Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PTI giai đoạn 2005-2009

Tuy không phải là nghiệp vụ chủ đạo của PTI song với những kết quả đạt được trong thời gian qua chứng tỏ BHVCXCG đã và đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong sự phát triển của công ty.Với thị trường khai thác rộng lớn nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới của PTI ngày càng có nhiều cơ hội phát triển trở thành nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của công ty với hiệu quả kinh doanh ngày càng cao.Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt không chỉ PTI mà cả các DNBH phi nhân thọ khác trên thị trường bảo hiểm Việt Nam trước những thời cơ và thách thức mới khi có sự tham gia của các DNBH nước ngoài đã được phép cung cấp nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, tình trạng cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm xe cơ giới diễn ra ngày càng gay gắt, các giải pháp nhằm tăng doanh thu của nghiệp vụ này đều được các DNBH triển khai triệt để. Trước tình hình đó đòi hỏi PTI cần chủ động hơn nữa trong công tác nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, hiệu quả của các khâu công việc, ngoài ra cần nâng cao trình độ chuyên môn của các đại lý, mở rộng mạng lưới bán hàng của mình qua kênh VNPost để có thể cạnh tranh có hiệu quả với các DNBH phi nhân thọ trong và ngoài nước, tạo cơ sở nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm vật chất xe cơ giới của công ty.

doc88 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1816 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PTI giai đoạn 2005-2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể phục vụ cho công tác giám định và bồi thường tổn thất cho nên các năm về sau tỷ trọng thuê ngoài giám định của công ty giảm đi rất nhiều,số vụ tai nạn do công ty tự giám định tăng lên theo thời gian năm 2007-96.90%, năm 2008-97.69%,năm 2009-98,63%,do đó công tác bồi thường cũng được giải quyết nhanh hơn. 3.2.2 Công tác bồi thường Khâu bồi thường là khâu mà công ty thực hiện cam kết của mình đối với khách hàng khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra và cũng là một trong những chính sách để duy trì khách hàng của công ty. Nếu giải quyết tốt khâu này thì đây chính là cách quảng bá tốt nhất của một DNBH. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác bồi thường và chi trả bảo hiểm,PTI luôn cố gắng bồi thường cho khách hàng một cách nhanh chóng và chính xác.Từ đó đã giúp công ty không chỉ giữ lại được khách hàng truyền thống mà còn mở ra triển vọng khai thác những khách hàng tiềm năng trong tương lai. Bảng 2.6: Tình hình bồi thường Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PTI giai đoạn (2005-2009) Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009 Chi bồi thường (Tr đ) 14,721 25,971 44,087 84,041 115,471 Số vụ bồi thường (vụ) 706 835 967 1124 1319 Tốc độ tăng số vụ bồi thường (%) - 18.23 15.81 16.32 17.43 Doanh thu phí BHVCXCG(Tr đ) 36.232 57.445 84.249 138.980 196.312 STBT bình quân/vụ(Tr đ) 20.85 31.10 45.59 74.77 87.54 Tỉ lệ bồi thường (%) 40.63 45.21 52.33 60.47 58.82 ( Nguồn : phòng bảo hiểm xe cơ giới – PTI ) Hình 2.2:Biểu đồ biểu diễn số tiền bồi thường và doanh thu phí BHVCXCG giai đoạn 2005-2009 ( Nguồn : phòng bảo hiểm xe cơ giới – PTI ) Như vậy cùng với sự tăng lên của doanh thu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới thì chi bồi thường cho nghiệp vụ này cũng tăng lên qua các năm: năm 2005 là 14,721 triệu VND thì đến năm 2009 là 115,471 triệu VND,tăng gần gấp 8 lần so với năm 2005. Số vụ tai nạn phát sinh trách nhiệm bồi thường vào năm 2005 là 706 vụ , số tiền bồi thường là 14,721 triệu đồng, tỷ lệ bồi thường trong năm này là 40.63 %, đây là tỷ lệ bồi thường thấp nhất trong các năm, bởi vì PTI mới được thành lập, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới cũng mới được công ty bắt đầu triển khai nên số lượng xe tham gia bảo hiểm còn thấp do đó doanh thu phí bảo hiểm mà công ty khai thác được thấp và chi bồi thường cũng thấp tương ứng. Năm 2006, doanh thu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới là 57.445 triệu đồng, tốc độ tăng doanh thu so với năm 2005 là 58.57% đó là vì công ty đã tập trung cho khâu khai thác nhằm thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm,tuy nhiên công ty mới chỉ chú ý đến số lượng mà chưa chý ý đến chất lượng, công tác đề phòng hạn chế tổn thất chưa được chú tâm nên trong năm 2006 tốc độ tăng số vụ tai nạn lên tới 15.81 % kéo theo chi bồi thường tăng lên. Với mục tiêu là tăng doanh thu,mở rộng địa bàn hoạt động nên năm 2007, PTI không chỉ nhận bảo hiểm ô tô trong ngành mà còn thực hiện bảo hiểm cho những ô tô ngoài ngành vì thế doanh thu bảo hiểm trong năm nay tăng lên đến 84,249 triệu đồng, số tiền bồi thường trong năm 2007 là 45,59 triệu đồng, số vụ bồi thường tăng lên 52.33%. Năm 2008,tốc độ tăng số vụ bồi thường là 16.32% như vậy sự gia tăng số vụ tai nạn phát sinh trách nhiệm có phần giảm xuống so với năm 2006 (18.23%),đó là do trong năm này công ty đã chú trọng hơn trong công tác đề phòng và hạn chế tổn thất,chi phí cho khâu này được tăng lên.Bên cạnh đó công ty cũng đã củng cố lại bộ máy làm việc,nâng cao chất lượng cán bộ nhân viên cũng như đại lý khai thác do đó doanh thu phí bảo hiểm tăng và đi cùng với nó chi bồi thường cũng tăng lên. Bước sang năm 2009,mặc dù thị trường có nhiều biến động nhưng công ty vẫn đạt được mức doanh thu phí cao, tốc độ tăng doanh thu phí của nghiệp vụ là 41.25%, nhưng trong năm 2009 tỷ lệ bồi thường của công ty lại ở mức khá cao 58.82%. Nhìn chung chi bồi thường cho nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PTI thời gian qua vẫn còn ở mức cao,tỷ lệ bồi thường tăng lên theo thời gian,nhất là trong 2 năm 2007,2008 tỷ lệ bồi thường luôn chiếm hơn 50% tổng doanh thu phí của nghiệp vụ,sở dĩ như vậy là vì: - Bên cạnh việc nhận bảo hiểm cho các nhân viên trong ngành ngành dầukhí, PTI đã mở rộng hoạt động của mình bằng cách nhận bảo hiểm vật chất xe cơ giới cả ngoài ngành,sự mở rộng này bên cạnh giúp doanh thu phí của công ty tăng lên thì còn làm cho PTI có nguy cơ gặp nhiều rủi ro hơn. - Số lượng xe tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty ngàycàng tăng và giá trị của xe tham gia bảo hiểm cũng tăng lên do mức sống của người dân ngày càng cao vì thế số tiền bảo hiểm của mỗi chiếc xe tham cao hơn trước cho nên khi xảy ra sự kiện bảo hiểm số tiền bồi thường cũng tăng lên làm tăng chi bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. - Do tình trạng cạnh tranh ngày càng gay gắt, các DNBH nói chung và PTI nói riêng đang chạy theo số lượng hợp đồng khai thác mà chưa thực sự chú ý đến chất lượng hợp đồng. - Thị trường hoạt động của PTI là các tỉnh miền núi phíaBắc trong khi đó trụ sở của công ty là ở Hà Nội do đó khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại các tỉnh này công ty sẽ gặp khó khăn trong việc kiểm soát tình hình, các vụ gian lận bảo hiểm vì thế mà cũng tăng lên. - Nguyên nhân chung cho các DNBH đó là tình hình tai nạn giao thôngđường bộ ngày càng gia tăng đã dẫn đến tăng chi bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty. Như vậy qua phân tích ta có thể thấy tình hình bồi thường tại công ty vẫn còn tương đối cao, công tác bồi thường của công ty thời gian qua tuy đã có những bước tiến đáng kể song vẫn còn một số tồn tại nhất định: Việc giải quyết bồi thường cho khách hàng chưa thực sự thực hiện, vẫn chưa đảm bảo được quyền lợi tối đa cho khách hàng khi gặp rủi ro gây thiệt hại, thời gian giải quyết bồi thường tại PTI vẫn còn kéo dài, thông thường PTI có trách nhiệm xem xét và giải quyết bồi thường trong vòng 15 ngày bắt đầu từ ngày nhận được hồ sơ bồi thường đầy đủ, hợp lệ và với trường hợp phải xác minh hồ sơ thì thời gian này kéo dài khoảng một tháng. Đối với khách hàng đây là một khoảng thời gian dài không chỉ ảnh hưởng đến công việc mà còn gây chủ xe tình trạng bất an đối với chiếc xe của mình, do đó công tác bồi thường vẫn còn là nỗi ám ảnh của khách hàng. Một số vụ bồi thường xảy ra tranh chấp, kéo dài thời gian giải quyết bồi thường đã gây mất lòng tin nơi khách hàng…Nguyên nhân của tình trạng này là do khi khai thác bảo hiểm các cán bộ khai thác bảo hiểm của công ty hoặc tư vấn viên chưa thực sự tuyên truyền giải thích, tư vấn rõ ràng cho khách về các điều khoản, điều kiện, phạm vi bảo hiểm hoặc thuộc phạm vi loại trừ bảo hiểm. Trước tình hình đó đòi hỏi PTI cần phải có các biện pháp cũng như chiến lược lâu dài để khắc phục những vấn đề còn tồn tại và đồng thời tạo điều kiện nâng cao uy tín của công ty đối với khách hàng. 3.3 Công tác đề phòng hạn chế tổn thất Kinh doanh bảo hiểm cũng như các loại hình kinh doanh khác với mục đích kinh tế là lợi nhuận.Chỉ có thu được lợi nhuận DNBH mới có thể tồn tại và phát triển được trong điều kiện kinh tế thị trường.Tuy nhiên KDBH có đặc điểm là loại hình kinh doanh rủi ro, DNBH chấp nhận rủi ro mà bên tham gia bảo hiểm chuyển giao cho họ, đồng thời chấp nhận trả tiền bảo hiểm hay bồi thường cho bên tham gia khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra, đổi lại DNBH sẽ thu phí của bên tham gia.Vì là loại hình kinh doanh rủi ro và để đạt được lợi nhuận cao trong kinh doanh do đó khâu đề phòng và hạn chế tổn thất rất quan trọng đối với DNBH, thực hiện tốt khâu này nghĩa là giảm thiểu được xác suất xảy rủi ro mang lại tổn thất, hạn chế tổn thất từ đó giảm thiểu mức độ thiệt hại nếu tổn thất xảy ra, giúp công ty giảm chi bồi thường nâng cao hiệu quả kinh doanh, đây không chỉ là chức năng của DNBH mà còn là yêu cầu bức xúc của người tham gia bảo hiểm. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nghiệp vụ đóng góp một phần không nhỏ trong tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc của PTI do đó công tác đề phòng và hạn chế tổn thất trong nghiệp vụ này luôn được công ty quan tâm nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ này. Trong thời gian qua, tình hình tổn thất tại PTI diễn biến theo chiều hướng đáng lo ngại,chi bồi thường cho nghiệp vụ tăng lên theo từng năm,để giảm thiểu số tiền bồi thường cũng như các vụ tai nạn có thể xảy ra PTI đã có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa công ty với khách hàng tham gia bảo hiểm trong việc xây dựng các chương trình quản lý rủi ro,tư vấn cho khách hàng các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất.Đặc biệt,tổn thất do thiên tai tại Hà Nội vào tháng 11 vừa qua là một cảnh bảo nghiêm trọng về việc buông lỏng quản lý rủi ro trong khâu khai thác và kiểm soát thiên tai trước những biến động của thời tiết không chỉ riêng gì PTI mà cả các DNBH khác trên thị trường. Bên cạnh đó PTI còn thực hiện công tác đề phòng hạn chế tổn thất trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới bằng cách hợp tác với các DNBH phi nhân thọ trên thị trường cùng đầu tư kinh phí xây dựng hàng loạt các công trình đảm bảo an toàn giao thông như đường lánh nạn tại các chân đèo nơi thường xảy ra các vụ tai nạn, xây dựng rào lộ ngăn cách giữa đường bộ và đường sắt, hỗ trợ cho các cuộc thi, tuyên truyền về an toàn giao thông… Những việc làm trên của PTI đã góp phần làm tăng uy tín của công ty trên thị trường, làm tăng tính nhân văn, tính xã hội của ngành bảo hiểm nói chung. Kết quả và hiệu quả kinh doanh BHVCXCG tại PTI giai đoạn (2005-2009) Hiệu quả theo doanh thu và lợi nhuận của công ty Kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ BHVCXCG tại PTI giai đoạn (2005-2009) được thể hiện ở bảng 2.6 Bảng 2.7: Kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ BHVCXCG tại PTI giai đoạn (2005-2009) Năm Doanh thu Chi phí Lợi nhuận Tốc độ tăng lợi nhuận DT/CP LN/CP 2005 36.232 25.880 10.352 - 1.40 0.29 2006 57.445 38.043 19.402 87,42 1,51 0,51 2007 84.249 54.707 29.542 52,26 1,54 0,54 2008 138.980 102.191 36.789 24,53 1,36 0,36 2009 196.312 141.232 55.080 49,72 1,39 0,39 ( Nguồn : phòng bảo hiểm xe cơ giới – PTI ) Qua bảng trên ta thấy,chi phí cho nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới của công ty qua các năm đều tăng.Năm 2005,tổng chi cho nghiệp vụ là 25.880 (triệu đồng) thì đến năm 2009 tổng chi đã lên đến 141.232(triệu đồng) tăng gần 5,5 lần lần.Chi phí cho nghiệp vụ tăng là do các khoản chi như:chi bồi thường,chi khai thác,chi hoa hồng…của công ty đều tăng lên qua các năm thể hiện sự quan trọng của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Cùng với sự tăng lên của chi phí cho nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới thì lợi nhuận mà ngiệp vụ này mang lại cho công ty cũng tăng lên qua các năm.Từ năm 2005-2009 lợi nhuận của công ty đã tăng 5,32 lần,tốc độ tăng lợi nhuận qua các năm đều tăng lên,lợi nhuận mà công ty đạt được năm 2005 là 10.352 (triệu đồng) thì sang năm 2006, tổng lợi nhuận tăng lên 19.402 (triệu đồng) so với năm 2005 (tương ứng với tăng 87,42 %).Lợi nhuận trong năm 2007 tiếp tục tăng lên nhưng tốc độ tăng thấp hơn năm 2006, năm 2007 tốc độ tăng lợi nhuận là 52,26% .Năm 2008,tốc độ tăng lợi nhuận của công ty là 24,53%,tuy nhiên tổng chi của nghiệp vụ trong năm nay tăng đột biến- 102.191 (triệu đồng),sở dĩ như vậy là vì từ khi Việt Nam gia nhập WTO,số lượng các DNBH trên thị trường bảo hiểm nước ta tăng lên,vừa có sự xuất hiện của các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài,vừa có các DNBH mới thành lập,sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt khi mà các DNBH mới đi vào hoạt động đều có chính sách giảm phí,tăng hoa hồng nhằm giành khách hàng đã gây không ít khó khăn cho PTI. Ngoài ra năm 2008, “Đề án bán lẻ sản phẩm bảo hiểm PTI qua mạng bưu chính” đã được triển khai, chi phí để đào tạo đại lý bảo hiểm cho hơn 10 ngàn cán bộ công nhân viên tại các bưu cục, điểm phục vụ của VNPost. Vì vậy tổng chi phí cũng tăng cao, lên tới 102.191 (triệu đồng) Nhìn chung, kết quả và hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới trong các năm qua mà công ty đạt được tương đối khả quan,doanh thu và lợi nhuận qua các năm đều tăng,năm 2005 doanh thu của bảo hiểm vật chất của công ty là 36.232 (triệu đồng) thì đến năm 2009 doanh thu đạt được là 196.312 (triệu đồng) tăng gấp 5 lần,lợi nhuận tăng gần 5,5 lần.Tuy nhiên để đạt được sự gia tăng doanh thu đó thì tổng chi cho nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới của công ty cũng không ngừng tăng lên qua các năm.Về hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới,qua bảng trên ta thấy:từ năm 2005-2007 hiệu quả kinh doanh của công ty tăng dần theo các năm,nếu như năm 2005, 1 đồng chi phí bỏ ra thì thu về được 1,40 đồng doanh thu thì sang năm 2006 doanh thu thu về được là 1,51 đồng/1 đồng chi phí,năm 2008 hiệu quả của công ty tiếp tục tăng song với tốc độ tăng chậm.Năm 2008 là năm có hiệu quả kinh doanh thấp nhất trong các năm trở lại đây,1 đồng chi phí bỏ ra chỉ thu lại được 1,36 đồng doanh thu và 0,36 đồng lợi nhuận,đó là vì trong năm này tỷ lệ bồi thường chiếm tỷ lệ cao 60,47% nhưng tốc độ tăng doanh thu phí lại thấp - 24,53%,bên cạnh đó do công ty mở rộng thị trường hoạt động cho nên các loại chi phí phát sinh cho nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới trong năm 2009 có xu hướng tăng lên,tổng chi trong năm 2009 là 141.232(triệu đồng).Mặc dù công tác đề phòng hạn chế tổn thất đã được công ty chú tâm và tăng chi cho công tác này song với số lượng xe cơ giới tham gia lưu thông ngày càng nhiều và ý thức của người dân còn hạn chế cho nên số vụ tai nạn vẫn tăng lên là nguyên nhân dẫn tổng chi trong năm nay tăng lên.Một nguyên nhân không kém phần quan trọng nữa là sự hoạt động không có hiệu quả của các đại lý,mặc dù số đại lý tham gia hoạt động tương đối đông song do quản lý và đào tạo không được chặt chẽ đã dẫn đến có nhiều đại lý không đạt được doanh thu theo kế hoạch được giao trong khi chi phí cho khâu khai thác bỏ ra khá nhiều Năm 2009,hiệu quả kinh doanh của công ty đã tăng lên so với năm 2008,với 1 đồng chi phí bỏ ra thu về được 1,39 đồng doanh thu và 0,39 đồng lợi nhuận,có được kết quả này đó là nhờ sự nỗ lực của toàn thể cán bộ,nhân viên trong công ty đã hoàn thành kế hoạch được giao và đánh giá những mặt còn hạn chế năm 2008, kịp thời đưa ra các chính sách trong năm 2009.Điều này làm cho doanh thu phí bảo hiểm,kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới của công ty ngày càng cao. Sở dĩ có sự gia tăng như vậy là vì thời gian qua PTI đã thực hiện một số nội dung sau: - PTI đã thắt chặt quản lý hệ thống đại lý, thực hiện quản lý rủi ro ngay từ khi cấp đơn cùng với đó là bộ phận giám định bồi thường đã được nâng cao năng lực, trình độ tác nghiệp do đó đã hạn chế được một phần hiện tượng trục lợi bảo hiểm ngay từ khâu giám định, hạn chế được số tiền bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. - Nhận thức được tầm quan trọng trong việc triển khai nghiệp vụ bảohiểm vật chất xe cơ giới tại địa bàn Hà Nội,để khai thác tối đa tiềm năng của thị trường này và triển khai kênh bán hàng một cách có hệ thống, PTI đã và đang xây dựng hệ thống đại lý tại Hà Nội, xây dựng hệ thống bán lý bán lẻ tại Hà Nội,Hà Tây và các vùng lân cận nhằm khai thác tối đa tiềm năng bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại thị trường này. Đối tượng để triển khai của nghiệp vụ này là các ngân hàng thương mại,các công ty tài chính, các đơn vị kinh doanh thương mại (mua bán, sửa chữa ô tô…) -Trong thời gian qua PTI đã bỏ ngỏ thị trường Hà Tây mặcdù trụ sở chính của công ty đóng tại địa bàn này cho nên sang năm 2008 công ty đã xem phòng kinh doanh khu vực Hà Đông là đầu mối khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại địa bàn này,đối tượng tiếp cận là dân cư,các doanh nghiệp,các ngân hàng thương mại…đóng trên địa bàn. -Trong quá trình khai thác bảo hiểm vật chất xe cơ giới, PTI đã có sự đào tạo chuyên sâu cho nhân viên khai thác,nâng cao trình độ chuyên môn bằng cách cho nhân viên đi tập huấn,học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ. - PTI tiếp tục tìm kiếm và bổ sung nhân lực có chất lượngcao cho các phòng xe cơ giới,phòng giám định bồi thường và các phòng kinh doanh khu vực mới thành lập. Đánh giá chung Như vậy, qua phân tích trên ta thấy kết quả và hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty nhìn chung tương đối khả quan,các chỉ tiêu tăng đều qua các năm,tuy nhiên chi phí bỏ ra cho nghiệp vụ vẫn còn lớn hơn rất nhiều so với lợi nhuận đạt được.Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nghiệp vụ bảo hiểm có nhiều sự cạnh tranh lớn trên thị trường, các DNBH mới đi vào hoạt động thường chọn nghiệp vụ này để chiếm lĩnh thị trường bằng cách hạ phí bảo hiểm,tăng hoa hồng,sự cạnh tranh không công bằng đó đã gây sức ép rất lớn cho không chỉ PTI mà cả các DNBH khác trên thị trường phải đối mặt với mức độ rủi ro cao,doanh thu không đủ bù đắp chi phí,thị phần của công ty về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới bị chia nhỏ cho các công ty bảo hiểm khác mới tham gia vào thị trường do đó đòi hỏi công ty phải có những chiến lược cũng như giải pháp để phát triển trong tương lai để đạt được hiệu quả cao. CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA BHVCXCG TẠI PTI I. Phương hướng hoạt động của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm bưu điện PTI Năm 2008 chứng kiến cơn khủng hoảng kinh tế diễn ra trên toàn cầu,ảnh hưởng sâu săc đến nền kinh tế nước ta,khiến thị trường chứng khoán suy thoái,hoạt động đầu tư giảm sút,thị trường bất động sản đóng băng,lãi suất biến động…gây ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp.Đứng trước những biến động bất lợi của kinh tế thế giới,thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn giữ được đà tăng trưởng trong năm 2008,các DNBH ở Việt Nam đã hoàn thành được những kế hoạch đề ra và PTI là một trong số những doanh nghiệp đó. Trong bối cảnh nền kinh tế xã hội Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2008 tiếp tục tăng trưởng theo tốc độ điều chỉnh giảm để giảm lạm phát,thị trường tài chính tiền tệ có nhiều biến động, PTI vẫn đạt được các chỉ tiêu về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 6 tháng đầu năm và dẫn đầu thị trường bảo hiểm phi nhân thọ trong một số lĩnh vực có doanh thu lớn như bảo hiểm xây dựng và lắp đặt (đạt 217 tỷ đồng),bảo hiểm dầu khí (đạt 326 tỷ đồng).Và theo báo cáo tổng kết,năm 2008 PTI đã đạt doanh thu 2.668 tỷ VND tăng trưởng 133% so với năm 2007,trong đó bảo hiểm gốc đạt 1986 tỷ VND-tăng 124% so với năm 2007,mảng bán lẻ doanh thu 986 tỷ VND-tăng 172% so với năm 2007.Như vậy mặc dù năm 2008 thị trương bảo hiểm trong nước gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nhưng PTI vẫn trở thành Doanh nghiệp bảo hiểm có tốc độ tăng trưởng lớn nhất tại Việt Nam và trở thành ngọn cờ vững chắc của Tập Đoàn Dầu khí Việt Nam. Bước sang năm 2009,dự báo nền kinh tế sẽ còn gặp nhiều khó khăn nữa nhưng PTI vẫn đề ra chiến lược phát triển của mình trong thời gian tới là “trở thành định chế Bảo hiểm-Tài chính có thương hiệu mạnh trong nước và quốc tế; phát triển nhanh,bền vững trên nền tảng tri thức,sức mạnh của tập đoàn và sự kết hợp hài hòa lợi ích của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam,các cổ đông và người lao động”. Năm 2009, PTI tiếp tục cam kết đặt chỉ tiêu doanh thu là 3.000 tỷ đồng,lợi nhuận đạt 275 tỷ VND-tăng 5% so với năm 2008. Là một công ty thành viên của Tổng Công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam,để góp phần hoàn thành tốt mục tiêu mà tổng công ty đã đặt ra trong thời gian tới PTI sẽ không ngừng phát triển để đa dạng hóa các loại hình sản phẩm bảo hiểm đáp ứng nhu cầu khách hàng, đồng thời hoàn thiện hơn nữa về cơ cấu tổ chức, đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên chuyên nghiệp hơn, đưa PTI phát triển vững mạnh, trở thành một thành viên đứng đầu làm nòng cốt cho tổng công ty. Năm 2009 công ty PTI đã đặt ra những kế hoạch doanh thu như sau: Phòng kinh doanh khu vực Đống Đa: 20 tỷ đồng Phòng bảo hiểm kỹ thuật: 19 tỷ đồng Phòng tài sản hàng hải: 16 tỷ đồng Phòng kinh doanh khu vực Hà Đông: 12,5 tỷ đồng Phòng bảo hiểm xe giới, con người & QLĐL: 12,5 tỷ đồng Phòng kinh doanh Lào Cai: 6 tỷ đồng Tổng kế hoạch doanh thu của cả công ty là:86 tỷ đồng Riêng với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, PTI đã đề ra một số chiến lược phát triển sau: Trong 2 năm gần đây,số tiền bồi thường của công ty chiếm hơn 50% doanh thu phí bảo hiểm vì vậy chiến lược trong năm 2009 là hạn chế số tiền bồi thường của nghiệp vụ xe cơ giới xuống còn 48% so với doanh thu,việc giảm số tiền bồi thường trong năm 2009 là để tạo cơ sở giảm tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ này trong những năm sau đó. Thắt chặt hệ thống quản lý đại lý,quản lý rủi ro ngay từ khi cấp đơn,cùng với đó là nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhân viên khai thác,của các chuyên viên giám định bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Hạn chế hiện tượng trục lợi bảo hiểm ngay từ khâu giám địnhGiải quyết bồi thường cho khách hàng một cách nhanh chóng,kịp thời II. Một số thuận lợi và khó khăn 2.1. Thuận lợi 2.1.1. Sự phát triển của nền kinh tế. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển đáng ghi nhận. Tốc độ tăng GDP các năm gần đây luôn đạt cao(2005 là 8,43%; 2006 đạt 8,17%, 2007 đạt 8,44%, 2008 đạt 6,18%), năm 2009 Việt Nam thực hiện tốt ngăn chặn suy giảm kinh tế, GDP tăng 5,2%; là 1/12 nước có GDP tăng trưởng dương của thế giới và là nước tăng trưởng cao nhất trong khu vực Đông Nam Á. Những bước tiến đó đã tạo điều kiện cho các ngành sản xuất kinh doanh trong nước phát triển, dẫn đến nhu cầu về cơ sở hạ tầng cũng tăng theo. 2.1.2. Sự phát triển của thị trường bảo hiểm Với việc mở cửa thị trường bảo hiểm từ rất sớm, chính phủ Việt Nam được đánh giá là tương đối cởi mở trong việc cho phép  các nhà cung cấp nước ngoài tham gia thị trường. Từ năm 1996 đến nay, Việt Nam đã từng bước mở cửa thị trường bảo hiểm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước  ngoài. Chính phủ đa cho phép nhà đầu tư nước ngoài được thành lập doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam. Hoạt động của các doanh nghiệp này đã đem đến những thay đổi tích cực cho thị trường như: góp phần tăng doanh thu phí bảo hiểm, nâng cao năng lực tài chính của thị trường, tăng cường chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, thu hút thêm lao động, tạo  lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, qua đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Theo Cục Quản Lý và Giám sát bảo hiểm (Bộ tài chính), tính đến nay, tổng số doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường là 49 doanh nghiệp, trong đó gồm 27 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 11 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 10 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và 1 doanh nghiệp tái bảo hiểm. Tổng số vốn mà các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động khoảng 21.000 tỷ đồng. Đồng thời, trên thị trường hiện có gần 200 loại sản phẩm bảo hiểm gồm cả phi nhân thọ và nhân thọ đang được chào bán. Trong số 27 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi  nhân thọ thì có tới 10 doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Còn theo Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, doanh thu phí bảo hiểm Việt Nam, doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường năm 2009 đạt hơn 24.000 tỷ đồng, đồng thời giải quyết bồi thường bảo hiểm hơn 10.000 tỷ đồng, đảm bảo sự phát triển ổn định của các tổ chức, cá nhân không may gặp rủi ro, hoạn nạn. - Sự ra đời của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam(2001) đã kết nối các DNBH với nhau tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, phát triển bền vững, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường( chủ động liên kết với các công ty nước ngoài Munich Re, Swess Re, Lloyd’s…). - Luật KDBH sẽ được sửa đổi, bổ sung, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, phát huy tính chủ động, sáng tạo của DNBH, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia BH là môi trường thuận lợi để thị trường BH phát triển. - Về phương diện tái bảo hiểm, năng lực nhận rủi ro từ các công ty nói chung đều tăng do quy định chặt chẽ của Bộ Tài Chính về vốn điều lệ của DNBH cũng như khả năng tài chính vững mạnh của các DNBH qua một thời gian hoạt động. 2.1.3. Sự quan tâm của các cơ quan, nhà nước. - Đảng và nhà nước đang ngày càng đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Do vậy hầu hết các dự án đều có sự hỗ trợ một phần của ngân sách nhà nước. Tuy nhiên sự trợ cấp của nhà nước sẽ giảm dần. Sự trợ cấp của nhà nước càng giảm thì sự lo lắng thiên tai, tai nạn xảy ra bất ngờ dẫn đến người ta phải nghĩ tới Bảo hiểm. - Các cơ quan, các cấp và nhà nước đều hiểu rõ tác dụng của bảo hiểm đối với toàn xã hội nên sẽ luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các DNBH hoạt động triển khai bảo hiểm. - Pháp luật ngày càng hoàn thiện và mang tính tương thích với nhau nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức, người tiêu dùng. Luật đầu tư nước ngoài mới được ban hành tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước đầu tư vào thị trường Việt Nam. - Luật đầu tư và luật doanh nghiệp đều quy định các doanh nghiệp mua bảo hiểm theo quy định của pháp luật, trong đó có quy định các tổ chức tư vấn xây lắp, nhà thầu xây dựng mua bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc cho các sản phẩm, vật tư, thiết bị nhà xưởng, tai nan lao động đối với người lao động, trách nhiệm dân sự đối với người thứ 3 trong thời gian thi công công trình. 2.1.4. Trình độ của khai thác viên bảo hiểm Với vai trò quan trọng của hoạt động khai thác trong quá trình triển khai bảo hiểm, hiện nay các DNBH hầu hết đang tập trung đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ của khai thác viên bảo hiểm đáp ứng mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. 2.1.5. Thuận lợi từ bản thân PTI và kênh bán hàng qua VNPost - PTI nhận được sự hỗ trợ hết sức đắc lực từ phía tập đoàn VNPT, có thể nói đây là một lợi thế mà không phải doanh nghiệp nào cũng có. - PTI có một đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm trong việc khai thác, đánh giá và quản lý rủi ro, đồng thời có một quy trình làm việc hết sức khoa học, nghiêm túc. Điều này được các khách hàng đánh giá rất cao. Mặt khác, công ty cũng hết sức chú ý đến việc thu hút, bồi dưỡng nguồn nhân lực trẻ. Trong tương lai không xa, đội ngũ kế cận này sẽ làm chủ các quy trình nghiệp vụ và đưa PTI tiến xa hơn nữa. - Sau năm 2008 triển khai “Đề án bán lẻ sản phẩm bảo hiểm PTI qua mạng bưu chính” đã thu được nhiều thành công qua kênh bán hàng này, và trong tương lai kênh phân phối VNPost còn không ngừng phát triển. 2.2. Khó khăn 2.2.1. Mức độ cạnh tranh Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới tạo ra cả cơ hội và thách thức cho các DNBH. Tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt, đặc biệt là: DNBH hoạt động ở nước ngoài. Việc xuất hiện thêm các DNBH của các ngành kinh tế lớn dẫn đến việc phân chia thị trường tương đối rõ nét và gia tăng cạnh tranh. Bên cạnh đó, việc gia nhập thị trường của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tạo thêm sức ép cạnh tranh rất lớn cho PTI. Bên cạnh đó thì các DNBH trong nước cũng đang cạnh tranh quyết liệt hơn. Các hình thức cạnh tranh là không lành mạnh, phi kỹ thuật làm ảnh hưởng lâu dài đến DNBH. Ví dụ như phí BH trên thị trường BHVN hiện nay được hình thành chủ yếu qua con đường cạnh tranh hạ phí mà không quan tâm đến đối tượng BH như thế nào, mức độ rủi ro ra sao. 2.2.2. Phí bảo hiểm và các chi phí khác - Việc giảm phí, tăng hoa hồng khai thác, điều kiện bảo hiểm mở rộng đi ngược với trào lưu chung của quốc tế dẫn đến ảnh hưởng tới việc tái tục các hợp đồng tái bảo hiểm làm mất ổn định hoạt động kinh doanh. - Ngoài phí bảo hiểm DNBH còn phải có một số khoản chi khác trong khâu khai thác đang tăng lên như: chi hoa hồng khai thác( theo quy định của BTC 15% đối với môi giới, 5%: đại lý), chi giao dịch( chi phí cấp đơn bảo hiểm, chi đánh giá rủi ro), và các chi phí khác. 2.2.3. Khai thác viên bảo hiểm - Ở một số doanh nghiệp do điều kiện nên khai thác viên bảo hiểm không được đào tạo. Hiện nay các doanh nghiệp đều gặp khó khăn khi trình độ khai thác viên bảo hiểm còn thấp, chưa đánh giá được các rủi ro cho đối tượng bảo hiểm. - Các công ty sử dụng những cán bộ nhân viên không có nghiệp vụ bảo hiểm hay thực hiện chế độ khoán doanh thu phí bảo hiểm cho các chi nhánh, phòng bảo hiểm khu vực hay đại lý. Để đạt chỉ tiêu được giao khoán, các bộ phận này buộc phải chạy theo doanh số, không đánh giá, khảo sát rủi ro, bán sản phẩm bảo hiểm bằng mọi giá. Bên cạnh đó còn có 1 số khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động khai thác như: - Thị trường bảo hiểm Việt Nam tuy tăng trưởng, nhưng lại không đồng đều, tăng mạnh ở nghiệp vụ bảo hiểm như ôtô, xe máy, tai nạn con người… Phí các nghiệp vụ có tái bảo hiểm nhìn chung có xu hướng giảm phí do cạnh tranh trong và ngoài nước. Tất cả những yếu tố này ít nhiều tác động trực tiếp lên hoạt động của ngành bảo hiểm nói chung, bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng, trong đó có PTI. - Điều kiện thời tiết khí hậu không ổn định, tình hình thiên tai, lũ lụt xảy ra ngày một nhiều và ở quy mô rộng hơn. 2.2.4. Xuất phát từ bản thân PTI. - Một số cán bộ tại các phòng nghiệp vụ trên công ty chưa từng tham gia công tác khai thác nên thiếu kinh nghiệm thực tế từ đó ảnh hưởng đến việc hướng dẫn, chỉ đạo các chi nhánh triển khai hoạt động kinh doanh cũng như chuyên môn. - Chương trình quảng cáo, quảng bá hình ảnh chưa tương xứng với vị thế và tham vọng của PTI. Công tác chăm sóc khách hàng còn chưa được chuẩn hóa từ đó làm giảm khả năng cạnh tranh dẫn tới thu hẹp thị trường. - Việc triển khai hệ thống phần mềm quản lý còn chậm, chưa đồng bộ nên đã gây nhiều sức ép và khó khăn cho công tác kế toán, thống kê, báo cáo, theo dõi số liệu của đơn vị, đặc biệt đối với việc bán hàng qua hệ thống bưu cục VNPost. III. Một số kiến nghị đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới 3.1. Đối với khâu khai thác Khai thác bảo hiểm là khâu quan trọng nhất vì thế để nâng cao hiệu quả kinh doanh của một nghiệp vụ bảo hiểm thì trước hết phải làm tốt khâu này.Một DNBH không thể tồn tại nếu như không có khách hàng. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là mảng giàu tiềm năng,đào tạo ít và đầu tư nhỏ ,dễ dành được khách hàng và hợp đồng bảo hiểm. Đây cũng chính là lý do mà nhiều DNBH mới đi vào hoạt động đến chiếm lĩnh thị trường này.Thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm vì thế mà cũng bị chia nhỏ đi khi càng có nhiều DNBH tham gia. Đứng trước sức ép này để nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm vật chất xe cơ giới thì trước hết PTI cần phải nâng cao hiệu quả của khâu khai thác.Vì thế PTI cần: Thứ nhất: Tăng cường công tác quảng cáo sản phẩm đến khách hàng, có như vậy khách hàng mới có thể biết đến sản phẩm sau đó mới có thể tham gia. Từ trước đến nay việc quảng cáo sản phẩm bảo hiểm hầu như chỉ được sử dụng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, còn trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ thì rất ít hoặc hầu như là không có. Quảng cáo là một công cụ hữu ích cung cấp cho khách hàng những thông tin cần thiết về sản phẩm, sự cần thiết của việc tham gia bảo hiểm, đối với những người chưa biết đến công ty thì thông qua quảng cáo công ty còn có thể giới thiệu hình ảnh của mình. Có thể nói quảng cáo là công cụ mang đến hiệu quả cao, bên cạnh những khách hàng truyền thống, công ty còn có sự tham gia của khách hàng tiềm năng. Quảng cáo là một công cụ truyền thông và đem lại hiệu quả vì công ty có thể sử dụng nhiều loại hình khác nhau để quảng cáo sản phẩm của mình: Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như:truyền hình,đài phát thanh, báo chí…thông qua các phương tiện này công ty có thể tuyên truyền,phổ biến kiến thức bảo hiểm cho người dân,tầm quan trọng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới như thế nào. Thông qua các phương tiện ngoài trời như:các pano quảng cáo,áp phích… Thông qua mạng internet:Đây là phương tiện mà hầu hết các DNBH sử dụng nhằm giới thiệu hình ảnh của công ty cũng như sản phẩm bảo hiểm đến với khách hàng.. Thứ hai:Nâng cao năng lực khai thác của đại lý bảo hiểm Đối với một doanh DNBH bảo hiểm thì đại lý là lực lượng tiếp thị có hiệu quả nhất,giúp DNBH bán sản phẩm. Đại lý thay mặt cho DNBH giải thích cho khách hàng tiềm năng về những điều mà họ chưa biết hay chưa rõ về sản phẩm cũng như thương hiệu của doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra, đại lý là người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng tiếp nhận các thông tin phản hồi từ khách hàng cho nên những đóng góp của họ về các vấn đề như chính sách sản phẩm, phát hành và quản lý hợp đồng rất có giá trị đối với DNBH , giúp doanh nghiệp có những điều chỉnh kịp thời để nâng cao tính cạnh tranh của mình.Vì thế, đại lý đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với bất kỳ DNBH nào khi muốn nâng cao hiệu quả khai thác. Hiện nay, thực trạng chung của toàn thị trường chứ không chỉ riêng PTI là số lượng đại lý chuyên nghiệp về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới còn ít, trình độ chuyên môn và kỹ năng bán hàng còn yếu.Vì thế, để nâng cao năng lực khai thác của đại lý bảo hiểm, PTI cần phải nâng cao hơn nữa công tác tuyển dụng đại lý,đào tạo đại lý vừa có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng bán hàng vừa có đạo đức nghề nghiệp, tránh tình trạng gian lận bảo hiểm, đại lý cấu kết với khách hàng trục lợi bảo hiểm. Là một kênh khai thác chủ yếu của công ty do đó công ty cũng cần có những chính sách hỗ trợ đại lý để khuyến khích nâng cao hiệu quả hoạt động của đại lý cũng như lòng trung thành đối với công ty như: có chính sách khen thưởng,chính sách hỗ trợ trong khâu bán hàng, tăng hoa hồng cho những đại lý hoàn thành tốt công việc khai thác được những hợp đồng bảo hiểm có giá trị cao. Bên cạnh đó, các đại lý của công ty cũng cần phải nắm bắt công nghệ mới, đặc biệt là sử dụng hệ thống máy tính di động để phục vụ cho quá trình tương tác với khách hàng và cho phép tiếp cận rộng hơn các sản phẩm và dịch vụ. Thứ ba: Hợp tác với các cơ quan chức năng như bộ giao thông vận tải, cục thống kê để có thể biết được số xe đang tham gia lưu thông, từ đó xác định thị trường tiềm năng, kịp thời đưa ra các chính sách để tăng số xe tham gia bảo hiểm tại công ty. Thứ tư: Cùng với việc tổ chức đào tạo các kỹ năng nghiệp vụ cho đại lý,công ty cũng cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nhân viên trong công ty. Là một sản phẩm trừu tượng, nên trong quá trình hoạt động kinh doanh gặp không ít khó khăn, vì vậy công ty cần có đội ngũ lao động có năng lực chuyên môn cao về bảo hiểm xe cơ giới để có thể tiếp cận được khách hàng một cách dễ dàng. Công ty có thể tổ chức các lớp học ngắn hạn mời các chuyên gia trong lĩnh vực xe cơ giới để nâng cao trình độ cho cán bộ nhân viên của mình. Thứ năm: Công ty cần phải nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin vào quá trình khai thác và quản lý hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả khai thác cũng như hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ. Trong xu thế thương mại điện tử ngày càng phát triển như hiện nay việc bán hàng trực tuyến thông qua mạng ngày càng phát triển, đặc biệt là đối với nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, hiện nay đã có nhiều công ty triển khai hình thức bán hàng trực tuyến qua mạng cho phép khách hàng đăng ký mua bảo hiểm cũng như thanh toán trực tuyến. Đây là giải pháp tốt để thay đổi cách thức tiếp thị và bán sản phẩm và dịch vụ bảo hiểm mới, là phương thức có hiệu quả mà công ty cần quan tâm triển khai nhằm đón thời cơ mới trong tương lai. Thứ sáu: Nhanh chóng đa dạng hóa các kênh phân phối bảo hiểm theo nhiều hình thức khác nhau. Một trong các biện pháp thường gặp hiện nay ở các DNBH đối với nghiệp vụ BHVCXCG là tiến hành thông qua các tổ chức tài chính, các ngân hàng, các hãng bán xe ô tô, các showroom và các đại lý ủy quyền. Thông qua đó công ty có cơ hội tiếp cận với đông đảo các khách hàng giàu tiềm năng với khả năng tài chính cao và nhu cầu lớn. Bên cạnh đó việc tiếp cận khách hàng bằng thư trực tiếp hoặc thông qua mạng internet cũng có thể mang lại hiệu quả cao, với sức mạnh của internet khách hàng có thể tìm thấy sản phẩm một cách dễ dàng. Thứ bảy: Tham gia tài trợ cho một số chương trình như cuộc thi lái xe giỏi, lái xe an toàn do Bộ giao thông vận tải tổ chức hàng năm. Hoặc tổ chức tuyên truyền, phổ biến kiến thức bảo hiểm cho người dân. Đây là một việc làm hết sức có ý nghĩa, bởi ở nước ta hiện nay nhận thức của người dân về sự cần thiết của bảo hiểm đối với nền kinh tế,c ũng như đối với đời sống xã hội còn hạn chế.Thông qua các chương trình này công ty có thể nâng cao hiểu biết của người dân về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng, đồng thời xây dựng được hình ảnh của công ty đối với những khách hàng tiềm năng. Thứ tám: Nâng cao hơn nữa công tác dịch vụ,chăm sóc khách hàng. Duy trì mối quan hệ tốt với khách hàng, coi khách hàng là trung tâm mọi hoạt động của công ty. PTI nên bố trí nhân sự và thời gian tiếp khách một cách hợp lý để có thể đáp ứng mọi thông tin, thắc mắc, khiếu nại cũng như góp ý của khách hàng để điều chỉnh kịp thời và phù hợp những tồn tại còn mắc phải, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Có như vậy mới có thể giữ lại được những khách hàng truyền thống, đồng thời khai thác được cả những khách hàng tiềm năng. 3.2.Đối với khâu giám định, bồi thường tổn thất 3.2.1. Đối với công tác giám định Giám định tổn thất là việc làm của chuyên viên giám định thuộc công ty bảo hiểm hoặc cũng có thể thuê chuyên gia giám định bên ngoài được sự đồng ý của công ty bảo hiểm và người tham gia, nhằm xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất làm cơ sở cho việc bồi thường đồng thời thông qua giám định kịp thời đề xuất các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất. Giám định tổn thất được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ nhằm tiến hành đánh giá, giám định tổn thất cho thiệt hại của xe cơ giới một cách chính xác và phải đảm bảo quyền lợi của cả hai bên. Để nâng cao hiệu quả của khâu này trước hết PTI cần phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của người giám định viên. Bởi, một người giám định có trình độ và kinh nghiệm sẽ nhanh chóng đánh giá một cách chính xác các nguyên nhân, mức độ thiệt hại tại hiện trường giám định, làm các thủ tục cần thiết liên qua đến đòi người thứ ba bồi thường từ đó tính toán số tiền bồi thường cho khách hàng một cách chính xác, đảm bảo quyền lợi của cả người tham gia và doanh nghiệp bảo hiểm. Bên cạnh đó nâng cao trình độ và đạo đức nghề nghiệp của giám định viên còn có thể giúp công ty giảm tình trạng trục lợi bảo hiểm gây thiệt hại cho công ty. Tình trạng cạnh tranh trên thị trường BHVCXCG diễn ra ngày càng gay gắt khi có sự tham gia của 29 DNBH phi nhân thọ vì vậy nâng cao chất lượng giám định rất quan trọng nhằm tạo niềm tin đối với khách hàng. Vì vậy, công ty cần phải tổ chức các chương trình đào tạo nâng cao kiến thức chuyên môn của giám định viên,tạo ra môi trường thuận lợi và có các chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với những người giám định giỏi, có kinh nghiệm để họ có thể phát huy hết khả năng của mình,làm việc lâu dài với công ty. Bên cạnh đó, công ty cũng cần phải có các chính sách phù hợp để thu hút đội ngũ giám định giỏi, năng động, có lòng nhiệt tình đối với công ty. Muốn vậy PTI cần phải có chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong công ty theo 2 điều kiện: “cần” đó là “môi trường làm việc tốt” và “đủ” là “ thu nhập tương xứng với thành quả lao động”. Có như vậy mới có thể đảm bảo cho công ty thu hút được những cán bộ có đạo đức tốt,tư duy và kinh nghiệm tốt sẵn sàng phục vụ và cống hiến lâu dài cho công ty. Thứ hai: Tăng cường đội ngũ giám định viên bảo hiểm. Với thị trường khai thác bảo hiểm là các tỉnh phía Bắc, đây là thị trường rộng lớn và nằm gần Hà Nội do đó tiềm năng về BHVCXCG của công ty là rất lớn, mặt khác tình hình tai nạn ngày một tăng lên do đó nhu cầu về giám định tại công ty ngày càng tăng đòi hỏi phải có đội ngũ giám định bảo hiểm đông đảo để kịp thời đáp ứng nhu cầu trong công việc. Vì công tác giám định thì cần phải được tiến hành nhanh chóng, thì mới có thể đem lại kết quả chính xác và có thể giảm thiểu tránh được hiện tượng trục lợi bảo hiểm từ phía người tham gia. Bên cạnh đó, sự có mặt kịp thời nhân viên giám định có thể giúp chủ xe đưa ra những biện pháp giảm thiểu tổn thất trước mắt và thực hiện những công việc cần thiết cho công tác bồi thường sau này từ đó sẽ tạo hình ảnh đẹp cho công ty, tăng uy tín của công ty trong khâu chăm sóc khách hàng sau bán hàng,tạo được sự tin tưởng của khách hàng đối với công ty. Thứ ba: Các phương tiện cần thiết cho công tác giám định cần phải được trang bị đầy đủ.Công ty cũng nên ứng dụng các công nghệ hiện đại phục vụ cho công tác giám định được một cách nhanh chóng, chính xác. Là một giám định viên thì trước hết cần phải được chuẩn bị đầy đủ các công cụ cần thiết phục vụ cho công tác giám định như: phương tiên đi lại, điện thoại, máy ảnh, máy vi tính…đây là các phương tiện để phục vụ cho công tác giám định, trong đó điện thoại và máy ảnh là hai phương tiên bắt buộc phải có đối với bất kỳ một giám dịnh viên nào, điện thoại - là phương tiện dùng để liên lạc với khách hàng, với công ty, còn máy ảnh dùng để ghi lại hiện trường vụ tai nạn để từ đó có thể xác định chính xác nguyên nhân gây tai nạn và thiệt hại thực tế, làm cơ sở cho công tác bồi thường sau này. 3.2.2. Đối với công tác bồi thường Khắc phục hậu quả hay bồi thường cho người tham gia bảo hiểm là khâu cuối cùng trong quá trình bán sản phẩm của nhà bảo hiểm. Đây là việc thực hiện cam kết bồi thường bảo hiểm của nhà bảo hiểm, thể hiện rõ vai trò quan trọng của bảo hiểm. Vì thế, đây chính là khâu mà cả khách hàng và DNBH quan tâm nhất. Đối với DNBH đây chính là cơ hội để nâng cao uy tín, hình ảnh của mình trong mắt khách hàng. Đối với khách hàng, việc họ đóng phí bảo hiểm là để mua lấy sự yên tâm trong công việc, chia sẻ những lo ngại về rủi ro có thể xảy ra trong cuộc sống, vì thế khi xảy ra sự cố không mong muốn, họ muốn được DNBH chia sẻ điều này với họ. Do đó, làm tốt công tác bồi thường cũng là một cách để công ty có thể chia sẻ rủi ro với khách hàng. Cũng như trong công tác giám định, công tác bồi thường cũng cần phải trải tiến hành theo một trình tự nhất định: Mở hồ sơ khách hàng Xác định số tiền bồi thường Thông báo bồi thường Truy đòi người thứ ba Về phía người tham gia, khi xảy ra sự cố gây thiệt hại về người và của, họ muốn nhanh chóng nhận được sự hỗ trợ về tài chính từ phía công ty bảo hiểm để nhanh chóng ổn định sản xuất kinh doanh cũng như cuộc sống của mình, tuy nhiên với tâm lý ngại chờ đợi, với các thủ tục hành chính bồi thường rườm rà đã tạo ra sự khó chịu cho người sử dụng bảo hiểm, khiến cho họ có cảm giác không tin tưởng vào việc sẽ được công ty bồi thường thỏa đáng cho dù đây là quyền lợi chính đáng của họ.Vì vậy, công ty cần phải cải cách hành chính, đơn giản hóa các thủ tục trong khâu giám định và bồi thường, tránh tình trạng bắt khách hàng phải đợi quá lâu mới nhận được tiền bồi thường. Thông thường đối với mỗi vụ tổn thất thời gian giải quyết bồi thường của công ty là 15 ngày và có thể kéo dài lâu hơn đã dẫn đến sự mất tin tưởng của khách hàng đối với công ty. Để khâu giải quyết bồi thường không còn tâm lý ngại chờ đợi đối với người tham gia bảo hiểm, giúp họ tiết kiệm thời gian cũng như ổn định cuộc sống, ổn định sản xuất kinh doanh PTI nên rút ngắn thời gian giải quyết bồi thường của mình xuống còn 3-4 ngày đối với trường hợp nhẹ và không liên quan đến trách nhiệm dân sự của bên thứ ba còn đối với những trường hợp nặng hơn thì có thể tùy theo thời gian giám định sớm nhất của garage, của các chuyên viên giám định. Ngoài ra, để giải quyết các vụ khiếu nại một cách nhanh chóng, chính xác , khách quan, cần phải nâng cao chất lượng của đội ngũ giám định viên , nâng cao cả trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần, trách nhiệm phục vụ khách hàng và đạo đức nghề nghiệp. Công ty có thể tổ chức các chương trình tập huấn nhằm nâng cao kiến thức nghiệp vụ , hoặc mời các chuyên gia nước ngoài về nói chuyện,chia sẻ kinh nghiệm để các giám định viên của công ty có cơ hội tiếp thu kinh nghiệm của các nước phát triển. Để người giám định vừa có trình độ , vừa nhiệt tình với công việc của mình cũng cần phải có những chính sách đãi ngộ thích đáng cho những giám định giỏi, có chính sách lương,thưởng hợp lý, tạo môi trường thuận lợi có nhiều cơ hội thăng tiến và có thể phát huy hết khả năng của người giám định. Mặt khác, công ty nên thiết lập mối quan hệ lâu dài với các xưởng sửa chữa để bồi thường chính xác và đáp ứng nhu cầu tối đa của khách hàng. Phối hợp với các cơ quan chức năng để tiến hành giám định một cách nhanh chóng và cũng phải có sự phối hợp giữa các phòng ban trong công ty với nhau để giúp nhân viên giám định thu thập hồ sơ một cách dễ dàng, nhanh chóng. 3.2.3.Đối với khâu đề phòng hạn chế tổn thất Vai trò của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng không chỉ dừng lại ở việc bồi thường tổn thất, khắc phục hậu quả tai nạn mà còn thể hiện rất rõ trong việc đề phòng và hạn chế tổn thất, giảm thiểu tai nạn giao thông. Nếu như tăng doanh thu ,mở rộng địa bàn và giải quyết bồi thường kịp thời để khách hàng nhanh chóng ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống là những mục tiêu mà PTI luôn đặt lên hàng đầu thì đề phòng và hạn chế tổn thất trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới cũng được công ty quan tâm đích đáng. Đặc điểm của xe cơ giới là có địa bàn hoạt động rộng, tính cơ động, việt dã cao, tham gia vào quá trình vận tải ,xe cơ giới có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế tuy nhiên đây cũng là phương tiện dễ xảy ra tai nạn gây ra thiệt hại khôn lường không chỉ đối với nền kinh tế mà còn đối với cả xã hội. Đối với DNBH thực hiện đề phòng hạn chế tổn thất nghĩa là đã giúp doanh nghiệp giảm chi bồi thường, tăng lợi nhuận, đáp ứng được yêu cầu của hách hàng và thực hiện được các công tác xã hội,nhân đạo của doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên việc thực hiện đề phòng , hạn chế tổn thất sẽ gặp không ít khó khăn nếu như các DNBH triển khai độc lập.Vì thế để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các công ty bảo hiểm với nhau, cùng thực hiện những dự án mang tầm cỡ quốc gia:phát hành tờ rơi tuyên truyền bảo hiểm xe cơ giới, xây dựng các biển báo đề phòng tai nạn, các đường lánh nạn, các hàng rào đảm bảo an toàn giao thông… Do đó PTI cần phải tăng cường hợp tác, trao đổi thông tin với các DNBH khác để thực hiện tốt những chương trình có hiệu quả này. Bên cạnh việc xây dựng các công trình phòng chống tai nạn, công ty nên phối hợp với ngành giao thông vận tải để làm tốt hơn nữa công tác đề phòng và hạn chế tổn thất bởi vì xe cơ gới chịu sự quản lý của nhiều cơ quan chức năng khác nhau trong đó phải kể đến trước tiên là ngành giao thông vận tải và chịu sự chi phối của luật giao thông đường bộ. Do đó PTI cũng nên có sự hợp tác với cảnh sát giao thông tuyên truyền người tham gia giao thông tích cực thực hiện các quy định của pháp luật. Việc thực hiện công tác này không thể từ một phía là DNBH mà cần phải có sự tham gia của cả người tham gia bảo hiểm, công ty cần hướng dẫn, phân tích và tư vấn cho khách hàng trong công tác quản lý rủi ro để họ có thể tự đề phòng rủi ro. KẾT LUẬN Tuy không phải là nghiệp vụ chủ đạo của PTI song với những kết quả đạt được trong thời gian qua chứng tỏ BHVCXCG đã và đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong sự phát triển của công ty.Với thị trường khai thác rộng lớn nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới của PTI ngày càng có nhiều cơ hội phát triển trở thành nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của công ty với hiệu quả kinh doanh ngày càng cao.Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt không chỉ PTI mà cả các DNBH phi nhân thọ khác trên thị trường bảo hiểm Việt Nam trước những thời cơ và thách thức mới khi có sự tham gia của các DNBH nước ngoài đã được phép cung cấp nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, tình trạng cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm xe cơ giới diễn ra ngày càng gay gắt, các giải pháp nhằm tăng doanh thu của nghiệp vụ này đều được các DNBH triển khai triệt để. Trước tình hình đó đòi hỏi PTI cần chủ động hơn nữa trong công tác nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, hiệu quả của các khâu công việc, ngoài ra cần nâng cao trình độ chuyên môn của các đại lý, mở rộng mạng lưới bán hàng của mình qua kênh VNPost…để có thể cạnh tranh có hiệu quả với các DNBH phi nhân thọ trong và ngoài nước, tạo cơ sở nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm vật chất xe cơ giới của công ty. Trong thời gian qua nhờ sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của cô giáo T.S Phạm Thị Định, cũng như các anh chị trong công ty Bảo hiểm Bưu điện, em đã hoàn thành đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty Bảo hiểm Bưu điện”. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bài giảng kinh tế Bảo hiểm của PGS.TS Nguyễn Văn Định TS.Nguyễn Văn Định,2005,Giáo trình kinh tế Bảo hiểm,NXB Thống Kê-Hà Nội. TS.Nguyễn Văn Định,2004,Giáo trình Quản trị kinh doanh Bảo hiểm,NXB Thống Kê-Hà Nội. GSTSKH Trương Mộc Lâm-TS Đoàn Minh Phụng,Giáo trình nghiệp vụ Bảo Hiểm,NXB Tài Chính. Thị trường bảo hiểm Việt Nam 2008,Tạp chí thị trường bảo hiểm-Tái bảo hiểm Việt Nam,số1 tháng02/2009. Các trang web: www.pti.com.vn www.webbaohiem.com.vn www.avi.org.vn DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DNBH: Doanh nghiệp bảo hiểm BH VCXCG: Bảo hiểm vật chất xe cơ giới GTBH: Giá trị bảo hiểm STBH: Số tiền bảo hiểm GT: Giá trị MỤC LỤC DANH MỤC HÌNH, BẢNG BIỂU Bảng 1.2:Biểu phí bảo hiểm toàn bộ xe 18 (trường hợp bồi thường khấu hao thay mới) 18 (trường hợp không tính khấu hao thay mới) 18 Bảng 1.4:Biểu phí bảo hiểm tổng thành thân vỏ 19 Bảng 2.1 Tình hình BHVCXCG trên thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn (2007 – 2009)................................................................................39 Bảng 2.2:Tình hình khai thác bảo hiểm VCXCG tại PTI 43 giai đoạn (2005-2009) 43 Bảng 2.3:Tình hình thực hiện kế hoạch khai thác bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PTI 46 Bảng 2.4:Tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới 47 trong tổng doanh thu phí của toàn công ty 47 Hình 2.1:Tỷ trọng doanh thu phí BHVCXCG 48 Bảng 2.5: Kết quả giám định tai nạn tại PTI giai đoạn (2005-2009) 50 Bảng 2.6: Tình hình bồi thường Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại 53 PTI giai đoạn (2005-2009) 53 Hình 2.2:Biểu đồ biểu diễn số tiền bồi thường và doanh thu phí 54 BHVCXCG giai đoạn 2005-2009 54 Bảng 2.7: Kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ BHVCXCG tại PTI giai đoạn (2005-2009) 59

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26721.doc
Tài liệu liên quan