Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam

Chính Phủ quy định lại các tiêu chí để xác định DNVVN phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Chính Phủ củng cố và phát triển các Quỹ bảo lãnh tín dụng ở các địa phương tạo điều kiện cho các DNVVN trong vay vốn. Đồng thời trong trường hợp các DNVVN gặp phải rủi ro không trả nợ được nợ vay ngân hàng thì các Quỹ bảo lãnh này sẽ đứng ra trả nợ thay. Hàng năm bổ sung nguồn vốn cho Quỹ bảo lãnh tín dụng từ nguồn Ngân sách Nhà nước, nguồn của các định chế tài chính trong và ngoài nước Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động doanh nghiệp, các giải pháp tín dụng, hải quan, thuế tạo điều kiện tối đa để doanh nghiệp có thêm thuận lợi nắm bắt và khai thác thời cơ trong sản xuất kinh doanh. Hỗ trợ về thủ tục cấp/cho thuê đất, giải phóng mặt bằng, miễn giảm tiền thuê đất, miễn miễn giảm thuế Đồng thời thực hiện tốt công tác quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch các khu/cụm công nghiệp tạo điều kiện (nhất là điều kiện về mặt bằng đầu tư) cho các doanh nghiệp đầu tư dự án cũng như duy trì, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Các cơ quan có thẩm quyền hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc xúc tiến thương mại, tìm kiếm cơ hội kinh doanh, dự báo thị trường để nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Tổ chức các lớp đào tạo cho các DNVVN về công tác tổ chức quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh trong xu thế hội nhập.

doc72 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1502 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g góp một phần không nhỏ vào sự phát triển chung của nền kinh tế nhà cũng như sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Ngày 26/4/1957, Ngân hàng Kiến Thiết Việt Nam – tiền thân của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển - được thành lập trực thuộc bộ tài chính theo quyết định 177/TTG của Thủ tướng chính phủ với quy mô ban đầu nhỏ bé gồm 8 chi, nhánh 200 cán bộ. Nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng kiến thiết là thực hiện cấp phát, quản lí vốn kiến thiết cơ bản từ nguồn vốn ngân sách cho tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội. Ngày 24/6/1981, Ngân hàng Kiến Thiết Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam, trực thuộc Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng là cấp phát, cho vay và quản lí vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế thuộc kế hoạch nhà nước. Ngày 14/11/1990, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Đầu năm 1991, thực hiện các quyết định của Nhà Nước và Thống đốc ngân hàng, NHĐT&PTVN triển khai hoạt động theo mô hình tổ chức mới. Ban lãnh đạo NHĐT&PTVN đã xác định: Vốn là mặt trận phía trước, tín dụng là trung tâm với phương chậm “Hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của BIDV” đồng thời bước đầu triển khai các dịch vụ ngân hàng, mở rộng quan hệ đối ngoại và thanh toán quốc tế. Song song với việc ổn định tổ chức và đào tạo cán bộ, NHĐT&PTVN cũng bước đầu mở thêm một số lượng nghiệp vụ mới như: Huy động vốn, phát hành kì phiếu bảo đảm giá trị theo giá vàng, thanh toán quốc tế, cho vay xuất nhập khẩu, cho vay làm nhà ở… Sở giao dịch I được thành lập theo Quyết định số 572 TCCB/ ĐT ngày 26/12/1990 của Vụ Tổ chức cán bộ Ngân hàng Nhà nước về tổ chức bộ máy của NHĐT&PTVN và Quyết Định số 76 QĐ/TCCB ngày 28/03/1991 của Tổng Giám đốc NHĐT&PTVN. Theo các Quyết định này, Sở giao dịch I là đơn vị trực thuộc, thực hiện hạch toán nội bộ, có bảng cân đối tài khoản riêng, có con dấu riêng và trực tiếp giao dịch với khách hàng. Trụ sở đặt tại 191 Đường Bà Triệu-Hai Bà Trưng- Hà nội. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Sở Giao dịch I trải qua hai thời kỳ: - Thời kỳ từ 1991 – 1995: Nhiệm vụ chính trong thời kỳ này là cấp phát vốn ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản. Trong giai đoạn này ngân hàng đã thực hiện cấp phát vốn cho nhiều dự án như: Các dự án về bưu điện, đường sắt, chè, cà phê… với số tiền lên đến hàng trăm tỷ đồng. Không những thế ngân hàng còn cho vay đối với các đơn vị thiết kế thi công, xây dựng… - Thời kỳ từ 2000 đến nay: Năm 2000 các chỉ tiêu đề ra không còn nhưng một số dự án lớn vẫn còn kéo dài trong đó có nhiều dự án mang tính bao cấp chỉ thị. Chỉ đến năm 2001 sở mới chính thức hạch toán độc lập. Trong những ngày đầu mới thành lập sở giao dịch chỉ có hai phòng và một tổ nghiệp vụ trong quá trình phát triển ngân hàng không ngừng mở rộng quy mô cũng như chất lượng hoạt động của mình đến nay ngân hàng có tới 15 phòng nghiệp vụ với hơn 300 cán bộ, với tổng tài sản chiếm khoảng 10% tổng tài sản của hệ thống. SGDI phải làm tất cả các nhiệm vụ mà trung ương giao, cũng như phải hoàn thành tốt nhiệm vụ mà lãnh đạo NHĐT&PTVN giao như: bảo toàn và phát triển nguồn vốn cũng như các nguồn lực của ngân hàng nhằm thực hiện các mục tiêu kinh doanh đề ra, thông qua việc xây dựng kế hoạch dài hạn, kế hoạch hàng năm với hoạt động kinh doanh phù hợp với chiến lược phát triển của toàn ngành và của chính ngân hàng 2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam trong ba năm 2006, 2007, 2008 Thời gian gần đây, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới với xuất phát điểm là sự sụp đổ hệ thống cho vay dưới chuẩn của Mỹ đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam mà nhất là thị trường tài chính tiền tệ có nhiều diễn biến mang tính phức tạp, điển hình như việc dư thừa vốn khả dụng của các NHTM kéo dài suốt trong năm 2007 và lại thiếu hụt vốn trầm trọng vào đầu năm 2008. Việc chỉ số chứng khoán Việt Nam giảm mạnh, hay việc tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng, NHNN kiểm soát chặt chẽ cho vay đối với đầu tư chứng khoán và tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng v.v… dường như càng làm tăng lên những khó khăn mà hệ thống ngân hàng gặp phải. Trước những biến động đó, hoạt động của SGDI NHĐT&PTVN trong thời gian qua cũng không tránh khỏi những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo quyết liệt, chủ động, linh hoạt bằng những quyết sách mạnh mẽ, kịp thời của Ban lãnh đạo cùng sự nỗ lực chung của toàn bộ tập thể cán bộ nhân viên, hoạt động của SGDI đã đạt được những kết quả rất khả quan, xứng đáng là cánh chim đầu đàn trong toàn hệ thống NHĐT&PTVN . 2.1.2.1 Đánh giá nguồn vốn huy động a) Đánh giá tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của SGDI. (Đvt: triệu đồng) Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI Tính đến hết ngày 31/12/2007, số dư huy động vốn của SGDI đạt 13620.6 tỷ đồng, tăng 34.71% so với năm 2006. Nguồn vốn huy động luôn tăng trưởng như vậy đã đảm bảo cho SGDI lúc nào cũng có nguồn vốn sẵn sàng bổ sung cho nhu cầu thanh khoản. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của năm 2008 cao hơn tốc độ tăng trưởng huy động vốn của năm 2007 (so với 2006) 88.9%, là do cuộc chạy đua lãi suất vào đầu năm 2008 của các ngân hàng, tỷ lệ lạm phát tăng khá cao khiến cho đôi khi dẫn tới mức lãi suất thực âm. Thêm vào đó không thể không kể đến sự biến động của thị trường vàng, sự tăng cao của tỷ giá USD/VND và những tác động tiêu cực đến huy động vốn của các ngân hàng. Đặc biệt kết thúc năm 2008 vốn huy động tăng 88.96% so với năm 2007. Nguyên nhân chủ yếu do việc huy động vốn với lãi suất khá cao trong bối cảnh lạm phát của nền kinh tế. Biểu đồ 2.2: Tốc dộ tăng trưởng vốn thành phần (Đvt: triệu đồng) Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI Tiền gửi tổ chức kinh tế tăng trưởng đều đặn qua các năm, tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn ngày càng tăng lên. Điều đó cho thấy SGDI dường như đi đúng hướng trong việc phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt cho hệ thống doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung, giúp cho việc kiểm soát lưu thông tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Tiền gửi của dân cư biến động mạnh trong giai đoạn 2006 – 2008, giảm mạnh vào năm 2007 và lại tiếp tục tăng trong năm 2008 dù kinh tế có nhiều khó khăn. Điều đó đã cho thấy SGDI đã năng động và sáng tạo trong việc chọn giải pháp phát triển những sản phẩm và cung ứng dịch vụ huy động vốn linh hoạt, mang tính cạnh tranh cao bên cạnh những dịch vụ truyền thống như tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm “ổ trứng vàng”…và chú trọng công tác mở rộng mạng lưới trên các thi trường tiềm năng, khách hàng tiềm năng. b) Đánh giá cơ cấu nguồn vốn huy động Cơ cấu huy động vốn của SGDI đã có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực thể hiện ở đối tượng tiền gửi của tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng lớn thay cho loại hình tiền gửi của cá nhân trong giai đoạn trước đây. Nguồn vốn huy động khác đang dần chiếm tỷ trọng tăng cao thể hiện sự năng động của SGDI trong việc tìm kiếm nguồn vốn cho sự phát triển của mình. Tính đến 31/12/2008 tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 26485,352 tỷ đồng, tiền gửi dân cư đạt 2355,873 tỷ đồng trong tổng nguồn vốn huy động. Bảng 2.1: Cơ cấu nguồn vốn huy động của SGDI Năm Chỉ tiêu 2006 2007 2008 1.Tiền gửi tổ chức 7.284.959 12.760.106 26.485.352 - TG không kỳ hạn 1.645.390 3.768.506 7.953.210 - TG có kỳ hạn 5.639.569 8.991.600 18.532.142 2.Tiền gửi dân cư 2.791.400 2.491.021 2.355.873 - TG tiết kiệm 2.290.055 2.130.000 1.865.230 - Kỳ phiếu 120.200 125.350 95.023 - CCTG, trái phiếu 379145 235.671 395.620 3. Huy động khác 34.567 53.355 78235 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI Điều đó cho thấy SGDI dường như đi đúng hướng trong việc phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt cho hệ thống doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung, giúp cho việc kiểm soát lưu thông tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. 2.1.2.2 Đánh giá tín dụng a) Quy mô và tốc độ tăng trưởng tín dụng Biểu đồ 2.3: Quy mô tăng trưởng tín dụng 2006 – 2008 (Đvt: triệu đồng) Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI Trong giai đoạn 3 năm 2006 – 2008, dư nợ tín dụng của SGDI liên tục tăng. Cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới, lạm phát tăng cao trong nước đã khiến NHNN phải thực thi chính sách tiển tệ thắt chặt vào hồi đầu và giữa năm 2008. Theo chính sách đó, toàn bộ hệ thống ngân hàng phải hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng, rà soát chặt chẽ các khoản cấp tín dụng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và đảm bỏa sự phát triển an toàn của toàn hệ thống. Dù có sự nới lỏng vào cuối năm 2008 qua việc cắt giảm lãi suất cơ bản nhưng toàn hệ thống ngân hàng đang duy trì một mức tăng trưởng tín dụng vừa phải cho một sự phát triển bền vững. Vì vậy, dự đoán tốc độ tăng trưởng tín dụng cao trong năm 2008 được coi là sự phát triển thành công của SGDI trong công tác tín dụng dựa trên xem xét mối quan hệ giữa lợi nhuận_rủi ro. Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng tín dụng thành phần. (Đvt: triệu đồng) Thành phần tín dụng 2006 2007 2008 Cho vay ngắn hạn 1.959.934 2.059.282 2.915.623 Cho vay T&D hạn TM 623.713 1.095.379 1.035.021 Cho vay đồng tài trợ 1.894.594 1.512.000 1.584.230 Cho vay KHNN 256478 161.000 18.520 Cho vay ủy thác, ODA 266.034 271.660 253.642 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI Bảng biểu trên đã cung cấp những số liệu tuyệt đối về tín dụng thành phần của SGDI. Trong giai đoạn 2006 – 2008, cho vay ngắn hạn luôn tăng trưởng đều đặn với tốc độ tăng trưởng bình quân là 48.76%. Cho vay trung và dài hạn thương mại tăng trưởng mạnh vào năm 2007 với tốc độ tăng trưởng là 57.17% b) Đánh giá cơ cấu tín dụng Cơ cấu danh mục tín dụng của SGDI trong giai đoạn 2006 – 2008 đã có những thay đổi, những chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng cho vay ngắn hạn và giảm tỷ trọng cho vay trung và dài hạn. Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn chiếm 12.47% vào năm 2006, tăng lên 18.91% vào năm 2007 và giảm vào năm 2008. Sự tăng tỷ trọng vào năm 2007 được lý giải bởi sự tăng trưởng mạnh của nền kinh tế (với tốc độ tăng trưởng GDP là 8.5%). Tuy nhiên, những bất lợi năm 2008 đã khiến SGDI điều chỉnh tỷ lệ cơ cấu tín dụng. Cho vay theo kế hoạch nhà nước không những không tăng từ năm 2008 mà còn giảm dần qua các năm. Tuy nhiên cũng trong giai đoạn 2006 – 2008, cùng với sự tăng trưởng về quy mô tín dụng, sự thay đổi dần theo chiều hướng tích cực của cơ cấu tín dụng thì tỷ lệ nợ xấu của SGDI cũng có xu hướng tăng dần. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nọ vào năm 2006 là 0.21% đã tăng lên tới 0.27% vào năm 2007, 0.25% vào năm 2008. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu như vậy có thể coi là chấp nhận được nếu không muốn nói là khá nhỏ so với các chi nhánh cùng hệ thống và các ngân hàng khác. Để đạt được những kết quả này là nhờ vào sự nỗ lực cũng như hiệu quả của việc kiểm soát chất lượng tín dụng chặt chẽ của SGDI trong suốt thời gian qua. c) Đánh giá các chỉ tiêu khác * Thu dịch vụ ròng Biểu đồ 2.4: Thu dịch vụ rong giai đoạn 2006-2008 (Đơn vị tính : triệu đồng) Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI Trong giai đoạn 2006 – 2008, thu dịch vụ ròng luôn luôn tăng trưởng với tốc độ mạnh và đều đặn. Thu dịch vụ ròng tính đến thời điểm 31/12/2008 đạt 115 tỷ đồng, tăng 49.6% so vói năm 2007. Trước thực trạng cạnh tranh gay gắt giữa các NHTM trong cung cấp những tiện ích đến khách hàng, đạt được điều này là do SGDI đã tập trung nguồn lực vào đầu tư phát triển hoạt động dịch vụ như tài trợ thương mại, bảo lãnh, dịch vụ ngoại tệ… * Kết quả kinh doanh Năm 2007 tổng tài sản bình quân đạt 17999 tỷ đồng tăng 27.28% so với năm 2006. Cùng với đó, tốc độ tăng truởng của lợi nhuận sau thuế cũng đạt mức bình quân khá cao là 47.06%. Tính đến 31/12/2007, lợi nhuận sau thuế đạt mức 321 triệu đồng, tăng 73.64% so với năm 2006. Năm 2008, mặc dù hoạt động của khối ngân hàng thương mại nhìn chung gặp nhiều khó khăn với tình hình huy động vốn giảm mạnh dẫn đến việc các NHTM muốn thu hút đựợc vốn đã đẩy lãi suất lên cao, kéo theo lãi suất cho vay cũng tăng mạnh. Đồng thời các NHTM lại phải thực hiện giới hạn tín dụng, gây ảnh hưởng đáng kể đến kết quả hoạt động, làm cho cạnh tranh trong hệ thống càng khắc nghiệt hơn trước. Do vậy những kết quả mà SGDI đạt được là đáng khích lệ, và đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh NHĐT&PTVN chuẩn bị cổ phần hóa thành tập đoàn tài chính ngân hàng vào năm 2009. 2.2 Thực trạng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHĐT&PTVN trong thời gian gần đây. Là một trong những ngân hàng thương mại Nhà nước hàng đầu Việt Nam, trong thời gian vừa qua, NHĐT&PTVN luôn sát cánh cùng doanh nghiệp. Ngoài mức lãi suất cho vay ưu đãi, NHĐT&PTVN còn đưa ra gói giải pháp dành cho DNVVN. Hơn thế, NHĐT&PTVN luôn là nhạc trưởng trong các diễn đàn xúc tiến đầu tư vào các vùng trọng điểm của đất nước không những giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, mà còn mở ra nhiều cơ hội hỗ trợ doanh nghiệp phát triển trong tương lai. DNVVN đóng một vai trò, vị trí rất quan trọng trong hệ thống kinh tế quốc dân và là một thị trường tiếm năng. Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong tổng số gần 350.000 doanh nghiệp đang hoạt động tại Vệt Nam, có đến 95% là các DNVVN. Trong bối cảnh đó, để hiện thực hoá mục tiêu trở thành ngân hàng thương mại dẫn đầu trong cung ứng tín dụng, dịch vụ cho các DNVVN. Trong thời gian qua, NHĐT&PTVN đã mở rộng phát triển cho vay, nhất là qua các chương trình đặc biệt tài trợ DNVVN. Tính đến hết quý III/2008, hơn 17.000 DNVVN đang có quan hệ với NHĐT&PTVN với tổng dư nợ cho vay và bảo lãnh 43.527 tỷ đồng, chiếm 21,5% tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của toàn toàn hệ thống NHĐT&PTVN. Không chỉ tăng về mặt số lượng khách hàng là các DNVVN mà xét về quy mô, dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của khối DNVVN tại NHĐT&PTVN cũng tăng 15.485 tỷ đồng (31/11/2008) tương đương 55,2%. Do vậy, mức tăng trưởng tín dụng đối với khối DNVVN luôn cao hơn mức tăng bình quân của toàn hệ thống NHĐT&PTVN. Như vậy tính đến thời điểm cuối Quý 3/2008, số lượng DNVVN có quan hệ tín dụng tại hệ thống BIDV tăng thêm 1.368 Doanh nghiệp (tương đương tăng trưởng 12,7%) so với thời điểm cuối năm 2007. Nếu xét về quy mô quan hệ tín dụng đối với khối DNVVN: Tại thời điểm cuối Quý 3/2008, dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh, L/C của khối DNVVN tại BIDV tăng 6.346 tỷ đồng (tương đương tăng trưởng 17,1%) so với thời điểm cuối năm 2007. Năm 2008 là một năm nền kinh tế đất nước gặp nhiêu khó khăn, trong đó khối DNVVN bị tác động mạnh, nhiều doanh nghiệp đang đứng trước nguy cơ bị phá sản. Với vai trò là ngân hàng chủ chốt trong khố NHTM Nhà nước, NHĐT&PTVN luôn đi tiên phong trong việc hỗ trợ chia sẻ khó khăn đối với doanh nghiệp như giảm lãi suất cho vay, thực hiện cơ chế linh hoạt về tài sản bảo đảm ... 2.3 Thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại SGDI NHĐT&PTVN 2.3.1 Tín dụng trung và dài hạn đối với DNVVN tại SGDI NHĐT&PTVN Thời gian qua, NHĐT&PTVN đã có chính sách chia sẻ khó khăn đối với các Doanh nghiệp như giảm lãi suất cho vay, giảm phí, thực hiện cơ chế linh hoạt về tài sản bảo đảm… Từ tháng 9/2008 đến nay, NHĐT&PTVN đã 08 lần giảm lãi suất cho vay, riêng đối với các DNVVN mức lãi suất cho vay đã giảm từ 21%/năm xuống còn 8%/năm (giảm 13%/năm). NHĐT&PTVN trở thành nhà băng đầu tiên công bố điều chỉnh giảm lãi suất đồng nội tệ đầu tiên trong năm 2009. Lần giảm gần đây nhất được NHĐT&PTVN công bố vào ngày 4/12/2008. Lần này, lãi suất cho vay VND của NHĐT&PTVN tối đa là 10,5% một năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn thời hạn đến 3 tháng là 8% một năm đối với các khoản vay xuất khẩu có hợp đồng xuất khẩu trực tiếp và khách hàng cam kết bán lại ngoại tệ tương ứng cho NHĐT&PTVN. Lãi suất cho vay ngắn hạn với thời hạn đến 3 tháng là 9% một năm. Trường hợp thời hạn vay trên 3 tháng, lãi suất áp dụng trên 9% đến tối đa 10% một năm. Lãi suất cho vay trung dài hạn VND của NHĐT&PTVN từ nay bằng lãi suất tiết kiệm 12 tháng trả sau cộng với phí tối thiểu là 3% một năm nhưng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Như vậy, với các chính sách hỗ trợ tín dụng đối với DNVVN, NHĐT&PTVN đã: - Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt: trên cơ sở lãi suất cơ bản từng thời kỳ, áp dụng cơ chế lãi suất ưu đãi đối với các DNVVN, đảm bảo mức lãi suất cho vay đối với các DNVVN thấp hơn từ 0,5% - 1%/năm so với mức lãi suất cho vay thông thường. - Đa dạng hoá các hình thức cấp tín dụng: Đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, như chương trình hoán đổi tiền tệ chéo VND-USD, chiết khấu bộ chứng từ… - Áp dụng biện pháp bảo đảm linh hoạt: bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, nguyên vật liệu tồn kho, quản chấp lô hàng… phù hợp với từng lĩnh vực ngành nghề kinh doanh và xếp hạng doanh nghiệp. - Cho vay kết hợp với góp vốn đầu tư, liên doanh, liên kết với DNVVN: hình thức này vừa tạo điều kiện mở rộng tín dụng, vừa giúp Ngân hàng có điều kiện xâm nhập thị trường, trực tiếp giám sát, quản lý vốn cho vay. Hình thức này là rất hiệu quả và cũng nằm trong khả năng đầu tư, quản lý của Ngân hàng vì các DNVVN thường có quy mô về vốn và phạm vi hoạt động không lớn. Để hỗ trợ các DNVVN trong hoạt động sản xuất kinh doanh, NHĐT&PTVN sẽ dành riêng nguồn vốn với lãi suất hợp lý để hỗ trợ tín dụng (tăng dư nợ ròng) đối với các DNVVN trong giai đoạn 2008 – 2010 là trên 30.000 tỷ đồng, phấn đấu đến năm 2010, tổng dư nợ cho vay đối với khối DNVVN đạt khoảng 60.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 30% tổng dư nợ của NHĐT&PTVN. NHĐT&PTVN cam kết sẽ dành 300 tỷ đồng để hỗ trợ cho vay các DNNVV của tỉnh Quảng Ngãi trong 2 năm 2009 – 2010, trong đó ưu tiên tài trợ vốn cho các Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm thiết yếu, sản xuất hàng xuất khẩu, thu mua chế biến thuỷ sản, kinh doanh thương mại dịch vụ, kinh doanh các ngành phụ trợ cho công nghiệp chế biến xăng dầu. Một số hoạt động tín dụng của SGDI nhằm hỗ trợ tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn đầu năm 2009: - Phê duyệt thiết lập quan hệ và cấp giới hạn tín dụng đối với Công ty cổ phần năng lượng xanh Việt Nam. - Phê duyệt nâng hạn mức tín dụng ngắn hạn đối với Tổng công ty thiết bị điện Việt Nam. - Phê duyệt cấp hạn mức tín dụng cho Ban quản lý dự án Nhà máy thuỷ điện Sơn La. - Phê duyệt thiết lập quan hệ và cho vay vốn tài trợ phương án vay vốn kinh doanh của Công ty cổ phần đầu tư Công đoàn NHĐT&PTVN. - Phê duyệt gia hạn thời gian rút vốn của Hợp đồng hạn mức tín dụng đối với Công ty cổ phần xây dựng công trình ngầm Vinavico. - Phê duyệt phát hành bảo lãnh hoàn trả tiền tạm ứng đối với Công ty cổ phần xây dựng công trình ngầm Vinavico. - Phê duyệt điều chỉnh kỳ hạn trả nợ dự án đầu tư thiết bị thi công của Công ty cổ phần xây dựng công trình ngầm Vinavico. - Trình Hội sở chính phê duyệt phát hành bảo lãnh thực hiện hợp đồng và gia hạn thời gian rút vốn vay thi công công trình Nhà máy bia Hà Nội – Giai đoạn 1 tại Vĩnh Phúc đối với Công ty cổ phần Lilama Hà Nội. 2.3.2 Phân tích chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại SGDI NHĐT&PTVN Dựa vào bảng báo cáo kết quả kinh doanh 3 năm 2006, 2007, 2008 để phân tích một số chỉ tiêu về chất lượng tín dụng tại SGDI NHĐT&PTV như sau: * Chỉ tiêu doanh số cho vay trung và dài hạn Là một đơn vị lớn trong hệ thống NHĐT&PTVN, SGDI cho vay nhiều dự án, chương trình đầu tư dài hạn, quan hệ tín dụng với nhiều khách hàng là tổng công ty, doanh nghiệp lớn vì vậy dư nợ trung và dài hạn chiếm khá lớn trong tổng dư nợ. Tuy nhiên, thực hiện định hướng của NHĐT&PTVN về cơ cấu tín dụng trong đó giảm tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn, tăng tỷ trọng tín dụng ngắn hạn, cơ cấu tín dụng của SGDI cũng đã có sự thay đổi. - Tỷ trọng doanh số cho vay trung và dài hạn năm 2007 là 59,6%, 2008 đạt 49,79% giảm so với năm 2007. Trong đó cho vay trung và dài hạn đối với DNVVN năm 2007 đạt 27% dư nợ, năm 2008 cho vay trung dài hạn DNVVN đạt 30% dư nợ Biểu đồ 2.5: Doanh số cho vay trung và dài hạn DNVVN (Đơn vị: triệu đồng) Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI Như vậy ta có thể thấy rằng tỷ trọng doanh số cho vay trung và dài hạn DNVVN tăng đều trong các năm gần đây trong khi cho vay trung và dài hạn giảm.Có thể thấy NHĐT&PTVN rất chú trọng trong vấn đề thúc đẩy tín dụng đối với khối DNVVN * Chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ SGDI là đơn vị có dư nợ lớn trong hệ thống NHĐT&PTVN, trong hoạt động tín dụng SGDI thực hiện phương châm tăng trưởng ổn định, bền vững, tăng trưởng đi kèm với kiểm soát và bảo đảm chất lượng tín dụng. Dư nợ tín dụng (không bao gồm ODA) thời điểm 31/12/2008 đạt 5.807.045 triệu đồng, đạt 99,26% kế hoạch được giao, tăng 12% so với dư nợ thông thường thời điểm 31/12/2007. Qua việc lập kế hoạch giải ngân, thu nợ hàng tháng, hàng quý đối với từng khách hàng, từng dự án, SGDI đã thực hiện tốt việc kiểm soát chặt chẽ giới hạn tín dụng của NHĐT&PTVN. Dư nợ tín dụng tại SGDI năm 2008 tập trung ở một số khách hàng lớn, thường xuyên phát sinh dư nợ trong năm như tổng công ty xăng dầu Việt Nam, ban quản lý dự án nhiệt điện 1, tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty lắp máy Việt Nam, công ty TNHH sản xuất kinh doanh Bình Minh, công ty cổ phần vận tải xăng dầu Vitaco…Những khách hàng nói trên đều là những khách hàng thuộc Nhóm nợ 1, có uy tín trong quan hệ với SGDI, mang lại hiệu quả cao cho Ngân hàng. Tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn đã giảm từ 59.6% năm 2007 xuống xấp xỉ 50% năm 2008. Bên cạnh đó, SGDI đã chú trọng hơn trong việc mở rộng cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, dẫn tới dư nợ ngoài quốc doanh tăng cả về số tuyệt đối và tương đối so với cùng kỳ năm trước, nâng tỷ trọng dư nợ ngoài quốc doanh từ 35% năm 2007 lên 37,05% năm 2008, vượt 5% so với kế hoạch được giao. Dư nợ ngoài quốc doanh tập trung vào một số khách hàng như Chi nhánh Công ty TNHH SXKD XNK Bình Minh, Công ty cổ phần vận tải xăng dầu Vitaco, Công ty cổ phần xi măng Hạ Long, Công ty cổ phần tập đoàn Phú Thái…, đây cũng là những khách hàng có dư nợ lớn tại SGDI thời điểm 31/12/2008. * Tỷ lệ nợ xấu Tổng nợ xấu tháng 12/2008 đạt 155.748 triệu đồng, tăng hơn 2 tỷ đồng so với thời điểm 30/11/2008 do Sở Giao dịch tiếp tục cho vay hỗ trợ vốn ngắn hạn đối với Công ty TNHHNN MTV Dệt 8/3 và Công ty cổ phần xây dựng công trình Giao thông 810. Dư nợ nhóm 5 phát sinh 700 triệu đồng của Công ty cổ phần xây dựng công trình giao thông 246 do SGDI thực hiện phát vay bắt buộc để thực hiện cam kết bảo lãnh đối với DNVVN. Tổng dư nợ xấu theo của SGDI thời điểm 31/12/2008 chiếm 155.748 triệu đồng; tương ứng với 2,51% tổng dư nợ và hoàn thành kế hoạch kinh doanh năm 2008 do Hội sở chính giao. So với năm 2007, nợ xấu của SGDI giảm mạnh tới 66 tỷ đồng (giảm khoảng 30%). Điều này cho thấy SGDI luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng theo tinh thần chỉ đạo của Hội sở chính, đồng thời SGDI đã có những chính sách kiểm soát hợp lý, chặt chẽ trong hoạt động tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và đảm bảo tỷ lệ dư nợ xấu/tổng dư nợ nằm trong mức giới hạn cho phép và an toàn. * Chỉ tiêu nợ quá hạn Nợ quá hạn trên tổng dư nợ năm 2006 là 0.2%, năm 2007 là 0.25%. Tại thời điểm 31/01/2008, SGDI phát sinh một khách hàng có nợ quá hạn là Công ty CP may Thăng Long (8.240 triệu đồng) đưa nợ quá hạn của SGDI lên mức 8.261 triệu đồng, chiếm 0,14% tổng dư nợ. Nguyên nhân là do của cán bộ tín dụng không theo dõi tài khoản thu lãi tự động dẫn đến quá hạn lãi. Tuy nhiên, sang ngày 01/02/2008 cán bộ tín dụng đã khắc phục và dư nợ của Cty CP May Thăng Long đã trở lại trong hạn. Tại thời điểm 31/12/2008, SGDI không có nợ quá hạn. SGDI đặc biệt quan tâm đến việc kiểm soát chặt chẽ từng khoản vay, không để phát sinh thêm doanh nghiệp có nợ quá hạn nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ 2007 tăng lên so với 2006, và năm 2008 ko còn tinh trạng nợ quá hạn, điều đó chứng tỏ chất lượng tín dụng cải thiện hơn vào năm 2008, khả năng mất vốn, mất khả năng thanh khoản không xảy ra. * Chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng Lợi nhuận trước thuế thu từ hoạt động tín dụng trong 3 năm gần đây như sau: Biểu đồ 2.6: Lợi nhuận trước thuế từ hoạt động tín dụng (Đơn vị: triệu đồng) Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng tăng đều dặn trong các năm, đặc biệt giai đoạn 2006-2007 tăng gần gấp đôi. Khả năng thu hồi nợ và lãi tăng lên, từ đó phản ánh các khoản tín dụng của SGDI tương đối tốt, đối tượng được cấp phép cho vay vốn được thẩm định khá hiệu quả. * Thu hồi hạch toán ngoại bảng Trong tháng 12/2008 SGDI thu được 1.559 triệu đồng nợ hạch toán ngoại bảng của các doanh nghiệp sau: 230 triệu đồng của Công ty cổ phần xây dựng công trình giao thông 810, 1.035 triệu đồng của Công ty đường bộ 230 và 294 triệu đồng của Công ty cổ phần phát triển đầu tư Hà Nội (thu một phần từ hợp đồng bán nợ với dự án tài chính). Như vậy đến 31/12/2008, tổng dư nợ hạch toán ngoại bảng thu được của SGDI là 10.546 triệu đồng, chỉ hoàn thành 67,17% kế hoạch giao. Thu nợ ngoại bảng chưa đạt được kế hoạch giao là do những diễn biến xấu của nền kinh tế đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN vốn đã có tình hình tài chính yếu kém, hiệu quả kinh doanh thấp, ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ của SGDI. * Tình hình giá trị tài sản bảo đảm và dư nợ có tài sản bảo đảm Năm 2008, dư nợ có tài sản bảo đảm của SGDI chiếm 42% tổng dư nợ, hoàn thành kế hoạch được giao. Chỉ tiêu này thấp hơn năm 2007 (51%) là do đặc thù của SGDI là cho vay nhiều khách hàng là doanh nghiệp lớn, các tổng công ty, tập đoàn là các DNNN được cho vay, bảo lãnh không có tài sản bảo đảm theo quyết định 9488/QĐ-TD3 ngày 01/12/2006 của NHĐT&PTVN (các khách hàng có mức xếp hạng AAA và AA) như: Tổng công ty xăng dầu Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà, Tập đoàn dầu khí Việt Nam,.... Ngoài ra, trong năm 2008 SGDI tiến hành giải ngân đối với nhiều dự án lớn nhưng chưa đủ điều kiện để hạch toán giá trị tài sản đảm bảo. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp tăng dư nợ nhưng giá trị tài sản bảo đảm tăng không đáng kể và làm cho dư nợ có tài sản bảo đảm không cao. 2.3.3 Đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại SGDI 2.3.3.1 Kết quả đạt được Trong những năm trở lại đây, nhờ sự nỗ lực cố gắng và phấn đấu của tập thể cán bộ nhân viên SGDI NHĐT&PTVN đã đạt được những kết rất tốt, xứng đang với danh hiệu Anh hùng Lao động do Chủ tịch nước phong tặng nhân dịp kỷ niệm 51 năm ngày truyền thống. SGDI là đơn vị thành viên đầu tiên của BIDV vinh dự được đón nhận danh hiệu cao quý này. Những kết quả đạt được như sau: * Nguồn vốn huy động Nguồn vốn tăng trưởng nhanh hơn (vốn huy động năm 2008 tăng 88.9% so với năm 2007, năm 2007 tăng 34.71% so với năm 2006) và ngày càng ổn định, đáp ứng tốt cho nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng. Trong khi đó tỷ lệ chi phí huy động vốn huy động của các ngân hàng có xu hướng giảm trong thời gian gần đây, uy tín của ngân hàng nâng cao nên khách hàng tăng lên đặc biệt là khách hàng DNVVN. * Hoạt động tín dụng SGDI đã đạt được những thành công đáng kể trong việc mở rộng hoạt động tín dụng, áp dụng những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, đồng thời SGDI đã liên tục cử cán bộ đi tập huấn nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng cao hơn. Trong giai đoạn 3 năm 2006 – 2008, dư nợ tín dụng của SGDI liên tục tăng. Dư nợ tín dụng thời điểm 31/12/2008 đạt 5.807.045 triệu đồng, đạt 99,26% kế hoạch được giao, tăng 13.9% với dư nợ thông thường thời điểm 31/12/2007. Cơ cấu tín dụng có sự thay đổi, cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng, cho vay khối khách hàng nhà nước giảm trong giai đoạn 2006-2008. * Tình hình nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ trong những năm qua đều đạt ở mức rất thấp so với mức trung bình chung của các ngân hàng. Đặc biệt năm 2008 SGDI NHĐT&PTVN không có nợ quá hạn, đó là nỗ lực rất lớn và là thành công của SGDI trong việc nâng cao chất lượng tín dụng, nâng cao vị thế uy tín của SGDI. Công tác xử lý nợ tồn đọng đã được triển khai tích cực, các khoản nợ tồn đọng được rà soát lại và phân tích những khó khăn thuận lợi trong việc thu hồi nợ để tìm ra những biện pháp xử lý phù hợp nhất. So với năm 2007 thì năm 2008 nợ xấu và nợ nhóm 2 giảm cả về số tương đối và tuyệt đối, dư nợ nhóm 1 tăng đáng kể phản ánh chất lượng tín dụng của SGD được đảm bảo và không ngừng nâng cao. * Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng cao, đóng góp chủ yếu vào thu nhập của ngân hàng. SGDI đã thực hiện tiết kiệm tối đa chi phí và tích cực đẩy mạnh gia tăng doanh thu. *Hoạt động kiểm tra kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay SGDI luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng theo tinh thần chỉ đạo của Hội sở chính, đồng thời SGDI đã có những chính sách kiểm soát hợp lý, chặt chẽ trong hoạt động tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và đảm bảo tỷ lệ dư nợ xấu/tổng dư nợ nằm trong mức giới hạn cho phép và an toàn. * Trong quản trị điều hành SGDI đã tái cơ cấu lại bộ máy quản lý trong năm 2008 theo hướng hiện đại để dễ dàng quản lý. 2.3.3.2 Hạn chế và nguyên nhân * Những hạn chế Quy mô khoản vay trung và dài hạn còn nhỏ, số lượng các dự án cho vay còn ít do hình thức tín dụng trung và dài hạn chứa đựng nhiều rủi ro cao… Thời gian xét duyệt dự án cho vay còn dài, thủ tục rườm rà vì có nhiều giấy tờ biểu mẫu được đòi hỏi do vậy nó làm cho cán bộ tín dụng mất thời gian điều tra đồng thời làm cho doanh nghiệp đi vay vốn chán nản. Nhất là những khoản vay vốn lớn, khi vay được vốn thì doanh nghiệp đã mất đi những cơ hội kinh doanh. Thu nợ ngoại bảng chưa đạt được kế hoạch giao, có những khoản nợ ngoại bảng từ những năm trước nhưng vẫn chưa thu hồi được. Năm 2008 SGDI tiến hành giải ngân đối với nhiều dự án lớn nhưng chưa đủ điều kiện để hạch toán giá trị tài sản đảm bảo. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp tăng dư nợ nhưng giá trị tài sản bảo đảm tăng không đáng kể và làm cho dư nợ có tài sản bảo đảm không cao. Cán bộ tín dụng lợi dụng vị trí của mình để vụ lợi cá nhân làm uy tín ngân hàng giảm xuống. Quan niệm Marketting của SGDI còn hạn chế, SGDI chủ yếu tập trung vào các hoạt động bề nổi nhờ quảng cáo, khuyếch trương... còn việc vận dụng Marketting nghiên cứu khách hàng, xác định thị trường mục tiêu, đi sâu sát vào hoạt động, quan tâm đến từng khách hàng chưa cụ thể. SGDI còn để hở một mảng lớn trong việc lôi kéo các khách hàng tiềm năng, chưa có các biện pháp cụ thể có thể dẫn đến việc bị các đối thủ cạnh tranh lôi kéo khách hàng. * Nguyên nhân Hiện nay quy trình nghiệp vụ cho vay đang trong thời gian sửa đổi hoàn thiện do vậy mà khách hàng chưa nắm bắt được thủ tục cho vay, quy trình xin vay vốn của ngân hàng. Những diễn biến xấu của nền kinh tế đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vốn đã có tình hình tài chính yếu kém, hiệu quả kinh doanh thấp, ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ của Sở Giao dịch I. Những biến động kinh tế thế giới ảnh hưởng nền kinh tế Việt Nam, thị trường biến động bất thường, lạm phát nền kinh tế cao, thị trường vàng và chứng khoán biến động dẫn đến khoản tiền gửi ở ngân hàng cũng biến động không dều trong thời gian ngắn. Do sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tín dụng khác trên cùng địa bàn, sự gia nhập thị trường tài chính củ các tổ chức tài chính nước ngoài. Do trinh độ cán bộ tín dụng, đạo đức nghề nghiệp còn yếu kém nên xảy ra một số vụ việc làm mất uy tín ngân hàng Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam. 3.1 Mục tiêu và chính sách hỗ trợ đối với DNNVV của NHĐT&PTVN 3.1.1 Mục tiêu 3.1.1.1 Mục tiêu dài hạn Trở thành NHTM dẫn đầu trong cung ứng tín dụng, dịch vụ cho các DNVVN nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế, tạo việc làm và nâng cao đời sống người lao động, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Để hỗ trợ các DNVVN trong hoạt động sản xuất kinh doanh, NHĐT&PTVN sẽ dành riêng nguồn vốn với lãi suất hợp lý để hỗ trợ tín dụng (tăng dư nợ ròng) đối với các DNVVN trong giai đoạn 2008 – 2010 là trên 30.000 tỷ đồng, phấn đấu đến năm 2010, tổng dư nợ cho vay đối với khối DNVVN đạt khoảng 60.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 30% tổng dư nợ của NHĐT&PTVN. NHĐT&PTVN phấn đấu vươn tới thành một tập đoàn đầu tư tài chính đa năng vào năm 2020 mà mô hình hoạt động là gắn kết với các nhà đầu tư khác như công nghiệp, bảo hiểm... để tạo nên một nguồn lực mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. 3.1.1.2 Mục tiêu ngắn hạn Tài trợ vốn hỗ trợ duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN, ưu tiên các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu và sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác chế biến tài nguyên khoáng sản, đầu tư thuỷ điện vừa và nhỏ. Tư vấn tái cấu trúc tài chính, cơ cấu nợ, tăng năng lực tài chính đối với các doanh nghiệp gặp khó khăn, đảm bảo hiệu quả cao nhất với mục đích duy trì hoạt động và tạo nền tảng phát triển sau khi các doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Xây dựng các giải pháp xử lý đối với các doanh nghiệp dự kiến sẽ mất khả năng thanh toán và đứng trước nguy cơ phá sản. 3.1.2 Chính sách hỗ trợ tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt: trên cơ sở lãi suất cơ bản từng thời kỳ, áp dụng cơ chế lãi suất ưu đãi đối với các DNVVN, đảm bảo mức lãi suất cho vay đối với các DNVVN thấp hơn từ 0,5% - 1%/năm so với mức lãi suất cho vay thông thường. Đa dạng hoá các hình thức cấp tín dụng: Đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, như chương trình hoán đổi tiền tệ chéo VND-USD, chiết khấu bộ chứng từ… Áp dụng biện pháp bảo đảm linh hoạt: bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, nguyên vật liệu tồn kho, quản chấp lô hàng… phù hợp với từng lĩnh vực ngành nghề kinh doanh và xếp hạng doanh nghiệp. Cho vay kết hợp với góp vốn đầu tư, liên doanh, liên kết với DNVVN: hình thức này vừa tạo điều kiện mở rộng tín dụng, vừa giúp ngân hàng có điều kiện xâm nhập thị trường, trực tiếp giám sát, quản lý vốn cho vay. Hình thức này là rất hiệu quả và cũng nằm trong khả năng đầu tư, quản lý của ngân hàng vì các DNVVN thường có quy mô về vốn và phạm vi hoạt động không lớn. 3.1.3 Chính sách ưu đãi về dịch vụ đối với các DNVVN Ưu đãi phí dịch vụ đến mức tối đa trên cơ sở biểu phí từng thời kỳ của NHĐT&PTVN. Cung cấp sản phẩm dịch vụ trọn gói cho các khách hàng nhóm này gồm: Tư vấn phát hành trái phiếu doanh nghiệp, dịch vụ ngân hàng điện tử (homebanking, directbanking...), dịch vụ quản lý tài khoản trọn gói (dịch vụ quản lý vốn tự động, quản lý các khoản phải thu, quản lý các khoản phải trả tự động, dịch vụ quản lý dòng tiền, dịch vụ tiền gửi với mức lãi suất linh hoạt), dịch vụ thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ với tỷ giá ưu đãi, dịch vụ vấn tin tài khoản, tra cứu thông tin tỷ giá, tiền gửi, tiền vay, lãi suất, tra soát... Ngoài ra, NHĐT&PTVN sẽ xem xét góp vốn đầu tư, liên doanh, liên kết đối với các DNNVV phù hợp với định hướng phát triển, quy chế đầu tư hiện hành của NHĐT&PTVN . 3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp và nhỏ tại SGDI NHĐT&PTVN * Quản lý nguồn vốn SGDI cần tìm kiếm và thực hiện các biện pháp gia tăng quy mô nguồn vốn với lãi suất thấp, kỳ hạn dài và ổn định vì dựa vào nguồn huy động ngắn hạn là không đủ và thường có rủi ro rất lớn đến khả năng thanh toán của ngân hàng. Việc tính toán và luân chuyển giữa nguồn huy động ngắn hạn sang trung và dài hạn cần tính toán kỹ, đảm bảo an toán cho ngân hàng Ngân hàng cần tăng cường phát hành giấy nợ trung và dài hạn so tính an toàn cao, dễ chuyển đổi, lãi xuất hấp dẫn. Ngân hàng cũng tài trợ dự án dựa trên sự liên kết với các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước nhằm giảm bớt rủi ro mà vẫn hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển, kích thích phát triển kinh tế đất nước. * Thẩm định dự án Nâng cao hơn nữa việc kiểm tra thẩm định hiệu quả kinh tế của dự án vay, thẩm định dự án trước khi cho vay là vấn đề then chốt trong công tác tín dụng. Thẩm định dự án nhằm kiểm tra khẳng định lại những chi tiết kinh tế kỹ thuật của dự án đầu tư như: qui mô đầu tư, thiết bị công nghệ, năng lực công suất máy móc, khối lượng và chất lượng sản phẩm, thị trường tiêu thụ...trên cơ sở đó để đi đến đầu tư. SGDI NHĐT&PTVN trong thẩm định đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhưng để hoàn thiện hơn thì ngân hàng cần chú ý, ngoài việc kiểm tra tính đầy đủ, tính hợp pháp của văn bản hồ sơ pháp lý về kinh doanh, về dự án vay, thẩm định tính hiện thực, tính khả thi của các dự án tạo tiền đề từ đó có dự báo về hiệu quả, khả năng vay trả. Thông thường khi đi vay vốn người đi vay đã tính toán hiệu quả kinh tế, tính toàn nguồn vốn và khả năng vay trả của dự án. Với giác độ là người cho vay vốn, Ngân hàng phải thẩm định, kiểm tra lại các cơ sở của việc luận lý, tính toán của người vay vốn. Không chỉ dừng lại ở tính toán của người vay mà ngân hàng luôn luôn phải đặt các vấn đề phản biện lại các cơ sở lập luận và cơ sở tính toán của người vay để làm sáng tỏ mọi khía cạnh của dự án. Hiệu qủa kinh tế cao hay thấp của dự án vay có quan hệ hữu cơ khăng khít và thường quyết định khả năng vay tốt hay xấu của dự án. Nhưng nếu ngân hàng chỉ dừng lại ở các chỉ tiêu hiệu quả của khoản vay thì chưa đủ mà điều kiện quan trọng là: Trả nợ bằng nguồn vốn nào, nguồn vốn trả nợ có bảo đảm không, trả nợ trong bao nhiêu lâu, lịch trả nợ như thế nào? Vì vậy, ngoài việc thẩm định lại hiệu quả kinh tế của dự án vay, ngân hàng cần phải chú trọng kiểm tra các nguồn vốn đã trả nợ, thời hạn trả nợ, hiện thực khả thi, lịch trả nợ trả lãi cụ thể. * Dự báo rủi ro xảy ra Sở giao dịch cần luôn luôn dự báo các rủi ro tiềm ẩn trong tín dụng trung dài hạn và có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. Rủi ro thanh toán, rủi ro lãi suất luôn đe doạ các ngân hàng bởi cấp độ của khoản vay trung và dài hạn lớn hơn đáng kể so với khoản vay ngắn hạn. Sự quan tâm đến vấn đề phòng ngừa rủi ro đối với khoản vay trung dài hạn không chỉ đòi hỏi đối với ngân hàng mà còn đặc biệt đối với cơ quan quản lý tiền tệ, bởi mức độ của khoản vay trung dài hạn là rất lớn, gây đột biến và kéo dài cho cả bên vay. Ngân hàng tài trợ và các bên có liên quan. Chính vì vậy, biện pháp xác định dự báo rủi ro tiềm ẩn trong thế chấp và bảo lãnh vay vốn là hết sức cần thiết đối với Ngân hàng. Việc dự báo rủi ro tiềm ẩn càng đầy đủ, các biện phấp phòng ngừa càng tốt thì hiệu quả tín dụng ngay từ khâu phán quyết càng cao. Việc phát hiện và dự báo các rủi ro tiềm ẩn để đề ra các biện pháp phòng ngừa phải là việc làm liên tục, thường xuyên không phải chỉ trước khi phán quyết mà cả trong suốt quá trình đưa vốn vay ra cho đến khi thu hết nợ gốc và lãi vay. * Tài sản thế chấp Thế chấp và bảo lãnh cho việc vay vốn là chìa khoá an toàn cuối cùng cho việc vay vốn. Trong điều kiện hiện nay, việc sử dụng công cụ này đối với các DNVVN, Ngân hàng phải biết sự nhạy cảm, bảo đảm nguyên tắc và chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của nhà nước, áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo nhưng không tuỳ tiện. Tuyệt đối không coi thế chấp cầm cố là “bùa hộ mệnh“ trong cho vay, không thể coi là chìa khoá an toàn đặc biệt mà chỉ coi là chiếc chìa khoá an toàn cuối cùng trong việc bảo đảm tín dụng. Thực hiện việc thế chấp, bảo lãnh đúng quy định và cho vay lãi phải dựa trên những cơ sở thực sự từ phía doanh nghiệp chứ không phải dựa vào duy nhất tài sản thế chấp. Ngoài ra, khi cho vay nếu khách hàng không có tài sản thế chấp thì ngân hàng cũng không nên từ chối ngay yêu cầu vay vốn của khách hàng. Vì thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp tuy không có tài sản đảm bảo nhưng lại có phương án kinh doanh hiệu quả, uy tín tốt thì vẫn có thể là một trong những đối tượng được sử dụng vốn vay ngân hàng. * Kiểm tra, kiểm soát khoản tín dụng Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng quản lý trong quá trình cho vay, theo dõi đôn đốc trong quá trình thu nợ và thu lãi. Quá trình đưa vốn ra theo dõi đôn đốc thu nợ cũng là khâu không kém phần quan trọng. Khi một dự án trung và dài hạn được cho vay theo đúng mục đích, đúng lúc, đúng thời điểm số vốn ghi trong hợp đồng tín dụng thì công việc quản lý vốn vay ở đây là theo dõi kiểm tra số tiền mà doanh nghiệp rút ra lần trước xem có sử dụng đúng mục đích hay không. Việc kiểm tra này thông qua các chứng từ hoá đơn, hợp đồng giá cả... Nếu doanh nghiệp sử dụng đúng mục đích như trong hợp đồng tín dụng thì đó là cơ sở cho việc phát triển vốn lần sau. Những trường hợp nào sử dụng vốn sai mục đích thì phải xử lý ngay theo chế độ Tín dụng. Ngoài ra, phải theo dõi bám sát mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để đánh giá chính xác những diễn biến trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng, phát hiện kịp thời khả năng có thể phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi, từ đó có biện pháp xử lý ngay. Việc đôn đốc thu nợ thu lãi đúng kỳ hạn và đủ là nghiã vụ và trách nhiệm, là kỷ luật đối với cán bộ tín dụng. Lịch trả nợ và lãi vay đã cam kết trong hợp đồng tín dụng phải theo dõi hàng ngày. Ngân hàng đồng thời phải gửi báo cáo cho doanh nghiệp có nợquá hạn chuẩn bị nguồn trả vào trước kỳ hạn trả. Việc thu nợ lãi đúng kỳ hạn sẽ không có nợ quá hạn thể hịên sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. * Xử lý nợ quá hạn Khi một dự án vay mà đến hạn trả mà doanh nghiệp chưa có nguồn trả nợ thì cần xem xét để ra hạn, trả nợ gốc phải đúng thẩm quyền được uỷ nhiệm và các chế độ tín dụng quy định, không tùy tiện ra hạn. Nếu trong các dự án cho vay có nợ quá hạn thì cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi mọi diễn biến để kịp thời thu hồi, tránh để nợ nần dây dưa. Để xử lý nợ qúa hạn thì ngân hàng có biện pháp thích hợp để giúp đỡ doanh nghiệp tháo gỡ mọi khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Ngân hàng giúp doanh nghiệp việc tư vấn trong Sản xuất để giảm nợ quá hạn Cần tuyệt đối không cho vay khoản mới khi chưa hết nợ cũ, không lấy nợ nuôi nợ. * Hoàn thiện và đổi mới công nghệ ngân hàng Đổi mới công nghệ, hình như giống lớp da bao bọc bên ngoài. Nó liên tục thay đổi và biến đổi để phù hợp sự thích nghi với môi trường. Và môi trường mà ta đang xét đó chính là các khách hàng. Và khi mà nhu cầu của khách hàng ngày càng cao, thì đòi hỏi công nghệ đó cũng phải thay đổi theo. Vì vậy, tiêu chuẩn hoá các nghiệp vu ngân hàng theo tiêu chuẩn chung của một ngân hàng hoạt động đa năng. Xét trong môi trường kinh doanh có sự cạnh tranh không chỉ riêng trong lĩnh vực tài chính ngân hàng mà còn cả trong các lĩnh vực khác. Trên cơ sở và yêu cầu của việc quản lý thông tin khách hàng tập trung, quản lý vốn tập trung (cả ngoại tệ và đồng Việt Nam), tạo ra các sản phẩm công nghệ; xử lý và cung cấp thông tin chính xác, kịp thời nhất phục vụ cho công tác chỉ đạo, định hướng kinh doanh của các cấp lãnh đạo và các phòng chuyên môn. Như vậy, hoàn thiện và đổi mới hệ thống quản lý và cung cấp thông tin mạng nội bộ sử dụng chung. Đưa công nghệ vào để cải thiện, cải tạo phương thức quản lý trong toàn chi nhánh hệ thống NHĐT&PTVN. Tạo ra được cách suy nghĩ, cách làm việc và quản lý khoa học dựa trên hệ thống thông tin chính xác, đầy đủ có sự hỗ trợ tối đa của máy móc, áp dụng hệ thống hỗ trợ ra quyết định phục vụ cho cán bộ lãnh đạo các cấp trong việc điều hành và quản lý hoạt động ngân hàng. * Đào tạo đội ngũ nhân viên có năng lực Công tác đào tạo cán bộ ngân hàng là yếu tố quan trọng quyết định mọi thành công của công việc. Vì vậy, ngân hàng cần phải kế hoạch hoá công tác đào tạo cấn bộ, sớm tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng, đưa việc nâng cao trình độ trở thành mục tiêu phấn đấu và làm việc thường xuyên. Công tác đào tạo cần tập trung theo trọng điểm và đào tạo một cách trọng điểm để thực sự có những cán bộ có đủ năng lực và hiểu biết phục vụ yêu cầu công tác kinh doanh, đào tạo những cán bộ kế cận, có năng lực và phẩm chất đạo đức. Một vài ví dụ về rủi ro do nhân viên NHĐT&PTVN gây ra: - 5/1/2009: nhân viên chi nhánh Nam Hà Nội NHĐT&PTVN trả nhầm tiền cho khách hàng từ 108 triệu đồng thành 1 tỷ 82 nghìn đồng. - 12/2007 nhân viên NHĐT&PTVN phụ trách điểm giao dịch tại Cầu Giấy đã giã mạo chữ ký của khách hàng lấy đi số tiền 24 tỷ đồng 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Đối với chính phủ Chính Phủ quy định lại các tiêu chí để xác định DNVVN phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Chính Phủ củng cố và phát triển các Quỹ bảo lãnh tín dụng ở các địa phương tạo điều kiện cho các DNVVN trong vay vốn. Đồng thời trong trường hợp các DNVVN gặp phải rủi ro không trả nợ được nợ vay ngân hàng thì các Quỹ bảo lãnh này sẽ đứng ra trả nợ thay. Hàng năm bổ sung nguồn vốn cho Quỹ bảo lãnh tín dụng từ nguồn Ngân sách Nhà nước, nguồn của các định chế tài chính trong và ngoài nước… Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động doanh nghiệp, các giải pháp tín dụng, hải quan, thuế… tạo điều kiện tối đa để doanh nghiệp có thêm thuận lợi nắm bắt và khai thác thời cơ trong sản xuất kinh doanh. Hỗ trợ về thủ tục cấp/cho thuê đất, giải phóng mặt bằng, miễn giảm tiền thuê đất, miễn miễn giảm thuế… Đồng thời thực hiện tốt công tác quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch các khu/cụm công nghiệp tạo điều kiện (nhất là điều kiện về mặt bằng đầu tư) cho các doanh nghiệp đầu tư dự án cũng như duy trì, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Các cơ quan có thẩm quyền hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc xúc tiến thương mại, tìm kiếm cơ hội kinh doanh, dự báo thị trường để nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Tổ chức các lớp đào tạo cho các DNVVN về công tác tổ chức quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh trong xu thế hội nhập. 3.3.2 Đối với SGDI NHĐT&PTVN Nhanh chóng hoàn thiện quy trình tín dụng đang sửa đổi để khách hàng dễ dàng hơn trong việc vay vốn, từ đó tìm ra tiéng nói chung giữa ngân hàng và doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vay vốn dễ dàng. Sở giao dịch tìm kiếm các nguồn vốn bằng ngoại tệ từ các dự án đầu tư nước ngoài, nhằm hỗ trợ và điều hoà vốn cho SGDI Cần trang bị thêm cơ sở vật chất kỹ thụật để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, thu thập và xử lý thông tin. NHĐT&PTVN cần bám sát quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của các Bộ, các ngành để xây dựng chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong thời gian tới. Ngân hàng cần có chính sách tín dụng phù hợp, bám sát tình hình thực tế để nâng cao hiệu quả của công tác tín dụng, cũng như nâng cao nguồn vốn đảm bảo cho việc hoàn thành quá trình tái cơ cấu có kết quả tốt nhất. Ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác khách hàng, có những biện pháp tiếp cận, thu hút nhiều nhóm khách khác nhau. Việc xây dựng cơ chế tài chính trong tiếp thị và ưu đãi đối với khách hàng vừa mang tính hệ thống, vừa có khả năng cạnh tranh cao, vừa tạo quyền chủ động cho các đơn vị thành viên trong việc vận dụng hiệu quả các cơ chế đó. Ngân hàng cần xây dựng một hệ thống quản lý nguồn nhân lực có hiệu quả hơn, tăng cường việc tổ chức các chương trình đào tạo, nâng cao trình độ và năng lực chuyên môn của các cán bộ tín dụng ngân hàng. Quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn đối với mỗi cán bộ tín dụng trong việc thực hiện nghiệp vụ tín dụng, có chế độ thường phạt rõ ràng…sẽ góp phần không nhỏ nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. KẾT LUẬN Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, đặc biệt là khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, mỗi doanh nghiệp Việt Nam đều phải có sự chuẩn bị chu đáo khi tham gia vào thị trường quốc tế rộng lớn. Trong đó, các Ngân hàng thương mại lại càng cần phải hoàn thiện và tăng cường khả năng cạnh tranh bởi hoạt động của các Ngân hàng thương mại đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực cung ứng vốn và các dịch vụ khác cho các doanh nghiệp và dân cư. Do đó, nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong đó có hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch I là một yêu cầu đặt ra cho các ngân hàng, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay khi Việt Nam chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Qua một thời gian nghiên cứu lý luận về tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, và khảo sát thực tiễn hoạt động tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, Chuyên đề đã đạt được mục tiêu đã đề ra, đó là: - Chuyên đề cũng kháí quát hoá doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời chuyên đề đã phân tích và hệ thống hoá các vấn đề về tín dụng và chất lượng tín dụng trung dài hạn của các ngân hàng thương mại. Để từ đó phân tích chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Chuyên đề đã khái quát được quá trình hình thành và phát triển của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam kể từ khi thành lập đến nay. Đồng thời đánh giá thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ, chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam trong thời gian từ 2006-2008. Qua việc phân tích thực trạng, chuyên đề đã nêu lên những kết quả đạt được và những mặt hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế đó. - Trên cơ sở phân tích thực trạng, chuyên đề đã đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam. - Ngoài ra, trong chuyên đề cũng đưa ra một số kiến nghị với Chính phủ và Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam nói riêng. Do kiến thức và thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của quý thầy, cô để em tiếp tục được học tập, nghiên cứu sâu hơn về đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Phan Thu Hà cùng toàn thể cán bộ phòng Quan hệ khách hàng 2 Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã hướng dẫn, giúp đỡ tận tình tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề thực tập này. DANH MỤC TÀI LIỆU Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, ĐHKTQD-Khoa NH-TC Giáo trình Ngân hàng thương mại, ĐHKTQD Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, ĐHKTQD Quản trị Ngân hàng thương mại, PGS.TS Nguyễn Thị Mùi Ngiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê Báo cáo hoạt động thường niên của SGDI NHĐT&PTVN các năm 2006, 2007, 2008 Báo cáo tài chính 2006, 2007, 2008 Hướng dẫn thực hiện quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng của NHĐT&PTVN Kỷ yếu của SGDI NHĐT&PTVN Website:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22481.doc
Tài liệu liên quan