu phải được thực hiện nhanh chóng, an toàn chính xác, đạt hiệu quả đối với cả khách hàng và NHNT. Hoạt động thanh toán xuất khẩu trực tiếp tác động vào việc rút ngắn thời gian chu chuyển vốn, giảm thiểu rủi ro liên quan tới sự biến động tiến tệ, tới khả năng thanh toán của khách hàng, tạo điều kiện cho việc mở rộng và phát triển hoạt động ngoại thương của mỗi nước. Phương thức tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu, phổ biến nhất. Đó là phương thức giải quyết tốt nhất việc đảm bảo quyền lợi của hai bên, nhưng đồng thời là phương thức xảy ra nhiều tranh chấp nhất do mức độ phức tạp của nó. NHNT VN là NHTM đầu tiên thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và hoạt động thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng. Nhưng NHNT VN vẫn không thể tránh nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng trong hoạt động này. Một mặt do bản thân ngân hàng chưa đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng phức tạp và phát triển của giao dịch xuất nhập khẩu, mặt khác do những nguyên nhân từ phía khách hàng và sự bất cập trong quản lý vĩ mô. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Giải pháp hoàn thiên hoạt động thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ ở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam” là rất cấp thiết để đánh giá những kết quả đạt được và tìm ra những nguyên nhân cũng như các giải pháp, kiến nghị khắc phục những hạn chế. Trên cơ sở phân tích thực trạng thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ qua các năm 2004 – 2006, với những khó khăn và tồn tại riêng của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán xuất khẩu tại NHNT VN. Chuyên đề áp dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế, dựa trên lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, của phép duy vật biện chứng, phân tích và tổng hợp để làm rõ đối tượng nghiên cứu. Đồng thời chuyên đề sử dụng các tài liệu điều tra, khảo sát, số liệu thống kê qua các năm 2003 - 2005 của các báo cáo, đề tài, dự án, các công trình nghiên cứu đã được công bố về thanh toán quốc tế và phương pháp phân tích thống kê theo chỉ tiêu, phương pháp so sánh, tổng hợp, . để phân tích thực trạng từ đó đưa ra kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao hệ thống thanh toán xuất khẩu bằng phương pháp tín dụng chứng từ tại NHNT VN.

docx61 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1501 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp hoàn thiên hoạt động thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ ở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nữa, việc thực hiện các tác nghiệp trong Trade Finance còn rất nhiều phần phải thực hiện bằng tay, làm mất thời gian, trong khi chương trình hoàn toàn có thể hỗ trợ. Việc thay đổi địa chỉ, mã SWIFT của các ngân hàng nước ngoài không được cập nhật trên hệ thống khiến cho việc tra soát của thanh toán viên gặp nhiều khó khăn. Về số liệu báo cáo, Adhoc Report ra đời đầu năm 2006 là một bước ngoặt lớn của việc làm báo cáo, tuy nhiên chương trình này sẽ tốt hơn nhiều nếu có thể tự động cập nhật số liệu. Nhóm nguyên nhân khách quan: Các văn bản, chính sách vĩ mô của Nhà nước còn thiếu ổn định, thường xuyên bị điều chỉnh. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến các bên trong thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng. Như chính sách thương mại, Chính phủ và các bộ ngành có liên quan thường xuyên có những thay đổi về danh mục các mặt hàng được phép xuất nhập khẩu, biểu thuế áp dụng đối với từng mặt hàng, điều kiện để doanh nghiệp đươc phép hoạt động xuất khẩu, song thời gian kể từ khi ra quyết định đến khi quyết định có hiệu lực thi hành thường là ngắn, không đủ để các doanh nghiệp dự tính sắp xếp kế hoạch cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trong hoạt động xuất khẩu các thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa có sự liên kết phối hợp giữa các ban ngành, các quy định còn chồng chéo gây phiền toái cho khách hàng, tốn kém thời gian và chi phí. Chính phủ cũng chưa xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của ngân hàng khi tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Ngoài ra, quy định về mở thư tín dụng trả chậm chưa rõ ràng, nhiều doanh nghiệp coi đây như là một hình thức tài trợ vốn vay dài hạn, tranh thủ nguồn vay của nước ngoài mở thư tín dụng trả chậm tràn lan, tiền hàng thu được lại quay vòng khiến cho đến khi thư tín dụng không thanh toán được dẫn đến ngân hàng phải đứng ra trả thay. Tỷ giá hối đoái không ổn định, thị trường ngoại hối chưa phát triển dẫn đến những cơn sốt về ngoại tệ, khan hiếm nguồn ngoại tệ phục vụ thanh toán thư tín dụng nhập khẩu, nhất là thư tín dụng trả chậm khiến doanh nghiệp thiệt thòi, giảm hiệu quả kinh doanh và gây khó khăn cho ngân hàng trong việc giục khách hàng thanh toán. Thêm vào đó, môi trường pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc tế còn thiếu và chưa đồng bộ. Chính phủ chưa có văn bản pháp lý về hoạt động thanh toán quốc tế, nhất là những quy định cụ thể về việc hướng dẫn áp dụng các thông lệ quốc tế như UCP, INCOTERMS, hoạt động thanh toán quốc tế chưa thực sự được bảo vệ bởi một hành lang pháp lý khi có tranh chấp xảy ra. Một số văn bản của Ngân hàng Nhà nước quy định chưa cụ thể, gây ra sự hiểu biết khác nhau giữa thực tế diễn ra tại các ngân hàng và thanh tra ngân hàng Nhà nước dẫn đến áp dụng không thống nhất, gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Tình trạng cán cân thanh toán Việt Nam luôn thâm hụt cũng làm ảnh hưởng tới hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng. Đây là nguyên nhân trực tiếp gây ra tình trạng mất cân đối giữa thanh toán xuất khẩu tại các ngân hàng. Cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt cũng dẫn đến mất cân đối giữa cung và cầu ngoại tệ, ảnh hưởng tới khả năng chi trả ngoại hối của các ngân hàng thương mại, do vậy ảnh hưởng tới việc đáp ứng nhu cầu về nguồn ngoại tệ phục vụ thanh toán cho đối tác nước ngoài. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại trong nước và các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam cũng là một trong những yếu tố chính làm cho thị phần thanh toán quốc tế nói riêng và theo phương thức tín dụng chứng từ nói chung của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam bị chia xẻ. Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có tới gần 100 ngân hàng hoạt động kinh doanh, mặt khác từ năm 1990 trở lại đây, Nhà nước đã cho phép các ngân hàng đủ điều kiện có thể mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực hoạt động kinh doanh đối ngoại, NHNT không còn giữ vị trí độc quyền. Được phép hoạt động thanh toán quốc tế, nhận thấy những lợi ích to lớn do hoạt động này mang lại, các ngân hàng mới bước vào lĩnh vực này đã tìm mọi cách để kéo khách hàng về phía mình như áp dụng chế độ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu rất thoáng với thủ tục đơn giản, tốc độ giải ngân nhanh, ưu tiên trong mua bán ngoại tệ, áp dụng tỉ lệ phí thấp. Họ đã thu hút được một lượng lớn khách hàng truyền thống của NHNT Việt Nam. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp hiện nay có cổ phần trong các ngân hàng thương mại cổ phần nên họ chủ yếu hoạt động tại ngân hàng của mình, chỉ giao dịch với NHNT Việt Nam để duy trì quan hệ. Ngoài ra, các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam cũng đang nỗ lực thiết lập quan hệ với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam, trong đó có cả các doanh nghiệp lớn là khách hàng truyền thống của NHNT (Sở Giao dịch) như Tổng Công ty than Việt Nam, Tổng công ty lương thực miền bắc… Những ngân hàng này có nhiều ưu thế như có tiềm lực về vốn ngoại tệ, có trình độ quản lý chuyên môn cao, có công nghệ hiện đại. Họ chủ động tìm hiểu những nhu cầu lợi ích mà khách hàng trông đợi, giao thư tín dụng tận tay khách hàng, thu hút khách hàng mới bằng việc hạ thấp phí dịch vụ, lãi suất cho vay chiết khấu và mức ký quỹ mở thư tín dụng, sau một thời gian mới nâng lên một cách hợp lý. Họ phối hợp tín dụng thanh toán trong một chu trình khép kín, đơn giản hoá các thủ tục, cố gắng để khách hàng chỉ phải giao dịch tại một phòng, thậm chí một nhân viên. Những yếu tố này đã thực sự thu hút được khách hàng, làm thị phần của NHNT VN trong những năm qua bị giảm đáng kể. Bất cập trong kiến thức ngoại thương, hành vi đạo đức của khách hàng cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế sự phát triển phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Bước ra từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, kinh nghiệm và sự am hiểu về thông lệ và tập quán quốc tế trong kinh doanh còn hạn chế dẫn đến việc các doanh nghiệp Việt Nam không tránh khỏi những sơ hở khi ký kết hợp đồng ngoại thương, không đề phòng rủi ro để đến khi xảy ra vụ việc phải gánh chiụ thiệt thòi. Trong khi đó, thực lực tài chính của các đơn vị còn quá yếu kém nên hoạt động kinh doanh chủ yếu lại dựa vào vốn vay của ngân hàng. Do vậy khi doanh nghiệp Việt Nam bị nước ngoài lừa đảo, thua lỗ sẽ liên quan trực tiếp đến chất lượng hoạt động tín dụng và hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng. Ngoài ra, cũng do các hợp đồng ngoại thương quy đinh thiếu chặt chẽ, khách hàng phía VN thiếu thông tin thương mại, chưa nắm chắc đối tác kinh doanh của mình trên thương trường quốc tế đồng thời, người nhập khẩu chưa coi trọng vai trò tham mưu của ngân hàng trong việc ký kết hợp đồng. Tất cả những điều này đã khiến cho ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc giao dịch với đối tác nước ngoài của người nhập khẩu hoặc ngân hàng thông báo theo hợp đồng quy định do có quan hệ đại lý, và việc sửa đổi, khắc phục hậu quả sẽ gây nhiều phiền phức, tốn kém cả về thời gian và tiền bạc. Thiếu kiến thức về ngoại thương cũng khiến các doanh nghiệp Việt Nam thường bị đối tác nước ngoài đẩy vào những tình trạng bất lợi như phải mở Thư tín dụng xác nhận, trong khi không yêu cầu đối tác phải có bảo lãnh thực hiện hợp đồng, thoả thuận phía nước ngoài bao tiêu sản phẩm nhưng lại không yêu cầu họ mở Thư tín dụng đối ứng, để nước ngoài lừa bán sản phẩm chất lượng không cao... Đối với khách hàng mới tham gia nghiệp vụ xuất khẩu, do những yêu cầu nghiêm ngặt của chứng từ trong thanh toán mà đặc biệt là chứng từ thanh toán theo phương thức Thư tín dụng rất khó khăn để lập được một bộ chứng từ phù hợp với những điều kiện và điều khoản của Thư tín dụng khi mà bản thân lại chưa hiểu gì về nó.Trong thực tiễn thực hiện nghiệp vụ thanh toán xuất khẩu bằng Thư tín dụng, thanh toán viên ngân hàng đã gặp không ít trường hợp không thực hiện đúng thời hạn kiểm tra chứng từ hoặc buộc phải từ chối không thanh toán cho khách, lý do là người xuất khẩu tuy đã được nhắc nhở song vẫn không nộp chứng từ kịp thời hay lập bộ chứng từ không khớp với Thư tín dụng như mô tả sai hoặc không đầy đủ về hàng hoá. Bên cạnh đó cũng phải đề cập tới sự cố tình và thiếu trung thực, vi phạm các cam kết với ngân hàng của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trong nước. Các tranh chấp phát sinh trong quá trình thanh toán hàng nhập khẩu bằng thư tín dụng không chỉ bắt nguồn từ sự không trung thực của đối tác nước ngoài mà nhiều trường hợp do các doanh nghiệp trong nước gây ra. Ngoài việc thiếu hiểu biết, thiếu thông tin trong kinh doanh xuất nhập khẩu, nhiều doanh nghiệp trong nước vì chỉ quan tâm đến lợi nhuận trước mắt mà vi phạm những cam kết của mình với ngân hàng. Khách hàng được ngân hàng phát hành bảo lãnh nhận hàng trước khi bộ chứng từ về và cam kết chấp nhận thanh toán. Nhưng trên thực tế vẫn có trường hợp khách hàng chậm trễ không chịu thanh toán do những nguyên nhân khách quan như có sự biến động giá cả trên thị trường tiêu thụ, hàng nhập về không bán được hay có bán được cũng bị lỗ, doanh nghiệp không có khả năng thanh toán cho ngân hàng. Tuy nhiên cũng có trường hợp doanh nghiệp cố tình vi phạm, khi đã bán hết hàng vẫn không chịu thanh toán cho ngân hàng mà đem tiền đó tiếp tục đầu tư kinh doanh, thua lỗ và mất khả năng thanh toán. Phát triển hoạt động này được coi là một mặt không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của NHNT VN, nó bổ sung và hỗ trợ cho các mặt hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng như mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, giúp đỡ các doanh nghiệp nước ta trong vấn đề vốn, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu để cuối cùng thu được phí dịch vụ từ hoạt động thanh toán này ngày càng nhiều hơn. Chính vì vậy việc nghiên cứu để đề ra những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn hiện hoạt động thanh toán quốc tế (thanh toán xuất khẩu) theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHNT VN là điều cần thiết. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN XUẤT KHẨU BẰNG PHƯƠNG PHÁP TÍN DỤNG CHỨNG TỪ Ở NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM. Chiến lược phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010: Mục tiêu tổng quát: Với những yêu cầu cấp bách của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa, NHNT VN đã xác định một mục tiêu cụ thể hơn, đó là trở thành: “Tập đoàn tài chính đa năng có quy mô đứng trong số 70 tập đoàn tài chính lớn nhất ở châu Á vào giai đoạn 2010-2020, có phạm vi hoạt động không những trong nước mà ở cả thị trường tài chính thế giới”. Mục tiêu trên là hoàn toàn có cơ sở dựa trên thành quả đạt được sau hơn 5 năm thực hiên Đề án tái cơ cấu. Các số liệu về tốc độ tăng trưởng và vị trí hiện tại của NHNT đã chứng minh điều đó: năm 2004 NHNT xếp thứ 748 trong số 1000 ngân hàng lớn nhất thế giới, tăng 10 bậc so với năm 2003. Trong khu vực châu (trừ Nhật Bản), NHNT hiện xếp thứ 127 về vốn chủ sở hữu và thứ 119 tính theo tổng tái sản. Tốc độ tăng trưởng dự kiến của NHNT trong thời gian tới là 15%/năm. Tuy nhiên khoảng cách giữa NHNT và 50 ngân hàng lớn nhất châu lục còn khá xa, ngân hàng lớn nhât châu Á có quy mô vốn lớn gấp 70 lần so với NHNT, ngân hàng xếp thứ 50 có quy mô vốn lớn hơn 4 lần. Điều này đòi hỏi NHNT phải có những giải pháp mạnh và tích cực hơn nữa trong thời gian tới để oàn thành xuất sắc mục tiêu đề ra. Nhiệm vụ chiến lược: Cụ thể hóa mục tiêu của toàn hệ thống, dựa trên kết quả đạt được trong những năm qua, kết hợp với việc phân tích, đánh giá cũng như tìm hiểu dự báo tình hình kinh tế thị trường trong thời gian tới, NHNT tập trung triển khai những nhiệm vụ sau: Một là, chú trọng công tác huy động vốn, thu hút tiền gửi từ khách hàng, đặc biệt quan tâm nhiều tới tiền gửi của các khách hàng truyền thống, khách hàng lớn làm ăn có hiệu quả. Quán triệt công tác marketing khách hàng tới từng phòng nghiệp vụ, từng cán bộ, mở rộng có lựa chọn việc cho vay khách hàng với lãi suất ưu đãi và thường xuyên thanh toán qua NHNT. Hai là, tích cực thúc đẩy và nâng cao chất lượng công tác huy động tiền gửi tiết kiệm bằng cả VND và ngoại tệ, tập trung thu hút tiền gửi có kỳ hạn và kỳ hạn dài trên 6 tháng nhằm ổn định nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh. Rà soát lại hoạt động của các phòng giao dịch, mở rộng mạng lưới các phòng giao dịch tại các khu vực dân cư đông đúc và giao dịch thuận tiện. Xem xét và bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ của từng phòng nghiệp vụ nhằm phục vụ có hiệu quả hơn tất cả các đối tượng khách hàng. Chú trọng các giải pháp huy động vốn trung và dài hạn nhằm cải thiện tính thanh khoản trong hoạt động kinh doanh. Ba là, tiếp tục mở rộng nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng đi đôi với an toàn, hiệu quả. Giữ khách hàng truyền thống thuộc thành phần kinh tế quốc doanh và phát triển khách hàng thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tăng tỷ trọng nợ vay của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các khách hàng khác bằng việc cho vay có tài sản đảm bảo. Tập trung và quan tâm thích đáng đến việc giải quyết nợ quá hạn, nợ tồn đọng theo đề án giải quyết nợ của của NHNT. Bốn là, sử dụng linh hoạt đòn bẩy kinh tế như: tỷ giá, lãi suất, phí dịch vụ, phí hoa hồng để thu hút khách hàng, kết hợp với việc cải thiện chất lượng dịch vụ và quảng bá rộng rãi sản phẩm của NHNT. Năm là, tăng cường công tác quản trị điều hành của NHNT, giữ vững và nâng cao kỷ cương trong điều hành hoạt động, phát huy tích cực tính năng động sáng tạo trong công việc, tính độc lập tự chủ tại các phòng nghiệp vụ NHNT. Sáu là, ổn định tổ chức và cơ cấu nhân viên, lao động của các phòng ban NHNT; xây dựng cơ cấu hợp lý với tình hình hoạt động kinh doanh của NHNT trong thời gian tới. Bảy là, mua sắm các trang thiết bị cần thiết và đầu tư đổi mới công nghệ cho các phòng nghiệp vụ để thuận lợi hơn trong tác nghiệp của mỗi phòng. Tám là, đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, đảm bảo tính hệ thống, thống nhất trong kiểm tra; nâng cao số lượng, chất lượng cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao, được đào tạo bài bản. Chín là, triển khai thực hiện nghiêm túc các văn bản liên quan đến quy trình nghiệp vụ, đặc biệt quan tâm đến công tác quản trị rủi ro kết hợp hài hòa với quan hệ khách hàng, chấn chỉnh và thực hiện tốt công tác ngân quỹ. Tăng cường công tác đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và khai thác được thế mạnh về công nghệ của NHNT. Định hướng phát triển hoạt động thanh toán xuất khẩu ở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: Thanh toán quốc tế ngày càng trở nên quan trọng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, gắn bó mật thiết với hoạt động kinh doanh khác của NHNT. Do vậy, NHNT VN đã xác định mục tiêu phải giữ vững và tăng cường uy tín trong hoạt động đối ngoại, nâng cao hiệu quả thanh toán quốc tế, đặc biệt là thanh toán xuất khẩu. Mở rộng quan hệ đại lý để tranh thủ vốn, kỹ thuật và đặc biệt là kinh nghiệm quản lý tiên tiến. NHNT cố gắng giữ vững vai trò là ngân hàng hàng đầu về thanh toán quốc tế trong cả nước, cân bằng giữa thanh toán xuất khẩu và thanh toán nhập khẩu trong hệ thống. Từ đó xác lập các điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế về thanh toán quốc tế, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng để hội nhập với cộng đồng tài chính quốc tế. Cụ thể hóa những mục tiêu trên, NHNT VN đã đề ra kế hoạch triển khai bao gồm các nội dung sau: Một là, cơ cấu lại các mảng hoạt động thanh toán quốc tế, nhất là thanh toán xuất khẩu theo mô hình tiên tiến, hiện đại gồm: các khối tài trợ thương mại quốc tế, khối trung tâm chuyển tiền, khối định chế tài chính, phù hợp với chiến lược và Đề án tái cơ cấu của NHNT VN. Hai là, nâng cao trình độ vè thanh toán quốc tế, nhất là thanh toán xuất khẩu cho nhân viên ngân hàng, bắt kịp với chuẩn mực quốc tế. Định hướng cho việc tập trung phát triển một số nghiệp vụ (thanh toán xuất khẩu, tài trợ thương mại, bao thanh toán...) của ngân hàng quốc tế mà NHNT VN có thế mạnh. Ba là, từng bước mở rộng hoạt động ngân hàng tại một số vùng biên giới có tiềm năng về hàng mậu dịch cũng như tại một số trung tâm tài chính quốc tế lớn. NHNT đặt ra mục tiêu thành lập chi nhánh tại châu Âu, các chi nhánh này sẽ góp phần mở rộng kinh doanh quốc tế, hỗ trợ kinh doanh xuất khẩu, đầu tư ra nước ngoài, cũng như cung cấp các thông tin quan trọng ở các thị trường này cho các doanh nghiệp trong nước. Hiện tại NHNT đã có chi nhánh tại Hồng Kông và trung tâm chuyển tiền tại Mỹ. Bốn là, NHNT không ngừng mở rộng và củng cố quan hệ đối ngoại với các ngân hàng, tổ chức tín dụng quốc tế. NHNT VN đã mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng khắp lục địa và vùng lãnh thổ, đặc biệt quan tâm đến khu vực châu Phi và Nam Mỹ, nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng hoạt động đầu tư tài chính quốc tế, nhu cầu xúc tiến thương mại và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa dịch vụ của nước ta sang các nước thuộc khu vực này. Để thực hiên tốt những mục tiêu trên, NHNT VN cần hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng; đưa ra giải pháp cụ thể, khả thi, đồng thời có kiến nghị lên Chính phủ, Ngân hàng nhà nước cũng như với khách hàng. Giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh toán xuất khẩu theo phương pháp tín dụng chứng từ ở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: Hoàn thiện văn bản quy định cho việc thực hiện hoạt động thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ: Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, NHNT cần bổ sung quy trình thanh toán quốc tế (thanh toán xuất khẩu) bằng thư tín dụng theo phương thức chiết khấu miễm truy đòi. Ngoài ra cần phải xem xét trường hợp chiết khấu truy đòi đối với thư tín dụng trả chậm cho khách hàng mà không cần chờ sự chấp nhận của ngân hàng phát hành, miễn là bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều khoản và quy định trong thư tín dụng. Các quy định về điều kiện để xác nhận thư tín dụng cũng rất quan trọng, đó là cơ sở để thanh toán viên quyết định có nên cộng thêm sự cam kết chắc chắn của NHNT vào cam kết chắc chắn của ngân hàng phát hành theo yêu cầu và để thực hiện thanh toán trước cho doanh nghiệp xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với các quy định của thư tín dụng. Các điều kiện này bao gồm: ngân hàng phát hành là ngân hàng có quan hệ đại lý với Ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng phát hành có uy tín cao, giao dịch thường xuyên với Ngân hàng Ngoại thương và luôn thực hiện tốt các khoản thanh toán, các điều kiện, điều khoản của thư tín dụng là rõ ràng, không có bất cứ điểm nào gây bất lợi cho việc lập và xuất trình chứng từ (tức là khả năng thực hiện thư tín dụng cao). Đây là cơ sở để thanh toán viên có thể thực hiện nghiệp vụ một cách thống nhất và chính xác. Việc thực hiện nhiều loại thư tín dụng như thư tín dụng chuyển nhượng, thư tín dụng điều khoản đỏ, thư tín dụng tuần hoàn vẫn chưa được hướng dẫn, quy định cụ thể bằng văn bản của Ngân hàng Ngoại thương. Hiện nay nhu cầu của các doanh nghiệp về những loại thư tín dụng này đã phát sinh rất nhiều nhưng trong quy định của Ngân hàng Ngoại thương vẫn chưa có, gây khó khăn cho thanh toán viên khi thực hiện và họ chủ yếu phải dựa vào thông lệ quốc tế cũng như tự đưa ra những phương thức thực hiện, những biện pháp phòng ngừa rủi ro một cách chủ quan. Thực hiện tốt các biện pháp nghiệp vụ: Đây là phương thức có tính an toàn cao đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, tuy nhiên việc thực hiện theo phương thức này tương đối phức tạp. NHNT Việt Nam với vai trò là ngân hàng phục vụ người xuất khẩu cần thiết phải phát triển nghiệp vụ này một cách an toàn và thuận lợi cho khách hàng. Đối với các loại thư tín dụng đang thực hiện thanh toán qua NHNT, trong khâu kiểm tra thư tín dụng nhận được, để tạo điều kiện cho việc theo dõi quản lý hoạt động thanh toán xuất cũng như tư vấn cho khách hàng khi cần thiết, ngoài những nội dung NHNT bắt buộc phải kiểm tra theo quy định của thông lệ quốc tế, các thanh toán viên nên kiểm tra thêm một số vấn đề thuộc về nội dung của thư tín dụng như: số thư tín dụng, địa điểm mở thư tín dụng là nơi ngân hàng mở cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu, ngày mở thư tín dụng là ngày ngân hàng mở chính thức cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu đồng thời là ngày tính thời hạn hiệu lực của thư tín dụng, từ đó có thể lưu ý khách hàng về sự phù hợp giữa ngày mở thư tín dụng trên thư tín dụng và trên hợp đồng ngoại thương, giữa ngày mở thư tín dụng và ngày giao hàng. NHNT cần đề cao vai trò tư vấn cho khách hàng về danh sách các ngân hàng nước ngoài có quan hệ đại lý với NHNT. Nếu ngân hàng mở không có quan hệ đại lý với NHNT thì lưu ý khách hàng về uy tín và khả năng thanh toán của ngân hàng đó. Trong trường hợp ngân hàng mở thư tín dụng chỉ định một ngân hàng khác trả tiền thư tín dụng, néu cần thiết NHNT tư vấn cho khách hàng có nên đổi ngân hàng trả tiền hay không, hay yêu cầu xác nhận của ngân hàng có uy tín hơn nhất là khi thư tín dụng được phát hành từ ngân hàng ở một quốc gia có nhiểu rủi ro. Trong một vài năm trở lại đây, một số ngân hàng nước ngoài thường mở thư tín dụng trong đó họ dựa vào những điều khoản, mà những điều khoản này tạo cho họ khả năng trốn tránh một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm của những lời cam kết mà đáng lý ra họ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Nếu những điều khoản của thư tín dụng để cập việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí cảu một số yếu tố can thiệp khác hay của bản thân người ra lệnh đều dẫn đến những cam kết thanh toán của ngân hàng phát hành thư tín dụng trở nên vô hiệu như phải có sự đồng ý của người ra lệnh, hoặc cảu chính quyền nước nhập khẩu, phải có sự đồng ý trước của Ngân hàng Trung ương về việc cấp ngoại tệ hay việc trả tiền được thực hiện sau khi nhận được tiền từ bên thứ ba nào đó. Thời gian hiệu lực và nơi hêt hạn hiệu lực của thư tín dụng là một trong các yếu tố quan trọng để lưu ý khách hàng xem có thể giao hàng và lập bộ chứng từ kịp thời hạn hay không hoặc để có cơ sở yêu cầu sửa đổi thư tín dụng. Thời gian hiệu lực của thư tín dụng phải đủ để thực hiện các công việc cần thiết liên quan đến quốc tế thanh toán như: thông báo thư tín dụng, giao hàng và lập chứng từ, xuất trình tại ngân hàng nơi hết hạn thư tín dụng. Thanh toán viên cũng cần kiểm tra các quy định về chứng từ cần xuất trình, kiểm tra xem có điều khoản nào gây khó khăn cho người xuất khẩu trong quá trình lập chứng từ hay không. Khi kiểm tra bộ chứng từ hàng xuất, thanh toán viên cần nghiên cứu kỹ các yêu cầu trong thư tín dụng để chỉ dẫn cho khách hàng cách sửa bộ chứng từ cho phù hợp, tránh những trường hợp bị ngân hàng trả tiền từ chối thanh toán với những lý do hoàn toàn có thể khắc phục được trước khi gửi đi ngân hàng nước ngoài. Kết hợp hoạt động tín dụng xuất khẩu với hoạt động thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ: Hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển do nhu cầu hội nhập với khu vực và trên thế giới dẫn đến hình thức thanh toán quốc tế được mở rộng và đa dạng hơn. Môĩ một hình thức thanh toán đòi hỏi có một hình thức tài trợ về tài chính tương ứng, phục vụ và đảm bảo cho nó. Hoạt động tín dụng xuất nhập thuận lợi bao nhiêu thì quan hệ thương mại được mở rộng và phát triển bấy nhiêu. Chất lượng hoạt động tín dụng mà tốt đẹp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lưu thông hàng hóa, tăng thêm sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời nâng cao uy tín và vị thế của ngân hàng trên trường trong nước và trường quốc tế. Ở các nước phát triển, tín dụng ngân hàng được thực hiện chủ yếu bởi các ngân hàng thương mại tư nhân lớn, dưới các hình thức như: cầm cố hàng hoá,cần cố chứng từ hàng hoá, hối phiếu và cho vay thấu chi..... và hầu hết tín dụng ngân hàng cấp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là tín dụng ngắn hạn. Tín dụng ngân hàng cấp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là tín dụng ngắn hạn. Tín dụng ngân hàng có tín ưu việt hơn tín dụng thương mại (là loại tín dụng giữa các doanh nghiệp cấp lẫn nhau cho vay, không có sự tham gia của ngân hàng) bởi vì không có quan hệ với hợp đồng mua bán và do đó, nó tạo khả năng cho người đi vay sử dụng tín dụng để mua bất cứ loại hàng hoá nào. Tín dụng ngân hàng cho hoạt động xuất khẩu gồm 2 loại: tín dụng ngân hàng cấp cho nhà xuất khẩu và tín dụng ngân hàng cấp cho nhà nhập khẩu. Đẩy mạnh hoạt động tín dụng ngân hàng cho xuất khẩu là một trong những giải pháp quan trọng nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và chủ yếu là đối với phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Trong mấy năm qua, hoạt động xuất nhập của Việt nam mặc dù đã đổi mới và đạt được những thành tựu to lớn thể hiện là kim ngạch xuất khẩu của Việt nam qua các năm tăng nhanh, song mức độ nhập siêu ngày càng lớn, gây bất lợi cho nền kinh tế. Vì vậy, mục tiêu của Đảng và nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2010 là phải mọi điều kiện thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Giải pháp này cũng góp phần gián tiếp giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, lại vừa tăng được nguồn ngoại tệ nhằm cải thiện cán cân thương mại. Do đó, hoạt động tín dụng ngân hàng cấp cho nhà xuất là giải pháp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tình hình hiện nay. NHNT nên mở rộng cho vay thu mua và cho vay để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Dựa trên hợp đồng ngoại thương đã ký với khách hàng nước ngoài và căn cứ vào thư tín dụng sẽ được thông báo, NHNT sẽ cấp tín dụng để giúp cho doanh nghiệp thuê mua hoặc sản xuất hàng xuất khẩu. Trường hợp mà doanh nghiệp xuất khẩu cam kết thông báo thông báo thư tín dụng xuất và gửi bộ chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì sẽ được áp dụng mức lãi suất thấp hơn so với các doanh nghiệp khác. NHNT cũng có thể nhận chiết khấu chứng từ với điều kiện là thư tín dụng trả ngay, bộ chứng từ phải hoàn toàn phù hợp với thư tín dụng, khách hàng hoạt động có uy tín, vay trả sòng phẳng, ngoài ra ngân hàng phát hành thư tín dụng cũng là ngân hàng có uy tín, hoạt động tốt, có vị trí nhất định trong giao dịch quốc tế thì ngân hàng có thể mua lại bộ chứng từ đó để giải phóng vốn cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có điều kiện quay vòng vốn nhanh. Phát triển hệ thống các ngân hàng đại lý: Việc thiết lập và mở rộng quan hệ đại lý với ngân hàng các nước có ý nghĩa chiến lược trong phát triển nghiệp vụ thanh toán quốc tế ở bất cứ ngân hàng thương mại nào. Đối với những ngân hàng có quan hệ truyền thống với Ngân hàng Ngoại thương, NHNT cần củng cố mối quan hệ chặt chẽ, phát triển cùng có lợi thông qua việc tăng cường các cuộc tiếp xúc, trao đổi kinh nghiệm, tổ chức hội thảo chuyên đề vừa để học hỏi các kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, vừa là tạo điều kiện để các ngân hàng đại lý hiểu và đẩy mạnh hợp tác với NHNT. Ngân hàng Ngoại thương cũng cần rà soát lại các ngân hàng đại lý thông qua việc xây dựng tiêu thức phân loại, đánh giá tín nhiệm ngân hàng đại lý để lựa chọn ra các ngân hàng có uy tín, phục vụ thanh toán an toàn và nhanh chóng, từ đó có chính sách đối ngoại phù hợp, đồng thời tạo cơ sở để tư vấn cho khách hàng. Ngân hàng cũng nên tổ chức mạng lưới thông tin về các ngân hàng đại lý nhanh nhạy thông suốt trong hệ thống NHNT, thường xuyên tổ chức đúc rút kinh nghiệm trong quan hệ đối ngoại để hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế. Ngoài ra, NHNT cũng cần mở rộng quan hệ song phương, đa phương với các ngân hàng, các tổ chức tài chính quốc tế, áp dụng các loại hình kinh doanh mới trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế, nâng cao vai trò hoạt động của các công ty tài chính và văn phòng đại diện, xúc tiến thành lập chi nhánh ở nước ngoài, phấn đấu đưa NHNT lên ngang tầm một ngân hàng tiên tiến trong khu vực, tiến tới hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế. Khai thác tốt các nguồn ngoại tệ: Để đảm bảo nguồn ngoại tệ để thanh toán, NHNT VN cần đẩy mạnh huy động vốn ngoại tệ, khai thác tốt các nguồn tài trợ, nâng cao chất lượng tín dụng ngoại tệ. Để chủ động được nguồn ngoại tệ phục vụ cho thanh toán thư tín dụng trong điều kiện cung cầu ngoại tệ chưa ổn định, NHNT cần đẩy mạnh hơn nữa các hình thức kinh doanh ngoại tệ với các ngân hàng thương mại khác kể cả mua bán giao ngay và mua bán kỳ hạn, tạo mối quan hệ để khi có nhu cầu cấp bách về nguồn thanh toán thư tín dụng thì có thể mua được từ những ngân hàng này. NHNT cũng nên đẩy mạnh thu hút vốn ngoại tệ qua các kênh như kiều hối, đại lý thu đổi ngoại tệ, thực hiện tốt nghiệp vụ bảo lãnh quốc tế cho các nhà thầu xây dựng các công trình có vốn tài trợ hoặc có sự tham gia của các đối tác nước ngoài vì tiềm lực ngoại tệ của các đối tác này rất lớn, đây là nguồn lực để NHNT đảm bảo cân đối ngoại tệ. Một nguồn ngoại tệ có tính ổn định và chủ động có thể khai thác là từ hoạt động thư tín dụng xuất khẩu. Để có thể phát triển nghiệp vụ này, giảm sự mất cân đối giữa nhập khẩu và xuất khẩu và tạo nguồn ngoại tệ, NHNT cần chủ động mở rộng các hình thức cho vay thu mua và sản xuất hàng xuất khẩu. Đối với những đơn vị có thư tín dụng xuất khẩu thông báo qua NHNT và cam kết xuất trình chứng từ qua NHNT thì có thể xem xét áp dụng lãi suất ưu đãi. NHNT cũng cần đẩy mạnh nghiệp vụ chiết khấu miễn truy đòi đối với những bộ chứng từ hoàn hảo và có ngân hàng phát hành là ngân hàng đáng tin cậy, có như vậy mới đảm bảo khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác về nghiệp vụ thanh toán thư tín dụng xuất khẩu. Tăng cường thu hút khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế: Ngân hàng chỉ có thể tồn tại nếu có khách hàng giao dịch và chỉ có thể phát triển các hoạt động của mình nếu có lực lượng khách hàng vững chắc. Lượng và loại hình doanh nghiệp thực hiện thanh toán qua NHNT là một trong những mặt dùng để đánh giá quy mô hoạt động của ngân hàng. Vì vậy để tăng lượng và đa dạng hoá đối tượng khách hàng thực hiện thanh toán qua NHNT, NHNT cần phải thực hiện tốt chính sách khách hàng. Đối với khách hàng thường xuyên thực hiện thanh toán Thư tín dụng qua NHNT, NHNT phải thường xuyên tiếp xúc khách hàng để tìm hiểu các yêu cầu của họ đối với ngân hàng. Việc này được tiến hành thông qua tổ chức hội nghị khách hàng hàng năm, định kỳ hàng tháng, hàng quý để thu thập ý kiến của khách hàng. Hàng năm, NHNT cũng cần thực hiện nghiêm túc việc đánh giá hoạt động giao dịch của khách hàng tại NHNT, nội dung đánh giá bao gồm: kinh ngạch thanh toán Thư tín dụng qua NHNT, mặt hàng, thị trường thanh toán, tình hình xin vay tài trợ và việc thực hiện các nghĩa vụ, các thiếu sót chủ yếu trong quá trình thanh toán. Bên cạnh đó NHNT cũng có thể đánh giá thêm về tình hình sản xuất kinh doanh hiện tại và hướng phát triển trong tương lai để dự đoán nhu cầu của doanh nghiệp trong lĩnh vực thanh toán. NHNT cũng nên phân loại khách hàng thành các đối tượng khác nhau. Với những khách hàng lớn là những doanh nghiệp thường xuyên thanh toán qua NHNT với tổng kim ngạch cao cần có những ưu tiên trong việc thanh toán như coi họ là đối tượng đầu tiên để cung cấp các dịch vụ thanh toán mới (như ngân hàng điện tử, quản lý tài khoản qua mạng...), ưu tiên việc kiểm tra chứng từ, tư vấn thương mại miễn phí. Đối với những khách hàng thường xuyên thực hiện giao dịch qua NHNT nhưng kim ngạch thấp hơn nhóm khách hàng lớn thì cần cũng có những ưu tiên nhất định trong thực hiện thanh toán. Còn với những doanh nghiệp không thường xuyên giao dịch qua NHNT và kim ngạch cũng không lớn thì có thể áp dụng những chế độ ưu đãi một cách linh hoạt, phục vụ tốt nhất các yêu cầu của họ, đồng thời chỉ rõ lợi ích mà họ sẽ nhận được khi thực hiện thanh toán với Sở Giao dịch so với thực hiện ở các ngân hàng khác. NHNT cũng có thể ban hành và đưa đến tận tay các doanh nghiệp các tài liệu hướng dẫn về nghiệp vụ cũng như các thủ tục cần thiết khi thực hiện giao dịch Thư tín dụng, giúp doanh nghiệp có được hiểu biết sâu hơn về hoạt động này, cung cấp cho họ thông tin về thị trường, vè ngân hàng nước ngoài và nếu có thể cả về khách hàng của họ, đặc biệt là các doanh nghiệp có quan hệ làm ăn với Việt Nam. NHNT cũng cần chú trọng hơn việc giúp đỡ khách hàng nhập khẩu trong việc sửa đổi hợp đồng, soạn thảo thư tín dụng, giúp đỡ khách hàng xuất khẩu trong việc kiểm tra các điều khoản của Thư tín dụng nhận được, kiểm tra và lập bộ chứng từ hoàn chỉnh trước khi gửi đi nước ngoài để đòi thanh toán. Đối với những doanh nghiệp chưa thực hiện thanh toán hoặc đã thôi không thực hiện giao dịch với NHNT, NHNT cần áp dụng các hình thức quảng cáo thu hút các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuộc mọi thành phần kinh tế thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc gặp trực tiếp để giới thiệu các dịch vụ thanh toán của ngân hàng hoặc mời họ đến dự hội nghị khách hàng hàng năm. NHNT có thể tìm hiểu thông tin về ngân hàng mà khách hàng cũ của NHNT hiện đang thực hiện thanh toán Thư tín dụng, tìm hiểu các loại hình dịch vụ thanh toán mà họ cung cấp, cách thức cung cấp chế độ phí, hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu, tiềm lực tài chính và uy tín..., để từ đó tìm ra những nguyên nhân dẫn đến việc doanh nghiệp ngừng giao dịch với NHNT. Trong khi giao dịch với khách hàng, các thanh toán viên cần giữ thái độ cởi mở, nhiệt tình, tận tình hướng dẫn, có tinh thần trách nhiệm khi phục vụ và giao tiếp với khách hàng, từ đó nâng cao hình ảnh của NHNT trong lòng khách hàng, tạo sự trung thành của doanh nghiệp với NHNT. Nâng cao năng lực cạnh tranh của đội ngũ cán bộ thanh toán: Trình độ của đội ngũ cán bộ thanh toán quốc tế có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công tác thanh toán quốc tế nói chung và theo hình thức tín dụng chứng từ nói riêng. Tuy nhiên trên thực tế trình độ của cán bộ thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được đòi hỏi của hoạt động thương mại quốc tế trong điều kiện cạnh tranh gay gắt. Muốn thực hiện được nghiệp vụ thanh toán quốc tế, các ngân hàng phải có đội ngũ cán bộ được đào tạo tốt về nghiệp vụ, sử dụng thành thạo ngoại ngữ, am hiểu luật cũng như các tập quán quốc tế. Do vậy, trước hết NHNT cần chú trọng công tác tuyển dụng những người có trình độ chuyên môn,, ngoại ngữ, vi tính, những người có khả năng, năng động, nhiệt tình. Tuy nhiên năng lực của đội ngũ cán bộ thanh toán sẽ không thể được phát huy nếu không gắn kết quả đào tạo và tuyển dụng với việc bố trí, sử dụng cán bộ đúng người, đúng việc, mạnh dạn phân công những vị trí lãnh đạo cho những người trẻ tuổi và có tài năng. NHNT cũng cần thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo nghiệp vụ để bổ sung kiến thức về thương mại quốc tế như về rủi ro mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam thường gặp phải, tình hình thị trường thế giới và triển vọng của các doanh nghiệp Việt Nam, phổ biến các kỹ thuật thanh toán thư tín dụng mới áp dụng trên thế giới. Về lâu dài, NHNT có thể phối hợp với các trường và các trung tâm đào tạo trong và ngoài nước để gửi cán bộ đi học về chuyên môn, ngoại ngữ và các nghiệp vụ chuyên sâu khác. NHNT nên chú trọng đổi mới nhận thức của đội ngũ cán bộ thanh toán về chính sách khách hàng, khuyến khích họ tăng cường tìm hiểu các khách hàng mà họ phục vụ về tình hình tài chính, uy tín cũng như các nhu cầu của khách hàng khi giao dịch với NHNT. Một điểm quan trọng nữa là NHNT phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với những cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, hoàn thành tốt công việc được giao, có nhiều sáng tạo, tích cực xông xáo thu hút nhiều khách hàng mới về giao dịch, đồng thời có chế độ kỷ luật, chuyển công tác với những cán bộ ý thức kỷ luật kém, có hành vi vi phạm đạo đức, chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao, gây ra sai sót làm ảnh hưởng đến hoạt động của NHNT. Những giải pháp đó sẽ góp phần động viên và phát huy hết khả năng làm việc của những cán bộ có năng lực. Hoàn thiện và đổi mới công nghệ thanh toán: Cải thiện và nâng cao trình độ tự động hoá trong quy trình công nghệ ngân hàng là một trong những điều kiện tốt để quản lý vốn tập trung, tăng cường hơn nữa sự hoà nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam vào thị trường tài chính tiền tệ thế giới. Để đáp ứng được yêu cầu công nghệ, trước hết NHNT cần tận dụng tối đa công suất của hệ thống máy móc hiện có, tiến tới giảm bớt các công việc giấy tờ bằng cách chuyển toàn bộ việc nhận, lập, phân loại, chuyển và quản lý các loại điện, thư sử dụng trong quá trình thanh toán sang thực hiện trên hệ thống máy vi tính và thông qua mạng máy tính. NHNT có thể chỉnh sửa và hoàn thiện các chương trình phần mềm phục vụ công tác thanh toán quốc tế nói chung và theo hình thức tín dụng chứng từ nói riêng bằng cách chuyển các chương trình thanh toán được viết bằng ngôn ngữ FOXPRO sang loại ngôn ngữ lập trình mạnh hơn như VISUAL BASIC hoặc sử dụng hệ quản trị cơ sở dữ liệu Access trong Microsoft Office. Các chương trình này tạo ra được các mẫu điện chuẩn phù hợp với mỗi phương thức thanh toán và với thông lệ quốc tế, phải có tính kết nối lẫn nhau và kết nối với các chi nhánh khác trong nước, với Hội sở chính và các ngân hàng đại lý trên thế giới, trên cơ sở đó cho phép xây dựng, chuẩn hoá và phát triển hệ thống thông tin khách hàng tập trung trong toàn hệ thống, hệ thống quản lý mối quan hệ ngân hàng – khách hàng, tạo khả năng giao diện kết nối với các thị trường tài chính trong và ngoài nước. NHNT cũng nên đa dạng hoá các kênh phân phối dịch vụ như bổ sung các dịch vụ thanh toán trên trang Web của Ngân hàng Ngoại thương như: thông báo Thư tín dụng, báo có, gửi yêu cầu mở thư tín dụng, chấp nhận thanh toán, quản lý tài khoản của doanh nghiệp, tiến tới giao dịch với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong cả nước thông qua mạng Internet. Sở cần nâng cao khả năng quản lý rủi ro thanh toán quốc tế thông qua xây dựng các Modul quản lý rủi ro trên cơ sở phân loại các rủi ro theo thứ tự ưu tiên khác nhau như: rủi ro bất khả kháng, rủi ro quốc gia người phát hành Thư tín dụng, rủi ro về hoạt động lừa đảo, giả mạo chứng từ... NHNT nên thường xuyên nâng cấp và mua mới các trang thiết bị phục vụ thực hiện công tác thanh toán (chủ yếu là máy vi tính hiện đại có tốc độ xử lý công việc nhanh), xây dựng hệ thống mạng diện rộng và mạng cục bộ, phát triển các hình thức và phương tiện an toàn bảo mật cơ sở dữ liệu, xây dựng kho dữ liệu đa chiều nhằm hỗ trợ cho ứng dụng quản lý thông tin và ra các quyết định điều hành kinh doanh một cách chính xác, nhanh chóng. Các kiến nghị: 1. Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước: Sự đổi mới hoạt động của ngân hàng nói chung và lĩnh vực thanh toán nói riêng không thể tách rời cơ chế, chính sách của Đảng và nhà nước. Trong thời gian qua, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường như: luật thương mại, luật đầu tư nước ngoài, luật dân sự, luật các tổ chức tín dụng... Tuy nhiên, còn nhiều lĩnh vực chưa có văn bản hoặc đã ban hành từ lâu đến nay không còn phù hợp, nhiều văn bản được bổ xung và sửa đổi nhiều lần nên việc thực thi và áp dụng rất khó, đặc biệt là chưa có văn bản pháp luật nào liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế. Vì vậy, để tạo môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng, Nhà nước cần phải: Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật: Chính sách ngoại hối là một công cụ đắc lực cho việc thực hiện chính sách tiền tệ. Bởi vì, thông qua các chính sách quản lý ngoại tệ, quản lý tiền bạc, tiền hối điều hành tỷ giá..... chính sách quản lý ngoại hối tác động đến chính sách huy động vốn trong nước và nước ngoài, đến hoạt động xuất nhập khẩu của nền kinh tế, vì vậy nó ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thanh toán quốc tế. Năm 1998, Nhà nước đã ban hành điều lệ quản lý ngoại hối song đến nay còn có nhiều điểm chưa phù hợp mặc dù nó đã được sửa đổi và bổ sung nhiều lần. Đồng thời do nhiều cấp, nhiều ngành cùng quy định một lĩnh vực nên không tránh khỏi sự chồng chéo, mâu thuẫn và việc áp dụng nhiều khi phải dẫn chiếu từ nhiều nguồn. Vì vậy, việc ban hành luật ngoại hối là việc làm rất cần thiết, có như vậy mới tạo lập được môi trường pháp lý đầy đủ, làm cơ sở cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế. Hiện nay, các văn bản mang tính chất thông lệ quốc tế rất nhiều như: quy tắc và thực hành thống nhất về thư tín dụng do văn phòng thương mại quốc tế ban hành năm 1933, 1962, 1974, 1983...và văn bản đang sử dụng là bản sửa đổi ban hành năm 1993, gọi tắt là UCP500, văn bản mới nhất sắp ban hành là UCP 600. Về lý thuyết, việc vận dụng UCP500 tại nước ta gần như tuyệt đối mà không bị bất cứ sự điều chỉnh nào, đây là nét đặc thù của Việt nam. Trong khi đó mọi quốc gia khác đều có những luật hoặc các văn bản dưới luật quy định về giao dịch tín dụng chứng từ trên cơ sở thông lệ quốc tế có tính đến đặc thù của sự phát triển kinh tế và tập quán của nước họ. Các văn bản như vậy là rất cần thiết không chỉ đối với ngành ngân hàng mà còn là cơ sở để toà án trọng tài áp dụng khi xét xử các vụ tranh chấp giữa các đối tác trong giao dịch tín dụng. Hơn nữa UCP500 còn có những hạn chế nhất định bởi vì nó không thể bao quát tất cả các giao dịch vô cùng phong phú của thực tiễn, không thể thay thế luật của một quốc gia. Chính vì thế, các ngân hàng tại Việt nam đã vận dụng tốt đẹp UCP500 và các thông lệ quốc tế khác vào giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu nhưng kết quả thực tế lại không như họ mong muốn. Vì vậy, để giải quyết những bất đồng giữa thông lệ quốc tế và tập quán quốc gia, tránh được những tranh chấp rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế nhằm tạo hành lang pháp lý cho mọi hoạt động, nhà nước ta cần nghiên cứu và sớm ban hành các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng. Trong những văn bản này cần quy định rõ ràng quyền lợi và trách nhiệm giữa các chủ thể tham gia như quyền lợi và trách nhiệm giữa các chủ thể tham gia như quyền được nhận hàng của ngân hàng phát hành thư tín dụng khi người nhập khẩu vay vốn của ngân hàng để nhập lô hàng đó bị phá sản, quyền được miễn trừ trách nhiệm thanh toán của ngân hàng phát hành khi có dấu hiệu tranh chấp thương mại và đã được toà án hay trọng tài tuyên bố ngừng thanh toán. Điều này là cần thiết để bảo vệ ngân hàng và là điều mà các toà án nhiều nước trên thế giới thường làm. Về bản chất thư tín dụng là những giao dịch riêng biệt với hợp đồng thương mại và các hợp đồng khác, các hợp đồng này có thể làm cơ sở để hình thành thư tín dụng nhưng các ngân hàng bất luận trong trường hợp nào cũng không liên quan đến hoặc không hề bị ràng buộc bởi hợp đồng. Do vậy, Chính phủ cần sớm ban hành văn bản pháp lý cho giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ. Có thể là một Nghị định về thanh toán quốc tế đề cập đến mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng ngoại thương giữa người mua, người bán với giao dịch chứng từ giữa các ngân hàng. Việt Nam đã có quy chế về chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu, tín phiếu… nhưng chưa có quy định về chiết khấu hối phiếu kèm chứng từ theo thư tín dụng. Do đó trong thời gian tới cần thiết phải có những văn bản pháp luật phân định rõ quyền lợi, nghĩa vụ của ngân hàng chiết khấu cũng như người hưởng lợi. Cải thiện môi trường đầu tư: Để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các nước đang phát triển cần tạo ra lợi thế so sánh bằng một trường đầu tư hấp dẫn hơn các nước khác. Đây phải là công việc thường xuyên của hoạt động quản lý nhà nước, chứ không phải chỉ là một vài sửa đổi nhất thời. Do vậy, mặc dù luật đầu tư mới sửa đổi vào năm 1996, nhưng trên cơ sở tổng kết 10 năm hoạt động đầu tư nước ngoài ở nước ta, đồng thời tham khảo thêm những thay đổi luật của các nước xung quanh, ta nên tính đến việc sửa đổi và bổ sung luật đầu tư nước ngoài, đưa thêm các hình thức đầu tư mà ta chưa áp dụng như: cho lập công ty trước khi lập dự án, cho người nước ngoài mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt nam với một mức độ giới hạn, cho xí nghiệp nước ngoài được phát hành cổ phiếu..... cũng như điều chỉnh một số sắc thuế và bổ sung một số ưu đãi để khuyến khích đầu tư. Bên cạnh việc ban hành pháp luật, cần phải nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật trong kinh tế và xã hội, đặc biệt là kiện toàn hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật, xử lý nghiêm minh các hành động vi phạm vi phạm pháp luật, tạo ra bước tiến rõ rệt trong xây dựng một nhà nước pháp quyền và một nền kinh tế thị trường hoạt động theo pháp luật. Thực hiện cải cách chính sách kinh tế đối ngoại: Trong thời gian qua, cán cân thương mại quốc tế ở Việt nam luôn trong tình trạng thâm thụt, mức độ thâm thụt ngày càng lớn mặc dù một phần là do đầu tư nước ngoài. Để cải thiện cán cân thương mại quốc tế thì giải pháp là đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, quản lý chặt chẽ hoạt động nhập khẩu phục vụ cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, sản phẩm xuất khẩu của chúng ta còn nghèo nàn lại chủ yếu là sản phẩm chưa qua chế biến, muốn đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu ta phải đẩy mạnh hoạt động thương mại với những thị trường lớn như: Mỹ, Tây âu, Nhật bản, Trung quốc, ASEAN....từng bước tham gia vào tổ chức kinh tế thương mại Châu á Thái bình dương và tổ chức thương mại thế giới. Bên cạnh đó, nước ta cần khai thác có hiệu quả tiềm năng về tài nguyên, sức lao động để cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu thế giới, tăng số lượng các mặt hàng gia công chế biến, giảm tỷ trọng sản phẩm thô, mở rộng thêm nhiều mặt hàng, đầu tư thích đáng vào những mặt hàng ta có ưu thế như: gạo, cao su, cà phê, dầu mỏ... Ngoài ra, ta cần chú trọng công tác điều tra, nghiên cứu nhu cầu thị trường của các nước để có những cải tiến các mặt hàng xuất khẩu phù hợp với từng thị trường cụ thể, mở rộng các hình thức gia công sản phẩm cho nước ngoài bằng nguyên liệu của chính mình và có chính sách bảo hộ sản xuất trong nước thông qua việc cấp giấy phép hàng nhập khẩu, quản lý bằng hạn ngạch, bằng công cụ thuế quan, tăng cường biện pháp chống buôn lậu nhằm bảo hộ lợi ích cho các nhà buôn sản xuất thực hiện cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Bên cạnh cải cách chính sách chế độ về xuất nhập khẩu, nhà nước cần có biện pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài và quản lý chặt chẽ vay nợ nước ngoài. Bởi vì, với điều kiện nền kinh tế nước ta còn nghèo, tích luỹ nội bộ trong nước thấp nên cần phải thúc đẩy thu hút vốn đầu tư nước ngoài mới thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Song song với việc đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì việc quản lý nợ vay cũng cần phải được cơ quan quản lý Nhà nước quan tâm một cách thích hợp để: Nâng cao hiệu quả vốn vay. Giữ được nợ nước ngoài trong một tỷ lệ tương ứng với năng lực trả nợ của đất nước. Vì thế, cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc thu hút vốn đầu tư và sử dụng nó một cách có hiệu quả nhất. 2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước: Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nên rà soát lại các văn bản, xóa bỏ tình trạng văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không phù hợp với thực tế, nâng cao công tác quản lý và hoạt động thanh tra giám sát của NHNN, kiên quyết xử lý các sai phạm, phối hợp với các ban ngành có liên quan và có giải pháp đồng bộ. Đặc biệt khi luật ngân hàng ra đời, NHNH cần sớm ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành luật ngân hàng. Để thực thi có hiệu quả quy chế hiện hành về quản lý ngoại hối, NHNH cần có những văn bản quy định trách nhiệm, kiểm tra tính pháp lý, phù hợp của chứng từ trước khi chuyển tiền ra nước ngoài thanh toán cho bên xuất khẩu. NHNN nên nghiên cứu việc định giá tỷ giá mua bán ngoại tệ cho phù hợp với thị trường, tránh tình trạng đồng VND được đánh giá cao hơn giá trị của nó; loại trừ các yếu tố đầu cơ nâng giá, ép giá làm tỷ giá biến động sai với thực tế. NHNN cần tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các tổ chức tín dụng và khuyến khích viêc xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp. NHNN nên mở rộng đối tượng tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, nhằm tạo cho thị trường hoạt động với tỷ giá chuẩn hơn, đồng thời phát triển các nghiệp vụ trên thị trường, đảm bảo tỷ giá linh hoạt hợp lý, góp phần kích thích kinh tế thị trường phát triển, khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, mở rộng sản xuất trong nước. Hiện nay dự trữ ngoại tệ còn ít thì NHNN phải tăng cường dự trữ ngoại tệ, đảm bảo điều tiết được quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường, ổn định được đồng VND, thực hiện mục tiêu bình ổn chính sách tiền tệ. 3. Đối với khách hàng: Các doanh nghiệp cần bố trí đội ngũ cán bộ thành thạo nghiệp vụ ngoại thương, am hiểu pháp lý thương mại quốc tế và thường xuyên đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương, thanh toán quốc tế (thanh toán xuất khẩu) cho cán bộ. Họ phải nắm vững nội dung UCP (thông thạo UCP 500, sắp tới là UCP 600) và các thông lệ quốc tế, sẽ giúp ích rất nhiều trong việc làm hợp đồng ngoại thương, làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa, mở thư tín dụng,...Các doanh nghiệp nên chủ động nắm bắt thời cơ, thận trọng khi đàm phán ký kết hợp đồng, chú ý các điều khoản, quyền lợi nghĩa vụ của mỗi bên, phạm vi đối tượng xử lý khi có tranh chấp xảy ra. Hợp đồng phải cụ thể, chính xác, rõ ràng, tránh việc mập mờ, khó hiểu, gây bất lợi và xảy ra tranh chấp sau này. Do vậy, nâng cao kỹ năng trong quản lý, lập chứng từ và kiểm tra nội dung thư tín dụng cho cán bộ là hết sức quan trọng. Các doanh nghiệp phải thường xuyên cử cán bộ tham gia các lớp huấn luyện về xuất khẩu và thanh toán quốc tế do các trường đại học và các ngân hàng thương mại tổ chức. Ngoài ra, mỗi doanh nghiệp cần có bộ phận tư pháp hoặc sử dụng tư vấn pháp lý để tránh được các tranh chấp có thể xảy ra trong kinh doanh và thanh toán. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu tìm hiểu kỹ thị trường để có những quyết định đúng đắn và lựa chọn đúng bạn hàng. Trong thu xế hội nhập, mở rộng giao lưu buôn bán với nước ngoài, doanh nghiệp không chỉ bó hẹp trong phạm vi thị trường truyền thống (các bạn hàng quen thuộc, các mối quan hệ trong nước) mà phải mở rộng quan hệ ra bên ngoài, phát triển phạm vi hoạt động và thị trường trên thương trường quốc tế. Thông qua Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Trung tâm thông tin tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng phục vụ mình, các ngân hàng đại lý ở nước ngoài, các tổ chức của Việt Nam ở nước ngoài,...để nắm bắt thông tin, tìm hiểu đối tác. Các doanh nghiệp Việt Nam trong quan hệ với đối tác nước ngoài và ngân hàng cần trung thực, tuân thủ theo đúng các thông lệ quốc tế, giữ vững uy tín của doanh nghiệp và ngân hàng, có thái độ hợp tác với ngân hàng khi rủi ro xảy ra để tìm biện pháp tháo gỡ. Trong thời gian từ khi ký kết hợp đồng đến khi thanh toán, các doanh nghiệp cần tranh thủ sự giúp đỡ về vốn, tư vấn của ngân hàng để nắm bắt thông tin và có lựa chọn đúng đắn, tránh những điều bất lợi xảy đến.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNH122.docx
Tài liệu liên quan