Chuyên đề Giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch NHNo và PTNT Việt Nam

Cùng với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, việc phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các Ngân hàng thương mại là tất yếu. Hoạt động này vừa đáp ứng nhu cầu đổi mới đất nước và phát triển nền kinh tế thị trường mở, tức là phục vụ cho hoạt động thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế, thu ngoại tệ về cho đất nước, nó còn mang lại cho Ngân hàng thương mại lợi nhuận đáng kể trong tổng lợi nhuận của Ngân hàng thương mại. Đồng thời cũng giúp cho Ngân hàng thương mại nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế( tất nhiên điều này là rất khó) và từng bước tiến tới xây dựng một mô hình ngân hàng hiện đại, trong đó kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động không thể thiếu. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động phức tạp chứa nhiều rủi ro nên buộc các nhà hoạch định phải nghiên cứu thận trọng, các nhà thực hiện hay chính là các Ngân hàng thương mại phải có sự đầu tư cao không những về công nghệ ngân hàng với trang thiết bị hiện đại mà còn đòi hỏi trình độ đội ngũ kinh doanh phải có năng lực, hiểu biết sâu về ngoại hối, kinh doanh ngoại tệ, tương đối nhạy cảm với những biến đổi của thị trường. Vì vậy những nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của hoạt động này rất có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó, luận văn tốt nghiệp của em được hoàn thành với nội dung cơ bản như sau: Chương 1 : Trình bày những lý luận cơ bản về Ngân hàng thương mại và hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng thương mại, cũng như điều kiện để có hoạt động này và các nhân tố ảnh hưởng tới nó. Chương 2 : Trên cơ sở lí luận ở chương I, phân tích những nhân tố tác động trong thực tế tại Việt Nam đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các Ngân hàng thương mại nói chung và phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch NHNo. Qua đó đánh giá những mặt làm được và khả năng cạnh tranh vủa Sở giao dịch, những hạn chế tồn tại làm giảm năng lực cạnh tranh của Sở giao dịch, đồng thời tìm ra nguyên nhân của hạn chế đó. Chương 3 : Nêu ra định hướng phát triển mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch trong thời gian tới và những giải pháp để thực hiện các định hướng đó trên có sở lí thuyết nghiên cứu ở chương 1 và thực trạng phân tích ở chương 2. Đồng thời cũng nêu lên một số kiến nghị cần thiết đối với NHNN và NHNo Việt Nam. Mục đích của đề tài là nghiên cứu để đưa ra những giải pháp nhằm mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch NHNo song do tính phức tạp và mới mẻ của vấn đề, cộng với sự hiểu biết còn hạn chế và thiếu kinh nghiệm thực tế, em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn để đề tài được hoàn chỉnh hơn.

doc89 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1074 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch NHNo và PTNT Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tài khoản của chi nhánh mở tại Sở giao dịch. Sở giao dịch căn cứ vào Fax của chi nhánh sẽ hạch toán chi nợ tài khoản ngoại tệ của chi nhánh đồng thời chuyển số tiền VND tương ứng cho chi nhánh. Khi có nhu cầu mua ngoại tệ của Sở giao dịch, chi nhánh thực hiện: Thông báo nhu cầu mua ngoại tệ của Sở giao dịch bằng điện thoại. Fax gửi Sở giao dịch theo đúng quy định nói trên. Nếu chấp thuận Sở giao dịch gửi Fax xác nhận với chi nhánh. Chi nhánh tiến hành chuyển số VND tương ứng về Sở giao dịch trong ngày hiệu lực. Sở giao dịch căn cứ vào Fax của chi nhánh sẽ chi có số ngoại tệ tương ứng vào tài khoản ngoại tệ của chi nhánh mở tại Sở giao dịch. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có kì hạn và nghiệp vụ SWAPS Giao dịch mua bán có kỳ hạn là giao dịch trong đó hai bên cam kết sẽ mua, bán với nhau một số lượng ngoại tệ theo một mức tỷ giá xác định và việc thanh toán sẽ được thực hiện trong tương lai. Giao dịch mua bán hoán đổi là giao dịch bao gồm đồng thời cả giao dịch mua và giao dịch bán cùng một số lượng đồng tiền này với một đồng tiền khác( chỉ có hai đồng tiền được sử dụng trong giao dịch), trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch được xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng. Hai giao dịch này chưa được sử dụng phổ biến tại Sở giao dịch. Nghiệp vụ SWAP được thực hiện chủ yếu theo lệnh của NHNN. Tỷ trọng của hai giao dịch này trong tổng các giao dịch ngoại tệ là dưới 10%. Nguyên nhân của sự hạn chế này sẽ được trình bày trong phần khó khăn của hoạt động kinh doanh ngoại tệ. 2.3. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch. 2.3.1. Những kết quả đạt được. 2.3.1.1. Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ Bảng 3: Tình hình mua bán ngoại tệ trong ba năm Đơn vị tính: triệu USD Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Doanh số mua 510,7 100% 651 100% 749,4 100% Mua từ NHNN 306 59,92% 302 46,4% 134 17,88% Mua của các chi nhánh 195,6 38,3% 201 30,9% 567,6 76,94% Mua từ khách hàng Sở giao dịch 9,1 1,78% 20,6 3,1% 21,5 2,79% Mua từ nguồn khác 127,4 19,6% 26,3 3,41% Doanh số bán 510,8 100% 651 100% 761,5 100% Phân theo loại ngoại tệ USD 490,62 96,04% 618,2 94,96% 735,5 96,59% Ngoại tệ khác qui đổi 20,18 3,96% 32,8 5,04% 26,0 3,41% Phân theo đối tượng Bán cho chi nhánh 417,8 81,79% 543 83,42% 583,3 76,60% Bán cho khách hàng Sở giao dịch 69,4 13,59% 72,7 11,07% 74,0 9,72% Bán cho NHNN, nhu cầu khác 23,6 4,62% 35,3 5,51% 104,2 13,68% ( Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ các năm 2000, 2001,2002 ) Tình hình chung: Năm 2001 suy thoái kinh tế thế giới cùng với hậu quả của vụ khủng bố ngày 11/9 tại Mỹ đã tác động mạnh mẽ tới thị trường trong nước và quốc tế. Trên thị trường quốc tế, từ đầu năm 2001 cục dự trữ liên bang Mỹ đã 11lần cắt giảm lãi suất, đưa lãi suất cơ bản USD từ 6.5% xuống còn 1.75%, lãi suất của các đồng EUR, GBP cũng giảm mạnh. Tỷ giá một số ngoại tệ mạnh so với đồng USD biến động phức tạp, khó lường đoán được. Trong nước tình hình khan hiếm ngoại tệ diễn ra liên tục từ đầu năm. Doanh số mua bán ngoại tệ tăng giảm qua các năm như sau: Bảng 04: Doanh số mua bán ngoại tệ 2000-2001 Đơn vị: triệu USD Năm Tổng doanh số mua bán Doanh số mua vào Tăng/ giảm(%) Doanh số bán ra Tăng/ giảm(%) 2000 1021,5 510,7 510,8 2001 1202 651 + 27,47% 651 + 27,44% 2002 1510,9 749,4 + 15,12% 761,5 + 16,97% Nhận xét: Doanh số mua bán ngoại tệ liên tục tăng qua các năm từ 2000 đến 2002. Năm 2002, cầu ngoại tệ đã vượt quá cung ngoại tệ mặc dù Sở đã cố gắng thu hút tất cả các nguồn ngoại tệ trên thị trường. Tuy nhiên, Sở cũng đã đáp ứng được nhu cầu về ngoại tệ cho các chi nhánh trong hệ thống ngân hàng nông nghiệp trong giai đoạn khan hiếm ngoại tệ. Nguồn mua của Sở giao dịch trong năm 2000 và 2001 chủ yếu là từ NHNN. Năm 2000, doanh số mua của Sở là 510,7 triệu USD trong đó mua từ NHNN là 306 triệu, chiếm gần 60% tổng doanh số mua. Doanh số bán đạt 510,8 triệu, bán cho chi nhánh là 417,8 triệu. Doanh số này cân đối tuy doanh số bán ra lớn hơn doanh số mua vào. Tình trạng chung của cả hệ thống NHTM là khan hiếm ngoại tệ, các NHTM chỉ biết trông chờ vào nguồn ngoại tệ can thiệp từ NHTW. Năm 2000 giá xăng dầu trên thế giới tăng, kim nghạch xuất nhập khẩu của VN cũng tăng tương ứng, chủ yếu nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu dầu thô và cầu ngoại tệ từ trả cho nhập khẩu xăng dầu. Tuy nhiên ngoại tệ thu được từ xuất khẩu xăng dầu lại do nhà nước quản lý, Sở giao dịch không được phép kết hối nguồn ngoại tệ này, trong khi lại phải đáp ứng mọi nhu cầu thanh toán nhập khẩu xăng dầu. Năm 2001, tổng doanh số mua được từ NHNN là 302,8 triệu USD, trong đó có 20 triệu USD mua để thực hiện nghiệp vụ SWAP. Doanh số mua từ NHNN để thanh toán là 282,8 triệu USD giảm 23,2 triệu so với năm 2000. Ba tháng đầu năm, NHNN cơ bản hỗ trợ ngoại tệ thanh toán các mặt hàng Xăng dầu, phân bón, mía đường, thuốc trừ sâu. Tuy nhiên từ tháng 4 NHNN chủ yếu đáp ứng ngoại tệ cho Xăng dầu, các mặt hàng khác NHNN bán ít cho đến cuối tháng 12 năm 2001 NHNN lại tiếp tục hỗ trợ ngoại tệ cho thanh toán nhập phân bón. Doanh số bán ngoại tệ cho chi nhánh năm 2001 đạt 543,1 triệu tăng 125,3 triệu so với năm 2000 (30%) trong đó khai thác được từ thị trường liên ngân hàng là 77,1 triệu. Số ngoại tệ này phòng kinh doanh ngoại tệ đã huy động trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng dưới hình thức mua các ngoại tệ khác bằng VND( chủ yếu là mua EUR) và bán lại để lấy USD hỗ trợ cho các chi nhánh. Đây là cách xử lí rất có hiệu quả của phòng trước tình trạng ngoại tệ khan hiếm kéo dài trong năm 2001. Từ đầu năm 2001 phòng đã thực hiện nghiệp vụ kinh doanh đầu cơ các loại ngoại tệ mạnh, bước đầu mới tập trung mua bán 3 ngoại tệ mạnh là đồng EUR, GBP, JPY. Doanh số mua bán bình quân tháng khoảng 200 triệu EUR, 150 triệu GBP, 10 tỷ JPY. Sang năm 2002, tổng doanh số bán ngoại tệ của Sở giao dịch đạt 761,5 triệu USD, tăng 110,5 triệu so với năm 2001 trong đó bán USD là chủ yếu :735,5 triệu chiếm 96,59%. Chứng tỏ nhu cầu USD trong nền kinh tế rất cao nên Sở giao dịch phải tìm được nhiều nguồn cung USD mới đáp ứng được. Sở giao dịch cũng thành công trong việc bán cho các chi nhánh – doanh số đạt 583,3 triệu trong đó bán từ nguồn NHNN là 89,2 triệu. Số lượng mua ngoại tệ từ ngân hàng nhà nước trong năm 2002 là 134 triệu USD( giảm 168 triệu USD so với năm 2001) trong đó mua để phục vụ thanh toán là 94 triệu còn 40 triệu là mua để thực hiện nghiệp vụ SWAP. Lượng ngoại tệ mua được từ NHNN chỉ bằng 33% của năm 2001, phát sinh trong 7 tháng đầu năm, từ tháng 8/2002 do NHNo có dự trữ được ngoại tệ nên NHNN không bán hỗ trợ nữa. Tuy nhiên trong năm 2002, nhờ có sự ra đời của văn bản 901 nên Sở giao dịch đã mua được một lượng ngoại tệ lớn từ chi nhánh làm tăng cung ngoại tệ. Số ngoại tệ mua được từ các chi nhánh trong năm 2002 là 567,6 triệu USD, tăng 336,6 triệu so với năm 2001. Văn bản 901 và ý nghĩa của nó đối với nguồn thu và nguồn bán ngoại tệ của Sở giao dịch. Sự ra đời của văn bản 901 vào tháng 5/2002 về việc thực hiện thí điểm đề án cho vay ưu đãi tài trợ hàng xuất khẩu mua USD đối ứng với nội dung cụ thể là: Đối với doanh nghiệp xuất khẩu: Được vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản xuất, kinh doanh chế biến hàng xuất khẩu,được hưởng mức phí thanh toán ưu đãi và được chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu ở mức cao nhất với điều kiện: mở LC tại NHNo, cam kết bán ngoại tệ thu được cho NHNo. Đối với khách hàng nhập khẩu: Ưu tiên bán ngoại tệ cho khách hàng cam kết gửi vốn không kì hạn trước tại NHNo với số tiền tương ứng lượng ngoại tệ đăng kí mua, mở rộng quan hệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng tại NHNo. Việc thực hiện văn bản này đã thu hút được nhiều khách hàng là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đến với ngân hàng. Trên cơ sở đó văn bản 901A đã ra đời, chỉnh sửa những tồn tại của văn bản 901, cụ thể là có qui định thêm về việc ưu đãi đối với chi nhánh mua ngoại tệ của Sở giao dịch để hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu, thu hút khách hàng vay vốn, mở LC, bán ngoại tệ cho Sở giao dịch. Sở giao dịch sẽ ứng trước ngoại tệ theo mức phí điều vốn nội bộ cho chi nhánh để chi nhánh cho vay ngoại tệ theo lãi suất ưu đãi đối với khách hàng xuất khẩu, khách hàng cam kết trả nợ bằng ngoại tệ và bán ngay toàn bộ số ngoại tệ đó cho NHNo. Nhờ đó các chi nhánh sẽ chủ động trong thiết lập mở rộng quan hệ với khách hàng, tạo nguồn thu tổng hợp và mua được ngoại tệ để bán cho Sở giao dịch hay nói cách khác, các chi nhánh sẽ mua hộ ngoại tệ từ phía khách hàng cho Sở giao dịch được nhiều hơn. Thực hiện văn bản 901, đặc biệt từ khi thực hiện văn bản 901A, số lượng ngoại tệ mua từ chi nhánh tăng nhanh chiếm tỷ trọng lớn(76,94%) trong tổng doanh số mua của Sở giao dịch( năm 2001 chiếm 30,89%). Từ chỗ phải xin mua hỗ trợ từ NHNN, hệ thống NHNo đã đáp ứng được nhu cầu thanh toán, có dự trữ ngoại tệ. Đến 30/09/02 số dư ngoại tệ mua vào nhưng chưa bán ra tại Sở giao dịch là 70 triệu USD, các chi nhánh có nguồn hàng xuất như Cà mau, Bình dương, Daklak, Soc trăng…thường xuyên bán USD về Sở giao dịch. Doanh số bán ngoại tệ cho khách hàng của Sở giao dịch là 74 triệu, tăng 1,3 triệu so với năm 2001. Doanh số mua ngoại tệ từ khách hàng Sở giao dịch là 21,5 triệu; tăng 4,8 triệu so với năm 2001. Nhìn chung trong năm 2002 phòng đã có nhiều hoạt động sôi nổi trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, có đóng góp lớn trong việc đảm bảo khả năng thanh toán cho hệ thống NHNo, đảm bảo dự trữ bắt buộc trong những thời điểm căng thẳng về vốn, phát huy được vai trò đầu mối mua bán ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu thanh toán của chi nhánh. Trong năm đã mở rộng được nghiệp vụ mới đó là sử dụng thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để huy động vốn ngắn hạn các loại ngoại tệ khác như EUR, JPY, điều vốn cho chi nhánh cho vay khách hàng, quán triệt nội dung văn bản 901A. 2.3.1.2. Đánh giá khả năng cạnh tranh của Sở giao dịch. Nhìn chung các TCTD trên địa bàn Hà Nội đều đang cung cấp các sản phẩm có chất lượng tốt, các dịch vụ ngân hàng truyền thống cho khách hàng và đang triển khai mạnh mẽ các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng mới như cho thuê tài chính, chiết khấu, dịch vụ thanh toán thẻ tín dụng, séc du lịch, rút tiền tự động… đặc biệt là các NHTM quốc doanh, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng liên doanh và một số NHTM cổ phần như ACB, cổ phần quốc tế. Trong cạnh tranh với các NHTM trên địa bàn Hà nội, mỗi NHTM có những lợi thế và những khó khăn riêng biệt. Tuy nhiên, nhìn nhận tổng thể các lợi thế cạnh tranh thì NHNTVN, NHCTVN, NHĐT&PTVN và một số chi nhánh NH nước ngoài như Citi bank, ABN, EXIM bank…có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn NHNo, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ vì lĩnh vực này đòi hỏi trình độ cũng như trang thiết bị đều phải hiện đại. Mặc dù vậy, Sở giao dịch vẫn có những lợi thế nhất định trong khả năng cạnh tranh như: Đã tiếp nhận và thực hiện có kết quả đề án nối mạng thanh toán của NHNo và PTNTVN với một số đơn vị như kho bạc nhà nước, các ngân hàng nước ngoài như Citi Bank, ABN AMRO Bank… Tới đây sẽ tiếp tục triển khai nối mạng trực tiếp với khách hàng để khai thác thông tin và thực hiện thanh toán nhanh, chính xác, an toàn và thuận tiện cho khách hàng. Việc triển khai thành công và mở rộng việc nối mạng thanh toán trực tiếp với khách hàng sẽ là điều kiện để từng bước hội nhập với hệ thống tài chính khu vực và quốc tế, vừa đáp ứng nhu cầu khách hàng trong mua bán ngoại tệ tạo điều kiện mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ tin học của cán bộ nhân viên Sở giao dịch đáp ứng tốt cho việc ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại để mở rộng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ, phục vụ tốt hơn cho khách hàng, có đủ năng lực cạnh tranh với các NHTM khác trên địa bàn. Về chính sách khách hàng: Thực hiện tốt cơ chế ưu đãi đối với khách hàng về lãi suất, về ngoại tệ, về phí thanh toán, phí dịch vụ ngân hàng. Phương thức và thủ tục cho vay đơn giản, kịp thời nhưng vẫn đảm bảo an toàn và hiệu quả, hướng dẫn cụ thể cho khách hàng về quy trình mua và bán ngoại tệ. Những khó khăn tồn tại và nguyên nhân. Khó khăn, tồn tại. Hoạt động mua bán ngoại tệ đầu cơ vẫn đang ở giai đoạn thử nghiệm, chưa tổ chức được thành hoạt động độc lập, vẫn còn biểu hiện lúng túng, chưa chuyên nghiệp trong các kĩ thuật nghiệp vụ. Thực hiện văn bản 901A, lượng ngoại tệ thu hút vào hệ thống tăng nhanh, đáp ứng được nhu cầu thanh toán và có dự trữ. Tuy nhiên nhiều chi nhánh có doanh số thanh toán hàng nhập khẩu lớn thường xuyên mua trên thị trường liên ngân hàng mà không mua của Sở giao dịch dẫn đến số dư ngoại tệ lớn, có thời điểm lên tới 120 triệu đô la. Từ tháng 7 năm 2002 luôn luôn phải xử lí để đảm bảo qui định về trạng thái ngoại tệ. Đối tác chủ yếu trong kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch là các Ngân hàng thương mại khác, các chi nhánh NHNo, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn đối tượng là cá nhân có giao dịch ngoại tệ còn nhỏ bé và chưa phổ biến . Sở giao dịch ít khi mua được ngoại tệ từ đối tượng này. Nguồn cung ngoại tệ nói chung còn hạn chế. Hiện nay nghiệp vụ kinh doanh trong phòng còn đơn giản, hầu hết là mua bán ngoại tệ giao ngay, nghiệp vụ kì hạn cũng như giao dịch Swap đã được sử dụng nhưng rất ít. Thời hạn của giao dịch kì hạn còn ngắn. Do đó Sở giao dịch chưa sử dụng các nghiệp vụ kinh doanh như là công cụ để phòng ngừa rủi ro về tỷ giá cũng như để thu lợi nhuận cho chính mình qua chênh lệch tỷ giá. Một khó khăn khác mà Sở giao dịch đang gặp phải là hiện nay trên địa bàn Thành phố Hà nội cũng như một số thành phố lớn khác , các NHTM đã bước vào môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt . Tính đến hết năm 1997 , Việt Nam đã có 4 ngân hàng liên doanh , 24 chi nhánh ngân hàng nước ngoài , 1 công ty cho thuê tài chính và hai công ty liên doanh trong lĩnh vực này , gần 76 văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài của gần 30 quốc gia và vùng lãnh thổ . Hầu hết các ngân hàng nước ngoài đến hoạt động ở nước ta đều nằm trong 500 ngân hàng lớn nhất thế giới . Sự xuất hiện của các ngân hàng trên với kỹ thuật công nghệ hiện đại trình độ nhân viên cao có kinh nghiệm tạo ra những sức ép cạnh tranh rất lớn cho các NHTM Việt Nam , nhất là trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ - một hoạt động có tính truyền thống và là thế mạnh của các ngân hàng nước ngoài . Nguyên nhân Nguyên nhân khách quan: Xuất phát từ các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ như trên đã đề cặp thì nguyên nhân khách quan của những khó khăn trên là: Thị trường ngoại hối ở Việt Nam chưa phát triển theo đúng nghĩa của nó. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ muốn mở rộng hơn phải có một nền tảng vững chắc là thị trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối mới chỉ tồn tại dưới hình thức thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Măc dù đã đạt được những thành tích đáng kể trong thời gian qua nhưng thị trường ngoại tệ liên ngân hàng vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Thứ nhất, trên thị trường chưa có các nhà môi giới chuyên nghiệp giúp cho cung cầu gặp nhau tránh tình trạng khan hiếm ngoại tệ giả trên thị trường. Hiện nay chức năng này chỉ có Sở giao dịch NHNN đảm nhận. Thứ hai đối tượng tham gia thị trường còn hạn chế, chủ yếu là các Ngân hàng thương mại, chưa khai thác được lượng ngoại tệ tiền mặt tồn đọng trong dân cư mà nếu khai thác được tầng lớp này sẽ hạn chế hoạt động trên thị trường chợ đen. Các giao dịch được tập trung trên thị trường ngoại tệ sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng các giao dịch, góp phần vào việc xác định tỷ giá linh hoạt sát với thực tế. Việc can thiệp của nhà nước bằng các công cụ của chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất , điều chỉnh khối lượng cung tiền vẫn còn mang tính hành chính nên chưa kiểm soát khắt khe hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại một số Ngân hàng thương mại cũng như các công ty xuất nhập khẩu, gây nên hiện tượng đầu cơ tích trữ ngoại tệ. Trình độ dân chúng về thị trường ngoại hối còn rất hạn chế, ít làm quen với các nghiệp vụ giao dịch trên thị trường này. Kể cả các doanh nghiệp Việt Nam cũng chỉ quen với nghiệp vụ giao ngay mà chưa biết sử dụng hợp đồng kì hạn để bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Phản ứng của họ trước các nguy cơ rủi ro luôn là để mặc tỷ giá biến động theo thị trường. Chỉ trong trường hợp doanh nghiệp cần VND trước khi giao hàng, họ mới tìm đến ngân hàng. Khi đó ngân hàng sẽ thoả thuận cho doanh nghiệp vay VND với lãi suất ưu đãi nhưng bù lại doanh nghiệp phải cam kết bán hết số USD nhận được từ xuất khẩu cho ngân hàng. Để chắc chắn ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp bán kì hạn ngay tại thời điểm cho doanh nghiệp vay VND. Nếu tại thời điểm doanh nghiệp nhận được thanh toán mà tỷ giá lại lên thì doanh nghiệp thiệt và ngân hàng có lợi, nhưng bù lại doanh nghiệp lại có lợi trong hợp đồng vay vốn. Còn trong trường hợp ngược lại thì rõ ràng ngân hàng là người thiệt cả hai nhưng ngân hàng có thể đã bảo hiểm rủi ro của mình bằng cách ngay lúc đó ngân hàng bán số ngoại tệ vừa mua bằng giao dịch kì hạn khác. Giao dịch quyền chọn ngoại tệ là một giao dịch vừa mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, vừa phòng chống được rủi ro tỷ giá cho ngân hàng và khách hàng nhưng cho đến nay giao dịch này vẫn chưa được áp dụng, gây cản trở hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Nguyên nhân chủ quan. Thứ nhất, đó là vấn đề về nguồn nhân lực. Sở giao dịch với vai trò là đầu mối kinh doanh ngoại tệ của toàn hệ thống NHNo nên khối lượng công việc rất lớn. Sở giao dịch vừa thực hiện nhiệm vụ theo uỷ quyền của tổng giám đốc, vừa kinh doanh cho chính mình. Phòng kinh doanh ngoại tệ có vị trí quan trọng trong hoạt động của Sở giao dịch, công việc rất nhiều trong khi số cán bộ của phòng chỉ có 8 người. Vì vậy công tác đào tạo và đào tạo lại rất khó thực hiện trong khi hoạt động kinh doanh ngoại tệ đòi hỏi thường xuyên phải cập nhật những kiến thức mới về nghiệp vụ chuyên môn, về những thay đổi trên thị trường ngoại hối, tỷ giá hối đoái… Thứ hai, đó là vấn đề trang thiết bị phục vụ cho công tác. Sở giao dịch vẫn chưa đảm bảo cho trong phòng kinh doanh ngoại tệ mỗi người một máy tính do đó chưa đáp ứng được nhu cầu của hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Hoạt động này cần phải thường xuyên nghiên cứu thị trường để có những phản ứng linh hoạt trước những biến động của thị trường, mà thông tin qua báo chí không thể đầy đủ bằng thông tin qua mạng… Chương III: giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch NHNo & PTNN Việt Nam. Định hướng hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũa Sở giao dịch trong thời gian tới. Định hướng chung hoạt động của Sở giao dịch. Trong những năm qua nền kinh tế Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Trong bối cảnh đó NHNo vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng ổn định, vững chắc, chuyển tải đủ vốn phục vụ tốt cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo, ổn định kinh tế, chính trị. NHNo đã làm tốt vai trò là một định chế tài chính chủ đạo trên thị trường tài chính tiền tệ nông nhgiệp nông thôn. Tuy nhiên trên địa bàn các thành phố và thị xã thì thị phần hoạt động của NHNo chiếm rất nhỏ bé và chất lượng còn thấp. Trên địa bàn Hà nội, NHNo có có số lượng chi nhánh lớn nhất( 11 chi nhánh ) nhưng chỉ chiếm khoảng 10% tổng số hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Nguồn vốn huy động và dư nợ cho vay của Sở giao dịch NHNo chỉ chiếm khoảng 1% trong tổng nguồn huy động và dư nợ cho vay trên địa bàn Hà nội. Vì vậy việc xây dựng mục tiêu và giải pháp kinh doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh của Sở giao dịch với các Ngân hàng thương mại khác, tăng thị phần hoạt động của Sở giao dịch trên địa bàn hà nội là hết sức cần thiết. Một trong những cơ sở để đưa ra giải pháp là định hướng hoạt động kinh doanh trong thời gian tới. Thứ nhất là định hướng chung: Hoàn thành tốt nhiệm vụ theo uỷ quyền của Tổng giám đốc, đó là làm đầu mối trong: SWIFT, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng trong nước và quốc tế, tham gia thị trường mở, quản lí tài khoản nội ngoại tệ, hạch toán các loại vốn và quỹ của NHNo & PTNT Việt Nam. Về hoạt động kinh doanh như một chi nhánh, Sở giao dịch có những định hướng như sau: Công tác huy động vốn: Sở giao dịch phấn đấu tăng nguồn huy động( mỗi năm tăng khoảng 35%) để đáp ứng tất cả các nhu cầu vay vốn của khách hàng, đặc biệt tập trung vào các nguồn tiết kiệm không kì hạn, tiền gửi thanh toán vì các nguồn này có chi phí tương đối thấp nên có thể tăng lợi nhuận cho Sở giao dịch. Công tác cho vay: Mở rộng cho vay với nhiều đối tượng khách hàng hơn nữa vì trước đây khách hàng của Sở giao dịch chủ yếu là các tổng công ty lớn, các doanh nghiệp quốc doanh. Sở giao dịch chưa khai thác đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà hiện nay mô hình doanh nghiệp này rất phát triển. Đồng thời Sở giao dịch có thể cho vay dự án theo hình thức cho vay hợp vốn, cho vay đồng tài trợ vì hiện nay các khu chế xuất, khu công nghiệp đang ra đời rất nhiều và đứng trước sự lựa chọn giữa hợp tác đầu tư với nước ngoài hay vay vốn của ngân hàng. Hầu hết các dự án phát triển khu công nghiệp mới này rất khả thi. Ngoài ra Sở giao dịch cũng tiếp tục mở rộng và đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng như mua bán ngoại tệ, thanh toán điện tử, máy rút tiền tự động, dịch vụ chi trả kiều hối, dịch vụ thanh toán séc du lịch, séc lữ hành, thẻ tín dụng… Gắn mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao với tiếp tục mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn, hiệu quả, kết hợp giữ khách hàng truyền thống thuộc thành phần kinh tế quốc doanh và phát triển khách hàng thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất đảm bảo ổn định tín dụng có mức tăng trưởng ít nhất 20%. Trong từng nghiệp vụ, Sở giao dịch đưa ra các hình thức mới, phù hợp hơn, kích thích khách hàng hơn và bao hàm cả yếu tố cạnh tranh với các ngân hàng khác. 3.1.2. Định hướng hoạt động kinh doanh ngoại tệ Về lĩnh vực ngoại tệ thì NHNo không thể so sánh với Ngân hàng Ngoại thương và cũng không có nhiều lợi thế trong cạnh tranh hơn các Ngân hàng thương mại khác như NHCTVN, NHĐT&PTVN cộng thêm một số ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài… Tuy nhiên NHNo cũng đã có những cố gắng tích cực và có những thành công nhất định trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của Sở giao dịch và đặc biệt là của phòng kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch. Trước những thách thức đặt ra, Sở giao dịch cần xác định cho mình những kế hoạch định hướng cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong thời gian tới,cụ thể là: Mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài, các đối tác có lợi trong kinh doanh ngoại tệ để tranh thủ vốn, kỹ thuật nghiệp vụ và kinh nghiệm quản lí, công nghệ ngân hàng. Quan tâm hơn nữa tới chiến lược Marketing ngân hàng nhằm mở rộng thị trường, thu hút khách hàng để tăng cả cung lẫn cầu, làm tăng lợi nhuận trong kinh doanh ngoại tệ bằng cách nâng cao chất lượng dịch vụ với khách hàng, nâng cao uy tín của ngân hàng. Cụ thể: đáp ứng mọi nhu cầu hợp lí của khách hàng về mua bán ngoại tệ phù hợp với qui định quản lí ngoại hối, không để tình trạng thiếu ngoại tệ làm cho khách hàng phải đi đến ngân hàng khác. Khai thác triệt để các khách hàng kinh doanh xuất nhập khẩu, đặc biệt là khách hàng xuất khẩu, tìm mọi cách để mua được số ngoại tệ của doanh nghiệp này. Văn bản 901A là một công cụ đắc lực. Chiến lược phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ phải nằm trong chiến lược phát triển tổng hợp của ngân hàng. Kinh doanh ngoại tệ phối hợp và hỗ trợ cho các hoạt động như thanh toán quốc tế, cho vay ngoại tệ… Đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh tiến tới xây dựng một cơ cấu ngoại tệ hợp lí, cân đối giữa vai trò của EUR và USD trong cơ cấu ngoại tệ. Đồng thời quản lý tốt trạng thái của từng loại ngoại tệ, không để trạng thái ngoại tệ dương hay âm xảy ra quá lâu dễ dẫn đến rủi ro. 3.2. Giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch. Kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động điển hình không thể thiếu của ngân hàng hiện đại. Đồng thời đây cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro và bị ảnh hưởng của nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội. Sở giao dịch cần thường xuyên đưa ra những giải pháp, chiến lược để trước hết là đối ứng với những biến động thường xuyên của thị trường, sau đó là vì lợi ích của khách hàng và lợi nhuận ngân hàng. Vì đây cũng là một loại hình kinh doanh hơn nữa lại là kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt, đó là ngoại tệ, do đó để thành công trong kinh doanh cần có chiến lược Marketing phù hợp. Nội dung của nó bao gồm: chiến lược về khách hàng, chiến lược về thị trường. Thành công đối với một ngân hàng là cân bằng cả ba lợi ích: lợi ích khách hàng, lợi ích của cán bộ nhân viên ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng. Giải pháp khách hàng. Vận dụng nguên lí của Marketing nên đầu tiên phải phân loại khách hàng. Khách hàng đến giao dịch ngoại tệ với Sở giao dịch được phân chia theo các đối tượng sau: Thứ nhất: Khách hàng là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Loại khách hàng này mở tài khoản tiền gửi, tiền vay vừa bằng nội tệ vừa bằng ngoại tệ tại ngân hàng với mục đích chính là phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình một cách thuận lợi. ở các nước trên thế giới loại tiền gửi này ngân hàng không trả lãi, nhưng dành cho khách hàng những tiện nghi trong thanh toán, giao dịch. Trong huy động nguồn vốn, nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, bởi vì nguồn vốn này ngân hàng không phải trả lãi hoặc trả lãi rất thấp, rất có lợi cho ngân hàng khi dùng nguồn vốn này để cho vay. Mặt khác ngân hàng còn tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong khâu thanh toán, do khâu dịch vụ của ngân hàng tạo nên. Một NHTM nếu chỉ có khách hàng nhập khẩu sẽ luôn thiếu ngoại tệ vì chỉ có bán ngoại tệ, hoặc cho vay ngoại tệ cho đơn vị nhập khẩu. Ngược lại, một ngân hàng nếu chỉ có khách hàng xuất khẩu sẽ thừa ngoại tệ. Để cân bằng được trạng thái đó, Sở giao dịch phải có chính sách ưu tiên để thu hút được cả khách hàng xuất khẩu và khách hàng nhập khẩu như: - Tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng để các doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu sử dụng vốn trên tài khoản một cách linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ kịp thời để thanh toán, chi trả tiền vật tư hàng hoá phục vụ cho hoạt động kinh doanh. - Ngân hàng dành cho các doanh nghiệp những điều kiện phục vụ thuận lợi như mở thư tín dụng với các điều kiện ký quỹ thấp nhất, sẵn sàng xác nhận thư tín dụng nếu doanh nghiệp yêu cầu, có chính sách ưu đãi về phí trong giao dịch quốc tế cho doanh nghiệp. - Tư vấn cho khách hàng từ khâu ký kết hợp đồng để rủi ro có thể thấp nhất trong buôn bán thương mại và thanh toán quốc tế… Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với khách hàng. Thông qua các nghiệp vụ ngân hàng đại lý, ngân hàng có thể điều tra cho khách hàng tình trạng tài chính, uy tín của đối tác kinh doanh, cũng như chọn ngân hàng để đề nghị đối tác chuyển tiền cũng như thông báo các thư tín dụng để từ đó có thể hạn chế được các rủi ro trong kinh doanh đối với khách hàng Việt Nam của mình. Cần học hỏi kinh nghiệm của Citibank: ngân hàng này cung cấp cho khách hàng không chỉ đầu vào mà còn cả đầu ra, tìm thị trường xuất khẩu cho khách hàng. Nhờ vậy Citibank đã khống chế được đường đi của đồng vốn vay bằng cách : cho vay ngoại tệ và thực hiện thanh toán giữa các doanh nghiệp. Thứ hai: Khách hàng là tầng lớp dân cư. Phương thức thanh toán trong tầng lớp dân cư chủ yếu là thanh toán bằng tiền mặt trực tiếp. Tâm lí ưa thích tiền mặt đã có từ lâu do nền kinh tế chậm phát triển. Tiềm năng nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư là rất lớn nhưng chưa được khai thác có hiệu quả. Mỗi gia đình, cá nhân có một khoản dự trữ tiền mặt để phục vụ nhu cầu giao dịch hằng ngày nhưng chưa gửi vào ngân hàng làm phân tán nguồn vốn nội lực của đất nước. Nhưng điều này sẽ trở nên nguy hiểm hơn nếu người dân lại thích giữ và chi trả bằng ngoại tệ, nguyên nhân của hiện tượng đô la hoá. Vì vậy cần có biện pháp thu hút người dân mở tài khoản thanh toán qua ngân hàng, kể cả tài khoản ngoại tệ và nội tệ. Như vậy vừa tăng nguồn vốn có chi phí thấp cho ngân hàng, vừa phát triển được hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong xã hội. Ngoài ra ngân hàng có thể thay chính phủ kiểm soát được lượng ngoại tệ lưu trữ trong công chúng, tránh đến mức tối đa hiện tượng găm giữ ngoại tệ. Nhờ có tài khoản ngoại tệ tạ ngân hàng, ai cũng có thể tham gia vào thị trường ngoại tệ, điều này góp phần làm cho thị trường ngoại tệ sôi động hơn, cung cầu ngoại tệ có điều kiện gặp nhau nhiều hơn, mang lại lợi ích cho cả ngân hàng và khách hàng. Thứ ba: Khách hàng là người nước ngoài đang sống ở Việt Nam và Việt kiều ở nước ngoài.. Do tâm lý của người nước ngoài và Việt kiều ở nước ngoài chưa tin tưởng và quen thuộc hoạt động của NHTM trong nước, do vậy họ rất chần chừ trong việc gửi ngoại tệ hay bán ngoại tệ vào ngân hàng, Sở giao dịch cần có những chính sách để thu hút nguồn ngoại tệ này một cách có hiệu quả: - Tăng cường quảng cáo, hướng dẫn khách hàng có nhu cầu nhận tiền lựa chọn những hình thức chuyển tiền phù hợp để thông tin cho người thân ở nước ngoài, cung cấp các ngân hàng đại lý của Sở giao dịch NHNo ở mỗi nước cho từng khách hàng có nhu cầu. Thông qua các đại lý hoặc quan hệ đại lý ở nước ngoài để tuyên truyền, tiếp thị về khả năng, uy tín, công nghệ của ngân hàng mình và các đại lý đó sẽ là đầu mối huy động kiều hối và gửi về nước. - Trong hoạt động dịch vụ kiều hối phải tổ chức trao trả nhanh chóng, thuận tiện, dịch vụ phí chuyển tiền hợp lý và áp dụng tỷ giá hối đoái hợp lý để họ có thể bán cho ngân hàng, hạn chế việc người dân khi nhận được kiều hối qua ngân hàng sau đó lại rút ra và bán cho thị trường tự do. Sở giao dịch có thể ấn định tỷ giá mua kiều hối và ngoại tệ của du khách cao hơn tỷ giá mua chính thức mà ngân hàng công bố, còn cao hơn bao nhiêu tuỳ theo tình hình diễn biến của tỷ giá tại thời điểm mua của ngân hàng. - Xây dựng một hệ thống thu đổi ngoại tệ rộng khắp và hoạt động hữu hiệu để mọi cá nhân người Việt Nam cũng như người nước ngoài có ngoại tệ trong tay dễ dàng chuyển đổi nhanh chóng thành đồng Việt Nam để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Sở giao dịch nói riêng cũng như NHNN phải tăng cường khâu kiểm tra đối với các đại lý thu đổi ngoại tệ, để tránh tình trạng tư nhân lợi dụng núp dưới ngân hàng để thu ngoại tệ một cách hợp pháp. Sở giao dịch có thể mở thêm các bàn thu đổi ngoại tệ tại những nơi thường xuyên có khách nước ngoài ra vào Việt Nam như : tại các sân bay quốc tế( Nội Bài, Tân Sơn Nhất), tại biên giới, cửa khẩu… Khách hàng sẽ thấy việc cung cấp dịch vụ của ngân hàng rất tốt vì bất cứ ở đâu cũng thâý sự phục vụ của ngân hàng. Thứ tư : Khách hàng là các ngân hàng nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Sở giao dịch ngày càng mở rộng quan hệ của mình với các ngân hàng thế giới nhằm thu hút vốn và công nghệ ngân hàng hiện đại của họ bằng cách thiết lập mối quan hệ đại lý. Trên quan hệ đại lý các ngân hàng có thể mở tài khoản để thực hiện các giao dịch thanh toán, hoặc để tài trợ vốn cho huy động XNK, cho vay thương mại lẫn nhau. Có như vậy, Sở giao dịch mới tìm được một lượng ngoại tệ rất lớn từ các ngân hàng nước ngoài. Để làm được điều đó SGD NHNo phải không ngừng: - Nâng cao uy tín của mình trên thị trường quốc tế. - Hiện đại hoá, nâng cao hơn nữa hệ thống thanh toán quốc tế để đảm bảo thanh toán nhanh chóng, an toàn và rẻ. Xét về phục vụ khách hàng, thông qua việc mua bán ngoại tệ, huy động và cho vay ngoại tệ, Sở giao dịch đã giúp các đơn vị kinh tế tiêu thụ được số ngoại tệ thu về do xuất khẩu hàng hoá, cũng như có ngoại tệ để thanh toán hàng hoá nhập khẩu. Giải pháp về thị trường. Sở giao dịch trong mối quan hệ với khách hàng phải tìm nhiều nguồn ngoại tệ khác nhau. Vì vậy, bên cạnh Sở giao dịch phải có chính sách ưu tiên để thu hút được cả khách hàng xuất khẩu và khách hàng nhập khẩu, Sở giao dịch cần phải tham gia vào các thị trường hối đoái cả trong nước và quốc tế. Đặc biệt khi các đồng tiền có xu hướng biến động, tham gia thị trường hối đoái để có thể bảo tồn được nguồn vốn ngoại tệ cho bản thân ngân hàng và cho nguồn ngoại tệ của quốc gia. Để chuẩn bị cho việc tham gia thị trường hối đoái với mức độ cao hơn, Sở giao dịch NHNo cần phải nắm một số yêu cầu sau đây: - Về điều kiện kỹ thuật: Điều kiện kỹ thuật quan trọng đầu tiên là hệ thống liên ngân hàng, khả năng thanh toán bù trừ và khả năng điều hoà ngoại tệ trong SGD NHNo. Hệ thống giao dịch: trang bị mạng vi tính, hệ thống Telex, Fax và hệ thống thông tin Reuters, DowJones. - Về điều kiện pháp lý: Xây dựng nội quy giao dịch ngày càng tiếp cận với các tiêu chuẩn quốc tế. - Điều kiện con người: Điều kiện con người có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tham gia thị trường hối đoái trong nước và quốc tế. Chỉ có thể đào tạo đội ngũ kinh doanh hối đoái tinh thông nghiệp vụ và có khả năng nắm bắt được các diễn biến thị trường thì mới có thể tham gia vào các hoạt động thị trường đồng thời có thể làm chủ được các giao dịch hối đoái như giao dịch SWAP, OPTION… Ngoài đội ngũ các cán bộ phân tích, cán bộ ngân quỹ, cần chú trọng các cán bộ kiểm soát. Giải pháp về nghiệp vụ. 3.2.3.1. Đa dạng hoá các loại hình nghiệp vụ. Tại Sở giao dịch, trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ mới chỉ thực hiện nghiệp vụ mua bán ngay, mua bán có kì hạn và nghiệp vụ SWAP( nhưng số lượng rất ít). Ngoài ra, các nghiệp vụ khác như hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai chưa được thực hiện. Điều này không phải do Sở giao dịch mà do quy định của NHNN. Vì vậy, hoạt động kinh doanh ngoại tệ còn mang tính sơ khai, đơn giản, chưa có sự kết hợp chặt chẽ với thị trường tiền tệ. Việc đa dạng hoá nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ sẽ giúp cho Sở giao dịch mở rộng qui mô kinh doanh, phòng ngừa rủi ro trước những biến động của tỷ giá và lãi suất trên thị trường, tạo sự tăng trưởng về lượng và chất trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ, đồng thời hỗ trợ các hoạt động khác, góp phần vào sự phát triển tổng thể các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, việc đưa vào thực hiện các nghiệp vụ mới này không phải là đơn giản, nhanh chóng. Nó không chỉ đòi hỏi sự am hiểu về nghiệp vụ, nỗ lực học hỏi kinh nghiệm, hiện đại hoá trang thiết bị… từ phía ngân hàng mà còn cần có sự ủng hộ tham gia từ phía khách hàng. Vì vậy bên cạnh trang bị kiến thức nghiệp vụ và đào tạo kĩ năng cho cán bộ kinh doanh ngoại tệ, Sở giao dịch cần giới thiệu giúp khách hàng hiểu rõ về nghiệp vụ đó để họ sử dụng chúng làm công cụ phòng ngừa rủi ro và tính toán hiệu quả trong kinh doanh. Trước mắt, khi các nghiệp vụ này chưa được áp dụng, Sở giao dịch cần tiếp tục nâng cao các nghiệp vụ đang thực hiện. Đối với nghiệp vụ mua bán ngoại tệ giao ngay: - Mở rộng qui mô thực hiện nghiệp vụ bằng các chính sách thu hút khách hàng đến giao dịch ngoại tệ với mình đồng thời tăng cường mở rộng quan hệ với các Ngân hàng thương mại khác cả trong và ngoài nước. - Hạ thấp phí giao dịch trong điều kiện cho phép. - Thanh toán đúng, đủ, đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ và giữ uy tín với khách hàng. Đối với nghiệp vụ kì hạn và nghiệp vụ Swap: Có sự phối hợp chặt chẽ giữa nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và các nghiệp vụ khác, đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng ngoại tệ, huy động ngoại tệ, thanh toán quốc tế. Khi mở rộng cho vay bằng ngoại tệ, tăng khối lượng thanh toán quốc tế thì đồng nghĩa với việc phải tính toán cụ thể thời hạn, số lượng ngoại tệ sẽ phải mua, phải bán cho các nhu cầu tương lai. Đồng thời ngân hàng cũng phải giúp cho khách hàng hiểu rõ về nghiệp vụ và lợi ích của chúng đối với khách hàng. 3.2.3.2. Đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh. Hiện nay đồng USD vẫn là đồng tiền được các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sử dụng chủ yếu trong thanh toán quốc tế. Trong các Ngân hàng thương mại, từ huy động vốn đến cho vay, dự trữ, kinh doanh ngoại tệ đến các dịch vụ thanh toán quốc tế cũng sử dụng USD là chủ yếu. Mặc dù gần đây Sở giao dịch cũng tiến hành mua bán các đồng tiền khác như EUR và JPY nhưng tỷ trọng của các giao dịch này vẫn không thể so sánh với USD. Tâm lí ưa chuộng USD đã từng gây khó khăn cho Sở giao dịch mỗi khi có sự biến động tỷ giá USD/VND. Để phân tán rủi ro trong kinh doanh thì cần phải đa dạng hoá các loại ngoại tệ sử dụng. Do đó Sở giao dịch phải lập kế hoạch cụ thể về một cơ cấu ngoại tệ hợp lí theo hướng đa dạng hoá các loại ngoại tệ, tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào USD, nên có chiến lược nhằm tăng tỷ trọng dự trữ ngoại tệ bằng EUR trong tổng dự trữ ngoại tệ vì đây cũng là một ngoại tệ mạnh đang cạnh tranh với USD. Tuy nhiên cơ cấu đó cũng phải phù hợp với nhu cầu của khách hàng. 3.3. Một số kiến nghị với NHNN và NHNo . Kiến nghị với NHNN. Vì NHNN là người đưa ra nhứng chính sách, quy định về quản lí ngoại hối và điều hành tỷ giá, những nhân tố tác động chung đến kinh doanh ngoại tệ nên Sở giao dịch có thể kiên nghị với NHNN về những chính sách quy định có thể thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch cũng như tại các Ngân hàng thương mại khác và để phát triển hoàn thiện thị trường ngoại hối trong tương lai. Cụ thể những kiến nghị đó là: Về công tác quản lí ngoại hối của NHNN: Sau một thời gian thực hiện việc kết hối ngoại tệ theo quyết định 173/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ra ngày 12/09/1998 và thông tư số 08/1998/TT-NHNN7 ngày 30/09/1998 của NHNN hướng dẫn thi hành quyết định 173/QĐ-TTg, mặc dù ngân hàng đã kết hối được một lượng ngoại tệ không nhỏ, tạo điều kiện cho hoạt động thanh toán đối ngoại của ngân hàng, song theo theo quy định phải bán ngay 50% số ngoại tệ thu được từ nguồn thu vãng lai cho ngân hàng trong thời gian 15 ngày kể từ ngày ngoại tệ được ghi có vào tài khoản tiền gửi đã được các tổ chức kinh tế lợi dụng để di chuyển ngoại tệ từ tài khoản ở ngân hàng này sang tài khoản ở ngân hàng khác, gây khó khăn cho việc kết hối của ngân hàng. Nhưng về phía ngân hàng, khi các doanh nghiệp cần ngoại tệ lại không đáp ứng được đầy đủ và đúng hạn và do đó đây là trở ngại đối với cả doanh nghiệp và cả đối với ngân hàng, bởi vậy để đảm bảo cho ngân hàng thực hiện kết hối ngoại tệ, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhập khẩu sử dụng linh hoạt, có hiệu quả và thực hiện nghiêm túc chế độ quản lý ngoại hối, chính sách kết hối nguồn vốn ngoại tệ thu từ xuất khẩu, NHNN nên quy định đối một số doanh nghiệp có hoạt động XNK thường xuyên và doanh số hoạt động lớn thì các ngân hàng không thực hiện kết hối nguồn ngoại tệ này mà để doanh nghiệp sử dụng nhưng có sự kiểm soát của ngân hàng, đối với số khác thì ngân hàng có thể kết hối ngay toàn bộ số ngoại tệ thu được để tránh tình trạng các doanh nghiệp này khi chưa sử dụng có thể chuyển số ngoại tệ này từ tài khoản ở ngân hàng này sang tài khoản ở ngân hàng khác. NHNN nên giảm dần tỷ lệ kết hối xuống bằng 0%. Tăng cường quản lí ngoại hối khu vực biên giới với trung quốc, Lào, Campuchia. Vì trong thời gian qua, hoạt động xuất nhập khẩu qua biên giới đường bộ diễn ra sôi động và rất phức tạp, đã phát sinh nhiều tiêu cực liên quan đến chuyển tiền, thanh toán qua biên giới. Về chính sách tỷ giá hối đoái. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý, can thiệp của Nhà nước. Nên giảm giá, giữ giá hay tăng hơn nữa đồng tiền Việt Nam- ý kiến của các nhà kinh tế rất trái ngược nhau: NHNN và các nhà kinh doanh nhập khẩu thì vẫn muốn giữ ổn định tỷ giá như hiện nay, các nhà chuyên doanh xuất khẩu thì muốn phá giá đồng bản tệ với lý do để đẩy mạnh xuất khẩu phù hợp với chiến lược phát triển của đất nước. Các quan điểm trên cũng dễ hiểu, vì chúng xuất phát từ lợi ích của từng nhóm tác nhân kinh tế. Quan điểm ở đây là tiếp tục củng cố vị thế của đồng Việt Nam thông qua sự can thiệp linh hoạt cuả NHNN, không để cho đồng Việt Nam bị mất giá quá lớn (như trường hợp Thái Lan tuy có kích thích xuất khẩu, có thể tạo thêm chỗ làm việc trong nước nhưng tiềm tàng nguy cơ bùng nổ lạm phát cao). ý kiến này xuất phát từ 3 căn cứ sau: - Mặc dù đồng nội tệ mạnh lên, về nguyên lý có lợi cho nhập khẩu có hại cho xuất khẩu, nhưng xét về toàn cục cái lợi vẫn nhiều hơn. Điều này là bởi có đến 80% hàm lượng nguyên, nhiên vật liệu, máy móc, phụ tùng trong sản phẩm xuất khẩu còn phải nhập khẩu để sản xuất cho xuất khẩu, trong khi hạng mục xuất khẩu "thuần tuý" (chủ yếu sản phẩm chế biến đơn giản) chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu chung. Do vậy, việc đồng Việt Nam lên giá vẫn đang còn có lợi cho xuất khẩu. - Xét về sức mua ngang giá, mặc dù chưa có những nghiên cứu chính thức, nhưng ý kiến chung được đồng tình là đồng USD tiêu ở Việt Nam có sức mua gấp khoảng 4-5 lần so với các nền kinh tế phát triển. Như vậy, để đồng tiền nội địa tiếp tục mạnh dần lên có tác dụng giảm bớt khoảng cách trên, có lợi cho thu nhập của nhiều vùng kinh tế. - Có một đồng tiền mạnh là một trong những điều kiện kiên quyết để làm cho nó trở thành đồng tiền có thể chuyển đổi được. Đây cũng là mục tiêu chính sách tiền tệ của nước ta. Việc làm mạnh đồng nhân dân tệ ở Trung Quốc gần đây có thể là một bước đi của họ theo hướng này. Mặt khác, cũng không nên để đồng tiền Việt Nam lên giá quá cao tuy lạm phát có thể xuống nhưng cán cân thương mại sẽ xấu đi, xuất khẩu giảm sút, nhập khẩu tăng lên, thúc đẩy chi phí sản xuất trong nước, hậu quả là thu hẹp công ăn việc làm và chứa đựng nguy cơ suy thoái kinh tế. Qua đó ta thấy rằng tỷ giá hối đoái vừa là mục tiêu, vừa là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô trong cùng một thời gian ở mức lý tưởng như: Tỷ giá hối đoái nói riêng và chính sách ngoại hối nói chung đều nằm trong khuôn khổ chính sách tiền tệ quốc gia, nó là một trong những công cụ quản lý vĩ mô rất quan trọng trong cạnh tranh thương mại, ảnh hưởng trực tiếp đến các cân thanh toán quốc tế, tới giá cả và các hoạt động kinh tế đối nội cũng như đối ngoại. Mặt khác, việc điều chỉnh tỷ giá linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường và áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết của Nhà nước. Từ sự nghiên cứu về mặt lý thuyết và thực tiễn Việt Nam trong thời gian qua, cũng như xu hướng chung của các nước trên thế giới trong việc lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết của Nhà nước là thích hợp với quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta hiện nay. Những nguyên lý cần tuân theo khi áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết. - Việc xác định tỷ giá và đều chỉnh tỷ giá phải dựa trên quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường hối đoái, cũng như quan hệ cung cầu trên thị trường vốn và sự tác động qua lại giữa thị trường vốn và thị trường hối đoái. - Xác định một số ngoại tệ "rỏ ngoại tệ" chủ yếu, để xác định tỷ giá, có thể là USD, GBP, JPY, FRF. - Đối với nước ta việc xác định tỷ giá trong từng thời kỳ phải đảm bảo đồng thời được việc khuyến khích xuất khẩu, giữ được sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu buộc các nhà sản xuất nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình, tăng tính cạnh tranh trong kinh doanh, thực hiện chiến lược thay đổi cơ bản cơ cấu kinh tế. Bảo vệ hàng nội địa trước sự cạnh tranh của hàng ngoại, thu hút được vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. - Chính sách tỷ giá nằm trong khuôn khổ chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, do đó nhằm đảm bảo tính đồng bộ của chính sách tỷ giá trước tiên là với chính sách tiền tệ, tiếp theo là với các chính sách kinh tế khác. - Việc điều chỉnh tỷ giá không được phép gây ra những cơn sốc, phá vỡ lòng tin đối với chính sách đổi mới kinh tế nói chung và đối với chính sách tiền tệ nói riêng . - Cơ chế vận hành chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết + Xác định cung cầu trên thị trường ngoại hối + Kết hợp chính sách quản lý ngoại hối với chính sách lãi suất. Điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa sát với tỷ giá thực tế thông qua công thức: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa X Giá hàng nội Tỷ giá hối đoái thực tế = Giá hàng ngoại Việc điều chỉnh thực chất là xét tới yếu tố lạm phát của đồng bản tệ được dùng so sánh. Cơ chế này nhằm giảm bớt gánh nặng lạm phát cho các nhà sản xuất xuất khẩu, tăng tính cạnh tranh với hàng ngoại, kích thích xuất khẩu. + Điêù chỉnh lãi suất tiền gửi bằng nội tệ và ngoại tệ, giữa lãi suất nội địa và lãi suất quốc tế. + Cơ chế điều chỉnh lãi suất từ từ dần tới mức tự cân bằng hợp lý. Về việc phát triển thị trường ngoại tệ. Phát triển thị trường ngoại tệ trong nước có ý nghĩa quan trọng trong hỗ trợ chính sách tỷ giá, thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các Ngân hàng thương mại. NHNN trong thời gian tới nên cho các Ngân hàng thương mại được áp dụng các công cụ mới trên thị trường như : hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai và hoàn thiện các công cụ đã có gồm hợp đồng kì hạn, Swap và giao ngay cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Một đề xuất với NHNN là yêu cầu một tỷ lệ kí quĩ trong các hợp đồng kì hạn để phòng ngừa rủi ro. Ngoài ra, hoạt động kinh doanh ngoại tệ chỉ có thể phát triển được khi bản thân nền kinh tế có những quan hệ kinh tế đối ngoại có liên quan đến nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ. Do đó ngoài những đề xuất trực tiếp về quản lí ngoại hối, điều hành tỷ giá, phát triển các nghiệp vụ trên thị trường ngoại tệ còn phải đề nghị NHNN có những biện pháp khuyến khích xuất khẩu, thu hút đầu tư… Kiến nghị với NHNo. - Cải tiến quy trình mua bán ngoại tệ của Sở giao dịch cũng như của chi nhánh với khách hàng. - Chỉ đạo các chi nhánh chỉ tiến hành mua bán qua Sở giao dịch và báo cáo kịp thời để Sở giao dịch có thể theo dõi, xử lí trạng thái ngoại tệ. - Hiện đại hoá ngân hàng bằng cách áp dụng các công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin vào quản lý và kinh doanh ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng sức cạnh tranh và đảm bảo hoà nhập quốc tế. Muốn vậy trước hết phải tăng cường trang thiết bị cho phòng kinh doanh ngoại tệ, đảm bảo mỗi người có một máy tính có nối mạng. Triển khai kịp thời, hướng dẫn cụ thể các văn bản chính phủ, của ngành về quản lí ngoại hối và kinh doanh ngoại tệ. Bổ xung thêm lao động đảm bảo đủ biên chế để hoàn thành công việc, hạn chế tình trạng làm việc quá tải và phải làm thêm giờ. Hỗ trợ công tác đào tạo và đào tạo lại kể cả trong nước và ngoài nước vì đây là một trong những nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Tổ chức hội nghị tổng kết hàng năm về hoạt động kinh doanh ngoại tệ nhằm tạo điều kiện trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau giữa Sở giao dịch và các chi nhánh. Đồng thời tăng cường tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ về kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế cho cán bộ lãnh đạo và nhân viên của Sở giao dịch để nâng cao nghiệp vụ. Kết luận. Cùng với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, việc phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các Ngân hàng thương mại là tất yếu. Hoạt động này vừa đáp ứng nhu cầu đổi mới đất nước và phát triển nền kinh tế thị trường mở, tức là phục vụ cho hoạt động thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế, thu ngoại tệ về cho đất nước, nó còn mang lại cho Ngân hàng thương mại lợi nhuận đáng kể trong tổng lợi nhuận của Ngân hàng thương mại. Đồng thời cũng giúp cho Ngân hàng thương mại nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế( tất nhiên điều này là rất khó) và từng bước tiến tới xây dựng một mô hình ngân hàng hiện đại, trong đó kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động không thể thiếu. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động phức tạp chứa nhiều rủi ro nên buộc các nhà hoạch định phải nghiên cứu thận trọng, các nhà thực hiện hay chính là các Ngân hàng thương mại phải có sự đầu tư cao không những về công nghệ ngân hàng với trang thiết bị hiện đại mà còn đòi hỏi trình độ đội ngũ kinh doanh phải có năng lực, hiểu biết sâu về ngoại hối, kinh doanh ngoại tệ, tương đối nhạy cảm với những biến đổi của thị trường. Vì vậy những nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của hoạt động này rất có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó, luận văn tốt nghiệp của em được hoàn thành với nội dung cơ bản như sau: Chương 1 : Trình bày những lý luận cơ bản về Ngân hàng thương mại và hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng thương mại, cũng như điều kiện để có hoạt động này và các nhân tố ảnh hưởng tới nó. Chương 2 : Trên cơ sở lí luận ở chương I, phân tích những nhân tố tác động trong thực tế tại Việt Nam đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các Ngân hàng thương mại nói chung và phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch NHNo. Qua đó đánh giá những mặt làm được và khả năng cạnh tranh vủa Sở giao dịch, những hạn chế tồn tại làm giảm năng lực cạnh tranh của Sở giao dịch, đồng thời tìm ra nguyên nhân của hạn chế đó. Chương 3 : Nêu ra định hướng phát triển mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch trong thời gian tới và những giải pháp để thực hiện các định hướng đó trên có sở lí thuyết nghiên cứu ở chương 1 và thực trạng phân tích ở chương 2. Đồng thời cũng nêu lên một số kiến nghị cần thiết đối với NHNN và NHNo Việt Nam. Mục đích của đề tài là nghiên cứu để đưa ra những giải pháp nhằm mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch NHNo song do tính phức tạp và mới mẻ của vấn đề, cộng với sự hiểu biết còn hạn chế và thiếu kinh nghiệm thực tế, em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn để đề tài được hoàn chỉnh hơn. Phụ lục : Báo cáo kinh doanh ngoại tệ và trạng thái ngoại tệ hàng ngày Ngày tháng năm 1. Mua bán ngoại tệ với khách hàng bằng Việt Nam đồng: Giao dịch Ngoại tệ Mua Bán Tỷ giá chuyển khoản Mua cao nhất Bán thấp nhất Giao ngay USD EUR JPY Kỳ hạn USD Dưới 31 ngày 31-120 121-180 Eur Dưới 31 ngày 31-120 121-180 JPY Dưới 31 ngày 31-120 121-180 2.Trạng thái ngoại tệ cuối ngày: Ngoại tệ Trạng thái ngoại tệ Mua Bán Tỷ giá quy đổi trạng thái Trạng thái ngoại tệ cuối ngày USD EUR JPY Ngoại tệ khác Tổng trạng thái ngoại tệ dương (%): Tổng trạng thái ngoại tệ âm (%): Tài liệu tham khảo 1. TS Nguyễn Văn Tiến Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở, NXB Thống kê 2. Lê Văn Tư- Lê Tùng Vân Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh án quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, NXB Thống kê MBA Nguyễn Ninh Kiều Thị trường ngoại hối và thanh toán quốc tế, NXB thống kê PGS- TS Lê Văn Tề Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, NXB Thống kê 5. PGS Đinh Xuân Trình Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương, NXB Giáo dục 6. Tạp chí ngân hàng 7. Tạp chí nghiên cứu kinh tế. 8. Tạp chí kinh tế châu á thái bình dương 9. Tạp chí tài chính- tiền tệ mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0346.doc
Tài liệu liên quan