Chuyên đề Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam

Trong xu thế phát triển của nền kinh tế khi đã gia nhập tổ chức quốc tế như WTO, các doanh nghiệp ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Xu thế hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Đặc biệt là Sở Giao Dịch I, hoạt động này không chỉ mang lại cho ngân hàng một lượng kách hàng lớn một lượng lợi nhuận khá tốt mà còn tạo điều kiện cho sự tăng trưởng của số lượng doanh nghiệp tồn tại trong nền kinh tế, bên cạnh còn có tác dụng thúc đẩy, kích thích, góp phần vào sự phát triển kinh tê của nước nhà.Vậy nên, các ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng hiện đang đều rất nỗ lực thúc đẩy phát triển hoạt động này để thu được hiệu quả cao nhất.

doc68 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oản cho vay ngắn hạn mang lại. Kết cấu dư nợ theo thành phần kinh tế. Để thuận tiện trong việc quản lí mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay chúng ta thường phân dư nợ theo thành phần kinh tế để dễ theo dõi hơn. Bảng 2.7 Kết cấu dư nợ theo thành phần kinh tế Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Dư nợ Tỷ VND Tỷ lệ (%) Dư nợ Tỷ VND Tỷ lệ (%) Dư nợ Tỷ đồng Tỷ lệ (%) Kinh tế QD 2.066 74% 2.082 75% 2171 70% Kinh tế ngoài QD 722 26% 695 25% 930 30% (Nguồn:Phòng TT&TH) Theo kết cấu thành phần kinh tế, chúng ta có thể thấy các khoản cho vay đối với thành phần kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay của Sở. Quan sát qua các năm chúng ta có thể thấy tỷ trọng dư nợ cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên. Ở năm 2005 con số dư nợ của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là 722 tỷ đồng, có biến động giảm nhẹ xuống còn 695 tỷ đồng vào năm 2006 và tăng lên nhanh chóng 930 tỷ đồng vào năm 2007. Đối với thành phần kinh tế quốc doanh thì khác, các con là này là 2.066 tỷ đồng vào năm 2005, tiếp tục tăng lên 2.082 tỷ đồng vào năm 2006 và đạt 2.171 tỷ đồng vào năm 2007. Nhìn theo tỷ trọng dư nợ của các khoản cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế quốc doanh, thì tỷ trọng của các khoản cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có xu hướng giảm nhẹ từ 26% năm 2005 xuống 25% năm 2006 và tăng trở lại 30% vào năm 2007. Tỷ trọng của các thành phần kinh tế quốc doanh có tăng nhẹ từ năm 2005 là 74% lên 75% vào năn 2006 và giảm xuống còn 70%. Như vậy, SGDI đã có sự điều chỉnh trong cơ cấu cho vay đối với các thành phần kinh tế do sự cổ phần hóa của các doanh nghiệp nhà nước và sự xuất hiện một lượng khách hàng mới là các doanh nghiệp ngoài quốc dân được thành lập trong một số năm gần đây. Sự điều chỉnh về cơ cấu cho vay đối với các thành phần kinh tế của SGDI rất phù hợp với xu hướng phát triển của nên kinh tế, cũng nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đa dạng hóa thành phần khách hàng trong nền kinh tế. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển cũng như nâng cao thế mạnh và khẳng định được vị thế của ngân hàng trong nền kinh tế, đây cũng là một trong các bước nhằm mở rộng qui mô của ngân hàng trong thời gian tới. Kết cấu dư nợ theo nghành sản xuất kinh doanh: Một trong những cách quản lí các khoản cho vay nhằm hạn chế rủi ro tín dụng là quản lí các khoản cho vay theo ngành nghề kinh doanh, theo cách này ngân hàng vừa quản lí được quy mô vay vốn của từng ngành sản xuất vừa đa dạng hóa được các khoản cho vay. Bảng 2.8 Kết cấu dư nợ theo nghành nghề Đơn vị: Tỷ đồng Nghành 2005 2006 2007 Công nghiệp 1.230 44,12% 1.360 49% 1.550,5 50% Tiêu dùng 38 1% 32 1,15% 155,05 5% Thương nghiệp 963 34,54% 987 35,54% 930,3 30% Dịch vụ 354 12,68% 232 8,35% 341,11 11% Nghành khác 203 7,66% 166 5,96% 12,04 4% ( Nguồn báo cáo tài chính SGDI-NHCTVN) Xem xét theo nghành nghề sản xuất kinh doanh, đối tượng cho vay của SGDI bao gồm: nghành Công nghiệp, Thương nghiệp, Dịch vụ, các ngành khác và tiêu dùng. Trong đó tập trung và chiếm tỷ trọng cao trong tổng số dư nợ cho vay là nghành công nghiệp và thương nghiệp. Trong một vài năm trở lại đây do sự phát triển nền kinh tế đã thúc đẩy sự xuất hiện của các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng Công nghiệp, cũng như các nhu cầu về Tiêu dùng và Dịch vụ tăng lên nhanh chóng. Nắm bắt được nhu cầu của nền kinh tế và khả năng đáp ứng của mình ngân hàng đã điều chỉnh chính sách cho vay tăng cường thêm các khoản cho vay đối với tiêu dùng và dịch vụ, đồng thời cũng tăng các khoản cho vay đối với các doanh nghiệp mới thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn, đóng góp một phần trong sự phát triển của đất nước trong thời gian vừa qua. 2.2.2 Cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại SGDI-NHCTVN. 2.2.2.1 Tình hình chung của doanh nghiệp trong nền kinh tế và xu hướng phát triển. 2.2.2.1.1 Tình hình chung của doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp là đất đai, nguồn vốn huy động.. nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động của doanh nghiệp. Khó khăn trong việc xin cấp đất, huy động vốn trong nên kinh tế để phục vụ hoạt động kinh doanh của công ty, và hơn nữa có thể rơi vào vòng luẩn quẩn của vốn và đất đai. Trên thực tế nhu cầu về vốn để phát triển nền kinh tế rất lớn, nhu cầu đầu tư toàn xã hội cuả nên kinh tế năm 2007 là trên 452 ngàn tỷ đồng. 2.2.2.1.2 Xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế Đánh giá chung Sau khi nhà nước ban hành luật sửa đổi các điều luật về đăng kí kinh doanh như luật đầu tư nước ngoài, luật hợp tác xã và đặc biệt là luật công ty và luật doanh nghiệp năm 1991 đã làm thay đổi về số lượng cũng như chất lượng hoạt động của doanh nghiệp tăng lên do môi trường kinh doanh thông thoáng hơn, sản xuất sôi động hơn. Nhờ có các chính sách và môi trường kinh tế xã hội có nhiều thuận lợi nên trong nhiều năm gần đây doanh nghiệp tư nhân cụ thể là doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế tăng lên nhanh chóng, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của nước nhà trong thời gian qua, thúc đẩy nhanh quá trình Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá đất nước. Về số lượng doanh nghiệp: Một trong những nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đên hoạt động mở rộng cho vay của ngân hàng là quy mô số lượng doanh nghiệp trong nên kinh tế và tốc độ tăng trưởng trong tương lai. Bảng 2.9 Số Doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng Đơn vị: Doanh nghiệp Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Số lượng 163.265 170.649 245.000 Tốc độ tăng trưởng (%) 40% 4,5% 43% (Số lượng doanh nghiệp: Internet) Sự phát triển mạnh mẽ của khối doanh nghiệp thể hiện qua các con số về số lượng doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp trong thời gian qua. Qua bảng số liệu chúng ta có thể thấy số lượng doanh nghiệp đã tăng lên nhanh chóng, thể hiện rõ nhất là năm 2005 và 2007 tốc độ tăng của số lượng doanh nghiệp là 40% và 43%. Năm 2005 số lượng doanh nghiệp hoạt động là 163.265 doanh nghiệp, nhưng qua tới năm 2006 con số này đã là 170.649 doanh nghiệp và cho tới năm 2007 vừa qua đã đạt được con số doanh ngiệp là 245.000 doanh nghiệp. Đặc biệt theo sự chỉ đạo của nhà nước số lượng doanh nghiệp còn tiếp tục tăng trong thời gian tới, dự tính trong năm 2010 là trên 500.000 doanh nghiệp. Con số này không mấy khó khăn khi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế như hiện nay. Điều này càng khẳng định việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp trong thời gian tới sẽ là hoạt động mang lại nhiều lợi nhận cho ngân hàng. Về sự hỗ trợ của chính phủ trong thời gian tới. Giới doanh nghiệp ngày càng nhận được sự rất nhiều sự hỗ trợ và quan tâm từ chính phủ cũng như các tổ chức phi chính phủ. Trong đó phải kể đến một số hình thức hỗ trợ về vốn như: - Nguồn vốn từ ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC). Quỹ cho vay này trị giá 4 tỷ đồng yên nhật được triển khai thông qua 4 ngân hàng thương mại là Ngân hàng Công Thương, Ngân hàng Đầu Tư Phát Triển, Ngân hàng Á Châu và Ngân hàng Đông Á. - Chương trình hỗ trợ khu vực doanh nghiệp (BSPS) do chính phủ Đan Mạch tài trợ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam từ năm 2006 đến hết năm 2009. - Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng- Hiệp hội nà sẵn sàng đúng ra bảo đảm cho các thành viên của mình vay vốn ở ngân hàng. Về tốc độ tăng trưởng tín dụng. Tốc độ tín dụng dành cho khối doanh nghiệp trong thời gian qua có những yếu tố rất khả quan. Tiềm năng của các doanh nghiệp hiện nay chính là hướng đầu tư trọng điểm của các ngân hàng thương mại hiện tại và trong thời gian tới. Qua các số liệu quan sát từ các mục trên chúng ta có thể thấy doanh nghiệp đang phát triển về số lượng chất lượng và qui mô, góp phần không nhỏ trong sự phát triển kinh tế của nước nhà, là điều kiện thuận lợi để ngân hàng quyết định mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp. Thực tế kết quả cho vay của SGDI đã có nhiều biến chuyển nhưng kết quả đó chưa thực sự thuyết phục. Để đáp ứng nhu cầu thực tại của thị trường, việc mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại SGDI –NHCTVN là hoàn toàn phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế. 2.2.2.2 Thực trạng mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn tại SGDI Thấy sự lớn mạnh của các doanh nghiệp, rút kinh nhgiệm từ cấc năm trước khong chỉ giới hạn ở những khách hàng vừa và nhỏ, muốn tăng hiệu quả hoạt động hơn nữa, SGDI-NHCTVN đã rất quan tâm mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp, đặc biệt là cho vay ngắn hạn, vì tỷ lệ vay ngắn hạn của Sở còn thấp. Mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp được xác định là tăng dư nợ ngắn hạn đối với các doanh nghiệp, tăng doanh số cho vay, giảm tỷ lệ nợ quá hạn và hạn chế rủi ro tín dụng đối với các khoản vay, đồng thời ngân hàng cũng phải xác định mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp là quá trình liên tục từ khâu tín dụng phải đạt hiệu quả cao đến khi thu hồi hết nợ, hạn chế tối đa rủi ro, nâng cao doanh số cho vay, nó đòi hỏi có sự tham gia của các bộ phận ngân hàng từ Ban Giám Đốc đến các cán bộ nhân viên phòng Tín Dụng, để nâng cao hơn nữa hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp- thành phần kinh tế nhiều triển vọng đưa ngân hàng ngày càng phát triển. Nhận thức được vấn đề đó, công tác mở rộng cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp tại SGDI – NHCTVN đã thực hiện tương đối tốt, thể hiện trên nhiều khía cạnh sau: Thứ nhất, quy mô và doanh số cho vay: SGDI –NHCTVN quyết tâm rất cao trong việc minh bạch hóa chất lượng tín dụng phát hiện nợ có vấn đề hoặc nợ quá hạn, ngân hàng kiên quyết Tiến hành trích lập dự phòng rủi ro, rút dần dư nợ, chấm dứt quan hệ tín dụng với khách hàng có tình hình tài chính yếu kém, kinh doanh thua lỗ, có nợ quá hạn, vốn chủ sở hữu thấp, các khoản vay có độ an toàn thấp. Trong đó chuyển hướng quan trọng đó là chuyển hướng tập trung vào doanh nghiệp.. Đây là một xu hướng tất yếu của hệ thống ngân hàng thương mại và chủ trương của Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Xuất pát từ nhận đinh: “Doanh nghiệp là một lực lượng lớn của nền kinh tế có nhiều tiềm năng phát triển, theo đó cơ hội tiếp cận vốn của loại hình này ngày càng mở rộng hơn”, cho vay ngắn hạn sẽ phân tán được rủi ro, chênh lệch lãi suất cao hơn và có tài sản đảm bảo, đồng thời sẽ phù hợp với năng lực quản lí điều hành. Chính vì thế, năm 2007 dư nợ cho vay doanh nghiệp tại SGDI – NHCTVN là 2.821 tỷ đồng, số lượng doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với sở đã tăng lên đáng kể. Bảng 2.10 Số doanh nghiệp vay vốn tại SGDI - NHCTVN Đơn vị: Doanh nghiệp. Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số doanh nghiệp 102 154 325 548 (Nguồn : Phòng TT&TH) Các doanh nghiệp tham gia vay vốn tại SGDI-NHCTVN ngày càng tăng lên nhanh chóng từ 102 doanh nghiệp năm 2004 lên 154 doanh nghiệp năm 2005 tiếp tục tăng vượt hẳn lên 325 doanh nghiệp vào năm 2006 và đến năm 2007 con số này là 548 doanh nghiệp. Về quy mô: Để xem xét quy mô cho vay đối với doanh nghiệp trong những năm qua, ta lướt qua các số liệu sau: Bảng 2.11 Quy mô cho vay đối với doanh nghiệp. Đơn vị : Tỷ đồng Chỉ Tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số Tiền % Số Tiền % Số Tiền % Doanh nghiệp 915 93% 813 91% 923 92% Tiêu Dùng 72 7% 82 9% 85 8% (Báo cáo Tài chính SGDI- NHCTVN) Dựa vào bảng số liệu trên chúng ta thấy các khoản cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu trong tổng các khoản cho vay ngắn hạn của ngân hàng. Năm 2005 các khoản vay ngắn hạn của doanh nghiệp là 915 tỷ đồng chiếm 93%, năm 2006 các khoản cho vay này giảm xuống còn 813 tỷ đồng chiếm 91% trong tổng vốn ngắn hạn cho vay của ngân hàng. Và đến năm 2007 con số này đạt 923 tỷ đồng chiếm 92% vốn ngắn hạn cho vay của ngân hàng. Đối với các khoản cho vay tiêu dùng và cho vay ngắn hạn khác chiếm tỷ trọng nhỏ và thường biến động, nhưng các khoản cho vay này vẫn tăng đều năm 2005 là 72 tỷ đồng, năm 2006 là 82 tỷ đồng, và năm 2007 các khoản cho vay này là 85 tỷ đồng. Cho vay ngắn hạn doanh nghiệp là nghiệp vụ cho vay chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng, là hoạt động xuất hiện từ lâu và cũng là nguồn mối quan hệ của ngân hàng và khách hàng. Cho vay doanh nghiệp, chủ yếu là cho vay ngắn hạn do nhu cầu vốn ngắn hạn của doanh nghiệp thường lớn nên khi doanh nghiệp thiếu hụt vốn lưu động đê quay vòng sản xuất kinh doanh. Mặt khác các khoản vay trung và dài hạn doanh nghiệp chủ yếu để phục vụ nhu cầu đầu tư vào tài sản cố định hoặc dự án. Đồng thời trong những năm gần đây ngân hàng đã có chính sách và sự quan tâm nhất định đến việc cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp, đó là một dấu hiệu tốt thúc đẩy sự tiếp cận của doanh nghiệp với ngân hàng. Nhưng nếu xem xét theo tốc độ phát triển của nền kinh tế, thì qui mô cho vay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp trong nền kinh tế, do vậy cần mở rộng quy mô cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vì đây là thị trường hấp dẫn và thu hút khách hàng. Về doanh số cho vay: Một trong các chỉ tiêu phản ánh của cho vay là doanh số cho vay, để biết được doanh số cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp ta xem xét qua các số liệu. Bảng 2.12 Doanh số cho vay đối với doanh nghiệp Đơn vị: Tỷ đồng. Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Doanh số cho vay ngắn hạn 3.986 4.885 6.248 Doanh số cho vay doanh nghiệp 4.612 5.728 7125 Tỷ trọng 86% 85% 88% (Nguồn Báo cáo tài chính SGDI- NHCTVN) Cũng như các ngân hàng khác, SGDI-NHCTVN cho vay với nhiều hình thức khác nhau, với loại hình cho vay đa dạng phong phú. Vậy nên doanh số cho vay của SGDI khá cao trong toàn hệ thống. Với loại hình cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tuy chiếm tỷ trọng chưa cao so với loại hình cho vay trung và dài hạn nhưng doanh số cho vay trong một vài năm gần đây đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên phải nói là tỷ trọng cho vay ngắn hạn của SGDI còn thấp so với các ngân hàng khác do SGDI vẫn còn quá chú trọng đối với loại hình cho vay trung và dài hạn, các hình thức cho vay chưa đa dạng phong phú, chưa phát triển hình thức cho vay cầm cố chứng khoán, vay qua thẻ tín dụng, vấn đề tài sản đảm bảo vẫn rất phức tạp cho các món vay.. Qua các số liệu trên chỉ ra rằng doanh số cho vay đối với doanh nghiệp tăng và có tốc độ tăng chưa thực sự cao, trong đó vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng khá lớn và cũng có sự tăng trưởng qua các năm. Như vậy, cho vay đối với doanh nghiệp sẽ có xu hướng tăng thêm khi mục tiêu cho vay của ngân hàng ngày càng chú trọng vào đối tượng doanh nghiệp. Nhất là khi nước ta đã gia nhập các tổ chức quốc tế, sẽ khiến cho tỷ trọng cho vay ngắn hạn và tỷ trọng cho vay trung và dài hạn thay đổi thường xuyên theo nhu cầu đổi mới về công nghệ của doanh nghiệp cũng như nhu cầu của hoạt động kinh doanh thường xuyên. Đây cũng là vấn đề mà ngân hàng cần quan tâm để đa dạng hoá các hình thức cũng như đối tượng cho vay và đẩy mạnh mở rộng cho vay ngắn hạn đối với đối tượng là doanh nghiệp. Thứ hai: Dư nợ cho vay ngắn hạn Về con số sư nợ cho vay ngắn hạn của SGDI đối với các doanh nghiệp trong vài năm trở lại đây tăng lên đáng kể, con số này phản ánh qua các con số như tăng trưởng tín dụng và quy mô cho vay ngắn hạn qua các năm. Năm 2005 dư nợ cho vay ngắn hạn của SGDI là 108 tỷ đồng, sang đến năm 2006 con số này giảm nhẹ xuống chỉ còn 98 tỷ đồng. nhưng bước sang năm 2007con số này đã tăng mạnh trở lại lên đến 155 tỷ đồng. Trong những năm qua tốc độ tăng trưởng cho vay ngắn hạn đã có sự tăng trưởng nhưng chưa đáng kể. Trong thời gian tới tốc độ tăng trưởng của khối doanh nghiệp rất lớn nên SGDI cần đề ra các chính sách cho vay ngắn hạn đúng hướng nhằm mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp, đồng thời tăng các khoản thu nhập cho ngân hàng. Thứ ba: Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn đối với doanh nghiệp Trong những năm qua, hoạt động tín dụng của SGDI đã có nhiều chuyển biến tích cực chất, tốc độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng quản lý và giám sát, cho vay thận trọng, không chạy theo số lượng hướng tới cơ cấu tín dụng cân đối hợp lý. Vì vậy chất lượng tín dụng được nâng cao rõ rệt, các khoản cho vay đều được thẩm định chặt chẽ nên tỷ trọng cũng như số tuyệt đối của dư nợ quá hạn đối với doanh nghiệp chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng dư nợ và cuối năm vừa qua là 0 %. Bảng 3.13 Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn đối với doanh nghiệp Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Dư nợ 108 98 155 Nợ quá hạn 4,6 3,1 0 Tỷ lệ nợ quá hạn 0,04% 0,03% 0% (Nguồn Báo cáo tài chính SGDI-NHCTVN) Qua số liệu về dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp tại SGDI-NHCTVN tỷ lệ nợ quá hạn của Sở đã giảm dần qua các năm và kết quả đạt được trong năm qua là đáng khâm phục, nó cho thấy chất lượng tín dụng của Sở đảm bảo an toàn và hoạt động hiệu quả. Năm 2005 dư nợ quá hạn đối với doanh nghiệp là 4,6 tỷ đồng chiếm 0,04% trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp, sang đến năm 2006 nợ quá hạn đã giảm xuống còn 3,1 tỷ đồng chiếm 0.03% trong tổng số dư nợ cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp. Sang đến năm 2007 đã không còn dư nợ quá hạn, đã khẳng định một lần nữa chất lượng tín dụng của ngân hàng. Đây là thành công lớn của SGDI trong hoạt động tín dụng, tạo dựng hình ảnh ngân hàng uy tín và đảm bảo đối với khách hàng. Như vậy công tác mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp đã thực hiện và thực hiện khá tốt trong thời gian qua, điều này cần phát huy đẩy mạnh trong thời gian tới. 2.3 Đánh giá về thực trạng mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại SGDI. 2.3.1 Những thành công . Qua các phân tích trên chúng ta thấy rõ, Công tác cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp đã được triển khai và thu được nhiều thành công ở mức độ nhất định Thể hiện qua sự đa dạng và phong phú hình thức cho vay, hướng tới đối tượng là doanh nghiệp đang có nhiều tiềm năng và tràn đầy hứa hẹn, doanh số cho vay của SGDI tăng nhanh theo các năm, năm 2005 là 5.193 tỷ đồng tiếp đến năm 2006 là 5.231 tỷ đồng, và con số này đạt .. tỷ đồng năm 2007 vừa qua. Dư nợ cho vay hàng năm của ngân hàng tăng lên theo chiểu hướng ngày càng đa dạng hóa các ngành nghề cho vay, cơ cấu cho vay theo loại tiền, theo thời gian cũng thay đổi theo chiều hướng tích cực. Tỷ lệ nợ quá hạn qua các năm giảm dần năm 2005 là 0,04% năm 2006 là 0,03% và đến năm 2007 thì không còn nợ quá hạn. Qua đó thể hiện sự nỗ lực của SGDI đã có dự nỗ lực rất nhiều trong công tác nâng cao chất lượng tín dụng và mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp, đặc biệt là nâng cao tỷ trọng cho vay ngắn hạn đối với loại hình này. Có thể nói rằng, Sở giao dịch I là chi nhánh hoạt động an toàn nhất trong các ngân hàng thương mại nói chung và hệ thống Ngân hàng Công Thương Việt Nam nói riêng, vì dư nợ quá hạn của ngân hàng năm nào cũng chiếm tỷ lệ không đáng kể và bằng không. Điều này còn thể hiện mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng hầu như không có. Chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao song lại hạn chế bớt khả năng mở rộng hoạt động cho vay bởi vì bên cạnh việc nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cũng đa dạng hóa các hình thức bảo đảm cho vay linh hoạt hơn trong việc định giá cho tài sản đảm bảo của doanh nghiệp. Sở giao dịch I còn áp dụng chính sách lãi suất cho vay ưu đãi đối với các khách hàng chiến lược, khách hàng đặc biệt. Trong trường hợp vay đặc biệt cán bộ tín dụng có thể điều chỉnh lãi suất cho vay trong từng trường hợp, cho vay từng lần. Có thể nói vấn đề lãi suất hết sức nhạy cảm, tạo ra sức hút từ lãi suất đã thu hút khách hàng tới ngân hàng. Cụ thể hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp có quan hệ vay vốn tại SGDI, riêng năm 2007 vừa qua đã có thêm… doanh nghiệp đặt quan hệ vay vốn tại Sở. Về các dịch vụ đi kèm, Sở giao dịch I luôn thực hiện các dịch vụ đi kèm khi cho vay rất tiện lợi cho các doanh nghiệp như: Thu lãi ngoài giờ làm việc khi có yêu cầu của doanh nghiệp, thu lãi tại doanh nghiệp khi doanh nghiệp ở xa không có điều kiện đến thanh toán lãi.. Đây là điều rất thuận lợi đối với các doanh nghiệp khi vay vốn tại Sở, Điều này sẽ thu hút khách hàng là các doanh nghiệp và công tác mở rộng cho vay ngắn hạn sẽ hợp lý. Để mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp đạt được hiệu quả thì ngay từ khâu tín dụng đã phải chuẩn xác, kỹ càng. Tại SGDI quy trình tín dụng được phân thành 3 cấp từ cán bộ tín dụng – phòng phục vụ khách hàng – ban tín dụng. Việc phân cấp này đảm bảo cho công tác tín dụng đạt hiệu quả cao, đồng thời hạn chế được rủ ro tín dụng. Quá trình quản lí khoản vay trong và sau khi giải ngân được cán bộ tín dụng thực hiện nghiêm túc bằng các biện pháp: theo dõi sát hoạt động kinh doanh của khách hàng bằng cách thăm khách hàng thường xuyên đột xuất, tìm hiểu thông tin khách hàng qua các phương tiện công cộng, qua các trung tâm thông tin hay qua chính các ngân hàng và khách hàng khác, theo dõi nhắc nhở đôn đốc thường xuyên việc trả nợ gốc và lãi của khách hàng. Để phục vụ công tác quản lí, định kỳ nhân viên tín dụng phải thống kê và xác định tình trạng cuả món vay cũng như khả năng tài chính của khách hàng cũng như nguyên nhân của các khoản nợ quá hạn nếu có để cán bộ tín dụng kịp thời có sự điều chỉnh về chính sách tín dụng và biện pháp xử lý hiệu quả. QUY TRÌNH NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP Tiếp xúc với K/H, hướng dẫn lập hồ sơ NVA/O Tiếp thị, giới thiệu SP KH đến ngân hàng xin vay vốn Hoàn thiện hồ sơ tín dụng - Phòng thẩm định TSĐB lập tờ hợp đồng bảo đảm tiền vay và thủ túc công chứng nhận bàn giao tài sản. - NA/O DN nhập kho hồ sơTSĐB sau đó lập tờ trình hồ sơ TD để ban TGĐ hoắc GĐ chi nhánh kí duyệt. Tập hồ sơ trình ban TD/ Hội đồng TD NVA/O DN tập hồ sơ do KH cung cấp và tờ trình của các bộ phậ để trình ban TD/ Hội đồng TD quyết định Tiếp nhận hồ sơ cho vay - NVA/O làm việc với KH cung cấp và tờ trình của các bộ phận để trình ban TD/ hội đồg TD quyết định Kiểm tra và xử lí nợ cho vay - NV A/O DN chịu trách nhiệm kiểm tra sau khi cho vay về mục đích sử dụng và tình hình tài chính, hoạt động của KH - P.thẩm định TSĐB kiểm tra về TSĐB - A/O DN theo dõi tu gốc, lãi phân tích rủi ro theo từng đối tượng khu vực KH -Kiểm tra việc trả lãi ( số tiền, thời hạn) Giao P> KTKT nội bộ NV A/O DN thẩm định KH về mọi mặt P.Thẩm định TSĐB thực hiện định giá TSĐB và lập tờ trình Thực hiện quyết định cấp TD Giải ngân/ phát ành BL/ mở L/C Nắm rõ rằng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định trong hạn chế rủi ro, sở giao dịch I rất chú ý đến vấn đề này, nhân viên tín dụng và cán bộ tín dụng được tuyển chọn kỹ càng, được đào tạo về nghiệp vụ và chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó, nhiều cuộc hội thảo tổng kết kinh nghiệm cũng đã được tổ chức nhằm giúp nhân viên hiểu biết sâu sắc hơn về thức tế và tích lũy cho mình những kinh nghiệm cần thiết. Về việc thù lao lao động được quan tâm đúng mực đã giúp ngân hàng giữ được người giỏi lại tránh được vấnđề rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng. 2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1 Những mặt hạn chế Hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp tại Sở giao dịch I đã thu được một số thành công, tốc độ tăng trưởng dư nợ của hoạt động cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp chưa thực sự cao, doanh số cho vay tăng qua các năm nhưng tốc độ tăng không thực sự lớn. Bên cạnh những kết quả và thành tựu đạt được, vì những lý do từ môi trường bên ngoài, từ doanh nghiệp và từ chính bản thân ngân hàng đã làm cho hoạt động cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Sau đây là một số hạn chế ngân hàng gặp phải khi triển khai công tác mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp: Hạn chế hình thức cho vay Hiện nay ngân hàng đang triển khai hai hình thức cho vay ngắn hạn chính là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức. Trong thị trường cạnh tranh như ngày nay, các loại hình dịch vụ đều được đa dạng hóa. Hạn chế về hình thức cho vay dẫn đến hạn chế về phân tán rủi ro, hạn chế về việc tiếp cận vốn của ngân hàng đối với doanh nghiệp và đáp ứng cũng như sự thỏa mãn nhu cầu khách hàng một cách tối ưu . Chất lượng công tác thẩm định chưa thực sự cao Công tác thẩm định của cán bộ tín dụng còn gặp nhiều khó khăn, cán bộ tín dụng rất khó đánh giá được hết tình hình tài chính của khách hàng do vậy nhiều khi không tránh hết được rủi ro. Mặt khác do các báo cáo tài chính của ngân hàng chưa được kiểm toán, do vậy khi thẩm định các cán bộ tín dụng thường hay nghi ngờ số liệu mà khách hàng cung cấp, từ đó có thể dẫn đến việc từ chối một số khách hàng, đây cũng là một hạn chế trong việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp. Bên cạnh đó công tác thẩm định với rất nhiều quy trình mất rất nhiều thời gian nhưng toàn bộ đều do cán bộ tín dụng làm chứ chưa có phòng thẩm định. Đầu tư cho doanh nghiệp chưa được quan tâm, chú trọng. Khối lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp thực chất vẫn còn quy mô nhỏ so với trung và dài hạn đối với doanh nghiệp. Tuy trong những năm qua số lượng khách hàng doanh nghiệp có tăng lên đáng kể nhưng chưa được xem là nhiều. Ngân hàng và doanh nghiệp chưa thực sự hiểu hết về nhau, do đó ngân hàng không nắm được nhiều thông tin về doanh nghiệp và ngược lại doanh nghiệp cũng không có thông tin về ngân hàng. Đó chính là hạn chế thể hiện ở chỗ ngân hàng chưa chú trọng đến hoạt động Marketing của mình. Cán bộ tín dụng chưa được truyền tải kinh nghiệm công nghệ như cập nhật thông tin trên thị trường nhiều do đó chưa chủ động thông tin đến khách hàng, bỏ qua rất nhiều khach hàng tiềm năng có thể cho vay hiệu quả như khu công nghiệp, khu chế xuất. Các hoạt động hỗ trợ của ngân hàng đối với doanh nghiệp còn nghèo nàn, ngân hàng chưa tham gia các hoạt động của các hội hay các quỹ dẫn đến không nắm hết được tình hình của doanh nghiệp, không mở rộng được cho vay tín chấp, hạn chế trong việc kiểm soát hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Công tác định giá tài sản chưa thực hiện tốt Là một vấn đề gây trở ngại lớn nhất trong công tác cho vay của ngân hàng. Doanh nghiệp muốn vay vốn thì bắt buộc phải có tài sản đảm bảo, ngân hàng coi nó là vật thay thế khoản vay khi khách hàng đến hạn mà không thanh toán được nợ. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp thường không có tài sản đảm bảo nên không thể vay vốn được ở ngân hàng cho dù tình hình tài chính tốt hay có khả năng trả nợ, đôi khi có tài sản đảm bảo nhưng giấy tờ về quyền sở hữu mập mờ, khó xác đinh. Đây là trở ngại rất lớn trong thủ tục của ngân hàng, nhất là trong điều kiện hiện nay có nhiều doanh nghiệp trong qua trình chuyển đổi tài sản doanh nghiệp chưa đủ thủ tục pháp lý nên khó khăn cho ngân hàng trong việc nhận thế chấp tài sản, vì vậy nói chung hạn chế công tác mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp. Việc định giá tài sản thế chấp còn thấp đối với đất đai việc định giá chủ yếu căn cứ vào đơn giá về đất do UBND cấp tỉnh ban hành, đối với bất động sản ( máy móc thiết bị, phương tiện vận tải..) việc định giá chủ yếu căn cứ vào giá trị còn lại của tài sản. Do vậy giá trị tài sản thế chấp cũng như tài sản cầm cố được định giá thường thấp hơn giá thị trường. Hệ quả của việc này là doanh nghiệp không vay được vốn ở ngân hàng, hoặc nếu có vay được thì giá trị món vay thấp không đáp ứng được nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh. 2.3.2.2 Nguyên nhân Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại SGDI vẫn còn kém so với kế hoạch do một số nguyên nhân sau: Thứ nhất, Hệ thống thông tin của SGDI chưa được hoàn thiện. Thông tin đầy đủ và chính xác là yếu tố không thể thiếu được để có quyết định tín dụng đúng đắn. Hệ thống thông tin của SGDI còn chưa được tốt trên hai giác độ. Thứ nhất thông tin cung cấp cho nhân viên tín dụng còn thiếu và chưa đồng bộ. Đến hiện nay, hầu hết các quyết định cho vay của nhân viên tín dụng đều dựa trên thông tin tự tìm hiểu, đánh giá của bản thân và lịch sử quan hệ tín dụng của khách hàng và ngân hàng. Ngân hàng chưa tận dụng khai thác triệt để trung tâm thông tin của ngân hàng nhà nước(CIC); chưa có sự liên kết trao đổi thông tin một cách chính thức với các ngân hàng khác; chưa khai thác được nguồn thông tin từ các tổ chức xếp hạnh doanh nghiệp Việt Nam cũng như quốc tế. Điều này làm cho việc ra quyết định cho vay chủ yếu dựa vào chủ quan của nhân viên tín dụng, tính may rủi vẫn còn cao, vì thế đem lại rui ro tín dụng lớn cho ngân hàng gây hạn chế cho công tác mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp. Thứ hai là việc báo cáo về tình hình tín dụng cấp dưới lên cấp trên đôi khi còn chậm trễ và thiếu chính xác dẫn đến các chỉ đạo không kịp thời, góp phần gây nên rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Đồng thời thông tin liên lạc giữa ngân hàng và doanh nghiệp đôi khi bị gián đoạn. Thứ hai: SGDI chưa xây dựng được chính sách tín dụng cụ thể và thích hợp với từng thời kỳ Sở giao dịch có hệ thống điều hành tốt, trên thực tê là thời gian qua nhờ chính sách đổi mới đúng đắn của mình mà SGDI đã thực sự phát triển được như ngày nay; Tuy nhiên, chính sách tín dụng của sở còn chưa cụ thể và chưa gắn liền với thực tế từng thời kỳ. Các chỉ đạo về tín dụng còn mang tính chung chung và hầu hết là các chỉ đạo rời rạc không hệ thống chỉ mang tính tình thế. Chính sách tín dụng không rõ ràng làm cho hoạt động của các phòng tín dụng không có một sự chỉ đạo xuyên suốt, các quyết định tín dụng theo hướng quá chung nhiều khi bị phân tán vừa đem lại ít hiệu quả về lâu dài cho ngân hàng vừa tạo điều kiện cho các nhân viên có đạo đức nghề nghiệp kém thực hiện các hành vi xấu, gây rủi ro cho ngân hàng. Thứ ba: Chất lượng thẩm định khách hàng trước khi cho vay của ngân hàng c òn chưa cao. Việc thẩm định khách hàng trước kho cho vay là việc làm vô cùng quan trọng trong việc ra quyết định cho vay. Đánh giá chính xác khách hàng ở giai đoạn này ngân hàng đã thực hiện phần lớn việc cần làm để hạn chế rủi ro tín dụng, đảm bảo sự hiệu quả của công tác mở rộng cho vay, bởi vậy mở rộng cho vay phải đi kèm với đảm bảo chất lượng món vay. Việc thẩm định trước khi cho vay chủ yếu dựa vào đánh giá về năng lực, phẩm chất của người vay và phương án kinh doanh cũng như tình hình tài chính hiện có cuả người vay và phương án kinh doanh cũng như tình hình tài chính hiện có của người vay thông qua các báo cáo tài chính. Thực tế cho thấy, phương án kinh doanh hay các báo cáo tài chính đôi khi được các doanh nghiệp vẽ rất hoàn hảo. Chính vì vậy, thẩm định về năng lực, tư cách của người vay là một vấn đề quan trọng, thậm chí có thể coi là quan trọng nhất trong quyết định cho vay. Tuy nhiên, ở SGDI vấn đề này chưa được quan tâm một cách đúng mức, đánh giá về năng lực phẩm chất của người vay còn sơ sài và chiếm một tỷ trọng không lớn trong việc chấm điểm khách hàng. Thực tế cho thấy nhiều phương án kinh doanh đưa ra để vay vốn rất tốt nhưng đến khi làm thức tế thực tế thì lại thua lỗ. Chính vì việc đánh giá năng lực và phẩm chất của người vay chưa được coi trọng đúng mức đã tạo ra nhiều rủi ro tín dụng khiến cho tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay ngắn hạn của SGDI còn thấp. Mặt khác, thủ tục cho vay vốn đối với SGDI là quá cứng nhắc đối với vấn đề tài sản đảm bảo và đánh giá giá trị tài sản đảm bảo, điều này hạn chế rất nhiều cho daonh nghiệp nếu như nó mới hình thành và có nhu cầu vay vốn. Các doanh nghiệp mới cổ phần, vấn đề giấy tờ sở hữu gắp khó khăn vì vậy các doanh nghiệp gặp khó khăn về vấn đề tài sản thế chấp khi vay vốn cho vay tại SGDI. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến hoạt động cho vay ngắn hạn của SGDI còn nhiều yếu điểm trong thời gian qua. Thứ tư: Hình thức cho vay ngắn hạn của SGDI chưa phong phú. Các hình thức cho vay cuả SGDI mới chính là các hình thức vay thông thường, vừa chưa có hình thức cho vay nào đặc sắc, các dịch cụ đi kèm cũng chưa có nhiều. Điều này có nghĩa là họat động cho vay ngắn hạn của SGDI chưa được đa dạng hóa ở mức cần thiết, trong khi đó đa dạng hóa là một nguyên tắc đề phòng rủi ro, mở rộng cho vay, hướng tới nhiều đối tượng kinh doanh, nâng cao doanh lợi từ hoạt động cho vay ngắn hạn. Đây cũng là nguyên nhân của việc mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại SGDI chưa được như mong muốn trong thời gian qua. Thứ năm: Hoạt động Marketing và quảng cáo chưa được đẩy mạnh Trong những năm qua, tuy chính sách Marketing của Ngân hàng Công Thương đã được thực hiện như tổ chức các hội chợ thương mại, các hoạt động từ thiện.. Nhưng các hoạt động khác như quảng bá thương hiệu, các hoạt động quảng cáo qua kênh thông tin đại chúng như truyền hình chưa được chú trọng, bên cạnh đó chưa phản ánh được hình ảnh của mình qua các phong trào văn nghệ thể thao của thành phố. Thứ sáu: Cung ứng dịch vụ hỗ trợ khách hàng chưa tốt Các hoạt động dịch vụ hỗ trợ khách hàng ở Ngân hàng Công Thương thời gian qua tuy đã có nhưng chưa đáp ứng được mong muốn của khách hàng, chưa thực sự đáp ứng được những gì mà vai trò của hoạt động dịch vụ hỗ trợ khách hàng đề ra. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TẠI SGDI-NHCTVN 3.1 Định hướng hoạt động tín dụng của SGDI trong thời gian tới. Trên cơ sở kết quả đạt được trong những năm qua và căn cứ vào định hướng phát triển của NHCT Việt Nam đề ra mục tiêu nhiệm vụ kinh doanh năm 2008 cụ thể như sau: Đẩy mạnh các biện pháp huy động vốn, đặc biệt là nguồn tiền gửi dân cư. Duy trì ổn định khách hàng gửi tiền truyền thống, chú trọng khai thác nguồn vốn của các tổ chức kinh tế, đoàn thể xã hội, đơn vị sự nghiệp có thu, tạo ra nhiều kênh huy động vốn mới cơ cấu cân đối, ổn định. Đặc biệt quan tâm việc nâng cao chất lượng phục vụ, cải tiến thủ tục giao dịch nhanh chóng, chính xác an toàn. Chủ động nắm bắt tình hình kinh doanh, kế hoạch sử dụng vốn và nhu cấu sử dụng các sản phẩm dịch vụ, lãi suất, phí suất dịch vụ.. của khách hàng, để thực hiện chính sách tiếp thị, khuyến mại linh hoạt, phù hợp và hấp dẫn với khách hàng gửi tiền, ổn định và tăng cường huy động vốn. Tăng trưởng tín dụng trong vòng kiểm soát, đảm bảo an toàn hiệu quả. Căn cứ vào định hướng của NHCT, chương trình phát triển kinh tế của Hà Nội và diễn biến của thị trường để cho vay đúng hướng. Đẩy mạnh cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân, cá thể hộ gia đình sản xuất. Tiếp tục bổ sung tài sản đảm bảo vốn vay, nâng cao tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo lên 50% tổng dư nợ cho vay. Nâng cao năng lực thẩm định, kiểm tra giám sát và quản lí rủi ro để đảm bảo an toàn và hiệu quả tiền vay, không phát sinh nợ xấu. Tiếp tục làm việc với cơ quan chức năng để xử lí thu hồi các khoản nợ tồn đọng cũ. Đẩy mạnh nâng cao chất lượng của các sản phẩm dịch vụ nhằm tạo được sự khác biệt của sản phẩm và có tính cạnh tranh cao. Áp dụng linh hoạt biểu phí dịch vụ, nhằm thu hút khách hàng. Đẩy mạnh phát triển thẻ ATM và đẩy mạnh các giá trị gia tăng cho sản phẩm thẻ. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chú trọng đào tạo chuyên sâu theo từng nghiệp vụ, trong đó tăng cường đào tạo tại chỗ. Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, đánh giá sử dụng cán bộ phù hợp với năng lực để phát huy tác dụng tốt. Xây dựng văn hóa kinh doanh công sở nhằm nâng cao uy tín và thương hiệu của NHCTVN Tiếp tục củng cố và mở rộng màng lưới kinh doanh. Trang bị đầy đủ phương tiện làm việc phù hợp với từng nghiệp vụ, trên cơ sở tiết kiệm chi phí. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đảm bảo an toàn mọi mặt hoạt động. Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra định kỳ, đột xuất, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai sót, nâng cao ý thức chấp hành cơ chế, quy trình nghiệp vụ. Một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh năm 2008 Đơn vị: Tỷ đồng Khoản mục Năm 2007 Kế hoạch năm 2008 Tốc độ Tổng nguồn vốn huy động 16.718 18390 10% Tổng dư nợ 4.360 5232 20% Tỷ lệ nợ quá hạn 0% <1% - Lợi nhuận hạch toán nội bộ 328 360 10% ( Nguồn báo cáo tài chính SGDI-NHCTVN) 3.2 Giải pháp mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp. Theo phân tích ở trên, Doanh nghiệp là loại hình kinh doanh đang rất phát triển ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, do vậy nhu cầu về vốn của doanh nghiệp là rất lớn, vậy nên đối tượng hướng tới trong chiến lược cho vay trong thời gian tới là doanh nghiệp, cần phải được quan tâm hơn, phát triển đồng bộ, mở rộng cho vay ngắn hạn đối với thành phần kinh tế trên sẽ mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên, mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại SGDI –NHCTVN không còn là công tác mới mẻ, nhưng là công tác cần được chú trọng phát triển hơn nữa vì nó chưa thực sự phát triển, tốc độ tăng trưởng chưa cao. Trong thời gian qua, SGDI-NHCTVN đã áp dụng chính sách cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp và đã thu được những thành công nhất định như: dư nợ cho vay ngắn hạn, doanh số cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp đều tăng qua các năm và có tốc độ khá tốt trong vài năm gần đây và trong thời gian tới phấn đấu hơn nữa trong năm 2008 khi SGDI mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp. Doanh số cho vay và dư nợ ngắn hạn đối với doanh nghiệp này tăng nhanh, trong khi đó tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm đáng kể, đặc biệt trong năm vừa qua là 0%. SGDI-NHCTVN luôn đảm bảo tỷ lệ dư nợ quá hạn dưới 1% theo yêu cầu được giao của Ngân hàng Công Thương Việt Nam, đạt yêu cầu của Ngân hàng Nhà Nước. Tuy vậy, mở rộng cho vay ngắn hạn là công việc không thể thiếu và ngày càng cần được chú trọng nhằm mang lại khoản thu nhập ngày càng lớn cho ngân hàng. 3.2.1 Đẩy mạnh công tác huy động vốn. Để mở rộng cho vay với doanh số lớn, dư nợ cao cũng như thiết lập mối quan hệ lâu dài với các khách hàng cần có một lượng vốn lớn và dồi dào. Muốn được như vậy công tác huy động vốn cũng cần phải chú trọng nhằm tạo ra nguồn vốn để mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiêp khi mà tốc độ tăng trưởng của khu vực doanh nghiệp nhanh chóng như ngày nay. Trong môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng như ngày nay, để có thể mở rộng được nguồn vốn huy động SGDI cần: Đa dạng hoá các loại hình tiết kiệm, nhằm mục đích huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi từ các thành phần kinh tế như tiết kiệm dân cư, nguồn dự trữ của các doanh nghiệp.. Nghiên cứu phân tích thị trường. nhằm tìm kiếm các đơn vị tổ chức kinh tế xã hội để khai thác nguồn vốn. Đẩy mạnh các hoạt động như quảng cáo, tuyên truyền nhằm thu hút nguồn vốn từ dân cư, bên cạnh đó cần tiếp tục đưa ra các chương trình khuyến mãi, tặng quà hấp dẫn. Có các chính sách phù hợp như chăm sóc khách hàng nhằm duy trì ổn định nguồn vốn huy động cũng như mối quan hệ khách hàng tiềm năng. 3.2.2 Hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ, tăng cường sử dụng thông tin bên ngoài. Một trong những nguyên nhân của chất lượng thẩm định chưa cao là do thiếu thông tin về khách hàng cho vay, mà yếu tố quan trọng trong mở rộng cho vay ngắn hạn là phải xác định rõ đối tượng cho vay, loại hình cho vay và phương thức cho vay nhằm hạn chế rủi ro tín dụng và mang lại lợi nhuận tối đa. Để có được sự đánh giá chính xác về khách hàng trong việc quyết định cho vay, nhân viên tín dụng cần phải tìm hiểu rất nhiều thông tin cá nhân về khách hàng, cần phải sử dụng nhiều thông tin nội bộ như quan hệ tín dụng của khách hàng với ngân hàng, nguồn thông tin từ bên ngoài như mối quan hệ tín dụng đang có của khách hàng với các tổ chức tín dụng khác cũng như các tỷ số nhằm đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng khi vay vốn tại ngân hàng. Nguồn thông tin nội bộ đóng vai trò quan trọng trong hoạt động quản lí của ngân hàng, nhằm đưa ra các quyết định liên quan đến quy trình tín dụng hay xử lí các món vay. Tình trạng thực tế về nguồn thông tin nội bộ ở SGDI chưa thực sự tốt, như nguồn báo cáo từ các phòng giao dịch lên sở còn chậm hoặc chứa đựng các thiếu sót ảnh hưởng đến quyết định tín dụng. Ngoài ra, SGDI còn chưa thực sự khai thác triệt để nguồn thông tin từ trung tâm thông tin của tín dụng nhà nước. Vậy nên trong thời gian tới SGDI nên nâng cao hệ thống thông tin bằng cách nâng cấp các phần mềm quản lí tin học, tạo các mối quan hệ nhằm thu thập các thông tin cần thiết nhằm phục vụ cho các quy trình tín dụng, thông tin thu thập cần truy xét một cách chính xác nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất. Bên cạnh đó, nhân viên tín dụng cũng cần tăng cường đẩy mạnh các mối quan hệ bên ngoài nhằm thu thập các thông tin cần thiết phục vụ cho quy trình thẩm định tín dụng đưa ra các quyết định tín dụng cần thiết. Không những nhân viên tín dụng cần nắm bắt thông tin mà khách hàng cung cấp mà cần tìm hiểu thêm thông tin về khách hàng qua các kênh thông tin khác như báo chí, internet, truyền hình.. nhân viên tín dụng cũng nên viếng thăm khách hàng thường xuyên. Một phần để theo dõi tình hình của khách hàng, phần nữa nhằm tạo nên sự gần gũi giữa khách hàng và ngân hàng. Một cách thu thập thông tin khá hiệu quả là tiếp cận các chủ nợ của khách hàng, tìm hiểu thông tin qua các chủ nợ. Thông tin là một phần để đưa ra quyết định tín dụng nên nhân viên tín dụng cần sàng lọc thông tin một cách kĩ càng nhằm thu được một nguồn thông tin đáng tin cậy giúp ích cho quyết định tín dụng của mình giảm thiểu sự sai sót. 3.2.3. Tạo thế cạnh tranh cho ngân hàng bằng cách tăng cường hoạt động Marketing ngân hàng Trong thời gian qua hoạt động Marketing và quảng cao của ngân hàng chưa được chú trọng.Mà một trong những phương thức mà ngân hàng nào cũng cần đến khi tham gia vào môi trường cạnh tranh khốc liệt là hoạt động Marketing. Trước đây Marketing chủ yếu để quảng bá thương hiệu cho các doanh nghệp sản xuất, thương hiệu của một doanh nghiệp.Sự phát triển mạnh mẽ của Marketing đã xâm nhập vào nhiều lĩnh vực mà ngân hàng không phải là đối tượng nằm ngoại phạm vi ảnh hưởng của nó, hiệu quả mà Marketing mang lại đã chứng minh điều đó. Nắm rõ vai trò quan trọng của hoạt động Marketing trong hoạt động của ngân hàng SGDI đã đưa vào để nâng cao vị thế của mình như: tham gia các hoạt động từ thiện, tài trợ và tổ chức các buổi hội thảo, nhưng các hoạt động đó chưa thực sự đủ trong một chiến dịch Marketing. Sở giao dịch I Ngân hàng công thương nên đẩy mạnh các mối quan hệ với khách hàng, các chương trình khuyến mại tặng quà khi gửi tiền tại ngân hàng để thu hút thêm các khách hàng mới, chương trình chế độ đối với khách hàng lâu năm để duy trì mối quan hệ bền chặt với khách hàng. Ngoài ra còn phải đẩy các chương trình nhằm quảng cáo về hình ảnh của ngân hàng. 3.2.4 Chú trọng hơn nữa vào công tác đào tạo cán bộ Một trong những nguyên nhân của công tác thẩm định và định giá tài sản đảm bảo của khác hàng chưa tốt là do trình độ đội ngũ chưa được trau dồi thường xuyên. Ngân hàng mạnh thể hiện qua sự có mặt của đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn giỏi và có đạo đức nghề nghiệp. Nhân viên ngân hàng giỏi sẽ có khả năng tiếp cận và mở rộng các món vay, đồng thời có khả năng quản lí món vay một cách phù hợp, đưa ra các định hướng đúng đắn cho sự phát triển của ngân hàng, giảm thiểu hay hạn chế các rủi ro tín dụng mà ngân hàng có thể gặp phải. Bên cạnh chuyên môn giỏi, đạo đức nghề nghiệp là một yếu tố hết sức quan trọng, đặc biệt là trong môi trường ngân hàng lại càng được quan tâm hơn. Chính vì vậy mà công tác đào tạo cán bộ luôn phải được quan tâm đúng mực. Sở giao dịch I đã có một đội ngũ trẻ năng động nhiệt tình trong công việc nhưng kinh nghiệm chưa nhiều nên công tác đào tạo cán bộ cần chú trọng hơn. Để làm được điều đó ngân hàng cần tìm hiểu đánh giá đúng năng lực của từng cá nhân trong ngành, thường xuyên tổ chức học hỏi trao đổi kinh nghiệm trong ngân hàng với nhau để nâng cao trình độ cán của các nhân viên trong ngân hàng một cách hiệu quả hơn. 3.2.5 Củng cố tăng cường dịch vụ hỗ trợ khách hàng. Trong thời gian qua, các hoạt động dịch vụ hỗ trợ khách hàng chưa đáp ứng được mục tiêu nhiệm vụ đề ra, loại hình dịch vụ chưa được khai thác. Vì vậy mà kết quả đạt được trong thời gian qua do dịch vụ hỗ trợ khách hàng mang lại chưa đáp ứng được yêu cầu. Dịch vụ hỗ trợ khách hàng là một trong những hoạt động có tác dụng nhằm thu hút thêm nguồn khách hàng mới đến với ngân hàng, cũng như dịch vụ chăm sóc khách hàng, trao đổi tìm cách thức giải quyết giữa ngân hàng và khách hàng nhằm đạt được hiệu quả cao nhất cho cả hai bên. Tuy vậy, trên thực tế thời gian qua chất lượng của hoạt động dịch vụ khách hàng chưa đạt được hiệu quả cao, nên trong thời gian tới ngân hàng cần chú trọng vào hoạt động dịch vụ này hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi khi thực hiện chiến lược mở rộng cho vay của ngân hàng. 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. - Ngân hàng nhà nước cần hoàn thiện hệ thống thể chế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tập trung xây dựng, hoàn thiện dự án Luật NHNN và luật các tổ chức tín dụng; xây dựng giám sát an toàn hoạt động ngân hàng, Luật Bảo Hiểm tiên gửi.. Hiện nay các ngân hàng thương mại đang hoạt động đều thực hiện cho vay theo quyết định 1627/ QĐ- NHNN ban hành ngày 31/12/2001 về quy chế cho vay đối với các tổ chức tín dụng và quyết định 127/ 2005/ QĐ- NHNN bổ sung sửa đổi quyết định 1627. Tuy nhiên các ngân hàng còn lúng túng trong việc cho vay theo các quy định của NHNN, các quy định về bảo đảm tiền vay, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Vậy nên trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà Nước cần có những quy định rõ ràng và cụ thể hơn đối với cho vay và quy mô cho vay của các ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng khi mở rộng cho vay. - Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường. - Cơ cấu lại tổ chức, bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng. - Đẩy mạnh chương trình tái cơ cấu, nâng cao năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng trong nước. - Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm cung cấp thông tin tín dụng Ở các nước phát triển, để giúp cho các ngân hàng và nhà đầu tư có được các thông tin chính xác, các trung tâm chuyên thu thập và xử lý thông tin, cung cấp thông tin được thành lập dưới dạng công ty. Công việc chính của các công ty này là thu thập các thông tin về hoạt động của các công ty trên khắp địa bàn, tiến hành phân tích dự báo phân loại các rủi ro và cung cấp cho các ngân hàng hay các nhà đầu tư khi có nhu cầu. Muốn có được các thông tín này người thụ hưởng dịch vụ phải thanh toán cho công ty một khoản phí nhất định. Hiện nay ở nước ta, Ngân hàng Nhà Nước cũng đã có thông tin tín dụng CIC, tuy nhiên hiệu quả hoạt động của trung tâm này chưa cao, chưa thực sự cung cấp các thông tin cần thiết đối với ngân hàng và các nhà đầu tư, thông tin mà trung tâm cung cấp là các thông tin chưa đầy đủ. Vì vậy mà hiệu quả của các thông tin của trung tâm cung cấp cho ngân hàng đem lại chưa cao, đê khắc phục tình trạng này NHNN nên đưa ra các quy định cần thiết bắt buộc các trung tâm cung cấp thông tin về khách hàng tổ chức hoạt động dưới dạng công ty, hoạt động độc lập nhằm cung cấp thông tin một cách hiệu quả hơn giúp cho hoạt động tín dụng hạn chế được rủi ro. 3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Công Thương Việt Nam Sau một thời gian thực tập tại SGDI-NHCTVN cũng như tìm hiểu qua một số thực tế các hoạt động cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp, em xin có một số kiến nghị đối với Ngân hàng Công Thương Việt Nam nhằm mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp trong thời gian tới: Ngân hàng nên xây dựng một chiến lược cho vay ngắn hạn dành cho đối tượng là doanh nghiệp như các cơ chế ưu đãi so với cho vay các đối tượng khác, ưu tiên hơn trong thực hiện thủ tục, các thủ đảm bảo tiền cho vay một cách linh hoạt, cho phép doanh nghiệp được dùng các tài sản hình thanh từ vốn để thế chấp cho khoản vay. Ngân hàng cúng nên giảm thiểu các giấy tờ có nội dung trùng lặp trong các hồ sơ vay vốn để giảm bớt thời gian thực hiện thủ tục, thẩm định. Chi phí quản lí và lưu trữ thông tin. Bên cạnh đó ngan hàng cũng nên xây dựng một mẫu báo cáo tài chính chuẩn cho các khách hàng là doanh nghiệp để thuận tiện hơn khi đến vay vốn tại ngân hàng ( tiết kiệm về thời gian khi khách hàng cung cấp thông tin mà ngân hàng cấn đánh giá). KẾT LUẬN Trong xu thế phát triển của nền kinh tế khi đã gia nhập tổ chức quốc tế như WTO, các doanh nghiệp ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Xu thế hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Đặc biệt là Sở Giao Dịch I, hoạt động này không chỉ mang lại cho ngân hàng một lượng kách hàng lớn một lượng lợi nhuận khá tốt mà còn tạo điều kiện cho sự tăng trưởng của số lượng doanh nghiệp tồn tại trong nền kinh tế, bên cạnh còn có tác dụng thúc đẩy, kích thích, góp phần vào sự phát triển kinh tê của nước nhà.Vậy nên, các ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng hiện đang đều rất nỗ lực thúc đẩy phát triển hoạt động này để thu được hiệu quả cao nhất. Với SGDI-NHCTVN, mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp là một mảng đang có rất nhiều tiềm năng phát triển mạnh, nó không chỉ thể hiện qua tốc độ tăng trưởng tín dụng của Sở qua các năm mà còn thể hiện qua doanh số cho vay và dư nợ của ngân hàng thời gian qua. Nắm rõ được nhu cầu của nền kinh tế và đặc biệt là nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp trong thời điểm hiện tại và trong thời gian sắp tới, toàn thể cán bộ nhân viên của SGDI đang ngày càng nỗ lực thực hiện và đa dạng hoá thêm các biện pháp nhằm mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp, từng bước khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế.Mặc dù vậy trong quá trình thực hiện ngân hàng sẽ gặp không ít khó khăn gắp phải, để thúc đẩy hoạt động này phát triển hơn nữa cần có sự quan tâm đúng mực của ban lãnh đạo và sự quyết tâm của các cán bộ nhân viên trong ngân hàng. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Ngân hàng thương mại – NXB Thống kê năm 2005 Quản trị ngân hàng thương mại – NXB Tài chính năm 2004 – Tác giả Peter Rose Báo cáo kết quả kinh doanh Sở giao dịch 1 – Ngân hàng công thương Việt Nam Tạp chí ngân hàng Văn bản luật kinh tế Thẩm định tín dụng Ngân hàng –NXB Tài chính – Tác giả TS. Nguyễn Minh Kiều Webside MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1 Tình hình huy động vốn 25 Bảng 2.2 Dư nợ cho vay 26 Bảng 2.3 Kết quả hoạt động kinh doanh của SGDI –NHCTVN qua các năm. 27 Bảng 2.4 Tổng tài sản và dư nợ cho vay qua các năm. 28 Bảng 2.5 Dư nợ cho vay và doanh số cho vay 29 Bảng 2.6 Kết cấu dư nợ cho vay theo thời hạn cho vay 31 Bảng 2.7 Kết cấu dư nợ theo thành phần kinh tế 33 Bảng 2.8 Kết cấu dư nợ theo nghành nghề 34 Bảng 2.9 Số Doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng 36 Bảng 2.10 Số doanh nghiệp vay vốn tại SGDI - NHCTVN 39 Bảng 2.11 Quy mô cho vay đối với doanh nghiệp. 40 Bảng 2.12 Doanh số cho vay đối với doanh nghiệp 42 Bảng 3.13 Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn đối với doanh nghiệp 44

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33180.doc
Tài liệu liên quan