Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội

Công tác huy động vốn của NHTM có vai trò rất quan trọng không chỉ trong hoạt động bản thân Ngân hàng nói riêng mà còn trong phạm vi của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, công tác huy động vốn là hoạt động đầu vào có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nhờ có công tác huy động vốn mà Ngân hàng có vốn để cung ứng vốn cho nền kinh tế thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. NHNo&PTNT là một trong những Ngân hàng tiên phong, có vị trí quan trọng góp phần thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong đó NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội là một chi nhánh có khả năng huy động vốn lớn, vừa đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của chi nhánh, lại vừa góp phần điều hoà vốn trong toàn hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. Với “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội ”, Tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào công cuộc đổi mới và hoàn thiện hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội nói riêng và hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam nói chung.

doc83 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 640 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m bảo tính cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trên địa bàn, chi nhánh cần cân đối hàng thương mại trên địa bàn, chi nhánh cần cân đối giữa mức chi phí huy động bình quân đầu vào với lãi suất bình quân đầu ra của nguồn vốn. Vì vậy trong thời gian tới, NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng cần phải chú ý tới chính sách lãi suất cuả mình để vừa đảm bảo cạnh tranh đồng thời phải đảm bảo kết quả hoạt động kinh doanh của mình. 2.2.2. Đánh giá hiệu quả huy động nguồn vốn tại NHNo&PTNT quận Hai Bà Trưng Hà Nội. 2.2.2.1. Kết quả đạt được. Để tiến hành kinh doanh có hiệu quả, đa dạng hoá hình thức kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh và lợi nhuận, Ngân hàng cần có lượng vốn lớn huy động từ các nguồn trong nước bằng nội tệ cũng như ngoại tệ. Vốn trong nước phần lớn nằm trong các hộ gia đình dưới dạng tiết kiệm dự phòng. Hơn nữa vốn của các tổ chức kinh tế xã hội không phải lúc nào cũng được sử dụng theo mùa vụ, theo chu kỳ kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Do đó lượng vốn nhàn rỗi trong khu vực này cũng rất lớn. Nhiệm vụ to lớn của các NHTM là phải tập trung và thu hút các nguồn vốn lớn này để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, các công trình kinh tế xã hội, biến chúng thành những đồng vốn mang lại lợi ích kinh tế xã hội. Qua nghiên cứu thực trạng về huy động nguồn vốn của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội, đã cho chúng ta thấy: Mặc dù là một Ngân hàng mới thành lập và mới được Giám đốc NHNo&PTNT Thành phố Hà Nội chuyển lên thành Ngân hàng cấp III, nhưng huy động nguồn vốn của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội đã đạt được những kết quả nhất định và là tiền đề cho việc mở rộng kinh doanh của Ngân hàng trong thời gian tới. NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội là một trong những Ngân hàng có tiềm năng hiện tại và tương lai về huy động nguồn vốn trong hệ thống NHTM nói chung và hệ thống NHNo&PTNT nói riêng, là một NHTM lớn có uy tín với khách hàng trong những năm qua. Với những định hướng đúng đắn mà NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội đã đề ra trong thời gian qua đã làm cho nguồn vốn tăng trưởng mạnh, năm sau cao hơn năm trước, đã đáp ứng một phần nhu cầu vốn cho các đơn vị kinh tế, tư nhân trên địa bàn Hà Nội. Hơn nữa nguồn vốn huy động được của chi nhánh không những tự lực được nguồn vốn kinh doanh mà còn có nguồn vốn phần lớn điều chuyển về NHNo&PTNT thành phố Hà Nội để trung tâm điều hành có thêm nguồn vốn hỗ trợ các chi nhánh khác gặp khó khăn trong việc huy động nguồn vốn. Tỷ trọng chi phí trả lãi trong tổng chi phí ngày càng tăng trong khi mức chi phí huy động bình quân lại có xu hướng giảm. có được điều này là do NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng đã áp dụng công nghệ hiện đại, giảm chi phí quản lý và các chi phí khác có liên quan, làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng. 2.2.2.2. Những thách thức lớn đối với NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng. Nền kinh tế Thủ đô đang ở trong giai đoạn ổn định và phát triển với tốc độ tương đối nhanh. Mục tiêu 10 năm 2001- 2010 phải tiếp tục phát triển với mức cao. Cùng với sự phát triển chung, thị trường tài chính- tiền tệ cũng ngày càng sôi động với các hình thức hoạt động đa dạng và phong phú. Từ chỗ người dân và các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính Ngân hàng,... chỉ có thể tham gia các hình thức huy động nguồn vốn truyền thống, đơn giản như: Tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu, tiền gửi thanh toán,... đến nay đã có thể đầu tư kinh doanh nguồn vốn trên rất nhiều lĩnh vực mới như: Tham gia thị trường mở, thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ liên Ngân hàng. Song song với sự phát triển thị trường tài chính- tiền tệ, các nghiệp vụ huy động nguồn vốn, thanh toán... của các NHTM cũng ngày càng mở rộng và phát triển. - Một xu hướng đặc biệt đáng quan tâm trong cấu trúc thị trường hệ thống NHTM Việt Nam, đó là kể từ năm 1997 trở lại đây thị phần của các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài đã thực sự có xu hướng bùng nổ, kể cả ở thị trường tiền gửi và thị trường đầu tư tín dụng. Với quy mô hoạt động toàn cầu sức mạnh về vốn, công nghệ và sự đa dạng hoá về sản phẩm dịch vụ tài chính, nhiều kinh nghiệm hoạt động trong kinh tế thị trường... Các Ngân hàng nước ngoài đã và đang dần dần bàm rễ vào nền kinh tế Việt Nam. Với một thị phần khá lớn thì các Ngân hàng nước ngoài có khả năng chi phối và ảnh hưởng tới nền kinh tế Việt Nam, họ sẽ có những chiến lược đầu tư và chiến lược khách hàng tập trung vào các dự án lớn, trọng điểm. Năm 2003, khi các Ngân hàng này được phép huy động và kinh doanh vốn nội tệ sẽ là thách thức lớn đối với các NHTM nói chung và NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội nói riêng. - Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký tháng 7/2000 là một thách thức lớn đối với hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam. Theo hiệp định này Chính phủ Việt Nam đã đồng ý một nguyên tắc chung, những cam kết cụ thể và một lộ trình cho hoạt động của các Ngân hàng Hoa Kỳ ở Việt Nam. Theo đó lộ trình này được thực hiện như sau: + Sau chín năm kể từ ngày hiệp định có hiệu lực các Ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập Ngân hàng 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam, trong thời gian chín năm đó cho phép Ngân hàng Hoa Kỳ liên doanh với đối tác Việt nam trong đó tỷ lệ góp vốn từ 30-> 49% vốn pháp định của liên doanh. + Các Ngân hàng Hoa kỳ được phép huy động vốn VND dần dần đến mức không hạn chế. Sau 3 năm các Ngân hàng Hoa Kỳ còn được thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng trong nước về chiết khấu, về mua bán ngoại tệ có kỳ hạn như các NHTM trong nước. Sau tám năm được phát hành thẻ tín dụng, được cài đặt máy rút tiền tự động ATM. Với các cam kết như vậy chắc chắn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng nước ngoài nói chung và Ngân hàng Hoa Kỳ nói riêng trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Những Ngân hàng nước ngoài này sẽ là đối thủ cạnh tranh chủ yếu của các NHTM Việt Nam. - Được sự đồng ý của Chính phủ, ngày 24/5/1999 Tổng cục Bưu điện đã ký quyết định số 337/1999/QĐ-TCCP thành lập Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện với chức năng huy động vốn trong các tầng lớp dân cư. Với việc phát triển tiết kiệm bưu điện mạng lưới rộng khắp đến từng thôn xã, và lợi thế về công nghệ tin học, mạng viễn thông... tạo khả năng thu hút lớn nguồn vốn tiết kiệm dân cư, sẽ là một đối thủ cạnh tranh gay gắt trong công tác huy động vốn với các NHTM nói chung và với NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội nói riêng. - Thể lệ tiền gửi tiết kiệm được NHNN ban hành từ những năm 1980 đến nay hầu như không được thay đổi bổ sung chỉnh sửa cho phù hợp. Cơ chế cho vay, cơ chế đảm bảo tiền vay,... đã phần nào hạn chế “đầu ra” của NHTM, từ đó buộc các NHTM phải tính toán đến “đầu vào”, huy động vốn cũng hạn chế theo. - Nhiều tổ chức phi Ngân hàng như kho bạc Nhà nước, tiết kiệm Bưu điện, bảo hiểm,... ra đời đã làm phân tán tiền gửi dân cư vào Ngân hàng. Ngoài ra, trên địa bàn Hà Nội có quá nhiều NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài... Các tổ chức này hoạt động kinh doanh cạnh tranh nhau gay gắt, ảnh hưởng lớn tới công tác huy động vốn của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội. - Do trong những năm gần đây để tăng sức cạnh tranh của Ngân hàng mình, một số NHTM đã tăng hoặc hạ lãi suất theo kiểu “phá giá”, đã ảnh hưởng rất lớn tới những Ngân hàng có môi trường kinh doanh kém thuận lợi (Như NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội), vì NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội ra đời sau so với các NHTM quốc doanh khác, vị trí đặt trụ sở xa trung tâm, cơ sở vật chất nghèo nàn, do vậy hạn chế khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng. Và để tồn tại, đứng vững trong thương trường, buộc NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cũng phải tăng lãi suất tiền gửi và hạ lãi suất cho vay, dẫn đến chênh lệch lãi suất giữa “đầu ra” với “ đầu vào” rất thấp, cũng có lúc vì để gữi khách hàng mà chênh lệch không có, cho nên đã giảm thu nhập của Ngân hàng, hiệu quả kinh doanh không cao. - Mới đây, hệ thống NHNo&PTNT đã đưa hình thức thanh toán điện tử liên hàng vào áp dụng trên toàn hệ thống, từ đó đã làm tăng tốc độ chu chuyển vốn của Ngân hàng trong toàn hệ thống. Tuy nhiên khi thanh toán ra ngoài hệ thống vẫn còn chậm không phù hợp với tình hình thực tế thị trường hiện nay, do vậy đã làm giảm đi một lượng vốn gửi vào tài khoản tiền gửi thanh toán. - Việc ra đời và sử dụng ngân phiếu thanh toán để giải quyết khó khăn về tiền mặt của Ngân hàng trong giai đoạn 1987- 1991. Nhưng đến nay vẫn còn tồn tại và trở thành phương tiện thanh toán phổ biến song song với tiền mặt. Vấn đề này đã làm hạn chế các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng, khách hàng thường găm giữ ngân phiếu để thanh toán, vì vậy một khối lượng tiền đáng kể nằm ngoài lưu thông không quay vào Ngân hàng (trong thời hạn thanh toán của Ngân phiếu thường là 6-> 9 tháng) - NHNo&PTNT Việt Nam chưa có cơ chế chính sách khuyến khích động viên các Ngân hàng thành viên có khả năng huy động vốn lớn. Thể hiện ở công tác điều hành kế hoạch chủ yếu bằng biện pháp giao chỉ tiêu kế hoạch buộc các Ngân hàng thành viên phải thực hiện, khi cần vốn thì giao chỉ tiêu huy động vốn, khi thừa vốn thì giao chỉ tiêu giảm huy động vốn, do đó các Ngân hàng thành viên không chủ động trong công tác huy động vốn được. Bên cạnh đó việc đổi mới công nghệ Ngân hàng, đổi mới trang thiết bị làm việc và triển khai các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng hiện đại như: Séc cá nhân, máy rút tiền tự động ATM, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng,... còn rất chậm. 2.2.2.3. Những hạn chế vướng mắc cần tiếp tục giải quyết trong công tác huy động vốn của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội thời gian tới. - Hoạt động huy động nguồn vốn ở NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội vẫn thực hiện theo các văn bản quy định của NHNN ban hành từ những năm 70- 80 đến nay chưa được chỉnh sửa. Các hình thức huy động nguồn vốn hiện còn mang tính truyền thống chưa đa dạng phong phú, các tài liệu về quy trình huy động nguồn vốn bị thất lạc. - Tỷ trọng nguồn vốn huy động trung và dài hạn còn thấp xa so với dư nợ trung và dài hạn, do vậy khi cho vay trung và dài hạn NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội thường phải lấy từ vốn ngắn hạn để cho vay. Tỷ trọng nguồn vốn lãi suất thấp còn ít dẫn tới lãi suất bình quân đầu vào còn cao. - Chưa tổ chức thông tin dự báo, dự đoán thị trường, lãi suất làm cơ sở cho việc kiểm soát và quản lý rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản một cách năng động hiệu quả. - Chưa sử dụng hết về mạng lưới, gắn với công nghệ hiện đại. Tính đến nay NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội mới chỉ có một trụ sở chính và 4 bàn tiết kiệm. Với số lượng bàn tiết kiệm như vậy là quá mỏng so với Ngân hàng khác, ví dụ như: Ngân hàng Công thương mỗi Ngân hàng Quận có tới 10-> 15 bàn trên địa bàn một Quận. Bên cạnh đó, vị trí địa lý của các bàn tiết kiệm đặt ở những nơi chưa phù hợp với cơ chế thị trường như giao thông chưa thuận tiện, khu vực không trung tâm và dân cư ít. Chi nhánh đã ra đời được 8-> 9 năm, nhưng trụ sở còn tạm bợ, chật hẹp, trang thiết bị công nghệ và phương tiện kinh doanh tuy đã được đổi mới nhưng còn chậm và cục bộ. Điều này đã không tạo nên hình ảnh và lòng tin với khách hàng, do vậy đã hạn chế trong hoạt động kinh doanh nói chung và công tác huy động vốn nói riêng của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội. - Những năm gần đây do lãi suất hạ liên tục, do vậy việc huy động vốn trung và dài hạn đã gặp rủi ro về lãi suất (Nhất là tiền gửi ngoại tệ USD). Do vậy NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội rất lo ngại khi mở rộng huy động vốn trung và dài hạn, do đó không đáp ứng được nhu cầu vốn trung và dài hạn, NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội phải dùng một phần nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, điều này rất dễ dẫn tới rủi ro về thanh khoản. - Đội ngũ cán bộ Ngân hàng đào tạo chưa đồng bộ về nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm trong kinh doanh, một số cán bộ còn mang tư tưởng kinh doanh thời bao cấp, không năng động sáng tạo, tác phong giao dịch còn chậm trễ, phiền hà, máy móc, gây tâm lý không thoải mái cho người gửi tiền. Đội ngũ cán bộ kế toán chưa được tổ chức lại một cách kiên quyết để đảm bảo phục vụ thuận lợi cho khách hàng đến giao dịch, còn để khách hàng kêu ca phàn nàn nhiều, dẫn đến giảm uy tín của Ngân hàng. - Trong công tác thông tin tiếp thị, tìm hiểu thị trường của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội chưa được đầu tư thoả đáng, cho nên hiệu quả không cao, chưa để cho người gửi tiền thấy được những tiện ích và lợi ích khi gửi tiền vào Ngân hàng. Chưa thực hiện chính sách khách hàng trong huy động tiền gửi dân cư, các dịch vụ sau khi huy động vốn còn hạn chế, do vậy người dân sau khi gửi tiền thiếu thông tin về sự biến động số dư, lãi suất, tỷ giá,... Khi rút tiền từ Ngân hàng về nhiều người phải nhận những đồng tiền với mệnh giá nhỏ, rất khó khăn cho việc vận chuyển và an toàn tài sản cho khách hàng. - Thời gian giao dịch của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội còn hạn hẹp, theo quy định thì thời gian lao động giờ hành chính trong một ngày là 8giờ, nhưng thực chất thời gian giao dịch với khách chỉ còn khoảng từ 6-> 7giờ, trong khi đó một bộ phận lớn dân cư trên địa bàn Hà Nội phải đi làm và bận rộn với công việc trong giờ hành chính, do vậy việc đi giao dịch gửi tiền ở Ngân hàng bị hạn chế. Những ngày lễ, ngày chủ nhật là ngày khách hàng có thời gian dỗi thì Ngân hàng lại nghỉ không giao dịch, điều này sẽ ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của Ngân hàng. Huy động nguồn vốn là một trong những nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nghiệp vụ huy động nguồn vốn của Ngân hàng vừa xuất phát từ nhu cầu hoạt động kinh doanh của chính bản thân Ngân hàng, lại vừa xuất phát từ tình hình thực tiễn (môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, và nhu cầu sản xuất kinh doanh) của doanh nghiệp, cá nhân trong xã hội. Để huy động nguồn vốn có hiệu quả đòi hỏi NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội phải tìm ra những giải pháp phù hợp với tình hình kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ để đưa ra các hình thức huy động nguồn vốn, lãi suất, chính sách khách hàng,... sao cho thu hút ngày càng nhiều vốn trong nền kinh tế. Đồng thời phải có giải pháp cơ cấu lại các nguồn vốn huy động cho hợp lý. Khai thác triệt để các nguồn vốn vừa là nhiệm vụ lâu dài, vừa là yêu cầu mang tính giải pháp tình thế hiện nay. Từ đó mới nâng cao hiệu quả huy động nguồn vốn của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội, giúp NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội đứng vững và phát triển trên thương trường. Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động nguồn vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn quận hai bà trưng Hà Nội. 3.1 . Định hướng phát triển ngành Ngân Hàng hà nội giai đoạn 2000- 2005. - Bám sát định hướng và mục tiêu có tính chiến lược, lâu dài và những giải pháp thực hiện các mục tiêu cho từng giai đoạn của NHNN Việt Nam, ngành Ngân hàng Hà Nội tiếp tục đẩy mạnh xây dựng các biệc pháp vừa có tính trước mắt, vừa có tính lâu dài, nhằm sử dụng có hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ, nhất là công cụ lãi suất, tỷ giá, tham gia tích cực vào các hoạt động của thị trường tài chính... Đảm bảo thực hiện tốt vai trò của ngành Ngân hàng trong việc tạo vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội Thủ đô năm 2000- 2005. - Tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức theo hướng đảm bảo tính thống nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của chính quyền của hệ thống Ngân hàng trên địa bàn, dưới sự lãnh đạo của Thành uỷ Hà Nội và Ban cán sự Đảng của NHNN. Xây dựng các Ngân hàng đủ mạnh và phát triển toàn diện, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ cả về chuyên môn, năng lực quản lý, quản trị kinh doanh và kiến thức kinh tế thị trường, trình độ nhận thức và phẩm chất chính trị, đủ sức đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ mới. Thực hiện tốt Luật Ngân hàng, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, của Thành phố và cơ chế chính sách của NHNN Việt Nam. - Mở rộng quy mô và nội dung hoạt động, kết hợp đẩy nhanh tốc độ hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng, trong đó tập trung trước hết vào: Thanh toán, thông tin, điều hành tác nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế về dịch vụ Ngân hàng phù hợp với chủ trương công nghiệp hoá- hiện đại hoá Thủ đô và ngành Ngân hàng. Trên cơ sở đó thúc đẩy quá trình hội nhập với hoạt động Ngân hàng ở các nước trong khu vực và trên thế giới. - Tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu lực của công tác thanh tra, quản lý của NHNN, công tác tự kiểm tra kiểm soát của các NHTM và tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo an toàn xã hội và hiệu quả của từng đơn vị và toàn ngành. - Mục tiêu xuyên suốt của hoạt động Ngân hàng trên địa bàn là: Tăng trưởng kinh tế, ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát hợp lý, tạo đủ nguồn vốn và đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn, nhất là vốn trung và dài hạn, góp phần có hiệu quả vào việc thực hiện các chương trình phát triển kinh tế- xã hội Thủ đô Hà Nội. Toàn ngành Ngân hàng trên địa bàn thủ đô phấn đấu: + Tăng mức vốn huy động bình quân năm từ 30- 35% giai đoạn 2001- 2005. + Tăng dư nợ bình quân năm từ 20- 30% giai đoạn 2001- 2005. + Chất lượng tín dụng theo chỉ tiêu nợ quá hạn ở mức dưới 4% tổng dư nợ vào năm 1999 và giảm thấp tối thiểu vào năm 2000- 2005. - Đẩy nhanh công tác chấn chỉnh và lành mạnh hoá hoạt động Ngân hàng với hiệu quả cao. Nâng cao năng lực về mọi mặt, nhất là năng lực tài chính của các NHTM và tổ chức tín dụng ở Hà Nội, đảm bảo an toàn hiệu quả. - Đẩy nhanh tốc độ hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng, áp dụng nhiều nghiệp vụ kinh doanh và dịch vụ Ngân hàng mới, hiện đại, đảm bảo tăng sức cạnh tranh nhất là các NHTM nội địa, giữ vai trò chủ đạo của các NHTM quốc doanh trên thị trường. Phấn đấu đến năm 2002 toàn bộ các khâu, các mặt hoạt động về thanh toán, kế toán, hoạt động ngân quỹ, điều hành tác nghiệp đều được vi tính hoá. ứng dụng nhanh các công nghệ và nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại như: Thanh toán điện tử, chuyển tiền rút tiền tự động, phát triển các dịch vụ Ngân hàng theo hướng đáp ứng các nhu cầu đa dạng của nền kinh tế và đời sống xã hội. - Tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ bằng các hình thức thích hợp, với các cấp độ khác nhau nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức về kinh tế- xã hội, thị trường vi tính, ngoại ngữ, công tác đào tạo gắn với quy hoạch, sắp xếp đội ngũ cán bộ, đảm bảo xây dựng được đội ngũ cán bộ của ngành Ngân hàng Thủ đô đủ sức đảm đương công việc theo yêu cầu Ngân hàng hiện đại. 3.2. Định hướng hoạt động của NHNo&PTNT quận Hai Bà Trưng Hà Nội. Căn cứ vào kết quả hoạt động kinh doanh trong những năm qua, định hướng hoạt động chung của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001-2010), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quận Hai Bà Trưng đã đề ra những mục tiêu và định hướng hoạt động trong giai đoạn tới. Với chủ trương "tạo vốn là khâu mở đường, tạo ra một nền vốn vững chắc ngày càng tăng trưởng ", Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quận Hai Bà Trưng đặt ra mục tiêu phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng nguồn vốn từ 35-40% mỗi năm. Để đạt được mục tiêu đặt ra, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quận Hai Bà Trưng đã xây dựng định hướng hoạt động cho mình trong những năm tới với những nội dung chính sau: Tiếp tục phát triển mối quan hệ chặt chẽ với các đơn vị khách hàng truyền thống, đồng thời mở rộng quan hệ với khách hàng mới nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các tổ chức này và phát triển thanh toán trong hệ thống. Mở thêm phòng giao dịch, nhiều bàn tiết kiệm để thu hút nguồn tiền gửi từ dân cư. Tiếp tục phát triển số lượng tài khoản cá nhân tại chi nhánh thông qua việc làm tốt dịch vụ thanh toán chi trả lương cho cán bộ công nhân viên của các doanh nghiệp. Đồng thời tìm các biện pháp thích hợp để khai thác khách hàng, phát triển các dịch vụ ngân hàng và nâng cao chất lượng phục vụ. Đẩy mạnh khâu tiếp thị, quảng cáo thu hút khách hàng với phương châm lắng nghe ý kiến từ doanh nghiệp, từ các tổ chức tín dụng khác để điều chỉnh kịp thời các thủ tục rườm rà bất hợp lý. Thành lập bổ phận chăm sóc khách hàng và thực hiện tốt chính sách khách hàng. Thường xuyên nghiên cứu các chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước, các đối sách và cơ chế ưu đãi của các ngân hàng thương mại khác cũng như những diễn biến thị trường để từ đó đưa ra cơ chế phù hợp có hiệu quả, ngày càng nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh. 3.3. một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động nguồn vốn tại NHN0&PTNT quận hai bà trưng Hà Nội 3.3.1. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn. Để cải thiện được cơ cấu nguồn vốn huy động, nâng dần tỷ trọng nguồn vốn trung dài hạn và ngoại tệ, đồng thời thu hút được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để mở rộng quy mô nguồn vốn kinh doanh, chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cần phải đa dạn hoá các hình thức huy động nguồn vốn để đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các đối tượng gửi tiền, nhất là các đối tượng khách hàng có nguồn vốn trung - dài hạn và ngoại tệ. Mỗi đối tượng gửi tiền có những đặc điểm khác nhau nên để thoả mãn tốt được nhu cầu của khách hàng chi nhánh cần phải đa dạng hoá các hình thức huy động nguồn vốn. Để đa dạng các hình thức huy động nguồn vốn, chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cần phải đa dạng hoá kỳ hạn gửi tiền cũng như phát triển các công cụ huy động nguồn vốn, đặc biệt là các hình thức huy động nguồn vốn có khả năng khai thác tốt nguồn vốn trung - dài hạn và ngoại tệ. Phát triển các công cụ huy động nguồn vốn: Thực tế hiện nay chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội huy động nguồn vốn chủ yếu thông qua các công cụ tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền tiết kiệm và phát hành kỳ phiếu- trái phiếu. Những công cụ huy động nguồn vốn mà chi nhánh đang sử dụng nói chung còn thiếu những kỳ hạn dài, tiền gửi nội tệ của các tổ chức, cá nhân chủ yếu có kỳ hạn từ 12 tháng trở xuống trong khi huy động kỳ phiếu chỉ mới dừng lại ở nguồn vốn nội tệ có kỳ hạn 13 tháng trở xuống. Trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả huy động nguồn vốn, chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội khôn những phải phát triển những công cụ huy động nguồn vốn hiện có như kéo dài kỳ hạn gửi tiền để huy động vốn trung - dài hạn, phát hành kỳ phiếu huy động ngoại tệ mà còn phải nhanh chóng áp dụng những công cụ huy động mới như chứng chỉ tiền gửi, thẻ thanh toán nhằm thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi. Để khuyến khích dân cư mở tài khoản cá nhân, chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi sử dụng phương tiện này như giảm bớt những thủ tục hành chính không cần thiết, cho phép khách hàng có thu nhập ổn định (cán bộ công nhân viên của các đơn vị trả lương qua tài khoản) sử dụng tài khoản vơí một hạn mức số dư nợ nhất định với lãi suất ưu đãi, tạo điều kiện cho khách hàng phát hành séc. Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cũng cần nhanh chóng triển khai và phát triển hình thức thanh toán thẻ, thẻ tín dụng. Đa dạng hoá kỳ hạn gửi tiền và hình thức gửi tiền: Các đối tượng gửi tiền có các nguồn vốn nhàn rỗi với các thời gian khác nhau, vì vậy để thu hút được các nguồn vốn này chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cần phải đa dạng hơn nữa về kỳ hạn gửi tiền vì hiện tại chi nhánh còn ít kỳ hạn cho khách hàng lựa chọn. Tuy nhiên chi nhánh cũng không nên chia kỳ hạn quá nhỏ bởi như thế gây khó khăn cho ngân hàng trong kế hoạch hoá cũng như làm tăng chi phí giao dịch và xử lý nghiệp vụ. Vì vậy đa dạng hoá kỳ hạn gửi tiền là giải pháp dễ thực hiện song chi nhánh phải tính hiệu quả của nó. Khi phân chia kỳ hạn gửi tiền, chi nhánh cần phải chú ý về tính khả dụng của nguồn vốn (tỷ lệ nguồn vốn có thể cho vay sau khi trừ khoản dự trữ bắt buộc), tính chất trung và dài hạn bởi chỉ có một tỷ lệ vốn ngắn hạn được cho vay trung và dài hạn Từ thực thế hiện nay, chi nhánh nên phát triển thêm tiền gửi có kỳ hạn dài như tiền gửi có kỳ hạn 18 tháng, 24 tháng, 36 tháng chứ không nên chia nhỏ hơn nữa tiền gửi ngắn hạn bởi cách chia kỳ hạn 1-3-6-9-12 thán g như hiện nay đã đáp ứng được sự đa dạng đối với khách hàng có nguồn vốn ngắn hạn. Về đa đa dạng hoá hình thức gửi tiền, hiện chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội chủ yếu áp dụng hai hình thức là gửi tiền trả lãi trước và trả lãi sau khi hết kỳ hạn, đây là những hình thức đơn giản mà ngân hàng dễ áp dụng và tính toán lãi suất song không thoả mãn được nhu cầu đa dạng của người gửi tiền. Vì vậy trong thời gian tới chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cần phải nghiên cứu đưa vào áp dụng những hình thức gửi tiền và trả lãi khác. Một số hình thức gửi tiền và trả lãi mà chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội có thể đưa vào vận dụng để tăng cường khai thác nguồn vốn trung - dài hạn như: - Tiền gửi lãi định kỳ nhiều lần hay trả gốc và lãi theo niên kim đối với những khoản tiền lớn có kỳ hạn dài. Hình thức này phù hợp với những người có khoản tiền tiết kiệm lớn phục vụ cho tiêu dùng tương lai (như cán bộ hưu trí, sinh viên, học sinh). Đối với ngân hàng, khi áp dụng hình thức này sẽ mở rộng được nguồn vốn trung và dài hạn do thu hút được những khách hàng tuy có thu nhập không cao hay không có thu nhập nhưng có khoản tiền tiết kiệm để đảm bảo chi tiêu trong tương lai. - Tiền tiết kiệm gửi góp là hình thức mà người gửi có thể gửi những khoản tiền gửi theo định kỳ. Đây là hình thức được áp dụng phù hợp đối với những người có thu nhập khá và đều đặn có nhu cầu tiết kiệm cho những khoản chi tiêu lớn sau này, đặc biệt là đối với các cán bộ, công nhân viên chức. - Tiết kiệm có mục đích, với hình thức này khách hàng gửi tiền tiết kiệm tích luỹ liên tục trong thời gian với một số tiền tối thiểu nhất định thì được ngân hàng cho vay ưu đãi để mua sắm tài sản và lấy tài sản mới mua thế chấp làm vật đảo đảm cho khoản vay. Chẳng hạn hiện nay để mua căn nhà với những cán bộ trẻ là tương đối khó khăn, để tạo điều kiện chi nhánh có thể cho phép khách hàng có thu nhập ổn định sau 5 năm gửi tiền liên tục và đủ 60-70% gía trị căn nhà định mua, sau khi cán bộ tín dụng thẩm định sẽ cho phép vay khoản còn thiếu để mua và lấy căn nhà mới mua làm tài sản đảm bảo cho khoản vay. Với hình thức huy động này vừa tạo điều kiện cho khách hàng mua sắm những tài sản có giá trị lớn, vừa tạo điều kiện cho ngân hàng huy động được nguồn vốn trung - dài hạn, đồng thời có khả năng mở rộng đầu tư tín dụng trong tương lai. - Hình thức tiết kiệm trung dài hạn có đảm bảo theo tỷ lệ lạm phát: Hiện nay nguồn vốn huy động trung và dài hạn còn chiếm tỷ trọng thấp không chỉ ở chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội mà ở hầu hết các ngân hàng thương mại nói chung. Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này là do người dân sợ tỷ lệ lạm phát cao làm mất giá khoản tiết kiệm của họ. Vì vậy để tăng cường nguồn vốn trung - dài hạn, chi nhánh có thể vận dụng hình thức này theo tỷ lệ lạm phát hàng năm do cơ quan công bố. Tuy nhiên khi áp dụng hình thức tiết kiệm có đảm bảo theo tỷ lệ lạm phát, chi nhánh cần phải nghiên cứu để xác định mức lãi suất phù hợp vì trong trường hợp này chi nhánh dễ gặp rủi ro do tỷ lệ lạm phát tăng cao. - Hình thức tiết kiệm bằng vàng: Đây cũng là hình thức huy động nguồn vốn trung- dài hạn có hiệu quả bởi hiện nay còn khá nhiều người tích trữ vàng. Để tận dụng huy động nguồn vốn này chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội có thể nhận tiền gửi tiết kiệm bằng vàng, cho phép khách hàng nhận và gửi tiền theo giá vàng trên thị trường (giá vàng của Công ty vàng bạc đá quý Nhà nước ). Với hình thức này sẽ thu hút được một lượng nguồn vốn đáng kể, nhất là nguồn vốn trung - dài hạn có hiệu quả bởi khách hàng không những vừa đảm bảo cất trữ an toàn bằng vàng (tiền theo giá vàng), vừa được hưởng lãi suất. Tuy nhiên hình thức tiết kiệm này cũng như hình thức tiết kiệm đảm bảo theo tỷ lệ lạm phát, ngân hàng dễ gặp rủi ro về giá vàng nên đòi hỏi ngân hàng phải xác định được mức lãi suất phù hợp để bù đắp rủi ro. - Phát triển kỳ phiếu- trái phiếu với kỳ hạn, mệnh giá và loại tiền đa dạng, tăng tính lỏng cho kỳ phiếu và trái phiếu. Nguồn vốn mà chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội huy động thông qua phát hành kỳ phiếu- trái phiếu trong thời gian qua chưa lớn và chỉ huy động nguồn vốn nội tệ , để phát huy công cụ này ngân hàng phải tăng tính lỏng cho loại giấy tờ có giá này để thu hút khách hàng. Hiện nay các loại giấy tờ có giá trị do chi nhánh phát hành hầu như không được chuyển nhượng trên thị trường nên để tạo tính lỏng, chi nhánh nên áp dụng nghiệp vụ chiết khấu đảm bảo lợi ích cho khách hàng khi cần rút tiền trước khi đến hạn. Vơí nghiệp vụ chiết khấu sẽ tạo thuận lợi cho khách hàng khi rút trước hạn mà không phải thế chấp để vay tiền với lãi suất cao. 3.3.2. Không ngừng hoàn thiện các tiện ích về công nghệ Ngân hàng để phục vụ người gửi tiền. Đẩy mạnh việc ứng dụng kỹ thuật công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, chủ động hội nhập những công nghệ thông tin hiện đại để đổi mới công nghệ thông tin Ngân hàng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ưu tiên phát triển công nghệ để tạo ra sản phẩm dịch vụ mới có sức cạnh tranh phục vụ khách hàng trong lĩnh vực tiền tệ trong nước và ngoài nước. Ngân hàng cần phải từng bước đổi mới công nghệ thanh toán, đa dạng hoá các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, không ngừng ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiến tới hiện đại hoá các hoạt động Ngân hàng, đảm bảo cho khâu thanh toán nhanh, chính xác, tiện lợi với mức phí rẻ nhất. Để đa dạng hoá các hình thức thanh toán, các Ngân hàng có thể sử dụng: - Hình thành hệ thống Ngân hàng tự động sử dụng hệ thống máy rút tiền tự động ATM, cho phép khách hàng trực tiếp giao dịch, hoạt động suốt ngày. - Hệ thống giao dịch tại Ngân hàng chủ là các dịch vụ Ngân hàng bán lẻ, phát triển dịch vụ Ngân hàng tại nhà, Ngân hàng qua điện thoại, Ngân hàng qua dịch vụ Internet, Ngân hàng không có chủ và Ngân hàng giao dịch hoàn toàn bằng hệ thống máy móc tự động,... - Phát triển hệ thống phát hành và thanh toán thẻ các loại, đa dạng hoá các loại thẻ phát hành như: Thẻ nội địa, thẻ ghi nợ, thẻ liên kết,... - Nối mạng thanh toán bù trừ liên Ngân hàng qua trung tâm thanh toán của NHNN và thanh toán bù trừ giữa các hệ thống NHTM với nhau. Việc phát triển công nghệ hiện đại phải bao gồm cả việc cải tiến quy trình công nghệ, các sản phẩm tín dụng, dịch vụ Ngân hàng, xây dựng, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán quốc tế, đồng thời ứng dụng tiến bộ kỹ thuật thông tin vào hoạt động Ngân hàng, áp dụng hệ thống thông tin đa phương để quản trị điều hành đáp ứng yêu cầu hoạt động của Ngân hàng hiện đại. 3.3.3. Mở rộng mạng lưới và thời gian giao dịch. Mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh để tiếp cận thị trường, chiếm lĩnh thị trường, để gần với dân cư, với khách hàng. Đây là giải pháp quan trọng để phát triển hoạt động kinh doanh và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Để tiếp tục mở rộng mạng lưới kinh doanh đủ sức cạnh tranh với các NHTM khác trên địa bàn Thủ đô và chuẩn bị thực hiện các dịch vụ Ngân hàng hiện đại. NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cần mở rộng mạng lưới kinh doanh theo hướng sau: * Mở ngay từ 3 đến 5 bàn tiết kiệm (hoặc phòng giao dịch) trên địa bàn Quận tại các khu vực đông dân cư, trung tâm kinh tế- thương mại- du lịch... sau đó phát triển dần lên. * Các bàn tiết kiệm (phòng giao dịch) có nhiệm vụ chính là huy động vốn tiền gửi trong dân cư và thực hiện tất cả các dịch vụ Ngân hàng khác. Tại các điểm này cũng là nơi đặt các máy ATM và các máy thanh toán thẻ sau này. Sau khi các bàn tiết kiệm đã đi vào hoạt động có hiệu quả, Ngân hàng sẽ chuyển bàn tiết kiệm sang thành phòng giao dịch có thể làm các nhiệm vụ: Cho vay cầm cố tài sản (cho vay chiết khấu, giấy tờ có giá), điều tra khách hàng trong khu vực, nắm bắt thông tin thị trường... từ đó định kỳ báo cáo Ngân hàng cấp trên tổng hợp xử lý kịp thời. Để thực hiện được giải pháp này cần phải có một khoản tài chính nhất định để xây dựng- mua sắm trụ sở- văn phòng giao dịch, trang bị thiết bị phương tiện làm việc, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý nghiệp vụ và tất yếu ảnh hưởng đến biên chế số lao động của Ngân hàng. Hiện nay NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội có đầy đủ điều kiện để thực hiện giải pháp này. Tuy nhiên cần phải tính đến hiệu quả về kinh tế- xã hội khi mở thêm một bàn tiết kiệm. Nói đến thời gian giao dịch, đã từ lâu Ngân hàng Việt Nam với thói quen làm việc theo giờ hành chính (8h/24h) là một hạn chế lớn trong cơ chế thị trường hiện nay. Bởi vì NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trên lĩnh vực tiền tệ- tín dụng- thanh toán và đối tượng phục vụ của NHTM rất rộng lớn bao gồm các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư thuộc các thành phần kinh tế xã hội. Nhu cầu về dịch vụ Ngân hàng không thể chỉ đáp ứng trong 8h hành chính mà ngày càng đòi hỏi các NHTM phải mở cửa giao dịch phục vụ khách hàng 24h/24h kể cả ngày nghỉ, lễ, ngày chủ nhật. NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội phục vụ khách hàng là các doanh nghiệp và dân cư trên địa bàn Thủ đô thì việc thay đổi thời gian làm việc cho phù hợp là một đòi hỏi bức xúc hiện nay. Trước mắt cần tăng thời gian giao dịch với khách hàng để huy động vốn tiền gửi dân cư và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng khác 12h/ngày (kể cả ngày lễ và chủ nhật) và có thể chia làm 2 ca. Ca 1: Từ 07h00 đến 12h00 Ca 2: Từ 13h00 đến 18h00 Tiến tới thực hiện 18h/ ngày rồi 24h/ngày ở một số dịch vụ cần thiết và thông qua hệ thống thiết bị điện tử tin học hiện đại như dịch vụ Phone Banking... Để thực hiện được giải pháp này là sự thay đổi lớn trong nếp nghĩ cách làm của cán bộ nhân viên Ngân hàng và hàng loạt thay đổi trong chỉ đạo điều hành tổ chức hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Trong thời gian trước mắt cần làm chọn điểm ở một số bộ phận nghiệp vụ nhất định để đạt hiệu quả cao. 3.3.4. Hoàn thiện chính sách khách hàng. Không như các hoạt động sản xuất kinh doanh khác, trong hoạt động Ngân hàng thì quan hệ giữa khách hàng và Ngân hàng mang tính thường xuyên và lâu dài. Khả năng tồn tại, phát triển của Ngân hàng phụ thuộc chủ yếu vào chữ “ Tín” đối với khách hàng. Điều đó khẳng định rằng xây dựng và hoàn thiện chính sách khách hàng là một giải pháp quan trọng không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Đặc biệt trong công tác huy động vốn thì đặc điểm khách hàng là doanh nghiệp hay dân cư đều tác động đến công tác huy động vốn, tuy nhiên trong từng loại khách hàng, chẳng hạn như dân cư thì nhu cầu cũng không giống nhau mà nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Tâm lý, trình độ văn hoá, thu nhập cá nhân... Do đó có một chính sách khách hàng hấp dẫn để đáp ứng được nhu cầu của từng đối tượng khách hàng là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của Ngân hàng, để có thể nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn. Chính sách khách hàng hợp lý là chính sách đem lại sự bình đẳng, lợi ích cho cả hai phía khách hàng và Ngân hàng. Một trong những nội dung quan trọng của chính sách khách hàng trong công tác huy động nguồn vốn là tìm kiếm khách hàng, nghiên cứu đặc điểm, khả năng, động cơ và đặc biệt là nhu cầu của họ. Sau đó phân nhóm, phân loại khách hàng để có thể dễ dàng đáp ứng nhu cầu của từng nhóm khách hàng. Trước hết cần có chính sách đối với người gửi tiền vào Ngân hàng thường xuyên hoặc số dư tiền gửi cao: - Được miễn phí sử dụng các dịch vụ Ngân hàng. - Cung cấp thông tin cho khách hàng định kỳ về các vấn đề liên quan đến tiền tệ- tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. - Có chính sách động viên, khuyến khích bằng vật chất như: Tặng quà và thiếp chúc mừng vào ngày tết cổ truyền dân tộc, ngày sinh nhật của khách hàng,... Qua đó kết hợp thông tin quảng cáo các hoạt động kinh doanh dịch vụ của Ngân hàng. 3.3.5. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ Ngân hàng. Đào tạo và đào tạo lại là thực hiện phương châm “Học- học nữa- học mãi” vô cùng quý giá của nhân loại. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ nhân viên Ngân hàng nói chung và NHNo&PTNT nói riêng là đòi hỏi bức xúc và cấp bách hiện nay, nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ mọi mặt, trình độ quản lý điều hành, kiến thức kinh tế thị trường- cạnh tranh, trình độ kỹ năng giao tiếp với khách hàng (bán hàng và mua hàng). Đặc biệt là các kiến thức về Ngân hàng hiện đại và thị trường chứng khoán... Để thực hiện giải pháp này NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cần triển khai các bước sau: * Trước hết cần phân loại cán bộ để đào tạo cho đúng người đúng việc: - Đối với cán bộ quản lý điều hành hoạt động kinh doanh Ngân hàng cần đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ và trình độ tổ chức quản lý điều hành khoa học hiện đại và hiệu quả. Trang bị các kiến thức mới về kinh doanh, tổ chức điều hành, khoa học kỹ thuật công nghệ mới, các kiến thức về cạnh tranh cơ chế thị trường, về thị trường chứng khoán và Ngân hàng hiện đại... để đảm đương nhiệm vụ quản lý điều hành kinh doanh Ngân hàng trong giai đoạn mới. - Đối với cán bộ kinh doanh (cán bộ tín dụng) là đội quân tiên phong của NHTM cần chú trọng đào tạo và thường xuyên nâng cao kỹ năng nghiệp vụ Ngân hàng, kỹ năng nghiệp vụ kế toán- tài chính doanh nghiệp, am hiểu thị trường hàng hoá- thị trường tài chính tiền tệ, nhạy bén trong kinh doanh nhất là kỹ năng nắm bắt khách hàng, thẩm tra thẩm định sản xuất kinh doanh của khách hàng... để trình cấp trên cấp tín dụng hoặc đầu tư có hiệu quả- an toàn vốn, tham mưu cho lãnh đạo Ngân hàng trong kinh doanh. - Đối với cán bộ nhân viên Ngân hàng trực tiếp giao dịch với khách hàng tại quầy (thường là cán bộ kế toán, cán bộ kiểm ngân...): Đây là lực lượng cực kỳ quan trọng đối với hoạt động Ngân hàng nhất là trong huy động vốn tiền gửi dân cư và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. - Đội ngũ cán bộ này ngoài việc đào tạo và nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng sử dụng thiết bị công nghệ tin học Ngân hàng, thành thạo và am hiểu đặc tính nội dung các tiện ích của các sản phẩm- dịch vụ Ngân hàng để giới thiệu, hướng dẫn khách hàng... cần thiết phải được trang bị kiến thức trong giao tiếp khách hàng, tác phong phục vụ khách hàng phải thật văn minh, lịch sự và có trách nhiệm trong kinh doanh. * Ngoài việc phân loại cán bộ theo chuyên môn nghiệp vụ và công việc để đào tạo cần phải tổ chức sắp xếp cán bộ khoa học hợp lý trên cơ sở phát huy thế mạnh năng khiếu từng người để kích thích động viên sáng kiến cá nhân kết hợp sức mạnh và trí tuệ tập thể để thống nhất tập trung hoàn thành mục đích kinh doanh và định hướng phát triển. * Ngày nay học tập ngoại ngữ, vận hành sử dụng máy vi tính trên mạng và các thiết bị công nghệ Ngân hàng khác là trách nhiệm của tất cả các cán bộ nhân viên Ngân hàng. Phương pháp đào tạo tuỳ theo yêu cầu công việc, khả năng điều kiện và từng thời kỳ khác nhau. Có thể sử dụng phương pháp sau: - Động viên cán bộ nhân viên Ngân hàng tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức kinh tế- xã hội khác. - Từng Ngân hàng cơ sở tiến hành học tập và đào tạo nghiệp vụ theo từng chuyên đề. Mỗi khi có một sản phẩm- dịch vụ Ngân hàng mới cần được quán triệt đến từng cán bộ nhân viên cho thành thạo để đủ sức thuyết phục khách hàng. - Cử cán bộ đi học tại các trung tâm đào tạo, các trường đại học, học viện,... để được trang bị các kiến thức khoa học mới. - Tổ chức các đoàn cán bộ đi học tập tại các NHTM khác trong nước như: Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng cổ phần, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và có đủ điều kiện thì đi học tập tại Ngân hàng nước ngoài. 3.3.6. Xây dựng chính sách lãi suất hợp lý. Lãi suất là một trong những công cụ rất quan trọng trong hệ thống chính sách điều tiết vĩ mô của Nhà nước để điều hành lưu thông tiền tệ và điều tiết sự phát triển của nền kinh tế. Nếu sử dụng đòn bẩy lãi suất một cách đúng đắn phù hợp với cơ chế thị trường thì nó sẽ phát huy tích cực thúc đẩy sản xuất hàng hoá lưu thông và phát triển. Do đó cần thiết phải sử dụng một chính sách lãi suất hợp lý để vừa đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, vừa kích thích các đơn vị, tổ chức kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, để công cụ lãi suất phát huy được vai trò tác dụng của mình trong cơ chế thị trường. Chính sách lãi suất cần chỉ đạo theo hướng sau: - Chỉ đạo lãi suất theo nguyên tắc kinh tế thị trường và mối quan hệ cung cầu về vốn. Lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, căn cứ vào lãi suất sử dụng vốn để quyết định lãi suất huy động vốn, đảm bảo cho NHTM kinh doanh có lãi (thực hiện chính sách lãi suất thực dương). - Lãi suất danh nghĩa phải bằng lãi suất thực cộng với tỷ lệ lạm phát dự kiến, nghĩa là phải theo dõi lãi suất trên thị trường vốn và tỷ lệ trượt giá để điều chỉnh kịp thời và linh hoạt. - Lãi suất huy động vốn danh nghĩa phải cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến, có như thế mới khuyến khích được tiết kiệm, tránh được tích luỹ vàng và ngoại tệ. - Về nguyên tắc phải đảm bảo lãi suất tiền gửi có kỳ hạn cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn, lãi suất tiền gửi kỳ hạn dài cao hơn lãi suất tiền gửi kỳ hạn ngắn. 3.3.7. Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng. Phương thức thanh toán trong các tầng lớp dân cư hiện nay phổ biến là thanh toán bằng tiền mặt trực tiếp trao tay. Lượng giao dịch thanh toán của dân cư qua Ngân hàng chiếm tỷ lệ thấp. Do vậy để tăng lượng thanh toán qua Ngân hàng, từ đó tăng số dư tiền gửi thanh toán đòi hỏi Ngân hàng phải đa dạng hoá các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng: - Phát hành séc thanh toán cá nhân có bảo đảm chi trả của Ngân hàng. Đây là sản phẩm thanh toán đã tồn tại từ lâu trong nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện hiện nay, mức thu nhập của một bộ phận dân cư đã được nâng cao, nhu cầu giao dịch thanh toán cá nhân ngày càng tăng đòi hỏi ngành Ngân hàng cần nhanh chóng đưa vào áp dụng séc thanh toán cá nhân có đảm bảo chi trả của NHTM. Từ một bộ phận dân cư sử dụng séc thanh toán (có bảo chi cả sổ séc với mức khống chế không quá một số tiền nhất định trên mỗi tờ séc) trao tay ngay sẽ có ảnh hưởng lan rộng và kích thích nhu cầu thanh toán qua Ngân hàng của bộ phận dân cư khác. - Triển khai dịch vụ thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động ATM: Hiện nay, đã có 2 NHTM trong nước (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, NHTM cổ phần á Châu) đưa vào sử dụng thẻ tín dụng nội địa tại các Thành phố lớn. Hình thức thanh toán bước đầu đã phát huy hiệu quả. Thời gian tới với ưu thế về mạng lưới phân bố rộng trên khắp toàn quốc của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam, chúng ta cần khẩn trương triển khai dịch vụ thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động ATM, có như vậy sẽ thu hút thêm nhiều bộ phận dân cư sử dụng các phương tiện thanh toán của Ngân hàng. - Thực hiện dịch vụ chi trả tiền lương cán bộ công nhân viên qua Ngân hàng. Hiện nay tại một số doanh nghiệp trả lương cao cho nhân viên có xuất hiện nhu cầu: Doanh nghiệp nhờ NHTM trích tài khoản tiền gửi trả lương hộ cho công nhân viên theo danh sách; công nhân viên có nhu cầu để dành một phần tiền lương gửi ở tài khoản cá nhân; công nhân viên có nhu cầu thanh toán một số khoản chi phí điện, nước, bảo hiểm... theo định kỳ NHTM có thể tiếp cận các doanh nghiệp để thực hiện các dịch vụ này, tạo thói quen sử dụng các dịch vụ của NHTM. - Phát triển nghiệp vụ cho vay đời sống, tổ chức thu nợ hàng tháng từ tài khoản tiền lương. Sau khi Chính phủ có chủ trương kích cầu tiêu dùng, ngành Ngân hàng đã triển khai mạnh nghiệp vụ cho vay phục vụ đời sống cán bộ công nhân viên và đã thu được những kết quả rất khả quan góp phần “xã hội hoá” công tác Ngân hàng. Tuy nhiên, cần gắn nghiệp vụ cho vay phục vụ đời sống cán bộ công nhân viên với việc tổ chức thu nợ hàng tháng từ tài khoản cá nhân nhằm quản lý nguồn thu nợ tốt hơn, đồng thời cung cấp tài khoản cá nhân cho cán bộ công nhân viên sử dụng trong các giao dịch hàng ngày. 3.3.8. Mở rộng tiếp thị và quảng cáo. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta thấy tràn ngập quảng cáo về hàng tiêu dùng, còn quảng cáo của Ngân hàng thì lại rất ít, chỉ khi nào cần thu hút vốn thì mới quảng cáo nhiều. Trong khi đó sự hiểu biết về Ngân hàng của người dân là nhân tố cần thiết tạo nên sự tin tưởng lẫn nhau giữa người dân và Ngân hàng, do vậy Ngân hàng cần phải làm cho người dân hiểu thông qua nhiều con đường khác nhau: - Thông tin quảng cáo qua các phương tiện truyền thông đại chúng như: Phát thanh, truyền hình,... - Thông tin quảng cáo trên sách báo, hội họp,... - Thông tin quảng cáo trên các tạp chí của ngành như: Tạp chí Ngân hàng, thời báo Ngân hàng,... Công tác thông tin tuyên truyền phải làm cho mọi người dân hiểu rằng gửi tiền vào Ngân hàng là cách tích luỹ tài sản tốt nhất hiện nay, bởi vì: Thứ nhất: Gửi tiền vào Ngân hàng là một cách tích luỹ tài sản có lợi ích kinh tế qua việc nhận lãi từ Ngân hàng trả. Thứ hai: Gửi tiền vào Ngân hàng là hình thức bảo quản tài sản an toàn nhất. Bởi lẽ nếu khách hàng không gửi tiền vào Ngân hàng mà mua vàng hoặc ngoại tệ để cất trữ tại nhà có thể bị mất cắp, hoả hoạn,... Ngân hàng với hệ thống kho tàng kiên cố được bảo vệ nghiêm ngặt, là địa chỉ tin cậy để người dân gửi tài sản tích luỹ chưa sử dụng. Thứ ba: Khơi dậy trong người dân ý thức tiết kiệm, đặc biệt là tiết kiệm những khoản chi có tính chất xa hoa lãng phí, không thiết thực. Qua công tác tuyên truyền tiếp thị phải làm cho người dân thấy được việc gửi tiền vào Ngân hàng còn là yêu nước, góp phần làm cho đất nước giàu mạnh. Kết luận Công tác huy động vốn của NHTM có vai trò rất quan trọng không chỉ trong hoạt động bản thân Ngân hàng nói riêng mà còn trong phạm vi của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, công tác huy động vốn là hoạt động đầu vào có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nhờ có công tác huy động vốn mà Ngân hàng có vốn để cung ứng vốn cho nền kinh tế thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. NHNo&PTNT là một trong những Ngân hàng tiên phong, có vị trí quan trọng góp phần thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong đó NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội là một chi nhánh có khả năng huy động vốn lớn, vừa đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của chi nhánh, lại vừa góp phần điều hoà vốn trong toàn hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. Với “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội ”, Tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào công cuộc đổi mới và hoàn thiện hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội nói riêng và hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam nói chung. Chuyên đề thực tập tốt nghiệp với kết cấu 3 chương đã hoàn thành những nhiệm vụ: Phân tích tổng hợp đánh giá vai trò, hiệu quả của công tác huy động vốn đối với hoạt động của NHTM trong nền kinh tế thị trường. Phân tích thực trạng huy động vốn trong 3 năm 2000- 2002. Chuyên đề đã phân tích đánh gía thực tế các phương thức huy động vốn hiện tại, tìm ra những ưu nhược điểm của các phương thức huy động vốn, phân tích cơ cấu các loại nguồn vốn huy động, nêu ra những thách thức tồn tại và hạn chế trong công tác huy động vốn của NHNo & PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội. Qua đó tác giả đã đưa ra các giải pháp khắc phục và một số kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam, NHNN, Nhà nước, Chính phủ. Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn và một số kiến nghị trong chuyên đề đã đề cập là hoàn toàn khả thi và có điều kiện thực hiện: 1. Giải pháp đối với nguồn vốn huy động từ dân cư. 2. Giải pháp đối với nguồn vốn huy động từ doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. 3. Giải pháp đối với tiền gửi các tổ chức tín dụng. 4. Các giải pháp tổng thể. * Không ngừng hoàn thiện các tiện ích về công nghệ Ngân hàng để phục vụ người gửi tiền. * Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn. * Mở rộng mạng lưới và thời gian giao dịch. * Hoàn thiện chính sách khách hàng. * Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ Ngân hàng. * Mở rộng tín dụng và đầu tư sinh lời trên cơ sở an toàn vốn và hiệu quả cao * Xây dựng chính sách lãi suất hợp lý. * Mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng. * Mở rộng công tác tiếp thị và quảng cáo. * Giải pháp về quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động kinh doanh. Nghiên cứu “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng” là vấn đề rộng lớn bao trùm các hoạt động Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường và là một trong những vấn đề đang được quan tâm. Vì vậy chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót và còn nhiều hạn chế nhất định. Tác giả chuyên đề rất mong nhận được nhiều sự chỉ dẫn đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và bạn đọc để chuyên đề được hoàn thiện và có giá trị thực tiễn hơn. Em xin chân thành cảm ơn các cô chú, các anh chị trong NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội đã nhiệt tình chỉ bảo truyền đạt những kinh nghệm thực tiễn quý báu và cung cấp số liệu để bài viết thêm sinh động. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Thảo, giáo viên khoa Ngân hàng Tài chính trường Đại học kinh tế quốc dân đã giúp đỡ tận tình trong suốt quá trình nghiên cứu cho đến khi đề tài được hoàn thiện, đồng thời em cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học kinh tế quốc dân là người trang bi cho em những kiến thức cơ bản về chuyên môn, những kinh nghiệm về cuộc sống xã hội, giúp em tự tin hơn để bước vào đời. Tài liệu tham khảo 1. Tiền và hoạt động Ngân hàng- NXB chính trị quốc gia 1996- TS. Lê Vĩnh Doanh 2. Lý thuyết tài chính tiền tệ- NXB thống kê năm 1998- PTS. Nguyễn Ngọc Hùng. 3. Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng nâng cao- Học viện Ngân hàng năm 1999- TS. Tô Ngọc Hưng. 4. MARKETING trong Ngân hàng- NXB thống kê- Hà Nội 1996- PGS.PTS. Phạm Ngọc Phong. 5. Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại- NXB chính trí quốc gia Hà Nội 1997- Davit Cox. 6. Ngân hàng thương mại- NXB Thành phố Hồ Chí Minh 1993- Edward Reed. 7. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Luật tổ chức tín dụng- NXB chính trị quốc gia 1998. 8. Pháp lệnh Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam- NXB pháp lý 1990. 9. Tạp chí Ngân hàng số 6, 10 năm 2000; Số 1, 2, 3, 6 năm 2001. 10. Hồ sơ quyết toán năm 2000, 2001, 2002 của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội. 11. Báo cáo tổng kết năm 2000, 2001, 2002 của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội. 12. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 1996- 2000, Kế hoạch kinh tế xã hội giai đoạn 2001- 2005. 13. Ngân hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước- NHNN Việt Nam- Năm 1997. 14. Đề án chiến lược nguồn vốn của NHNo&PTNT Việt Nam giai đoạn 2000- 2010, tháng 11/2000. 15. Kế hoạch triển khai đề án cơ cấu lại NHNo&PTNT Việt Nam giai đoạn 2001- 2005, tháng 11/2001. 16. Đề án phát triển kinh doanh giai đoạn 2001- 2005 tại NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội. 17. Kế hoạch kinh doanh năm 2003 tại NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội. Table of Contents

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH396.doc
Tài liệu liên quan