Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội

Qua hai năm hoạt động, Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội, với nhiều nỗ lực của toàn thể cán bộ, nhân viên, đã đạt được nhiều kết quả khả quan và không thể phủ nhận, trở thành nguồn cung ứng vốn lớn phục vụ cho sự phát triển của thủ đô Hà Nội. Song, để hoạt động cho vay đầu tư phát triển thực sự trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho các dự án đầu tư phát triển, Chi nhánh Quỹ cần chủ động, tích cực tháo gỡ những khó khăn và vướng mắc mà vẫn còn tồn tại không ít trong quá trình thực hiện của Chi nhánh. Tin tưởng rằng, với những giải pháp hữu hiệu và đồng bộ, hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội sẽ được nâng cao, tương xứng với tiềm năng và vị thế của Chi nhánh cũng như yêu cầu phát triển thành phố.

doc102 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, gây sự lúng túng cho việc thực hiện cũng như việc phân tích và định hướng trong phát triển dài hạn. Các chiến lược phát triển kinh tế của Nhà nước liên tục có sự điều chỉnh, làm thay đổi trọng tâm ưu tiên phát triển, dẫn đến thay đổi đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư. Hơn nữa, những định hướng này thường hướng tới mục tiêu xã hội mà chưa thực sự quan tâm đến hiệu quả kinh tế của dự án. 2.3.3.1.2. Nguyên nhân từ phía các cơ quan có liên quan. * Công tác quy hoạch của thành phố nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu định hướng cho đầu tư phát triển của Nhà nước ở thành phố Hà nội. Việc bố trí cho nhiều dự án không phù hợp đã dẫn đến tình trạng phải điều chỉnh vốn cho nhiều dự án, gây ra sự không hiệu quả chung, chưa nói đến sự đọng vốn do điều chỉnh không kịp thời. * Chưa kịp thời hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc hoàn tất các thủ tục đầu tư xây dựng, hướng dẫn chuẩn bị dự án nên các khâu này thường phải làm đi làm lại nhiều lần, ảnh hưởng đến thời gian đầu tư của dự án, đến cơ hội kinh doanh của dự án. Hơn nữa, chưa thực hiện tư vấn cho chủ đầu tư trong việc lựa chọn công nghệ, thiết bị, thiết kế tổng dự toán, lựa chọn giá xét thầu... làm ảnh hưởng đến chất lượng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. * Thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng trong việc hướng dẫn cũng như thực hiện đầu tư phát triển, dẫn đến việc các cơ quan thi hành gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin, tìm kiếm sự hỗ trợ về chuyên môn, tổ chức thực hiện... Mặt khác, sự phân công trách nhiệm và quyền hạn giữa các cơ quan quản lý lại chưa rõ ràng, dẫn đến tình trạng hoặc là buông lỏng quản lý, hoặc là can thiệp quá sâu vào tiến trình dự án, gây cản trở dự án, khó khăn cho hoạt động của Chi nhánh Quỹ và chủ đầu tư. 2.3.3.1.3. Từ phía Quỹ Hỗ trợ phát triển. * Việc giao kế hoạch vốn hàng năm còn chậm, lại cân đối còn thấp so với nhu cầu làm cho vốn tín dụng ưu đãi ở trong tình trạng eo hẹp, dàn trải và phân tán, chưa đáp ứng được yêu cầu đầu tư phát triển trên địa bàn thành phố. * Việc thực hiện kế hoạch năm nay lại kéo dài sang giữa năm sau khiến cho công tác quản lý gặp nhiều khó khăn, phức tạp vì có một thời gian dài phải đồng thời hoạt động theo kế hoạch năm mới và thực hiện tiếp kế hoạch năm cũ. Đồng ý rằng cần phải có một thời gian sau để hoàn tất kế hoạch song nếu như quá kéo dài sẽ gây khó khăn trong quản lý và gây ra tâm lý dây dưa của chủ đầu tư. 2.3.3.1.4. Từ phía chủ đầu tư. - Nhận thức của chủ đầu tư về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nhiều khi còn lệch lạc. Nhiều đơn vị chỉ chú trọng vào việc được ghi kế hoạch vốn mà không chú ý đến việc xây dựng và thực hiện hiệu quả dự án. ý thức trách nhiệm trong việc sử dụng vốn tín dụng của chủ đầu tư còn thấp, coi nhẹ trách nhiệm trả nợ, nếu không trả được nợ thì xin hoãn nợ, giãn nợ, giảm lãi suất, đảo nợ, khoanh nợ hoặc chuyển thành vốn cấp phát làm ảnh hưởng đến hiệu quả vốn tín dụng đầu tư phát triển và để lại mầm mống của chế độ bao cấp qua con đường tín dụng. - Thực tế cho thấy chất lượng và hiệu quả của các dự án đầu tư hiện nay còn thấp. Chủ đầu tư thường có tư tưởng rụt rè, sợ đầu tư chiều sâu, ngại đi sâu tìm kiếm hướng đầu tư và dự án có hiệu quả. Vì vậy, trong khi nguồn vốn cân đối rất hạn hẹp chưa đủ khả năng đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của thành phố thì nhiều khi lại rất thiếu dự án đầu tư có hiệu quả thật sự để bố trí vốn. - Chủ đầu tư chưa chuẩn bị kỹ càng và đầy đủ các thủ tục về đầu tư liên quan đến việc thực hiện dự án và thường xuyên có những thay đổi so với quyết định ban đầu. Bên cạnh đó, các chủ đầu tư thường ít thông thạo các qui định về thủ tục như duyệt thiết kế tổng dự toán, giấy phép xây dựng, tổ chức đấu thầu còn chậm, chưa đáp ứng được các qui định của tổ chức cho vay về hồ sơ vay vốn nên việc thực hiện còn kéo dài. - Khả năng thiết lập dự án, lựa chọn dự án khả thi, xác định chính xác mức vốn đầu tư của dự án còn hạn chế. Khi tính toán, chủ đầu tư thường chưa xem xét kỹ các yếu tố bên ngoài như những biến động về môi trường công nghệ... nên hiệu quả dự án thường thấp hơn nhiều so với dự kiến gây ảnh hưởng đến việc trả nợ. - Nhiều chủ doanh nghiệp không có khả năng tìm kiếm mở rộng thị trường mới cho sản phẩm. Khi thị trường truyền thống bị thu hẹp thì chưa chủ động thích ứng với những biến động của thị trường, gâu thiệ hại cho dự án, dẫn đến việc dự án bị từ chối cho vay, bị dừng giải ngân vốn vay... Một khó khăn nữa là nhiều chủ dự án không có khả năng huy động đủ nguồn vốn đối ứng trong tổng số vốn đầu tư nên cũng không được chấp nhận cho vay vốn. - Nhiều doanh nghiệp còn có tâm lý không muốn nhận nợ sớm hoặc có đủ điều kiện giải ngân nhưng không xin giải ngân, chờ đợi lãi suất hạ hơn nữa, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Lại có trường hợp, doanh nghiệp phải trả vốn vay sớm trước hạn để khỏi phải trả lãi do dự án không hiệu quả. 2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía Chi nhánh Quỹ. * Hệ thống thông tin và xử lý thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ công tác thẩm định, cũng như công tác giám sát cho vay thu nợ, do đó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Chi nhánh Quỹ. * Công tác tuyên truyền về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước còn cần được quan tâm hơn nữa. Sau hơn hai năm hoạt động, vẫn có rất nhiều doanh nghiệp cả trong và ngoài quốc doanh vẫn chưa biết đến hoạt động của Hệ thống Quỹ, chưa nhận thức được đầy đủ về các hoạt động hỗ trợ đầu tư ở Chi nhánh. Ngay cả các đối tượng được hưởng ưu đãi cũng chưa có những hiểu biết đầy đủ các quy định về thủ tục thực hiện. * Năng lực của đội ngũ cán bộ còn chưa đồng đều. Bên cạnh những cán bộ giàu kinh nghiệm và tinh thần trách nhiệm, vẫn còn một số cán bộ còn chưa bám sát đơn vị hoặc bị động trong công tác nên chất lượng công việc còn hạn chế. Tóm lại, qua hai năm hoạt động, Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Song vẫn còn tồn tại một số hạn chế và bất cập trong hoạt động của Chi nhánh. Việc nhìn nhận các nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này là cơ sở để đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước trên địa bàn thành phố Hà nội tại Chi nhánh Quỹ. chương III: giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà nội 3.1. Mục tiêu phát triển kinh tế của thành phỗ Hà nội đến năm 2010 và định hướng hoạt động của Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà nội. 3.1.1. Mục tiêu phát triển kinh tế của thành phố Hà nội đến 2010. Việt Nam sau hơn 15 năm đổi mới đã có nhiều thay đổi lớn lao. Chúng ta đã có những bước đi ban đầu rất quan trọng, tạo tiền đề vững chắc hơn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giúp nền kinh tế nước ta phát triển với quy mô rộng hơn và trình độ ngày càng cao hơn. Chúng ta đã từng bước khẳng định được vị thế kinh tế của mình trên trường quốc tế. Thế kỷ XXI là thế kỷ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới, đặc biệt là công nghệ thông tin, tiếp tục nhảy vọt, thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức. Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng sâu rộng, cạnh tranh kinh tế đang ngày càng gay gắt, Châu á Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển năng động. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính, nhiều nước Đông Nam á đang khôi phục lại đà phát triển với khả năng cạnh tranh cao hơn. Trước những thuận lợi đan xen với khó khăn, trước những thời cơ lớn và những thách thức của tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế, chúng ta phải phát huy cao độ tinh thần cách mạng tiến công, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua thách thức, khó khăn, đưa đất nước tiến lên nhanh chóng, vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Là trung tâm văn hoá chính trị kinh tế xã hội của cả nước, thủ đô Hà nội có vai trò lớn lao trong công cuộc phát triển này. Để đảm bảo thực hiện kế hoạch của chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 do đại hội Đảng IX đề ra, thành phố đã đặt ra các mục tiêu: - Đạt nhịp độ tăng trưởng 8,5-9%/năm giai đoạn 2001-2005 và 9,5-10%/năm giai đoạn 2005-2010. Bình quân giai đoạn 2000-2010 đảm bảo tốc độ tăng GDP từ 8,5 đến 9,5%. - Tăng tỷ trọng GDP của Hà nội đóng góp vào GDP cả nước từ 7,2% năm 2000 lên 9% vào năm 2010 với mức tăng GDP dự kiến 29.277 tỷ đồng vào năm 2005 và khoảng 47.000 tỷ đồng năm 2010. - Phấn đấu tăng mức GDP bình quân đầu người từ 756 USD năm 2000 lên 1043 USD năm 2005 và 1500 USD vào năm 2010. - Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 15% để góp phần tạo nên một nền kinh tế mở cho thủ đô. - Dự kiến tốc độ tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2001-2005 là 109%, 2005-2010 là 110%, bình quân cả thời kỳ đạt mức tăng 109,5%. - Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước thể hiện trên các mặt: + Tiếp tục sắp xếp lại khu vực kinh tế quốc doanh theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò định hướng của kinh tế quốc doanh với các khu vực kinh tế khác, tập trung nắm những ngành, lĩnh vực chủ đạo, đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. + Tạo điều kiện khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh. + Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài cho quá trình phát triển. - Tiếp tục cơ cấu lại nền kinh tế, tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp trong giai đoạn đầu lên ngang tầm với tiềm năng và vị trí của công nghiệp thủ đô, phát triển mạnh ngành dịch vụ một cách hợp lý phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội đồng thời đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và hiện đại hoá nông thôn nhằm thích ứng với tiến trình đô thị hóa. Tiến tới xây dựng một cơ cấu kinh tế ngành và vùng hợp lý tạo tiền đề cho sự phát triển lâu dài của thành phố. - Căn cứ vào các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra, Hà nội lựa chọn các trọng điểm đầu tư để tạo ra động lực phát triển, bứt phá nhanh làm cho nền kinh tế sớm bước vào giai đoạn cất cánh, tập trung định hướng đầu tư phát triển vào một số ngành, lĩnh vực: + Các khu công nghiệp tập trung kỹ nghệ cao bao gồm cả các khu chế xuất. + Phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn của thành phố như điện- điện tử, chế biến thực phẩm, cơ- kim khí, dệt may- da giầy, hình thành các ngành kinh tế trọng điểm cho nền kinh tế thủ đô. + Phát triển mạnh các loại hình du lịch- dịch vụ, tập trung đầu tư xây dựng Hà nội thành một trung tâm thương mại- dịch vụ lớn trong cả nước, xứng đáng với tiềm năng du lịch cũng như kinh tế của thủ đô. + Đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn ngoại thành, tập trung đầu tư cho trồng trọt rau quả, hoa, cây cảnh đồng thời với việc phát triển các ngành chế biến nông lâm sản để hỗ trợ cho ngành nông nghiệp. - Bên cạnh đầu tư cho sản xuất, chú trọng đến đầu tư cho các chương trình văn hoá, giáo dục, xã hội để nâng cao mức sống dân cư, xây dựng Hà nội trở thành một thủ đô hiện đại đồng thời vẫn giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Trong giai đoạn tới ưu tiên cho các chương trình hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà nội. Để thực hiện thành công những mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế đã đề ra, cần phải tận dụng và phát huy đầy đủ, có hiệu quả tất cả các tiềm năng, các nguồn lực của đất nước. Một trong những nhân tố quan trọng vào bậc nhất là vốn đầu tư và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư. Trong tổng vốn đầu tư dự kiến, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có một vị trí quan trọng, chiếm hơn 16% tổng vốn đầu tư. Điều đó cho thấy vai trò to lớn của Quỹ Hỗ trợ phát triển và đặc biệt là Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà nội. Nó cũng đòi hỏi Chi nhánh Quỹ phải có những định hướng hoạt động phù hợp với định hướng phát triển tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển của thành phố đến năm 2010. 3.1.2. Định hướng hoạt động của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà nội trong thời gian tới. Theo dự tính, để duy trì được tốc độ tăng trưởng 8,5-9,5%/năm từ nay đến năm 2010, toàn thành phố cần khoảng 15.000 tỷ vốn đầu tư. Nguồn vốn đầu tư này bao gồm cả vốn tín dụng ngân hàng, vốn Ngân sách, vốn huy động từ nước ngoài trong đó, vốn trong nước phải đóng vai trò quyết định. Trên cơ sở đó, dự kiến vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh như sau: Bảng 4: Dự kiến vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà nội trong giai đoạn 2000- 2005. Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2005 Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tổng nguồn vốn tín dụng 5756 100 8290 100 Nguồn vốn tín dụng ĐTPT của NN 598,6 13,4 787,4 13,6 Nguồn: Sở kế hoạch đầu tư Hà nội. Trong thời gian tới, định hướng bố trí vốn tín dụng đầu tư phát triển vẫn tiếp tục tập trung vào các dự án thuộc các lĩnh vực sau: - Khối sản xuất công nghiệp bao gồm các dự án thuộc các ngành: cơ khí (trọng điểm là chương trình xe đạp-quạt điện), điện- điện tử, dệt may- da giầy, sản xuất vật liệu xây dựng và chế biến lương thực thực phẩm. Ngoài ra cũng ưu tiên phát triển những ngành công nghệ cao, tạo ra sản phẩm có hàm lượng chất xám lớn. - Khối xây dựng hạ tầng đô thị: tập trung vào các dự án xây dựng hạ tầng cho các khu công nghiệp, khu đô thị mới, xây dựng nhà ở để giải phóng mặt bằng, nhà ở cho người có thu nhập thấp. - Các dự án đầu tư phát triển hạ tầng viễn thông, phát triển công nghệ thông tin và tin học. - Các dự án thuộc ngành nông lâm nghiệp như chế biến, bảo quản thực phẩm, máy móc phục vụ ngông nghiệp, trồng cây ăn quả, trồng rừng nguyên liệu, nuôi trồng thuỷ sản... - Các dự án sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu có giá trị xuất khẩu lớn, tạo ra nhiều công ăn việc làm. - Các dự án thuộc lĩnh vực giáo dục, y tế, giao thông... đặc biệt chú trọng đến những dự án phát triển các trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học, phổ cập và nâng cao chất lượng giáo dục, các dự án nâng cao chất lượng giao thông và y tế phục vụ đời sống dân cư. Trên cơ sở các lĩnh vực ưu tiên như trên, tập trung vốn cho những dự án đang vay dở để hoàn thành dứt điểm công trình, sớm đưa dự án vào hoạt động và khai thác. Nguồn vốn còn lại bố trí cho những dự án có tính khả thi cao, đạt hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội, có khả năng hoàn trả nợ vay. Nghiệp vụ hoạt động chính của Chi nhánh trong giai đoạn tới vẫn là cho vay đầu tư phát triển. Trên cơ sở nguồn vốn do Ngân sách cấp chủ động phối hợp với Sở kế hoạch đầu tư thành phố và các chủ đầu tư để hoàn tất thủ tục triển khai ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay. Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là hoạt động cần được đẩy mạnh để huy động tối đa các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, cơ chế thực hiện cũng như các qui định về hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cần được nghiên cứu cải tiến cho phù hợp để hấp dẫn chủ dự án, phát huy được vai trò hỗ trợ của Quỹ đối với các dự án được khuyến khích đầu tư. Bảo lãnh tín dụng đầu tư cũng cần được nghiên cứu cải tiến cho phù hợp để đưa vào thực hiện. Trong thời gian tới, Chi nhánh Quỹ cần sử dụng linh hoạt cả 3 hình thức cho vay đầu tư phát triển, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng đầu tư thành công cụ hữu hiệu để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình trong đầu tư phát triển kinh tế xã hội góp phần hoàn thành các chỉ tiêu cơ bản đề ra trong chiến lược phát triển từ nay đến năm 2010 của UBND thành phố Hà nội. Về hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước, trong những năm tiếp theo, Chi nhánh chủ trương đẩy nhanh tiến độ thẩm định dự án, ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay, đảm bảo thực hiện 100% vốn kế hoạch. Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay, giảm thiểu nợ quá hạn và lãi treo. Chủ động và kịp thời giải quyết những món nợ "có vấn đề", tìm hiểu nguyên nhân để đưa ra biện pháp tháo gỡ, trình cấp trên xem xét và quyết định. Trong những năm tới, cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước phải thực sự trở thành công cụ kích thích đầu tư, đem lại hiệu quả cao cho thành phố. 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà nội. Bên cạnh cho vay đầu tư phát triển, Chính phủ đã cho triển khai 2 hình thức mới của tín dụng đầu tư mới là hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng. Mặc dù vậy, hình thức cho vay đầu tư vẫn chiếm một vai trò chủ đạo trong thời gian trước mắt cũng như về lâu dài. Nó không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách mà còn là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Thông qua hoạt động cho vay đầu tư phát triển, Nhà nước có thể định hướng nền kinh tế xã hội theo đúng mục tiêu phát triển đặt ra cho từng giai đoạn, từng thời kỳ nhất định, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Còn đối với chủ đầu tư, cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước vừa tạo điều kiện thuận lợi cho họ hoạt động sản xuất kinh doanh theo định hướng của Nhà nước, vừa buộc họ phải nâng cao tính sáng tạo và trách nhiệm đối với khoản vay trong việc thực hiện dự án. Xuất phát từ tầm quan trọng đó và những hạn chế còn tồn tại ở Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà nội, những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư được đưa ra nhằm góp phần khắc phục những khó khăn và vướng mắc này dựa trên những nguyên nhân cơ bản đã được nhận thức ở phần trên. 3.2.1. Chủ động khơi tăng nguồn vốn cho vay đầu tư phát triển, đa dạng hoá nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Cùng với đà phát triển kinh tế của đất nước, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế ngày càng tăng. Trong khi đó, nguồn vốn tín dụng của Nhà nước lại rất hạn chế. Thực hiện quan điểm bồi dưỡng nguồn thu của Chính phủ, hiện nay cũng mới chỉ có khoảng 18% GDP được động viên vào Ngân sách hàng năm. Mặt khác, nhu cầu chi thường xuyên và tích luỹ trả nợ nước ngoài ngày càng tăng đã gây sức ép lên Ngân sách Nhà nước. Do đó, dù đã có nhiều cố gắng song vốn tín dụng đầu tư phát triển từ Ngân sách chắc chắn không thể đảm bảo đáp ứng được nhu cầu. Trong tình hình đó, Chi nhánh Quỹ không nên thụ động trông chờ vào nguồn vốn kế hoạch được Chính phủ cân đối mà nên chủ động tìm kiếm các nguồn nhàn rỗi như quỹ tiết kiệm bưu điện, tích luỹ trả nợ nước ngoài, bảo hiểm xã hội... Ngoài ra, Chi nhánh Quỹ còn nên chủ động tìm thêm các nguồn như vốn vay từ các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức hỗ trợ nước ngoài... Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, việc huy động từ các nguồn này cần được xem xét đánh giá cẩn thận những rủi ro và những điều kiện ràng buộc. Chi nhánh cũng nên chủ động tìm sự phối hợp của các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố nhằm đáp ứng đủ vốn cho các dự án có tính khả thi, có hiệu quả cao, có khả năng trả nợ. 3.2.2. ứng dụng linh hoạt Marketing ngân hàng để nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về hoạt động cho vay đầu tư của Chi nhánh quỹ. Marketing là một hệ thống tổ chức quản lý của đơn vị để đạt được những mục tiêu đặt ra bằng nhận thức và tiến hành công việc thông qua việc kế hoạch hoá, kiểm soát nguồn của cải, vật chất nhằm thích ứng với môi trường, thị trường, để thoả mãn nhu cầu của nhóm khách hàng lựa chọn, từ đó đạt được mục tiêu sinh lợi cao nhất. Với đặc trưng riêng của ngành ngân hàng, marketing phải có những đặc điểm phù hợp. Lợi ích được tối đa hoá ở đây là sự tổng hoà giữa lợi ích của khách hàng, lợi ích của nhân viên và lợi ích của bản thân ngân hàng. Đó phải là sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế xã hội và khả năng sinh lời của ngân hàng. Đây là một quá trình xuyên suốt trước, trong và sau khi cho vay. Hoạt động gần như một ngân hàng chính sách, cho vay đầu tư phát triển của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển có nội dung và phương pháp thực hiện cũng gần giống như hình thức cho vay trung và dài hạn ở các ngân hàng thương mại. Bởi vậy, Chi nhánh hoàn toàn có thể áp dụng một cách linh hoạt các phương pháp marketing ngân hàng vào hoạt động của mình. Nhóm khách hàng lựa chọn ở đây chính là các đối tượng cho vay. ứng dụng marketing ngân hàng trong Chi nhánh Quỹ có thể bằng một số biện pháp như sau: - Nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ nhằm tạo nên hình ảnh của Chi nhánh đối với khách hàng. - Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng mà rõ thấy là nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn dự án, hoàn thiện hồ sơ thủ tục... Điều này sẽ giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, nâng cao hiệu quả của dự án và cũng xoá đi tâm lý e ngại của doanh nghiệp do các thủ tục khi tiếp cận với vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Đó là cơ sở để Chi nhánh mở rộng cho vay và nâng cao hiệu quả hoạt động. - Thực hiện các biện pháp tuyên truyền, giới thiệu hoạt động của Chi nhánh như qua báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng hay tổ chức các cuộc hội thảo, trao đổi với doanh nghiệp nhằm nắm bắt nhanh chóng, kịp thời khó khăn cũng như nguyện vọng của doanh nghiệp... 3.2.3. Chủ động bám sát, tích cực phát huy việc tư vấn cho các chủ dự án hoàn thiện hồ sơ. Các cán bộ tín dụng là những người hoạt động trong chuyên môn, thường xuyên tiếp xúc và phải nắm rõ hơn ai hết về các quy định, trình tự thủ tục vay vốn cũng như kỹ thuật lập dự án đầu tư. Trong khi đó, năng lực lập dự án của chủ đầu tư nhìn chung lại chưa cao, nếu lại thêm không nắm rõ thủ tục thì sẽ gây ra tình trạng thời gian thẩm định của dự án kéo dài, thậm chí còn đánh mất cơ hội kinh doanh, ảnh hưởng đến hiệu quả dự án. Hơn nữa, khi khách hàng không nắm rõ thủ tục lại không được tư vấn kịp thời và chu đáo, họ sẽ ngại tìm đến Chi nhánh mà tìm đến những nơi dù kém ưu đãi một chút nhưng có tư vấn giúp họ thực hiện vay vốn dễ dàng. Còn về phía Chi nhánh, khi chủ động, tích cực bám sát và tư vấn cho chủ dự án, Chi nhánh đã tạo cho mình một hình ảnh đẹp đối với khách hàng và cũng làm cho công việc thẩm định của chính mình thuận lợi hơn. Bởi vậy, mặc dù, tư vấn không phải là nhiệm vụ mà Chi nhánh bắt buộc phải làm nhưng nếu thực hiện tốt công tác này, Chi nhánh đã góp phần làm tăng hiệu quả của dự án, cũng là nâng cao hiệu quả cho vay đầu tư phát triển. 3.2.4. Nâng cao năng lực thẩm định. Với tư cách là người đi vay, các chủ đầu tư thường tìm mọi cách để “làm đẹp” hồ sơ xin vay của mình. Trách nhiệm của thẩm định là phải đánh giá đúng năng lực của chủ đầu tư và hiệu quả của dự án, phát hiện ra những rủi ro tiềm ẩn từ môi trường kinh tế xã hội, từ thị trường, từ bản thân dự án và chủ đầu tư của dự án để có thể đưa ra quyết định cho vay hay không một cách chính xác nhất. Đây là một bước vô cùng quan trọng với việc cho vay nói chung và cho vay đầu tư phát triển ở Chi nhánh Quỹ nói riêng. Nó có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của Chi nhánh, đến hiệu quả đầu tư của toàn thành phố mà xa hơn là của Nhà nước và sự phát triển của toàn xã hội. Để nâng cao năng lực thẩm định, Chi nhánh cần chú ý các vấn đề sau: 3.2.4.1. Nghiên cứu, tổng hợp, xây dựng và thường xuyên cập nhật hệ thống thông tin kinh tế kỹ thuật phục vụ cho công tác thẩm định. Trong thời đại ngày nay, khi nền kinh tế biến động từng ngày, việc nắm bắt và phân tích thông tin trở nên vô cùng cần thiết, đặc biệt là những vấn đề có tính rủi ro và nhạy cảm lớn như các khoản vốn vay. Các thông tin phục vụ cho công tác thẩm định là nguyên liệu cho khâu đầu tiên quyết định đến hiệu quả của khoản tín dụng, là cơ sở cho Chi nhánh qua phân tích, tổng hợp để đưa ra quyết định cho vay. Đảm bảo cho các quyết định chuẩn xác, các thông tin phải được thu thập chính xác, kịp thời, đầy đủ và nhất là phải được xử lý bằng các kỹ thuật phân tích, tổng hợp. Các thông tin cần được thu thập về cơ bản bao gồm: + Thông tin về định hướng phát triển kinh tế xã hội, đánh giá khả năng thị trường trong đó bao gồm cả thị trường đầu ra và thị trường đầu vào của sản phẩm của dự án cũng như tình hình các sản phẩm thay thế, cạnh tranh... để đánh giá sự cần thiết và hợp lý của chủ trương đầu tư, chiến lược và khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường nếu dự án được đầu tư. + Thông tin về tính năng tác dụng và đặc điểm hoạt động của máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất... để đánh giá tính khả thi trong lựa chọn công nghệ, công suất, quy mô của dự án, sản lượng đảm bảo doanh thu, chi phí sản xuất và khả năng lợi nhuận của dự án. + Thông tin về tình hình tài chính, năng lực thực hiện dự án của chủ đầu tư, tình hình hoạt động kinh doanh trong quá khứ, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ doanh nghiệp góp phần đánh giá được mức độ an toàn của vốn sau khi được vay vốn. Các thông tin này có thể được sử dụng kết hợp từ việc kiểm tra tại đơn vị, xem xét và phân tích báo cáo tài chính và các thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước(CIC). Đặc biệt, đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, Chi nhánh nên tham khảo thông tin về khách hàng từ CIC. Trung tâm này sẽ cung cấp những thông tin về lịch sử quan hệ tín dụng của khách hàng, tình hình thực hiện nghĩa vụ trả lãi và trả nợ, các khoản nợ quá hạn trước đây của đơn vị. Qua đó sẽ giúp chi nhánh đánh giá chính xác hơn khả năng cũng như ý thức trả nợ của khách hàng. Ngoài ra, CIC còn cung cấp những thông tin về tài sản thế chấp, giúp Chi nhánh đánh giá chính xác hơn về tài sản đó cũng như ngăn ngừa tình trạng đơn vị đem tài sản thế chấp để vay vốn ở nhiều nơi. 3.2.4.2. Nghiên cứu các phương pháp thẩm định dự án đầu tư và xây dựng hoàn chỉnh hệ thống các chỉ tiêu đánh giá tài chính. Hiện nay, Chi nhánh thường sử dụng 4 phương pháp để đánh giá hiệu quả tài chính dự án là phương pháp tính giá trị hiện tại ròng (NPV), phương pháp tính tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), phương pháp tính thời gian hoàn vốn (PP) và phương pháp tính hệ số sinh lời của dự án (BCR). Chi nhánh nên nghiên cứu để đưa vào thêm những phương pháp mới nhằm nâng cao tính chính xác của những con số này. Bên cạnh đó, việc đưa ra các đánh giá trong phân tích báo cáo tài chính vẫn phần nhiều phụ thuộc vào cảm tính mà chưa có một tiêu chuẩn cụ thể. Nên chăng, Chi nhánh cần nghiên cứu để có thể tự mình xác định những chuẩn này ở trong trạng thái lỏng, đảm bảo phát huy hiệu quả nhưng vẫn linh hoạt và thích ứng với sự biến đổi trong môi trường kinh tế xã hội, sự biến đổi về công nghệ, về thị trường... 3.2.4.3. Nâng cao hơn nữa năng lực của cán bộ thẩm định: Trong bất cứ một công việc nào, chủ thể thực hiện công việc là con người. Thẩm định phương án tài chính và phương án trả nợ là những công việc rất khó khăn nên việc nâng cao hơn nữa năng lực cán bộ là điều cần thiết. Nâng cao năng lực cán bộ thẩm định là sự kết hợp chặt chẽ cả việc nâng cao tinh thần trách nhiệm và khả năng thực hiện công việc. Chi nhánh cần có các biện pháp xác định trách nhiệm cụ thể đối với từng cán bộ, cơ chế thưởng phạt kịp thời, nghiêm minh và có tính khích lệ. Chi nhánh cũng thường xuyên tiến hành đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ bằng các buổi trao đổi, bồi dưỡng nghiệp vụ hoặc gửi cán bộ đi học. 3.2.4.4. Thành lập một hội đồng chuyên trách tổng hợp, xem xét, đánh giá việc thẩm định: Hiện nay ở Chi nhánh Quỹ, việc thẩm định dự án đầu tư do cả bộ phận thẩm định kinh tế kỹ thuật và bộ phận tín dụng thực hiện. Điều này cho phép các cán bộ tín dụng nắm vững hơn về khoản cho vay của mình song cũng đặt ra một số khó khăn khi chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận này. Nên chăng thành lập một bộ phận chuyên trách việc tổng hợp , xem xét và xử lý các kết quả thẩm định này, tạo điều kiện để có sự phối hợp chặt chẽ giữa công tác thẩm định và công tác tín dụng. 3.2.5. Chủ động tăng cường quan hệ phối hợp với các cơ quan hữu quan. Các công tác của quỹ hỗ trợ phát triển liên quan chặt chẽ với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư như bố trí nguồn vốn, cơ cấu đầu tư, quy hoạch phát triển, phân bổ kế hoạch... Do đó, Quỹ Hỗ trợ phát triển phải có sự phối hợp chặt chẽ với các Bộ này để đảm bảo thực hiện tốt công việc được giao. Là một Chi nhánh, ngoài việc thường xuyên liên hệ chặt chẽ với Quỹ Hỗ trợ phát triển, Chi nhánh Quỹ còn phải chủ động phối hợp với các cơ quan này, ở cấp Sở để có thể đảm bảo thực hiện tốt công việc trên địa bàn thành phố Hà nội. Ngoài ra, Chi nhánh còn phải tăng cường quan hệ phối hợp với các cơ quan hữu quan khác như ủy ban nhân dân thành phố, các Bộ ngành có các dự án đang được thẩm định cho vay hay đang được cho vay và cả những dự án đã hoàn thành đầu tư đưa vào sử dụng, để có những đánh giá chính xác và kịp thời xử lý. Chi nhánh cũng cần tăng cường liên hệ với các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng mà tại đó, doanh nghiệp có tài khoản tiền gửi vì qua tài khoản này, mọi thông tin về hoạt động và tình hình tài chính của doanh nghiệp được kiểm soát chặt chẽ, qua đó, tổ chức cho vay có thể kịp thời xử lý đối với khoản tín dụng cũng như có thể đưa ra các quyết định chính xác hơn khi thẩm định và cho vay. Ngoài ra, việc phối hợp này còn rất có ý nghĩa nhất là trong hoàn cảnh vốn tự có của các doanh nghiệp thì rất hạn chế, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thì cũng không đủ đáp ứng, thì vay của ngân hàng thương mại là một giải pháp tốt. Sự phối hợp giữa ngân hàng thương mại và Chi nhánh Quỹ sẽ cho phép cả hai phía mở rộng tín dụng trung và dài hạn mà vẫn đảm bảo chất lượng cho vay. 3.2.6. Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ phải được thực hiện thường xuyên và trở thành một trong những hoạt động cơ bản của Chi nhánh quỹ. Công tác này cho phép phát hiện và kịp thời uốn nắn những sai lạc trong công tác nói chung và hoạt động cho vay đầu tư phát triển nói riêng, đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ theo đúng quy định, có hiệu quả, tránh thất thoát, lãng phí và giữ gìn được cán bộ. Cần phải thực hiện nhiều hình thức kiểm tra, kiểm soát để có thể đánh giá trung thực và không làm ảnh hưởng đến công tác chuyên môn như thực hiện kiểm tra trước, trong và sau khi thực hiện quá trình công tác, kiểm tra từ xa, kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất , thông tin báo cáo định kỳ... 3.2.7. Thường xuyên theo dõi, rà soát, phân loại nợ vay để có biện pháp xử lý kịp thời. Việc theo dõi nợ vay của Chi nhánh hiện nay do các cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Cán bộ phụ trách cho vay dự án nào sẽ tiến hành theo dõi và phân loại nợ vay đối với dự án đó. Điều này cho phép Chi nhánh nắm được thông tin một cách đầy đủ và toàn diện hơn do cán bộ cho vay quản lý dự án từ đầu đến cuối nên nắm vững tình hình của chủ đầu tư và việc thực hiện dự án. Định kỳ, Chi nhánh, sẽ tiến hành rà soát, phân loại nợ vay trên cơ sở thu lãi, thu gốc và báo cáo của cán bộ tín dụng phụ trách dự án. Để nâng cao hiệu quả hoạt động, Chi nhánh cần phải có bộ phận chuyên trách thường xuyên tập hợp thông tin từ các cán bộ tín dụng, xem xét tình hình thực tế để có những biện pháp xử lý thích hợp. Việc đó cũng sẽ buộc cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi dự án đó thay vì chỉ để ý tới nó khi đến kỳ thu nợ, từ đó, cán bộ tín dụng cũng như Chi nhánh có thể thường xuyên nắm được tình hình của doanh nghiệp. Trên thực tế, một khoản dư nợ có vấn đề thường có thể có các dấu hiệu như: Doanh nghiệp chậm trễ trong việc báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của mình với Chi nhánh. Doanh nghiệp có biểu hiện trốn tránh khi cán bộ tín dụng xuống kiểm tra đơn vị. Hoàn trả lãi vay và nợ gốc chậm hoặc không đầy đủ theo hợp đồng tín dụng đã ký. Thông thường, khi có những biểu hiện trên là rủi ro đã có thể nhìn thấy tương đối rõ. Lúc đó, Chi nhánh cần phải nhanh chóng có biện pháp giải quyết. Chính vì thế, cán bộ tín dụng phải theo sát dự án ngay cả khi chưa đến kỳ thu nợ, phát hiện ra mầm mống của rủi ro ngay từ khi nó mới manh nha xuất hiện để có thể tư vấn và cùng với chủ dự án giải quyết cũng như chủ động trong công tác xử lý. Việc xử lý các khoản nợ có vấn đề này phải cương quyết nhằm tránh tình trạng chủ đầu tư ỷ lại, thiếu ý thức trả nợ, dẫn đến tình trạng bao cấp qua con đường tín dụng nhưng cũng không nên cứng nhắc mà phải tuỳ thuộc vào nguyên nhân cụ thể để có cách giải quyết phù hợp, nhằm bảo đảm sự an toàn của vốn nhưng phải trong nỗ lực vực dậy dự án của cả hai phía. Chẳng hạn như đối với những dự án gặp khó khăn tạm thời do những biến động của thị trường ngoài khả năng tính toán của chủ đầu tư, có thể xem xét miễm giảm lãi vay, đồng thời cùng với chủ đầu tư tìm cách giải quyết, thậm chí còn đẩy nhanh giải ngân giúp doanh nghiệp qua thời điểm khó khăn. 3.2.8. Thực hiện theo dõi, tổng hợp và đánh giá hiệu quả dự án sau đầu tư. Xét về bản chất hoạt động, thì hiệu quả cho vay ưu đãi không phải chỉ là thu hồi được cả gốc và lãi mà điều quan trọng hơn là vốn tín dụng đầu tư phát triển đem lại kết quả gì cho sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và thành phố nói chung và rộng hơn nữa là cho toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, Chi nhánh nên tiến hành theo dõi và đánh giá hiệu quả sau đầu tư của dự án. Việc thu thập những thông tin này hoàn toàn không mất nhiều thời gian và công sức, các cán bộ tín dụng hoàn toàn có thể đảm nhận được nhưng nó đem lại hiệu quả đáng kể cho hoạt động của Chi nhánh. Thông qua tổng hợp và đánh giá hiệu quả dự án sau đầu tư, Chi nhánh có thể rút ra những kinh nghiệm quí báu trong việc thực hiện nhiệm vụ. Không những thế nó còn là cơ sở để Chi nhánh xây dựng định hướng và kế hoạch hoạt động cả ngắn và dài hạn một cách cụ thể, chính xác và phù hợp với tình hình phát triển của thành phố. Kết quả đầu tư tổng hợp của các dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển còn là những dữ liệu quan trọng để báo cáo Quỹ Hỗ trợ phát triển và Chính phủ làm cơ sở cho việc giao vốn cũng như kế hoạch thực hiện cho Chi nhánh. 3.2.9. Nâng cao chất lượng và phát huy toàn diện nguồn nhân lực. Con người luôn luôn đóng vai trò trung tâm trong mọi hoạt động xã hội, là mục tiêu và là động lực phát triển của xã hội. Con nguời là nhân tố quyết định hiệu quả của hoạt động. Với tư cách này, con người cần phải được tạo điều kiện để phát huy mọi năng lực , năng khiếu, sáng kiến để có thể góp phần vào phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội theo phương châm “phát triển vì con người và do con người”. Nhận thức được điều này, trong thời gian vừa qua, Chi nhánh Quỹ đã luôn chú ý quan tâm phát huy nhân tố con người. Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, phổ biến các quy định của Chính phủ và Hội đồng quản lý Quĩ được thực hiện thường xuyên. Bên cạnh đó, Chi nhánh còn chú trọng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ nhân viện tạo điều kiện nâng cao hiệu suất lao động. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa nhân tố con người, không chỉ trong đội ngũ cán bộ thẩm định mà trong tất cả các bộ phận, đem lại hiệu quả hoạt động cao hơn và tương xứng với tiềm năng của Chi nhánh, trong thời gian tới Chi nhánh có một số vấn đề sau cần chú ý: - Bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ. Chi nhánh nên thường xuyên tổ chức tập huấn cho cán bộ về các nghiệp vụ có liên quan như thẩm định dự án, qui trình cho vay, quy trình thanh toán... Để các bài giảng này phát huy hiệu quả hơn nữa có thể mời các chuyên gia hoặc cán bộ của Quỹ Hỗ trợ phát triển về trực tiếp thực hiện. Sau đó, đề nghị cán bộ tham gia tập huấn viết báo cáo thu hoạch để xem kiến thức được tiếp thu đến đâu. Qua những đợt học nghiệp vụ như vậy, cán bộ tín dụng có khả năng kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tế, giữa kinh nghiệm và kiến thức để nâng cao chất lượng công việc. Chi nhánh có thể áp dụng các biện pháp đào tạo khác nhau như trao đổi kinh nghiệm, gửi cán bộ đi học... Mặt khác, nghiệp vụ cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước chịu điều tiết của rất nhiều những văn bản pháp luật khác nhau. Trong khi đó, với điều kiện Việt Nam hệ thống những văn bản này thường xuyên thay đổi. Vì vậy, mỗi khi có những qui định và hướng dẫn thực hiện mới Chi nhánh nên tổ chức một buổi tập huấn cho cán bộ. Qua đó cũng thu thập các ý kiến đóng góp của cán bộ về vấn đề trong thực tế để trình Quỹ Hỗ trợ và Chính phủ xem xét sửa đổi cho phù hợp. - Nâng cao đạo đức nghề nghiệp và thái độ giao dịch với khách hàng của cán bộ nhận viên, đặc biệt là cán bộ tín dụng là những người tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên với khách hàng. Điều này có ảnh rất lớn đến hiệu quả công việc, hình ảnh của Chi nhánh đối với khách hàng. - Phát huy vai trò chủ động của cán bộ tín dụng trong việc tìm kiếm dự án đầu tư, đóng góp ý kiến để hoàn thiện dự án và chủ động phối hợp với chủ đầu tư trong việc hoàn tất hồ sơ thủ tục. Với chức năng của mình cán bộ tín dụng nên chủ động tìm kiếm các dự án đúng đối tượng và hướng dẫn chủ đầu tư hoàn tất thủ tục vay vốn. Mặt khác, trong quá trình thẩm định cũng nên cùng với chủ đầu tư xây dựng dự án, đóng góp ý kiến để hoàn thiện dự án. Tuy nhiên, trên góc độ của mình, cán bộ tín dụng chỉ nên đề xuất các định hướng chứ không nên đưa ra các con số cụ thể để tránh việc vừa lập vừa thẩm định dự án. - Qui định rõ trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ. Đối với nghiệp vụ cho vay, công việc qui định càng cụ thể bao nhiêu thì hiệu quả đạt được càng cao bấy nhiêu. Vì vậy, Chi nhánh nên qui định rõ trách nhiệm của từng bộ phận và phân định quyền hạn và chức năng cụ thể của từng bộ phận giữa thẩm định và tín dụng để trong trường hợp có rủi ro xảy ra thì xác định được trách nhiệm thuộc về ai, có sai phạm trong quá trình thực hiện hay không và sai phạm đến đâu, từ đó có sự rút kinh nghiệm kịp thời. Bên cạnh đó, Chi nhánh cũng nên xây dựng một qui chế khen thưởng kịp thời và phù hợp đối với những cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Có thể gắn quyền lợi vật chất của cán bộ với chất lượng công việc được đánh giá tổng hợp qua những chỉ tiêu nhất định như dư nợ cho vay, tiến độ giải ngân vốn vay, thời gian thực hiện, số nợ quá hạn và lãi treo... 3.2.10. Chủ động tổng hợp ý kiến để đề xuất với ban lãnh đạo Chi nhánh và Quỹ Hỗ trợ phát triển. Các cán bộ của Chi nhánh là những người thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, với thực tế của công việc nên cần chủ động nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của khách hàng cũng như cần phải chủ động có ý kiến đề xuất để cải tiến công việc với các cấp lãnh đạo, góp phần giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ, Quỹ Hỗ trợ phát triển và các Bộ ngành liên quan. 3.3.1.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách về đầu tư phát triển và tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, thống nhất các văn bản pháp luật. Cụ thể là: - Tiến hành rà soát, điều chỉnh lại đối tượng được hưởng ưu đãi cho phù hợp, đảm bảo tập trung, có trọng điểm và phù hợp với khả năng về nguồn vốn cũng như khả năng hiệu quả của dự án, xây dựng cơ chế bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, nhất là trong khu vực quốc doanh và khu vực dân doanh. Phạm vi ưu đãi của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nên tập trung theo hướng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, các ngành công nghệ cao, các ngành sử dụng nhiều lao động và áp dụng nhiều công nghệ tiến bộ... như Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ ra. - Các điều kiện về đảm bảo tiền vay nên bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo tiêu chí cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước và phải có các biện pháp thiết thực để đưa các quy định về xử lý tài sản đảm bảo tiền vay vào thực hiện. 3.3.1.2. Xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi Việc xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng cường đầu tư phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động hỗ trợ đầu tư nói chung và hoạt động cho vay đầu tư phát triển nói riêng. Nhà nước và các bộ ngành liên quan cần hoàn chỉnh các cơ chế chính sách về quản lý đầu tư và xây dựng theo hướng giảm bớt thủ tục hành chính, hoàn thiện quy chế đấu thầu, sớm ban hành kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm và dự toán Ngân sách để công tác tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có căn cứ triển khai sớm, chuyển bố trí vốn đầu tư theo kế hoạch hàng năm mang tính hành chính sang phương thức bố trí cho vay trực tiếp theo dự án trên cơ sở xem xét hiệu quả của dự án, đảm bảo cho vay đủ vốn và đúng tiến độ. 3.3.1.3. Sớm phối hợp với các Bộ ngành liên quan đưa ra các văn bản thống nhất hướng dẫn thực hiện các nghị định của Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Việc chậm trễ và không đồng bộ trong hướng dẫn thi hành các Nghị định, Quyết định của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ của các Bộ ngành không những làm cho chủ trương chính sách của Đảng chậm đi vào cuộc sống mà còn gây lúng túng cho Chi nhánh trong quá trình thực hiện. Bởi vậy, Quỹ Hỗ trợ phát triển cần phối hợp với các bộ ngành liên quan nghiên cứu, nhanh chóng và kịp thời đưa ra các văn bản hướng dẫn, tạo khuôn khổ pháp lý và hướng dẫn cho hoạt động của Chi nhánh. 3.3.1.4. Đề nghị Quỹ Hỗ trợ phát triển xem xét giảm thiểu các mẫu biểu báo cáo. Việc lập báo cáo là rất cần thiết để các cấp lãnh đạo thường xuyên nắm vững tình hình thực hiện nghiệp vụ và bản thân những cán bộ chuyên môn cũng thường xuyên có trách nhiệm với công việc của mình song hiện nay, việc tồn tại nhiều mẫu biểu báo cáo làm ảnh hưởng không nhỏ đến thời gian thực hiện nhiệm vụ. Bởi vậy, đề nghị Quỹ Hỗ trợ phát triển xem xét giảm thiểu các mẫu biểu báo cáo. 3.3.1.5. Xem xét lại về thời gian thực hiện kế hoạch năm, tránh kéo dài quá nhiều sang năm sau. Việc Quỹ Hỗ trợ phát triển tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thời gian thực hiện kế hoạch năm là cần thiết nhưng nếu kéo dài quá nhiều sang năm sau sẽ gây khó khăn cho cán bộ khi phải đồng thời thực hiện kế hoạch năm cũ và kế hoạch năm mới. Hơn nữa, lại gây ra tâm lý ỷ lại, chậm trễ của các chủ dự án. 3.3.2. Kiến nghị với chủ đầu tư. Tích cực đổi mới toàn diện các mặt hoạt động kinh doanh, tự nâng cao năng lực công nghệ, thiết bị, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân viên, trên cơ sở đó nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường của mỗi doanh nghiệp cũng là một đóng góp lớn vào quá trình thực hiện đầu tư phát triển của Nhà nước. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, xin có một vài kiến nghị đối với chủ đầu tư như sau: 3.3.2.1. Nhận thức về tín dụng đầu tư phát triển, từ đó sử dụng vốn đúng mục đích và thực hiện tốt nghĩa vụ trả nợ. Chủ đầu tư cần thay đổi nhận thức về tín dụng đầu tư phát triển, thực hiện tốt nghĩa vụ vay trả trong quan hệ tín dụng, triệt để xoá bỏ tư tưởng bao cấp trong đầu tư. Tự giác sử dụng vốn vay đúng mục đích, đúng kế hoạch, đảm bảo trả nợ gốc và lãi vay một cách sòng phẳng, tránh tình trạng chiếm dụng vốn của Nhà nước cũng như tâm lý ỷ lại vào Nhà nước, xin chuyển vốn vay thành vốn cấp phát gây ảnh hưởng đến hiệu quả của đồng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. 3.3.2.2. Nâng cao năng lực lập và thực hiện dự án. Trong quá trình sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước hiện nay, việc thiếu kinh nghiệm của cán bộ đầu tư về các vấn đề thủ tục đầu tư, thủ tục đấu thầu, ký kết các hợp đồng ngoại thương, hợp đồng vay vốn hay năng lực lập, chuẩn bị dự án của chủ đầu tư kém đã gây ra những chậm trễ trong quá trình ký kết hợp động tín dụng, giải ngân vốn vay làm giảm hiệu quả sử dụng vốn rất nhiều. Để giải quyết vấn đề này, chủ đầu tư cần thành lập một bộ phận am hiểu các lĩnh vực trên, có kinh nghiệm trong thực hiện quy chế đấu thầu và xây dựng, có khả năng tổ chức tốt công tác đấu thầu mua sắm thiết bị, ký kết và xử lý các hợp động ngoại thương, đáp ứng được các yêu cầu cho thực hiện các công việc liên quan đến dự án một cách nhanh nhất và ít tốn kém nhất. Chủ đầu tư cần chủ động, năng động tìm ra các dự án đầu tư có hiệu quả, tích cực nghiên cứu và chuẩn bị tốt các thủ tục đầu tư, có báo cáo quyết toán tài chính kịp thời để thuận lợi trong việc giải trình phân tích báo cáo tì chính với Chi nhánh quỹ. Trong công tác lập dự án đầu tư, chủ đầu tư cần nghiên cứu kỹ thị trường, lựa chọn công nghệ và thiết bị phù hợp, chủ động lập dự án gắn với các biến động của thị trường nhằm nâng cao chất lượng của dự án, không phải ỷ lại vào cơ quan tư vấn lập dự án, dẫn đến phải điều chỉnh danh mục thiết bị hoặc tổng đầu tư làm kéo dài thời gian thực hiện dự án. 3.3.2.3. Chủ đầu tư khi đã ký kết hợp đồng tín dụng cần phải nhanh chóng hoàn tất mọi thủ tục để giải ngân vốn vay tránh tình trạng cố tình trì hoãn để không phải nhận nợ sớm. Hiện nay, còn tồn tại một số chủ đầu tư chỉ quan tâm đến việc được ghi kế hoạch và vay vốn chứ chưa thực sự quan tâm đến dự án đầu tư. Vì vậy, có những hợp đồng ký kết đã lâu nhưng vẫn chưa thực hiện giải ngân do chủ đầu tư có tình trì hoãn việc đưa dự án vào thực hiện để tránh phải nhận nợ sớm. Vì vậy, các chủ đầu tư chỉ đăng ký vay vốn và ký hợp đồng tín dụng khi thực sự có nhu cầu, tránh tình trạng “vay để dành” nhằm đảm bảo hiệu quả của vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, đồng thời nhanh chóng hoàn tất thủ tục hoặc bổ sung kịp thời những giấy tờ, khoản mục được yêu cầu để đẩy nhanh tiến độ giải ngân. 3.3.2.4. Đề xuất kịp thời những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền dể phối hợp tìm nguyên nhân và biện pháp tháo gỡ. Doanh nghiệp cần thường xuyên liên hệ với các cơ quan chức năng, liên hệ với Chi nhánh để có thể nhận được sự hướng dẫn và trợ giúp nhanh nhất, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Kết luận Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ra đời trong giai đoạn đổi mới, đầu tư còn gặp nhiều khó khăn nhưng đã sớm khẳng định được vị trí quyết định của mình trong sự phát triển kinh tế xã hội, góp phần chuyển dịch nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Đứng trước nhu cầu ngày càng tăng cao về vốn tín dụng đầu tư phát triển, Quỹ Hỗ trợ phát triển nói chung và Chi nhánh Hà Nội nói riêng đã ra đời đảm nhận nhiệm vụ to lớn này. Qua hai năm hoạt động, Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội, với nhiều nỗ lực của toàn thể cán bộ, nhân viên, đã đạt được nhiều kết quả khả quan và không thể phủ nhận, trở thành nguồn cung ứng vốn lớn phục vụ cho sự phát triển của thủ đô Hà Nội. Song, để hoạt động cho vay đầu tư phát triển thực sự trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho các dự án đầu tư phát triển, Chi nhánh Quỹ cần chủ động, tích cực tháo gỡ những khó khăn và vướng mắc mà vẫn còn tồn tại không ít trong quá trình thực hiện của Chi nhánh. Tin tưởng rằng, với những giải pháp hữu hiệu và đồng bộ, hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội sẽ được nâng cao, tương xứng với tiềm năng và vị thế của Chi nhánh cũng như yêu cầu phát triển thành phố. Danh mục tài liệu tham khảo: 1. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính- Federic Minskin 2. Quản trị Ngân hàng thương mại- Peter. S. Rose 3. Giáo trình Kinh tế đầu tư-Trường đại học Kinh tế quốc dân 4. Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) 5. Nghị định 43/1999/NĐ-CP, 50/1999/NĐ-CP, Nghị định 52/1999/NĐ-CP và một số văn bản pháp luật của Chính phủ, Quỹ Hỗ trợ phát triển, các Bộ ngành khác có liên quan. 6. Báo cáo tổng quát tình hình thực hiện nhiệm vụ của Quỹ Hỗ trợ phát triển. 7. Báo cáo tổng kết của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội 8. Tạp chí Quỹ Hỗ trợ phát triển. 9. Tạp chí tài chính, thông tin tài chính, tạp chí kinh tế phát triển, báo đầu tư. Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I: Tổng quan về cho vay đầu tư phát triển 3 1.1. Cho vay trong phạm trù tín dụng 3 1.1.1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của hoạt động cho vay 3 1.1.2. Các loại hình cho vay 4 1.2. Hoạt động cho vay đầu tư phát triển 7 1.2.1. Đầu tư phát triển và các nguồn vốn cho đầu tư phát triển 7 1.2.1.1. Đầu tư phát triển 7 1.2.1.2. Các nguồn vốn cho đầu tư phát triển 10 1.2.2. Hoạt động cho vay đầu tư phát triển trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 15 1.2.2.1. Đặc điểm và tầm quan trọng của hoạt động cho vay đầu tư phát triển 15 1.2.2.2. Nguyên tắc cho vay đầu tư phát triển trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 18 1.2.2.3. Quy trình cho vay đầu tư phát triển 19 1.2.2.4. Những nhân tố ảnh hưởng tới cho vay đầu tư phát triển 25 1.2.3. Hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển 27 1.2.3.1. Quan niệm về hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển 27 1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển. 28 1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. 29 Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay đầu tư phát triển tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội. 31 2.1. Quá trình hình thành của tín dụng đầu tư phát triển ở Việt Nam. 31 2.2. Những nét chung về hoạt động của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội. 33 2.2.1. Vài nét về sự hình thành, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà nội. 33 2.2.1.1. Sự hình thành, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội. 33 2.2.1.2. Bộ máy tổ chức của Chi nhánh Quỹ 36 2.2.1.3. Các hình thức hỗ trợ đầu tư của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội 38 2.2.2. Tình hình hoạt động của Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà nội. 41 2.2.2.1. Tiếp nhận và huy động vốn 41 2.2.2.2. Hoạt động hỗ trợ đầu tư phát triển. 43 2.3. Hoạt động cho vay đầu tư phát triển tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội 47 2.3.1. Những kết quả đạt được 47 2.3.2. Những hạn chế và vướng mắc trong thực hiện cho vay đầu tư phát triển. 52 2.3.3. Những nguyên nhân chủ yếu 55 2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan. 55 2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía Chi nhánh Quỹ 57 Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội. 59 3.1. Mục tiêu phát triển kinh tế của thành phỗ Hà nội đến năm 2010 và định hướng hoạt động của Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà nội. 59 3.1.1. Mục tiêu phát triển kinh tế của thành phố Hà nội đến 2010. 59 3.1.2. Định hướng hoạt động của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà nội trong thời gian tới. 61 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà nội. 63 3.3. Một số kiến nghị 73 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ, Quỹ Hỗ trợ phát triển và các Bộ ngành liên quan 73 3.3.2. Kiến nghị với chủ đầu tư. 75 Kết luận 78 Danh mục tài liệu tham khảo 79

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34522.doc
Tài liệu liên quan