Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần cơ khí và kết cấu thép Sóc Sơn

Hiện nay cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài đang làm ăn ở Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Một trong những khó khăn thuộc tầm vĩ mô của Nhà nước là thủ tục hành chính cồng kềnh, cửa quyền của các cơ quan quản lý Nhà nước. Chính vì vậy để các doanh nghiệp có thể nắm bắt kịp các cơ hội kinh doanh, em xin đưa ra một kiến nghị là các thủ tục hành chính cần phải đảm bảo gọn nhẹ, thông thoáng tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động nhạy bén hơn. Đây là điều kiện hết sức quan trọng vì ngoài thị trường luôn luôn biến động. Trên đây là một số giải pháp cơ bản và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của CTCP CK&KC Thép Sóc Sơn. Giải pháp này có thể trở thành hiện thực đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực của bản thân Công ty mà của tất cả các cấp, các ngành để tạo ra một bộ mặt mới cho sự phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty.

doc89 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1539 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần cơ khí và kết cấu thép Sóc Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VLĐ cần đầu tư thêm là 2,092,286,558 VNĐ có nghĩa là doanh nghiệp vẫn cần phải tăng VLĐ để tăng doanh thu nhưng đến năm 2009 thì đã thấy sự hiệu quả rõ rệt. Doanh thu năm 2009 tăng 243,444,015,805 VNĐ thì công ty lại giảm được mức VLĐ là 100,454,385 VNĐ. Như vậy chúng ta cũng có thể thấy được hiệu quả rõ rệt từ năm 2009. Năm 2008 mức tiết kiệm tăng là do doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh doanh nhưng đến năm 2009 cũng là việc mở rộng thêm doanh thu theo tỷ lệ đó mà mức VLĐ của doanh nghiệp lại giảm được hơn 100 triệu chứng tỏ doanh nghiệp đang đi vào hoạt động một cách ổn định hơn và có hiệu quả rõ ràng hơn trong việc sử dụng VLĐ. Như vậy có thể nói được rằng năm 2009 doanh nghiệp đã giảm bớt được số VLĐ chiếm dụng mà vẫn đảm bảo được nhiệm vụ sản xuất kinh doanh như cũ. Vì vậy chúng ta thấy rằng tăng tốc độ luân chuyển VLĐ là vô cùng quan trọng, nó còn làm ảnh hưởng tích cực đến việc hạ giá thành và giảm bớt phí lưu thông. Vì vậy doanh nghiệp càng tiết kiệm được mức tăng vốn bao nhiêu thì càng hiệu quả bấy nhiêu trong việc sử dụng VLĐ. Đối với chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho và thời gian một vòng quay. Năm 2007 vòng quay hàng tồn kho là tăng cao rồi lại giảm qua các năm. Con số tăng thể hiện một cách khả quan hơn trong việc sử dụng hàng tồn kho. Như phân tích trên ta thấy rằng hàng tồn kho tăng cao qua các năm nhưng theo 2 chỉ tiêu về vòng quay HTK và thời gian 1 vòng quay thì nó lại thể hiện đang có chiều hướng thay đổi rõ rệt trong việc sử dụng HTK của Công ty. Thời gian cho một vòng luôn chuyển HTK càng được rút ngắn năm 2007 là 185 ngày đến năm 2008 còn 169 ngày và 2009 giảm xuống còn 107 ngày. Chứng tỏ rằng việc dự trữ hàng tồn kho của Công ty đang dần có hiệu quả. Do đó số lượng HTK tăng như ở những phân tích có thể giải thích là do mở rộng quy mô sản xuất tăng mạnh, liên tục cùng với đặc tính của sản phẩm mang giá trị lớn nên mới tạo nên con số hàng tồn kho tăng qua các năm. Mặc dù năm 2008 thị trường đầy biến động, giá thép tăng giảm liên tục nhưng có thể nói Công ty đang dần quản lý có hiệu quả HTK. Qua phân tích ta thấy có nhiều chỉ tiêu đánh giá thể hiện sự không hiệu quả nhưng nó cũng thể hiện một phần nào đó sự nỗ lực thay đổi các con số của Công ty năm 2009, thời kì sau khủng hoảng với năm 2008. Chúng ta cũng thấy được phần nào sự quyết tâm của ban lãnh đạo trong Công ty trong việc chủ động khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng, khắc phục khó khăn trong thời gian hiện tại cũng như trong tương lai. Những kết quả trên không phải một sớm một chiều mà làm được mà nó là cả một quá trình phần đấu của ban lãnh đạo cùng toàn thể công nhân viên trong Công ty, vì vậy với sự đồng lòng và quyết tâm, ban lãnh đạo đã quyết tâm để làm sao hiệu quả sử dụng vốn, VLĐ, VCSH càng cao hơn nữa, để đưa Công ty lên một tầm cao mới, có vị thế trên thị trường. 3.3 Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty cổ phần cơ khí và kết cấu thép Sóc Sơn Sau khi phân tích, đánh giá tình hình sử dụng vốn lưu động của Công ty. Bên cạnh những thành tựu công ty vẫn còn tồn tại những khó khăn. 3.3.1 Thành tựu Mặc dù mới thành lập trong thời gian chưa lâu và cơ sở vật chất ban đầu còn rất sơ sài, nhưng CTCP CK&KKC Thép Sóc Sơn đã có một sự nỗ lực rất lớn về mọi mặt trong hoạt động kinh doanh. Công ty đã không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm kiếm khách hàng mới, thị trường mới để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. Song song đó là các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giữ quan hệ tốt với khách hàng truyền thống. Như những năm trước đây thì thị trường tiêu thụ sản phẩm chỉ trong phạm vi Miền Bắc thì từ năm 2007 đến nay công ty đã mở rộng thị trường trên toàn quốc, thậm chí còn xuất khẩu ra nước ngoài, mặc dù ít nhưng cũng thể hiện sự nỗ lực rất lớn của Công ty trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, góp phần thúc đẩy vòng quay VLĐ, giảm lượng hàng hóa tồn kho. Doanh thu của doanh nghiệp năm 2008 đã tăng 287,552,704,405 VNĐ, với tốc độ tăng lớn là 120.60 % so với năm 2007. Và năm 2009 doanh thu là 769,437,843,346 VNĐ tăng 46.3% so với năm 2008. Điều đó cho thấy quy mô của công ty ngày càng mở rộng. Đơn vị đóng tại xã Phủ Lỗ - huyện Sóc Sơn –Hà Nội, nằm trên trục đường chính quốc lộ 3. Địa điểm đó đã tạo điều kiện cho công tác vận chuyển nguyên vật liệu và thành phẩm đi tiêu thụ. Bên cạnh đó vị trí này có lượng xe cộ đi lại nhiều thuận lợi cho hoạt động bán xăng dầu của doanh nghiệp. Tình hình nhân sự của công ty đang dần đi vào ổn định, luôn coi trọng người tài do vậy có được đội ngũ ban lãnh đạo tâm huyết, gắn bó với công ty và không ngừng cố gắng để nâng cao trình độ của mình phục vụ cho lợi ích chung của công ty. Lợi nhuận của công ty đạt được qua các năm ngày một tăng, đây là điều kiện để công ty có thể mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đảm bảo công việc và mức thu nhập cho công nhân viên.Và doanh thu, lợi nhuận tăng lên thì hiệu quả sử dụng VLĐ cũng tăng. Nguồn vốn chủ sở hữu, quản lý HTK ngày càng có hiệu quả. 3.3.2 Những tồn tại Bên cạnh những thuận lợi trên, hiện nay Công ty đang phải đối mặt với những khó khăn và tồn tại sau: Về công tác huy động vốn: Trong điều kiện phải tự lo liệu về vốn, Công ty phải huy động bổ sung nhiều từ nguồn vốn bên ngoài. Hàng năm, Công ty phải vay ngắn hạn ngân hàng với một lượng khá lớn để bù đắp cho phần vốn bị thiếu hụt. Được thể hiện rất rõ qua (Bảng 3.2: Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh) với mức chi phí lãi vay 2008 so với năm 2007 tăng 19,017,745,032 VNĐ tương ứng tăng 343% thì đến năm 2009 chi phí lãi vay đã giảm xuống 11,621,253,884 VNĐ, tương ứng giảm 47.3% so với năm 2008. Chính vì chi phí cho việc sử dụng vốn là rất lớn, nó đã ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của công ty. Năm 2008 chi phí lãi vay cao, làm cho lợi nhuận năm 2008 chỉ tăng 3.5% so với năm 2007 thì đến 2009, do chi phí lãi vay giảm nên lợi nhuận đã tăng cao 109.2% so với năm 2008. Kết quả trên thể hiện được rằng công ty đã có quan tâm chú ý đến việc sử dụng vốn lưu động làm sao cho hiệu quả hơn để làm tăng lợi nhuận của công ty. Khả năng thanh toán của Công ty là rất kém. Như đã phân tích ở trên do lượng vốn bằng tiền còn quá ít so với nhu cầu, làm cho hệ số khả năng thanh toán nhanh, đặc biệt là khả năng thanh toán tức thời thấp, với hệ số nhỏ hơn 1 rất nhiều, điều này làm cho rủi ro về mất khả năng thanh toán tăng cao. Nếu cùng một lúc phải thanh toán các khoản nợ đến hạn, công ty có thể lâm vào tình trạng khó khăn. Sở dĩ như vậy là do công ty chưa xác định được lượng vốn bằng tiền phù hợp. Do vậy cần quan tâm hơn nữa đến công tác quản lý vốn bằng tiền. Bộ phận vốn trong thanh toán còn lớn và có xu hướng tăng. Các khoản phải thu ngắn hạn đang tăng lên với tốc độ cao qua các năm. Điều này có nghĩa là VLĐ của Công ty bị chiếm dụng ngày càng nhiều.VLĐ bị chiếm dụng dù chỉ trong thời gian ngắn cũng ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả sử dụng nó và từ đó làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của Công ty, điều này chứng tỏ Công ty chưa quản lý tốt công tác thu hồi nợ. Mức dự trữ hàng hóa là không tối ưu làm cho vốn vật tư hàng hóa bị ứ đọng, chậm luân chuyển, mặt khác hàng tồn kho lại chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu VLĐ. Tình trạng này đẫn đến việc tăng chi phí bảo quản, giảm chất lượng của nguyên vật liệu và sản phẩm. Nó làm hạn chế hiệu quả sử dụng VLĐ của Công ty. Theo những phân tích tổng hợp ở trên, ta đưa ra một kết luận rằng việc phân bổ VLĐ của doanh nghiệp là không hợp lý, đây là mặt hạn chế mà công ty cần thiết phải khắc phục kịp thời. Như vậy, công tác tổ chức, quản lý và sử dụng VLĐ của công ty trong thời gian qua đã có những cố gắng to lớn và đạt được một số kết quả nhất định. Song những khó khăn thì rất nhiều, sai lầm và hạn chế là điều không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, công ty cần đề ra những biện pháp tích cực nhằm phát huy những mặt tốt và hạn chế những tồn tại, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ hơn nữa. CHƯƠNG IV: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CƠ KHÍ VÀ KẾT CẤU THÉP SÓC SƠN Hoạt động kinh tế thị trường đầy biến động và cạnh tranh gay gắt, cùng với những tồn tại và khó khăn riêng của công ty đã khiến cho đồng VLĐ bỏ vào kinh doanh không đem lại hiệu quả như mong muốn. Xuất phát từ thực tế đó, dựa trên việc phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, căn cứ vào những thuận lợi và khó khăn và những yếu tố khác của thị trường mang lại, đồng thời đánh giá ưu nhược điểm trong quá trình sử dụng VLĐ của công ty trong thời gian qua và phương hướng phát triển trong những năm tới, kết hợp với những kiến thức đã tích lũy trong quá trình học tập, nghiên cứu, em xin đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty như sau: 4.1 Chủ động trong việc xác định nhu cầu vốn lưu động Phân tích ta thấy rằng cơ cấu nguồn VLĐ phân bổ là không hợp lý, VLĐ trong khâu dự trữ, trong thanh toán là quá lớn, trong khi đó lượng vốn bằng tiền là quá ít, gây ứ đọng vốn, làm mất khả năng thanh toán. Hơn nữa nguồn vốn sẵn có của công ty là rất hạn chế. Năm 2008 chiếm 20.3% và đến năm 2009 thì chỉ còn chiếm có 10.6% trong tổng nguồn vốn. Chứng tỏ rằng toàn bộ sự tăng lên của vốn chủ yếu là đi vay. Một tỷ lệ quá nhỏ để có thể phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Chi phí lãi vay cao thể hiện năm 2008 tăng 343% so với năm 2007, đến năm 2009 đã có sự khắc phục nhưng cũng chỉ giảm được 47.3% so với năm 2008. Hơn nữa doanh nghiệp lại có sự tăng trưởng, quy mô hoạt động mở rộng sẽ kéo theo nhu cầu tăng vốn, nên không thể ngừng vay. Do vậy cần phải có chính sách huy động vốn sao cho hợp lý. Việc chủ động xây dựng kế hoạch huy động vốn và sử dụng vốn nói chung VLĐ nói riêng là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ, vốn vay cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để đảm bảo việc xác định nhu cầu VLĐ một cách hợp lý hơn, công ty cần có những biện pháp cụ thể như sau: Tiến hành việc xác định nhu cầu VLĐ cho sản xuất của từng quý, năm gắn với phương hướng, mục tiêu hoạt động của kỳ đó. Vì nếu xác định thừa VLĐ sẽ không khuyến khích Công ty khai thác khả năng tiềm tàng, cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ, gây ra việc ứ đọng vật tư hàng hoá và phát sinh không cần thiết làm tăng giá thành sản phẩm. Còn nếu Công ty xác định lượng VLĐ quá thấp sẽ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thiếu vốn không đảm bảo cho việc sản xuất được liên tục gây những thiệt hại do việc ngừng sản xuất. Vì vậy việc xác định chính xác nhu cầu VLĐ thường xuyên cần thiết để tiếp đó có biện pháp huy động vốn phù hợp, kịp thời, tránh thừa vốn gây lãng phí hoặc thiếu vốn làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của Công ty. Có nhiều biện pháp để xác định nhu cầu VLĐ như: phương pháp hồi quy, phương pháp dựa vào các chỉ tiêu đặc trưng trong bảng cân đối kế toán,… nhưng sử dụng phương pháp tỷ lệ % trên doanh thu được xem là khá đơn giản và phổ biến. Nội dùng của phương pháp này dựa trên doanh thu dự kiến năm kế hoạch để đưa ra biện pháp xác định. Trên có sở nhu cầu cần thiết, công ty cần xác định số vốn thực có của mình, số vốn thiếu, thừa để từ đó có biện pháp tìm kiếm nguồn tài trợ có lợi, đảm bảo cung ứng vốn đầy đủ cho kinh doanh với các chi phí sử dụng vốn nhỏ nhất. Tuy nhiên thì việc xác định chính xác nhu cầu VLĐ là rất khó, khi dựa vào những dự đoán của công ty về doanh thu tiêu thụ, về tỷ suất lợi nhuận và sự ổn định trong kết cấu nguồn vốn, như vậy cần đòi hỏi phải phân tích, nghiên cứu kỹ. Và cũng cần phải phân biệt rõ nhu cầu VLĐ và nhu cầu cần tài trợ. Phân tích chính xác các chỉ tiêu của tài chính của những kì trước, những biến động chủ yếu trong VLĐ, mức chênh lệch giữa kế hoạch và kì thực hiện ở nhu cầu VLĐ các kỳ trước đó. Để làm được điều này công ty cũng cần phải có một đội ngũ nhân viên tài chính có kinh nghiệm, và có năng lực trình độ chuyên môn. Dựa trên nhu cầu huy động VLĐ, xây dựng kế hoạch huy động vốn: Xác định khả năng tài chính hiện tại của Công ty, số vốn còn thiếu, so sánh chi phí hoạt động từ các nguồn tài trợ để lựa chọn kênh huy động phù hợp. Khi lập kế hoạch VLĐ phải căn cứ vào kế hoạch vốn kinh doanh để đảm bảo sự phân bổ phù hợp với tình hình thực tế thông qua tính toán, phân tích cả chỉ tiêu kinh tế, tài chính của kỳ trước cùng với dự đoán về tình hình hoạt động kinh doanh, khả năng tăng trưởng trong năm tới và những dự kiến sự biến động của thị trường. Cần phải xác định rõ định mức cho từng khâu dự trữ: Tiền mặt tồn quỹ là bao nhiêu, hàng tồn kho phải tồn là bao nhiêu, chi phí sản xuất kinh doanh dở dang là bao nhiêu nhằm đẩy nhanh số vòng quay, rút ngắn thời gian dự trữ, giảm mức tồn kho, mức luân chuyển. Một hướng mới cho giải pháp này là việc hình thành một phòng tài chính - dự báo tách biệt với bộ phận kế toán cùng với những nhân viên chuyên ngành để có thể xác định và quản lý VLĐ một cách hiệu quả. 4.2 Tổ chức quản lý hoạt động và huy động vốn một cách hợp lý Có rất nhiều nguồn huy động vốn như vay ngân hàng, vốn liên kết, vốn chiếm dụng... Theo bảng cân đối kế toán cho thấy hầu nguồn hình thành vốn của Công ty là từ nguồn vay ngắn hạn. Vay ngắn hạn của Công ty tăng qua các năm Bảng 3.12 Bảng tỷ trọng vốn vay ngắn hạn và dài hạn từ ngân hàng Chỉ tiêu 2007 2008 2009 Số tiền (VNĐ) Tỷ trọng(%) Số tiền (VNĐ) Tỷ trọng(%) Số tiền (VNĐ) Tỷ trọng(%) VNH NH 111,368,141,866 57.98 84,378,272,491 56 216,376,217,695 63.3 VDH NH 1,436,972,336 0.75 6,165,439,766 4.09 883,805,670 0.25 Tổng Vốn 192,078,332,809 150,663,410,882 341,771,914,635 Vay ngắn hạn ngân hàng chiếm khoảng 50-60% và tăng qua các năm, còn vay dài hạn từ ngân hàng thì lại giảm và chỉ chiếm chưa được 1% trong tổng vốn. Theo như chúng ta biết trong những năm gần đây, đứng trước nhu cầu đòi hỏi về vốn thì đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng. Nhưng công ty cần phải xem xét lại vì Công ty chỉ có thể vay ngắn hạn từ nguồn vay này mà thực tế Công ty lại không thể vay dài hạn với một con số lớn từ nguồn vay này thể hiện trên bảng số liệu trên. Như vậy Công ty cần phải có các giải pháp hiệu quả hơn nữa trong việc vay trung hạn và dài hạn từ nguồn vay này. Giảm bớt vay ngắn hạn mà làm sao chuyển thời gian vay ngắn hạn đó thành vay dài hạn, khi chuyển từ vay ngắn hạn sang vay dài hạn lãi suất vay cũng sẽ thay đổi giảm, như vậy sẽ tiết kiệm được một lượng chi phí, nó giúp cho nguồn vốn của Công ty được ổn định hơn. Để làm được điều này công ty cần phải xây dựng các phương án kinh doanh, các dự án đầu tư khả thi trình lên ngân hàng, đồng thời phải luôn làm ăn có lãi, thanh toán các khoản nợ gốc và lãi đúng hạn để xây dựng lòng tin từ các ngân hàng. Huy động vốn từ nguồn vốn liên doanh, liên kết: là một hình thức hợp tác cùng có lợi làm tăng vốn cho hoạt động kinh doanh của công ty và Công ty cũng tiếp thu được nhiều kinh nghiệm trong hiệu quả quản lý cũng như tiến bộ khoa học kỹ thuật. Thực chất ở Công ty chưa làm được điều này, nhưng đây là một giải pháp cho việc huy động vốn hiệu quả đối với phương hướng trong thời gian tới của công ty là mở rộng kinh doanh trên toàn đất nước. Công ty có thể liên kết với các Công ty kết cấu thép trong miền Trung và miền Nam để nhiều điều kiện thuận lợi cho mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh trên nhiều tỉnh thành trong cả nước. Huy động vốn từ nguồn vốn chiếm dụng thì Công ty cũng đã có thực hiện. Nhưng công ty khi sử dụng phương pháp huy động vốn này cần phải cân nhắc chỉ khi nào chi phí của huy động từ nguồn này thấp hơn chi phí vay ngân hàng thì công ty mới nên dùng, vì không chỉ có như mất phí mà có thể công ty còn bị mất uy tín trong kinh doanh khi nợ đọng quá lâu, dẫn đến mất khách hàng, làm ảnh hưởng tới các mối quan hệ. Theo phân tích trên ta cũng thấy việc sử dụng VCSH đang dần hiệu quả. Năm 2008 là 0.1199 năm 2009 là 0.166 trong khi tỷ trọng VCSH trong tổng vốn lại quá nhỏ năm 2009 chiếm 10.6% trong tổng vốn còn lại chủ yếu là Công ty đi vay. Đó có thể là một phần chưa hợp lý trong việc huy động vốn. Công ty nên tăng cường hơn nữa để huy động nguồn vốn góp thêm từ các cổ đông, để tăng thêm vốn chủ sở hữu. Như vậy sẽ làm hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn, tăng lợi nhuận của Công ty. Còn một giải pháp nữa cho việc tăng VCSH đó là: công ty là công ty cổ phần nhưng chưa niêm yết trên sàn chứng khoán. Như vậy, Công ty cũng có thể niêm yết trên thị trường chứng khoán để huy động vốn. Như vậy để huy động vốn một cách hiệu quả nhất Công ty cần thực hiện các biện pháp sau: Xây dựng chiến lược vốn phù hợp với thực trạng thị trường và môi trường kinh doanh của từng thời kỳ. Tạo niềm tin cho các nơi cung ứng vốn bằng cách nâng cao uy tín của Công ty: ổn định và hợp lý hoá các chỉ tiêu tài chính, thanh toán các khoản nợ đúng hạn. Chứng minh được mục đích sử dụng vốn bằng cách đưa ra kết quả kinh doanh và hiệu quả vòng quay vốn trong năm qua và triển vọng năm tới. Đối với các đối tác sử dụng vốn: Khi thực hiện Công ty cần phải căn cứ vào kế hoạch huy động và sử dụng vốn kinh doanh đã lập làm cơ sở để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế tại Công ty. Nếu phát sinh nhu cầu bất thường, Công ty cần có kế hoạch chủ động cung ứng kịp thời đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra liên tục, tránh tình trạng phải ngừng sản xuất do thiếu vốn kinh doanh. Nếu thừa vốn Công ty cần có các biện pháp xử lý kịp thời nhằm đảm bảo phát huy thế mạnh, khả năng sinh lời của vốn. Để có kế hoạch huy động và sử dụng vốn sát với thực tế, nhất thiết phải dựa vào thực trạng sử dụng vốn trong kỳ và đánh giá điều kiện cũng như xu hướng thay đổi nhu cầu trên thị trường. 4.3 Sử dụng chính sách đòn bẩy tài chính để tạo thêm lợi nhuận cao hơn trên vốn chủ sở hữu Sử dụng đòn bẩy tài chính sẽ tạo ra một thu nhập cố định trên vốn chủ sở hữu của Công ty. Công ty nên sử dụng đòn bẩy tài chính để gia tăng lợi nhuận cho cổ đông thường bằng cách dùng các nguồn vốn có chi phí cố định, phát hành trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi để tạo ra lợi nhuận lớn hơn chi phí trả cho việc huy động vốn có lợi tức cố định trên thị trường chứng khoán đầy sôi động và có xu hướng ngày càng gia tăng thì có thể đảm bảo rằng với giải pháp này sẽ tạo thêm cho Công ty nhiều lợi nhuận hơn trên đồng vốn bỏ ra. 4.4 Khai thác triệt để nguồn vốn tín dụng thương mại, đồng thời tôn trọng kỷ luật thanh toán Như phân tích ở trên ta thấy rằng nợ ngắn hạn của Công ty là rất lớn trong cơ cấu nguồn vốn. Cụ thể năm 2009 chiếm tới 83.48%, hơn nữa Công ty cũng đang gặp khó khăn trong thanh toán nợ ngắn hạn. Do vậy Công ty cần biến các khoản nợ ngắn hạn này thành nợ dài hạn, để có thời gian sử dụng vốn lâu hơn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lâu hơn nữa. Muốn vậy Công ty cần lựa chọn các điều khoản tín dụng có lợi cho mình khi kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa như những hợp đồng có thời gian được chịu dài, giá trị tiền hàng trả chậm lớn…để khai thác triệt để nguồn vốn tín dụng thương mại, cụ thể: Gắn bó mật thiết kế hoạch mua chịu với kế hoạch sản xuất, tiêu thụ sản phẩm để đảm bảo cung cấp đúng về thời gian, số lượng nguyên vật liệu cần thiết. Doanh nghiệp cần lập kế hoạch dự toán thu chi bằng tiền, đảm bảo khả năng thanh toán tại mọi thời điểm, quan trọng nhất là tôn trọng kỷ luật thanh toán với các nhà cung cấp: Trả đúng hạn, đúng số lượng đã cam kết. Thực hiện tốt việc này sẽ củng cố niềm tin với bạn hàng, là cơ sở để tiếp tục mua chịu với khối lượng cần thiết. Tạo mối quan hệ chặt chẽ với các nhà cung cấp, xác định họ là những đối tác chiến lược trong hoạt động kinh doanh của mình. Muốn làm được điều này Công ty cần phải tạo dựng cho mình một hình ảnh cùng với uy tín trong kinh doanh: Tạo ra môi trường văn hóa trong doanh nghiệp, cải thiện môi trường làm việc kinh doanh, áp dụng hệ thống CRM (customer relationship management). CRM là một hệ thống giúp phục vụ khách hàng tốt hơn. Hoạt động của CRM tạo nên một môi trường tựa như “văn phòng ảo” giúp cho việc quản lý được liên tục, không phụ thuộc vào việc nhân viên đang làm việc tại nhiệm sở hay đang đi công tác. Hạt nhân của CRM là hệ thống cơ sở dữ liệu thu thập được từ các bộ phận khác nhau trong công ty. Hệ thống có thể được thiết kế gồm nhiều thành phần như quản lý thông tin khách hàng, quản lý tương tác khách hàng, quản lý quy trình bán hàng, quản lý marketing, quản lý sản phẩm dịch vụ, báo cáo thống kê. Đối với việc xây dựng, ứng dụng một hệ thống quản trị quan hệ khách hàng, có thể nói là một chiến lược khó có thể thực hiện đối với công ty, vì ứng dụng này khá đắt, nhưng xu hướng này đang được ứng dụng khá rộng rãi trong môi trường kinh doanh, nếu như công ty quyết tâm cho một sự đầu tư có lợi thì chắc chắn rằng nó mang lại nhiều lợi ích hơn so với những gì mà công ty bỏ ra đặc biệt cho công ty hoạt động sản xuất theo đơn đặt hàng của khách hàng. Nó tạo điều kiện cho nhân viên thực hiện tốt mối quan hệ với khách hàng, đồng thời giúp cho việc quản lý khách hàng được hiệu quả hơn. Mang lại cho công ty những khách hàng tiềm năng, tạo ra những mối quan hệ khách hàng tốt để có những thuận lợi hơn trong việc mua bán hàng và trong việc thanh toán. 4.5 Áp dụng hình thức thanh toán hợp lý, tổ chức tốt công tác thu hồi nợ Các khoản phải thu ngắn hạn chiếm tỷ trong khá lớn trong cơ cấu vốn lưu động, năm 2009 chiếm tới 34.7% trong tổng VLĐ. Các khoản phải thu tăng dần qua các năm, gây ứ đọng vốn, hơn nữa công ty lại không lập dự phòng các khoản phải thu khó đòi. Để tránh bị chiếm dụng vốn doanh nghiệp cần tổ chức công tác thu hồi nợ. Cụ thể: Đề ra hình thức khuyến khích khách hàng thanh toán tiền hàng sớm, thanh toán ngay khi giao hàng như giảm giá bán ở mức hợp lý, tăng tỷ lệ chiết khấu. Tuy nhiên việc xác định tỷ lệ chiết khấu hợp lý cần phải đặt trong mối quan hệ với lãi suất vay vốn hiện hành của ngân hàng. Vì khi bán hàng trả chậm, Công ty cần phải đi vay vốn của ngân hàng để bù đắp kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh. Do đó, việc công ty giảm giá cho khách hàng một tỷ lệ nhất định tính trên tổng số tiền hàng mà tỷ lệ đó nhỏ hơn lãi suất vay vốn bù đắp thì vẫn có lợi hơn. Trước khi thực hiện hợp đồng bán trả chậm, Công ty cần phải xem xét, nghiên cứu kỹ từng đối tượng khách hàng, tức là cần làm tốt công tác thẩm định uy tín khách hàng. Công ty có thể từ chối ký hợp đồng với khách hàng nợ nần dây dưa, hoặc thiếu khả năng thanh toán. Có như vậy mới tránh tình trạng thất thoát VLĐ do khách hàng không chịu thanh toán hoặc không có khả năng thanh toán. Trong hợp đồng mua bán, cần quy định rõ về thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán,…và kèm theo các điều khoản yêu cầu các bên phải chịu trách nhiệm một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh các quy định trong hợp đồng phù hợp với chính sách tài chính quy định, chẳng hạn như: Nếu thanh toán chậm với thời hạn quy định sẽ xử phạt vi phạm hợp đồng, hoặc nợ quá hạn phải chịu lãi suất theo lãi suất nợ quá hạn của ngân hàng. Theo dõi chặt chẽ các khoản nợ, thường xuyên giám sát, đôn đốc khách hàng thanh toán đúng hạn. Cần xác định, đánh giá chính xác tuổi nợ của từng khoản nợ: nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, nợ quá hạn, nợ khó đòi. Bóc tách từng khoản nợ để có những biện pháp cứng rắn giải quyết đối với từng khoản nợ sao cho áp hợp lý, hiệu quả và vẫn giữ được uy tín, khách hàng. Cụ thể trong bảng kê công nợ không có các khoản phải thu dài hạn, nhưng những khoản phải thu ngắn hạn có giá trị lớn nhưng chưa thu hồi được chẳng hạn như các khoản nợ của các công ty Ban quản lý dự án các công trình điện miền Bắc, miền Nam, thép Hồng Nam, Thép Vạn Lợi, Siemens,.. với tổng số nợ lên tới vài chục tỷ đồng. Nếu khoản nợ này thu hồi được nhanh chóng và đúng hạn sẽ làm tăng một lượng lớn tiền trong lưu thông để thực hiện sản xuất, giảm thiểu được khoản tiền phải đi vay cũng như chi phí lãi vay. Do vậy, tuy đây là những khách hàng quen thuộc của Công ty, vì vậy mà Công ty không dám thu hồi nợ, cứ để tình trạng nợ đọng mà cần có các biện pháp hợp lý trong việc thu hồi nợ. Trong công tác thu hồi công nợ nên áp dụng các biện pháp khuyến khích khách hàng trả tiền trước hạn nhằm thu hồi nhanh như sử dụng các hình thức chiết khấu cho khách hàng trả nợ trước thời hạn chiết khấu này có thể tính chính là khoản lãi mà doanh nghiệp nợ đến hạn mới trả cho Công ty. Đối với các khoản nợ chuẩn bị đến hạn trả, Công ty nên gửi giấy báo cho khách hàng để khách hàng biết chuẩn bị tiền trả nợ. Đối với các khoản nợ khó đòi, cần có những biện pháp cứng rắn như: Cử người gặp trực tiếp khách hàng, cương quyết yêu cầu khách hàng trả nợ, thậm chí có thể yêu cầu cơ quan quyền lực can thiệp,… Đối với khách hàng mua lẻ với khối lượng nhỏ, công ty nên tiếp tục thực hiện chính sách “mua đứt bán đoạn” không để nợ hoặc chỉ cung cấp chiết khấu ở mức thấp với những khách hàng nhỏ thường xuyên. Với những khách hàng lớn, trước khi kí hợp đồng công ty cần phân loại khách hàng và tìm hiểu kỹ khách hàng về khả năng thanh toán của họ. Hợp đồng luôn phải chặt chẽ về thời gian, phương thức thanh toán và hình thức phạt khi vi phạm hợp đồng. Mở sổ theo dõi chi tiết các khoản nợ, tiến hành sắp xếp các khoản phải thu theo tuổi. Như vậy, công ty sẽ biết được một cách dễ dàng khoản nào đến hạn để có thể có các biện pháp hối thúc khách hàng trả tiền. Định kỳ công ty cần tổng kết công tác tiêu thu, kiểm tra các khách hàng đang nợ về số lượng và thời gian thanh toán, tránh tình trạng để các khoản phải thu rơi vào tình trạng nợ khó đòi. Công ty nên áp dụng biện pháp tài chính thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và hạn chế vốn bị chiếm dụng như chiết khấu thanh toán và phạt vi phạm quá thời hạn thanh toán. Đối với các khách hàng thanh toán chậm thì công ty cần xem xét cụ thể để đưa ra các chính sách phù hợp như thời gian hạn nợ, giảm nợ nhằm giữ gìn mối quan hệ sẵn có và chỉ nhờ cơ quan chức năng can thiệp nếu áp dụng biện pháp trên không mang lại kết quả. Khi mua hàng hoặc thanh toán trước, thanh toán đủ phải yêu cầu người lập các hợp đồng bảo hiểm tài sản nhằm tránh thất thoát, hỏng hóc hàng hoá dựa trên nguyên tắc “ giao đủ, trả đủ” hay các chế tài áp dụng trong kí kết hợp đồng. Công ty nên xác định rõ kỳ thu tiền bình quân và xác định số dư các khoản phải thu: chỉ tiêu này cho thấy được nợ tồn đọng của từng khách hàng để có biện pháp thu hồi vốn, tránh tình trạng mở rộng mức bán chịu. Như vậy khi thu hồi được các khoản phải thu, công ty sẽ có được rất nhiều cơ hội cũng như lợi nhuận. Cụ thể năm 2009, các khoản phải trả khoảng hơn 300 tỷ đồng trong khi các khoản phải thu là hơn 100 tỷ đồng, Với lãi suất vay 17% / năm, như vậy nếu thu hết các khoản phải thu để trả nợ phải trả thì công ty sẽ tiết kiệm được 17 tỷ đồng. Như vậy nó sẽ làm tăng đáng kể lợi nhuận của công ty vì lợi nhuận của công ty biến động tăng giảm chủ yếu là do lãi vay và chi phí quản lý. Đó là một con số lớn minh chứng cho việc cần phải triệt để thu hồi các khoản phải thu 4.6 Xác định mức dự trữ hợp lý cả nguyên liệu đầu vào lẫn sản phẩm đầu ra Dự trữ vật tư: Muốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty tiến hành đều đặn, liên tục và hoàn thành được kế hoạch sản xuất thì việc cung ứng vật tư phải tổ chức hợp lý, thường xuyên đảm bảo các loại vật tư về số lượng, chất lượng, nhưng kịp thời tránh tình trạng dự trữ quá nhiều. Yêu cầu đầu tiên đối với việc cung ứng vật tư cho sản xuất là phải đảm bảo đủ số lượng. Nghĩa là nếu cung cấp với số lượng quá lớn, dư thừa sẽ gây ra ứ đọng vốn và do đó sẽ dẫn đến việc sử dụng vốn kém hiệu quả. Nhưng ngược lại nếu cung cấp không đầy đủ về số lượng sẽ ảnh hưởng tới tính liên tục của quá trình sản xuất. Công ty sẽ không hoàn thành được nhiệm vụ sản xuất. Cung ứng vật tư kịp thời nghĩa là cung ứng đúng thời gian đặt ra của công ty, thời gian này dựa vào kế hoạch sản xuất trong kỳ. Với đặc điểm nguyên vật liệu của công ty chỉ cố một số loại là nhập khẩu từ nước ngoài như mạ kẽm, còn các phôi sắt thép có thể từ các nguồn cung ứng trong nước, với đặc điểm nguồn cung cấp nguyên liệu rộng rãi và dồi dào, chúng ta có thể thực hiện giải pháp just in time trong quá trình dự trữ nguyên vật liệu. Trừ mạ kẽm cần phải dự trữ vì đó là nguyên liệu phải nhập khẩu từ nước ngoài. Cần phải lập kế hoạch sản xuất một cách chính xác rõ ràng theo từng tuần, tháng, quý, năm… để có thể nắm bắt được rõ ràng nhu cầu vật tư cho quá trình sản xuất. Để đáp ứng được yêu cầu trên công ty cần phải thường xuyên kiểm tra, đối chiếu với tình hình sản xuất thực tế và tình hình dự trữ vật tư trong kho, luôn kết hợp hài hoà, vừa đảm bảo sử dụng tiết kiệm vốn. Sử dụng tiết kiệm NVL là một trong những tiêu chuẩn cơ bản giảm chi phí sản xuất, giảm lượng VLĐ, hạ giá thành sản phẩm và tăng vòng quay cho vốn. Bởi vậy việc phân tích tình hình sử dụng nguyên vật liệu vào trong sản xuất sản phẩm phải được tiến hành thường xuyên trên các mặt: Khối lượng nguyên vật liệu sử dụng vào sản xuất sản phẩm và mức tiêu dùng nguyên vật liệu để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Thường xuyên kiểm tra nguyên vật liệu tiêu dùng thực tế với khối lượng nguyên vật liệu còn trong kho chưa dùng để tổ chức việc cung cấp nguyên vật liệu hợp lý, hạn chế lượng nguyên vật liệu tồn kho tiến tới tồn kho bằng không. Cần phải lựa chọn những nhà cung cấp có uy tín có khả năng cung cấp nguyên vật liệu thường xuyên, đây là một việc làm rất quan trọng khi công ty áp dụng giải pháp Just in time. Đối với chi phí sản xuất kinh doanh dở dang: Trong quá trình quản lý hàng tồn kho không thể bỏ qua khoản mục này. Vì nó cũng là một nguyên nhân chính làm tăng lượng tồn kho. Giải pháp cho vấn đề này như sau: Tăng cường hơn nữa tính đồng bộ trong sản xuất giữa các bộ phận, các giai đoạn của quá trình sản xuất sản phẩm. Bên cạnh đó cần tăng cường đầu tư, đổi mới tài sản cố định nói chung và thiết bị máy móc nói riêng thay thế cho những tài sản đã quá cũ giảm được chi phí sửa chữa lớn, tiết kiệm nhân công, nguyên vật liệu, tỷ lệ phế phẩm.. Xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật như: Chi phí nhân công, chi phí nguyên vật liệu và chi phí khác, đơn giá nội bộ một cách tiên tiến trên cơ sở định giá mức kỹ thuật của Nhà Nước. Đối với thành phẩm tồn kho: Công ty cần phải xác định rõ ràng với việc tồn kho cho sản phẩm trong quá trình sản xuất là bao nhiêu, cho quá trình hoạt động thương mại. 4.7 Đẩy mạnh công tác bán hàng, tiêu thụ sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm Qua quá trình phân tích ta thấy hàng tồn kho chiếm tỷ trọng khá lớn cuối năm 2008 là 55.7% trong tổng vốn lưu động, đến năm 2009 đã giảm xuống 49.8% , đã có sự giảm sút nhưng không đáng kể. Trong đó hàng hóa tồn kho chiếm tỷ trọng cao nhất trong khoản hàng tồn kho. Nguyên nhân của tồn kho lớn là do vi phạm hợp đồng, chất lượng sản phẩm chưa đúng yêu cầu, thị trường còn thu hẹp hạn chế và mức dự trữ hàng hóa không hợp lý làm cho khoản hàng hóa tồn kho nhiều, hàng hóa không tiêu thụ được, và công ty cũng chưa có biện pháp hiệu quả nào để giải quyết lượng hàng hóa này. Qua đó cũng chứng tỏ công tác bán hàng, công tác marketing thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm là chưa tốt, điều này đã gây tình trạng ứ đọng vốn, hiệu quả sử dụng đồng vốn là không cao. Do đó công ty cần phải có những biện pháp đẩy mạnh công tác bán hàng như sau: Thứ nhất : Xác định mức dự trữ nguyên vật liệu hợp lý. Căn cứ vào tình hình thị trường, tình hình sản xuất, công ty cần xây dựng kế hoạch dự trữ nguyên vật liệu cụ thể, chính xác, đảm bảo dự trữ một lượng vừa đủ để đáp ứng điều kiện sản xuất bình thường cũng như trong trường hợp đột biến vẫn có khả năng cung ứng kịp thời, đủ nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất. Mở rộng thị trường nguyên vật liệu, tìm kiếm, lựa chọn đối tác có khả năng đáp ứng thường xuyên, liên tục nguyên vật liệu theo yêu cầu sản xuất của công ty. Có biện pháp hữu hiệu bảo quản nguyên vật liệu tồn kho, đảm bảo chất lượng. Thứ hai: Trú trọng tìm kiếm thị trường mới, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm nhanh, nhiều sẽ giúp giảm số lượng hàng tồn kho, vốn ứ đọng giảm, tăng nhanh tốc độ luân chuyển VLĐ, là cơ sở để tăng lợi nhuận. Do đó việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ là vấn đề quan tâm hàng đầu của công ty hiện nay. Cụ thể là việc đầu tư nhiều cho nghiên cứu thị trường. Đây là công tác có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp công ty có thể nắm được nhu cầu thị trường, sức mua của thị trường cũng như tình hình cạnh tranh trên thị trường đó. Căn cứ vào đó, Công ty mới có thể tổ chức hoạt động kinh doanh và tiêu thụ hàng hóa của mình ngày càng chủ động và hiệu quả hơn. Đối với việc đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa, trong thời gian tới công ty cần phải thiết lập hệ thống bán hàng, giới thiệu sản phẩm rộng khắp, xây dựng và củng cố quan hệ tốt với khách hàng lâu năm, có uy tín. Bên cạnh đó, công ty cũng phải căn cứ vào những đơn đặt hàng, các hợp đồng tiêu thụ đã được ký kết và tình hình thị trường để lập các kế hoạch tiêu thụ, kế hoạch sản xuất phù hợp với tình hình thực tế. Có như vậy, sẽ làm tăng sản lượng tiêu thụ hàng hóa, giảm số lượng hàng tồn kho, tăng doanh thu, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và VLĐ nói riêng, điều đó đồng nghĩa với số vốn kinh doanh của DN tăng lên từ đó đủ để nhập khẩu nguyên vật liệu cho từng kỳ sản xuất, không phải nhập khẩu một lần cho nhiều kỳ sản xuất, và như thế mức dự trữ nguyên vật liệu giảm, HTK giảm. 4.8 Xác định mức hợp lý nhu cầu vốn bằng tiền, đảm bảo khả năng thanh toán ở mọi thời điểm của Công ty Năm 2008 vốn bằng tiền và các khoản tương đương của công ty là 454,304,943 VNĐ tương ứng với 0.36 % tỷ trọng trong tổng vốn lưu động, năm 2009 con số này đã tăng lên rất nhiều 8735% nhưng cũng chỉ đạt 11.74 % trong tổng số vốn lưu động nhưng trong khi nợ ngắn hạn năm 2009 là 285,318,235,818 VNĐ lớn gấp 7 lần số vốn bằng tiền hiện có, điều này làm công ty rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán tức thời, thanh toán nhanh. Ta thấy rằng tình hình phân bổ lượng vốn bằng tiền hiện nay của công ty là không hợp lý, hơn nữa nhu cầu dự trữ vốn tiền mặt trong các doanh nghiệp thông thường là để đáp ứng yêu cầu giao dịch hàng ngày như mua sắm hàng hóa, vật liệu, thanh toán các khoản chi phí cần thiết. Mức dự trữ tiền mặt phải đảm bảo cho doanh nghiệp có đầy đủ lượng vốn tiền mặt cần thiết để đáp ứng nhu cầu thanh toán đồng thời tối ưu hóa vốn tiền mặt hiện có, giảm tối đa các rủi ro về lãi suất, tỷ giá hối đoái. Sau đây là một số giải pháp để xác định nhu cầu vốn bằng tiền một cách hợp lý. Cần phải lên kế hoạch về nhu cầu thanh toán và khả năng thanh toán theo từng quý, từng năm, tránh tình trạng dự trữ quá ít như năm 2008. Sử dụng mua các chứng khoán thanh khoản cao khi lượng tiền dự trữ dư thừa nhưng trong thực tế công ty lại không dự tính rõ được việc thu chi tiền mặt. Vì mua chứng khoán thanh khoản cao cũng là một hình thức cho vay không thời hạn, có thể bán chúng bất cứ lúc nào nếu cần tiền để chi trả, và có thể thu được lãi suốt nếu khoản tiền này dư thừa, không cần thiết. 4.9 Phát huy vai trò kiểm tra, giám sát tài chính trong các khâu mua – dự trữ - sản xuất, tiêu thụ nhằm tránh tình trạng lãng phí thất thoát vốn lưu động Hiện nay công ty đang gặp khó khăn trong việc tổ chức, quản lý cũng như huy động VLĐ, hơn nữa công ty cũng chưa chú trọng, chưa có giám đốc tài chính để theo sát tình hình tài chính của công ty. Do vậy việc kiểm tra, giám sát là một trong những vai trò quan trọng, không thể thiếu ở DN hiện nay, và do người khác đảm nhiệm, nên chưa thực sự hiệu quả. Vai trò này xuất phát từ chức năng giám đốc tài chính doanh nghiệp thông qua sự vận động, chu chuyển của vốn, thông qua các chỉ tiêu tài chính hình thành trong quá trình sử dụng vốn. Vì vậy, việc phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của tài chính trong các khâu là một việc rất cần thiết. Do vậy công ty nên thành lập thêm một bộ phận quản lý tài chính riêng, cụ thể bộ phận này làm những công việc sau: Trong khâu mua hàng, cần kiểm tra chất lượng và số lượng xem nguyên vật liệu, hàng hóa có đúng với hợp đồng đã ký kết hay không. Bên cạnh đó, quản lý chặt chẽ việc mua sắm cũng như dự trữ hàng tồn kho, tránh thất thoát, giảm giá trị. Thông qua việc xem xét các chỉ tiêu về hàng tồn kho, cán bộ tài chính có thể thấy được tình hình quản lý và sử dụng hàng tồn kho có tốt hay không. Ngoài ra, công ty cũng có hệ thống kho tàng đảm bảo cho việc quản lý nguyên vật liệu, hàng hóa tồn kho. Trong khâu sản xuất, thông qua các chỉ tiêu về tổng giá thành sản xuất, cũng như giá thành sản xuất đơn vị kết hợp với việc phân tích nguyên nhân chủ quan và khách quan, cán bộ tài chính của công ty có thể kiểm soát được chất lượng công tác sản xuất. Từ đó đề ra biện pháp giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động. 4.10 Quan tâm đầu tư và phát triển nguồn nhân lực Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế đã đem lại cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội nhưng cũng chứa đựng nhiều thách thức. Để nắm bắt được cơ hội, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thách thức, mọi trọng trách nặng nề còn đặt lên vai các nhà lãnh đạo và quản lý – những con người luôn được coi là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Đối với Công ty cổ phần cơ khí và kết cấu thép Sóc Sơn, vấn đề nhân lực cũng là một khó khăn lớn. Với tổng số lao động gần 200 người, trong đó đội ngũ cán bộ, nhân viên quản lý ít ỏi, chỉ có khoảng 30 người có trình độ đại học, khả năng trình độ về chuyên môn nghiệp vụ không đều, còn nhiều hạn chế. Công ty cần có các chính sách tuyển dụng hợp lý. Việc tuyển dụng cần phải dựa trên cơ sở là năng lực, trình độ thực sự của từng cá nhân.Có như vậy mới thu hút được nhân tài, nâng cao chất lượng lao động của Công ty. Tổ chức công tác bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ, nhân viên quản lý. Đồng thời nâng cao tay nghề của công nhân sản xuất. Trẻ hóa độ ngũ cán bộ công nhân viên quản lý. Đối với những cá nhân trẻ tuổi, có năng lực trình độ, công ty cần ưu tiên phát triển tài năng. Cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên, thực hiện đúng chính sách chế độ của nhà nước về tiền lương, có chính sách khen thưởng, kỷ luật rõ ràng để vừa khuyến khích, phát huy hơn nữa sức sáng tạo của từng cá nhân, vừa hạn chế những tiêu cực. 4.11 Cần có những biện pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh Qua báo cáo tài chính của công ty thấy rằng công ty chưa hề xây dựng bất cứ một khoản dự phòng nào, đây cũng là một trong các nguyên nhân gây ra rủi ro cho DN, nếu không có nguồn này thì DN sẽ không có nguồn dự phòng để giải quyết những khó khăn xảy ra mà không thể dự đoán trước được: như các khoản phải thu không thu hồi được, hàng tồn kho bị giảm giá (dự phòng giảm giá hàng tồn kho)… Do đó công ty cần: Lập quỹ dự phòng tài chính để khi chẳng may vốn bị hao hụt có nguồn để bù đắp. Mua bảo hiểm cho hàng hóa để khi rủi ro xảy ra sẽ được bồi thường, không gây thiệt hại lớn. Hơn nữa, việc Công ty tham gia bảo hiểm sẽ tạo ra một chỗ dựa vững chắc, một tấm lá chắn tin cậy về kinh tế, giúp Công ty có khả năng chống đỡ mọi rủi ro tổng thất bất thường có thể xảy ra. Lập quỹ dự phòng nợ khó đòi. Thực tế hiện nay, Công ty chưa lập quỹ dự phòng này, nên những khoản nợ quá hạn, khó đòi còn ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả sử dụng VLĐ. Lập quỹ dự phòng giảm giá hàng tồn kho. Có như vậy mới đảm bảo phản ánh giá trị vật tư, hàng hóa không cao hơn giá trị thị trường tại thời điểm đánh giá. Đồng thời có nguồn vốn để bù đắp tổn thất có thể xảy ra trong năm kế hoạch, nhằm bảo toàn vốn kinh doanh của Công ty. Định kỳ, tiến hành kiểm kê, đánh giá lại số vật tư hàng hóa, vốn bằng tiền trong thanh toán, các khoản nợ phải thu. Xác định số VLĐ hiện có theo giá trị hiện tại. Trên cơ sở đó, đối chiếu với sổ sách kế toán để điều chỉnh cho hợp lý. Để hạn chế rủi ro trong điều kiện lạm phát, Công ty nên dành lại một phần lợi nhuận để bù đắp số vốn hao hụt khi xảy ra lạm phát. Tránh tình trạng lấy nợ ngắn hạn để đầu tư cho các tài sản dài hạn. Đây là một thực tế xảy ra ở Công ty trong thời gian qua. Tại thời điểm nghiên cứu, khi vốn chủ sở hữu và vốn vay đã hết nhưng Công ty vẫn quyết định đầu tư xây dựng thêm 600m2 nhà xưởng. Đây là một việc làm hết sức nguy hiểm đối với tình hình tài chính của Công ty. Vì vậy các nhà quản lý cần đặc biệt chú ý đến vấn đề này và phải xoay chuyển ngay thực trạng bằng cách thay lượng vốn ngắn hạn vừa đầu tư đó bằng một lượng vốn dài hạn có thể từ vay dài hạn ngân hàng, hay từ vốn chủ sở hữu bổ sung. Có như vậy mới tạo ra được sự nhịp nhàng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. . CHƯƠNG V: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1 Kết luận Nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ đã và đang là vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Đây là một việc hết sức khó khăn phức tạp cả trong nhận thức lý luận và thực tiễn. Là một doanh nghiệp nhỏ, mới được thành lập, hoạt động trong nền kinh tế thị trường cạn tranh quyết liệt đòi hỏi công ty cổ phần cơ khí và kết cấu thép Sóc Sơn phải không ngừng phấn đấu nâng cao hơn nữa hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ nói riêng và vốn kinh doanh nói chung. Trong thời gian vừa qua, cùng với sự cố gắng của toàn ngành, công ty cổ phần có khí và kết cấu thép Sóc Sơn đã từng bước phát triển, dần khẳng định vị thế của mình trên thị trường. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, do đó mà tồn tại và hạn chế còn đòi hỏi công ty phải nỗ lực nhiều hơn nữa. Qua quá trình khảo sát, điều tra, nghiên cứu, đánh giá về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và việc sử dụng vốn lưu động tại công ty cổ phần cơ khí và kết cấu thép Sóc Sơn nói riêng giai đoạn 2007-2009, tôi nhận thấy như sau: 5.1.1 Những mặt đã đạt được Doanh thu tăng qua các năm 2007-2009. Đã có chú trọng đến việc sử dụng vốn lưu động nhưng thực sự chưa hiệu quả. Thị trường tiêu thụ mở rộng khắp đất nước và hướng tới xuất khẩu sang thị trường các nước lân cân, mặc dù chặng đường trước mắt còn nhiều khó khăn. Uy tín thương hiệu ngày càng được khẳng định trên thị trường miền bắc Tình hình nhân sự đang dần đi vào ổn định và ngày càng nâng cao về trình độ. 5.1.2 Những mặt hạn chế Hiện nay, việc sử dụng vốn lưu động còn một số hạn chế sau. Phải vay ngắn hạn một lượng vốn khá lớn để bù đắp vốn thiếu hụt. Khả năng thanh toán của công ty kém, đặc biệt là khả năng thanh toán tức thời. Bộ phận vốn trong thanh toán còn lớn và có xu hướng tăng: phải thu ngắn hạn tăng qua các năm. Mức dự trữ hàng hoá không tối ưu. Chưa có bộ phận chuyên trách về quản lý tài chính… 5.1.3 Đề xuất một số giải pháp Một là: Xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hai là: Khai thác triệt để nguồn vốn tín dụng thương mại, đồng thời tôn trọng kỷ luật thanh toán. Ba là: Áp dụng hình thức thanh toán hợp lý, tổ chức tốt công tác thu hồi nợ. Bốn là: Đẩy mạnh công tác bán hàng và tiêu thụ sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tới mức thấp nhất có thể số vốn cần thiết cho việc dự trữ. Năn là: Xác định mức hợp lý nhu cầu vốn bằng tiền, đảm bảo khả năng thanh toán ở mọi thời điểm của công ty. Sáu là: Phát huy vai trò kiểm tra giám sát tài chính trong các khâu mua – dự trữ- sản xuất, tiêu thụ nhằm tránh tình trạng lãng phí thất thoát VLĐ. Tuy nhiên để thực hiện được những biện pháp nói trên không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của bản thân Công ty cổ phần cơ khí và kết cấu thép Sóc Sơn trong việc tìm hướng đi, biện pháp phù hợp mà còn cần có sự tác động tích cực của cơ quan quản lý nhà nước. Chính vì lẽ đó, tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau: 5.2 Một số kiến nghị 5.2.1 Đối với ngân hàng Do công ty cổ phần cơ khí và kết cấu thép Sóc Sơn được thành lập trong điều kiện vốn tự có không nhiều, để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh công ty đã phải đi vay nhiều từ các ngân hàng, chi phí lãi vay cao. Do đó với vai trò là nhà cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, ngân hàng cần có các chính sách, thủ tục, mức lãi suất, thời hạn vay vốn thuận lợi hơn, nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp. Ngân hàng cần được tăng cường hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, coi doanh nghiệp là khách hàng nghĩa là đối tượng quan tâm của các ngân hàng. Để làm được điều đó các ngân hàng cần chú ý: Tăng cường năng lực của cán bộ ngân hàng trong việc xem xét và ra các quyết định một cách khoa học dựa trên các đặc thù hoạt động của ngân hàng. Hiện đại hoá công nghệ, nâng cao trình độ hoạt động của hệ thống ngân hàng, giữa các đơn vị kinh tế, tăng cường các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, nhằm rút ngắn thời hạn thanh toán, tăng cường sự kiểm soát của pháp luật đối với hoạt động của doanh nghiệp. Thay đổi phong cách làm việc trong quan hệ với các doanh nghiệp, tạo lập mối quan hệ dài hạn nhằm xây dựng mạng lưới khách hàng ổn định, đồng thời đảm bảo hơn mức độ an toàn trong hoạt động tín dụng. Điều này tạo điều kiện để các doanh nghiệp giảm các chi phí trong giao dịch huy động vốn. Ngân hàng tăng cường quan tâm hơn nữa về vấn đề điều hành lãi suất, lãi suất cho vay cần linh hoạt theo sát diễn biến cung cầu vốn của thị trường, thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt và điều chỉnh tỷ giá theo hướng có lợi tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh. Hệ thống các ngân hàng cần được hoàn thiện, đa dạng hóa các nghiệp vụ để trở thành trung gian tài chính thực sự, thúc đẩy thị trường vốn phát triển. 5.2.2 Đối với nhà nước Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong việc điều phối nền kinh tế ở tầm vĩ mô, và sẽ ảnh hưởng cả trực tiếp và gián tiếp đến các thành viên trong nền kinh tế. Vì vậy để đảm bảo cho các doanh nghiệp nói chung và CTCP CK&KC Thép Sóc Sơn nói riêng hoạt động có hiệu quả thì Nhà nước cần: 5.2.2.1 Tạo lập môi trường pháp luật ổn định, thông thoáng Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tất cả mọi hoạt động kinh tế đều phải chịu sự định chế của Nhà nước bằng pháp luật, đó là bộ luật và các văn bản dưới luật, có ý nghĩa như là điều kiện xác lập và ấn định các mối quan hệ kinh tế ở tầm vĩ mô, tạo ra khuôn khổ hành lang pháp lý cho sự hoạt động quản lý các đơn vị kinh tế phù hợp với lợi ích phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Việc chuyển đổi các hình thức sở hữu doanh nghiệp sẽ không thực hiện được nếu không có hành lang pháp lý để điều chỉnh. Theo xu hướng chung của nền kinh tế thế giới khi chuyển sang nền kinh tế thị trường phải có đầy đủ các bộ luật cơ bản. Hiện nay Nhà nước ta đã có các luật như: luật doanh nghiệp, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật thương mại, luật đầu tư nươc ngoài… Nhà nước và Quốc hội phải sớm thông qua các luật khác để phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường như: luật chứng khoán, luật giao dịch chứng khoán, luật cạnh tranh… để từng bước xác định môi trường pháp lý cho sự hoạt động của các Công ty cổ phần sẽ được hình thành trong thời gian tới. Đối với vấn đề huy động vốn kinh doanh, Nhà nước cần ban hành các quy định thuận lợi về vốn vay ngân hàng và các hoạt động huy động tài chính khác. 5.2.2.2 Tạo ra một môi trường kinh tế, xã hội ổn định đảm bảo cho việc huy động vốn có hiệu quả. Thị trường vốn phát triển một mặt tạo điều kiện cho doanh nghiệp có nguồn vốn ổn định, đáp ứng nhu cầu vốn trong quá trình kinh doanh. Mặt khác tạo cơ hội cho doanh nghiệp đầu tư vốn ra bên ngoài để tìm kiếm lợi nhuận, phân tán rủi ro, bảo toàn vốn trong kinh doanh. Như vậy Nhà nước cần thông qua các chính sách, các công cụ khác nhau nhằm tạo ra một môi trường kinh tế thuận lợi cho việc đầu tư vốn. Điều đó thể hiện ở các điểm: Định hướng cho sự phát triển của thị trường bằng cách vạch kế hoạch và chính sách phát triển dài hạn của thị trường vốn, có biện pháp cải tiến và hiện đại hoá hệ thống tài chính, làm cho hệ thống tài chính hoạt động lành mạnh, đủ sức chuyển tiền tích luỹ thành tiền đầu tư. Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát tạo ra các yếu tố cơ bản khuyến khích đầu tư, nhất là chính sách lãi suất và thuế. Đa dạng hoá các công cụ tài chính tạo ra phương tiện chu chuyển vốn, các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp, tín phiếu kho bạc. 5.2.2.3 Thực hiện ưu đãi trong cơ chế, chính sách về tài chính Cơ chế, chính sách về tài chính đối với một doanh nghiệp là một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của doanh nghiệp. Việc thực hiện một cơ chế tài chính thông thoáng và hợp lý sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động tốt hơn. - Đối với vấn đề cho vay vốn đầu tư Nhà nước nên tạo điều kiện thuận lợi trong việc tăng nguồn vốn kinh doanh cho công ty: hạ lãi suất, kéo dài thời hạn vay. - Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng kinh tế, về xử lý các hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế, mua bán hàng hoá thanh toán các khoản nợ, các khoản tiền cho vay, thậm chí phải quy định các biện pháp chế tài nhằm đưa việc thanh toán giữa các đơn vị vào nề nếp, nhanh chóng chấm dứt tình trạng công nợ dây dưa kéo dài, đảm bảo cho vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chu chuyển đều đặn, bình thường. 5.2.2.4 Cải cách các thủ tục hành chính Hiện nay cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài đang làm ăn ở Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Một trong những khó khăn thuộc tầm vĩ mô của Nhà nước là thủ tục hành chính cồng kềnh, cửa quyền của các cơ quan quản lý Nhà nước. Chính vì vậy để các doanh nghiệp có thể nắm bắt kịp các cơ hội kinh doanh, em xin đưa ra một kiến nghị là các thủ tục hành chính cần phải đảm bảo gọn nhẹ, thông thoáng tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động nhạy bén hơn. Đây là điều kiện hết sức quan trọng vì ngoài thị trường luôn luôn biến động. Trên đây là một số giải pháp cơ bản và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của CTCP CK&KC Thép Sóc Sơn. Giải pháp này có thể trở thành hiện thực đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực của bản thân Công ty mà của tất cả các cấp, các ngành để tạo ra một bộ mặt mới cho sự phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Cn. Nguyễn Thị Lân, Ths. Nguyễn Thị Thanh Huyền, Đề cương bài giảng tài chính doanh nghiệp, Bộ tài chính, PGS.TS Phạm Thị Gái, Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh, Nhà xuất bản thống kê trường đại học Kinh tế Quốc Dân, PGS.TS Lưu Thiên Hương, PGS.TS Vũ Duy Hào, Quản trị tài chính doanh nghiệp NXB tài chính, Trường đại học Kinh tế Quốc Dân. PGS.TS Nguyễn Văn Công, Kế toán doanh nghiệp, Nhà xuất bản Kinh tế Quốc Dân, (năm 2007) PGS.TS Nguyễn Minh Phương, Kế toán quản trị, Nhà xuất bản Kinh tế Quốc Dân, (năm 2006) Công ty Cổ phần cơ khí và kết cấu Thép Sóc Sơn –Báo cáo tài chính ,(năm 2007, 2008, 2009) ận văn : Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ tại nhà máy bánh kẹo Hữu Nghị,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26927.doc
Tài liệu liên quan