Chuyên đề Giải pháp nâng cao phân tích năng lực tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô

Hiện nay trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, để tồn tại các ngân hàng buộc phải vừa tăng cường hoạt động cho vay vừa phải hạn chế được rủi ro. Để giải quyết được cả hai vấn đề, ngân hàng thực hiện một trong những biện pháp được coi là hiệu quả nhất đó là nâng cao chất lượng phân tích đánh giá khách hàng trong hoạt động tín dụng mà phân tích tài chính là một nội dung. Dựa trên cơ sở tìm hiểu thực tiễn tại Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô cùng với việc kế thừa những nghiên cứu trước đó, chuyên đề đã tập trung giải quyết được những vấn đề sau: Thứ nhất: chuyên đề đã hệ thống cơ sở lý luận về tín dụng ngân hàng, tín dụng doanh nghiệp và trình bày phương pháp, quy trình, nội dung của công tác phân tích tình hình TCDN trong hoạt động tín dụng.

doc85 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1484 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao phân tích năng lực tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhận xét: Doanh thu công ty tăng nhanh với tốc độ tăng năm 2007 so với năm 2006 là 149%, tổng doanh thu tính đến 31/12/2007 của công ty đạt 16.687 triệu đồng. Doanh thu tăng trưởng mạnh là do công ty thực hiện nhiều công trình lớn trong năm 2007 như công trình nhà máy xi măng Luck- Huế, công trình xây dựng cơ sở hạ tầng khu đất ở cho sĩ quan quân đội- Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Giang… Các khoản giảm trừ của công ty bằng 0 chứng tỏ các công trình do công ty xây lắp cũng như các sản phẩm khác có chất lượng cao. Giá vốn hàng bán của công ty trong năm 2007 chiếm (89.6%) doanh thu, đây là một tỷ lệ hợp lý đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp chứng tỏ công ty quản lý khá tốt các khoản mục chi phí của mình. Trong đó khoản chi phí quản lý doanh nghiệp chiếm: doanh thu Hoạt động tài chính của công ty luôn bị âm là do công ty hạch toán các khoản mục trong hoạt động tài chính là chênh lệch giữa các khoản thu nhập từ hoạt động tiền gửi tại ngân hàng và các chi phí trả lãi vay và phí bảo lãnh vay tại ngân hàng. Các khoản tiền gửi của công ty tại các ngân hàng rất ít lại hưởng lãi suất thấp trong khi công ty phải trả lãi và phí bảo lãnh cao hơn. Tóm lại, Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Phương Bắc là doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả tình hình tài chính rõ ràng, doanh thu, lợi nhuận tăng nhanh qua các năm. Tuy nhiên công ty cần quản lý các khoản mục chi phí của mình hợp lý hơn nữa nhất là khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 2.2.2.3. Đánh giá tình hình tài chính của công ty thông qua các chỉ tiêu tài chính. v Nhóm I: Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán Khả năng thanh toán ngắn hạn: Năm 2005: lần Năm 2006: lần Năm 2007: lần Khả năng thanh toán nhanh: Năm 2005: lần Năm 2006: lần Năm 2007: lần Nợ ngắn hạn của công ty tăng 141% so với năm 2006. Hệ số thanh khoản nhanh cũng tăng so với năm 2006, nhưng trong phần tài sản lưu động hàng tồn kho chiếm 30% nên khả năng thanh toán của công ty cũng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên các hệ số thanh toán ngắn hạn và hệ số thanh toán nhanh của công ty đều cao hơn so với mức trung bình ngành (quy định của ngành lần lượt là ≥0.6 và ≥0.3 với doanh nghiệp có quy mô vừa). Điều này chứng tỏ khả năng thanh toán của công ty là đảm bảo. v Nhóm các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động Hiệu quả sử dụng tài sản: Năm 2005: Năm 2006: Năm 2007: Vòng quay hàng tồn kho Năm 2006: vòng Năm 2007: vòng Số ngày một vòng quay hàng tồn kho Năm 2006: ngày Năm 2007: ngày Vòng quay hàng tồn kho tăng, số ngày một vòng quay hàng tồn kho được rút ngắn chứng tỏ công ty đã có những chuyển biến tốt trong tiêu thụ sản phẩm. Vòng quay các khoản phải thu Năm 2006: vòng Năm 2007: vòng Kỳ thu tiền bình quân: Năm 2006: ngày Năm 2007: ngày Vòng quay vốn lưu động: Năm 2006: vòng Năm 2007: vòng Vòng quay các khoản phải thu giảm so với năm 2006 tuy nhiên kỳ thu tiền bình quân lại tăng nguyên nhân do các khoản nợ thu hồi lớn và hàng tồn kho chiếm 30% vốn lưu động của doanh nghiệp, làm cho vốn của doanh nghiệp bị ứ đọng, giảm hiệu quả sử dụng vốn. Vòng quay vốn lưu động đã được cải thiện hơn so với năm 2006, điều đó chứng tỏ công ty đã sử dụng vốn lưu động hiệu quả hơn so với năm trước. v Nhóm các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu vốn (hay khả năng tự tài trợ) Hệ số nợ: Năm 2005: Năm 2006: Năm 2007: s Tỷ suất tự tài trợ: hay tỷ suất Vốn chủ sở hữu/tổng tài sản Năm 2005: Năm 2006: Năm 2007: Trong năm 2007, các khoản nợ phải trả trong tổng nguồn vốn của công ty tăng mạnh so với năm 2006, từ 17.4% lên đến 30.1%. Các khoản nợ chỉ là nợ ngắn hạn, bổ sung vốn lưu động chứng tỏ hoạt động của công ty có sự tăng trưởng cần bổ sung nguồn vốn kinh doanh. Trong tổng nguồn vốn thì vốn chủ sở hữu qua các năm của công ty vẫn chiếm tỷ trọng cao, chứng tỏ nguồn vốn của công ty đủ điều kiện đáp ứng cho mở rộng phát triển kinh doanh. v Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu Năm 2005: Năm 2006: Năm 2007: Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản Năm 2005: Năm 2006: Năm 2007: s Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu Năm 2005: Năm 2006: Năm 2007: Ta thấy các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của công ty đều tăng và tăng nhiều so với năm 2006. Điều này chứng tỏ khả năng sinh lời của công ty tăng mạnh, hiệu quả kinh doanh tăng đáp ứng yêu cầu của các cổ đông. Tốc độ tăng trưởng doanh thu so với năm trước Tốc độ tăng trưởng doanh thu Doanh thu kỳ hiện tại- doanh thu kỳ trước so với năm trước = Doanh thu kỳ trước = Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận so với năm trước Lợi nhuận kỳ hiện tại - Lợi nhuận kỳ trước Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận = Lợi nhuận kỳ trước = Tốc độ tăng trưởng doanh thu của công ty cao 149% phản ánh tăng trưởng về mặt số lượng là do công ty đã thực hiện nhiều công trình lớn trong năm, chứng tỏ doanh nghiệp ngày càng có uy tín trong kinh doanh. Trong đó, lợi nhuận của công ty tăng mạnh 227% phản ánh sự mở rộng hoạt động kinh doanh về mặt chất lượng. Doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. 2.2.2.4. Quan hệ của doanh nghiệp với các tổ chức tín dụng Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Phương Bắc chỉ có quan hệ tín dụng, bảo lãnh với Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô. s Dư nợ tín dụng: 3.090 tr VNĐ s Dư bảo lãnh : 809 tr VNĐ - Công ty có tình hình tài chính lành mạnh, có khả năng thanh toán các khoản nợ quá hạn, ít phát sinh gia hạn nợ, được ngân hàng đánh giá cao trong quan hệ tín dụng. 2.2.2.5. Đánh giá xếp loại khách hàng: Bảng 2.8: Kết quả đánh giá các chỉ tiêu xếp loại khách hàng Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Phương Bắc Stt CHỈ TIÊU KẾT QUẢ TÍNH KẾT QUẢ ĐIỂM A Nhóm chỉ tiêu tài chính I Khả năng thanh toán 1 Khả năng thanh toán ngắn hạn 2.26 5 2 Khả năng thanh toán nhanh 1.58 5 II Nhóm chỉ tiêu hoạt động Vòng quay hàng tồn kho 3.7 4 Vòng quay Vốn lưu động 1.7 4 Vòng quay các khoản phải thu 3.26 3 Hiệu quả sử dụng tài sản 0.88 1 III Khả năng tự tài trợ Hệ số tự tài trợ (%) 69.9 5 IV Khả năng sinh lời Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 1.7 1 Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản 2.13 1 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu 2.19 1 Tốc độ tăng trưởng doanh thu (%) 149 5 Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận(%) 227 5 V Tổng hợp tài chính 40 B Nhóm chỉ tiêu phi tài chính I Uy tín trong quan hệ tín dụng Nợ quá hạn 0 5 Tỷ lệ gia hạn nợ gốc 39% 3 Tỷ lệ lãi quá hạn 0 5 Sử dụng vốn vay đúng mục đích 5 5 II Mức độ đảm bảo bằng tài sản Tỷ lệ dư nợ có TSĐB 100 5 Vòng quay vốn tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam 1.5 4 Mức độ quan hệ tín dụng tại Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam 100 5 Tỷ lệ chuyển đổi doanh thu qua Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam 29 1 Số dư tiền gửi bình quân (triệu đồng) 3 1 Lợi nhuận mang lại cho Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam 1 1 C Điểm thưởng Hệ số tự tài trợ 69.9 5 Chấp hành chế độ lập, gửi báo cáo 3 3 Uy tín lợi thế thương mại 0.0 0 Thời gian hoạt động, công tác quản trị điều hành <5 0 Quy mô Vừa Kết quả điểm đánh giá 83 Loại Loại B (Nguồn: Báo cáo kết quả thẩm định TCDN tại Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô) Nhận xét của cán bộ tín dụng: Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Phương Bắc là công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, quy mô vừa, làm ăn có hiệu quả, tình hình tài chính rõ ràng. Các chỉ tiêu tài chính của công ty ở mức khá Doanh thu, lợi nhuận của công ty ở mức tăng trưởng cao Trong quan hệ tín dụng, công ty luôn giữ chữ tín, vay trả sòng phẳng, không có nợ quá hạn, lãi quá hạn Sử dụng vốn vay đúng mục đích Khả năng thanh toán của công ty ở mức khá, đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Hiệu quả sử dụng tài sản của công ty còn thấp Tổng hợp điểm của hai nhóm chỉ tiêu tài chính và phi tài chính là 83 điểm, xếp loại khách hàng nhóm B. ĐỀ XUẤT: Tài sản đảm bảo: Bất động sản: 2357 tr VNĐ Động sản : 900 tr VNĐ Căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp, căn cứ vào xếp loại doanh nghiệp và căn cứ vào tài sản đảm bảo, Phòng Thẩm định và Quản lý tín dụng đề xuất hạn mức cho vay vốn lưu động tạm thời cho doanh nghiệp là 3000 tr VNĐ, thời gian từ 20/02/2008 đến 31/03/2009, hạn mức bảo lãnh là 1000 tr VNĐ thời hạn từ 31/03/2008 đến 31/03/2009. Các đề nghị bổ xung: Áp dụng chính sách khách hàng đối với doanh nghiệp loại B Kiểm soát chặt chẽ các hợp đồng kinh tế, các khoản phải thu của khách hàng để có biện pháp quản lý và thu hồi nợ. Giám sát chặt chẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đảm bảo việc sử dụng vốn vay theo từng công trình. Bổ sung tài sản đảm bảo theo dư nợ từng thời kỳ. Chất lượng phân tích Tài chính của Công ty Đầu tư và Xây dựng Phương Bắc: Việc phân tích tuân thủ đúng quy trình phân tích tài chính khách hàng của Ngân Hàng, đưa ra được những nhận định và đánh gía về Tình hình tài chính của công ty một cách cụ thể và chính xác, tuy nhiên do số liệu thu thập chỉ trên sổ sách và do Công ty cung cấp nên cần phải có thêm những thông tin và báo cáo cụ thể, chính xác hơn giúp cho cán bộ Tín dụng có những nhận định chính xác nhất. 2.3. Đánh giá chất lượng phân tích TCDN tại Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô. 2.3.1. Những kết quả đạt được Để hoàn thành tốt mục tiêu mà Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam đã đặt ra cho toàn hệ thống, trong thời gian qua Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô đã không ngừng củng cố, hoàn thiện và nâng cao chất lượng phân tích khách hàng, đặc biệt là phân tích tài chính đối với khách hàng là doanh nghiệp. Thành công trước hết của chi nhánh là đã áp dụng thành công quy trình phân tích khách hàng tương đối hoàn thiện, trong đó công tác phân tích tình hình tài chính được đặc biệt chú trọng. “Đề cương đánh giá toàn diện tình hình doanh nghiệp” thực sự là một công trình nghiên cứu có hiệu quả thực tiễn, đề cương mô tả chi tiết quy trình và hướng dẫn các cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định. Đây là một thành tựu nổi bật của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam giúp cho công tác phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp của ngân hàng thực sự mang tính khoa học và hệ thống. Có thể nói đây là một thành tích mà không phải ngân hàng thương mại nào cũng có được. Trên cơ sở chung đó, cán bộ tín dụng của chi nhánh Đông Đô nắm vững và áp dụng một cách linh hoạt quy trình sao cho phù hợp với từng khách hàng. Những thành công của Chi nhánh Đông Đô trong công tác phân tích, đánh giá doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng thể hiện ở chất lượng hoạt động đối với doanh nghiệp luôn đạt ở mức cao, doanh số cho vay tăng mạnh qua các năm, tỉ lệ nợ quá hạn thấp. Cán bộ tín dụng tại chi nhánh đã sử dụng thành tựu khoa học kĩ thuật và công nghệ tin học trở thành công cụ góp phần nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng. Ngân hàng rất coi trọng công tác tìm kiếm khai thác các thông tin trên Internet và thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng CIC. Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam cũng đã tổ chức bộ phận lưu trữ và thống kê các thông tin về khách hàng, các cán bộ tín dụng có thể dễ dàng tìm kiếm các thông tin cần thiết trên mạng nội bộ của hệ thống. Mặt khác, các cán bộ tín dụng của chi nhánh đều có trình độ đại học nên việc tính toán các chỉ tiêu tài chính và hiệu quả kinh tế của phương án kinh doanh hoặc dự án đầu tư đều được tính toán trên các phần mềm cài đặt sẵn trên máy vi tính nên có độ chính xác cao, nhanh gọn và hiệu quả, tiết kiệm rất nhiều thời gian và công sức. Điều này giúp cho thời gian phân tích được rút ngắn, các khách hàng của chi nhánh có thể nắm bắt thời cơ và đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục và hiệu quả. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TCDN TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG ĐT & PT VIỆT NAM - CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ. 3.1. Định hướng hoạt động tín dụng của chi nhánh trong thời gian tới Dựa vào điều kiện kinh tế của đất nước và định hướng của Đảng, Nhà nước trong hoạt động tài chính ngân hàng trong thời gian tới. Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam đề ra mục tiêu cụ thể như sau: - Mục tiêu tổng quát của hệ thống trong thời gian tới là đổi mới toàn diện và phát triển vững chắc với nhịp độ tăng trưởng cao. Tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng, kĩ thuật, môi trường làm việc hiện đại, các chi nhánh được phân bố và phát triển hợp lý trên địa bàn cả nước góp phần thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. - Kết hợp phát huy truyền thống phục vụ đầu tư phát triển với mục tiêu đa dạng hoá khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế. - Phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả an toàn hệ thống theo đòi hỏi của cơ chế thị trường và lộ trình hội nhập, làm nòng cốt cho việc xây dựng tập đoàn tài chính đa năng, vững mạnh, hội nhập quốc tế. Dựa vào tiềm lực thực tế của chi nhánh, điều kiện kinh tế của đất nước, trên cơ sơ định hướng của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam, Chi nhánh Đông Đô đã đề ra mục tiêu phát triển trong thời gian tới là: An toàn, chất lượng, hiệu quả, tăng trưởng bền vững Trong đó: An toàn: Tiếp tục nâng cao năng lực tài chính để đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng. Chất lượng: Nâng cao chất lượng các sản phẩm và hiệu quả dịch vụ. Thực hiện phân loại nợ xấu, phấn đấu trích đủ dự phòng rủi ro đối với dư nợ tín dụng thương mại, tăng cường kiểm soát và xử lý nợ xấu và nợ tồn đọng phát sinh; nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Hiệu quả: Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động thông qua điều chỉnh cơ cấu tài sản nợ, tài sản có theo hướng: Từng bước đẩy mạnh đầu tư vốn sang hoạt động dịch vụ, giảm dần tín dụng xây lắp, tăng tín dụng ngắn hạn trong đó tập trung vào tín dụng thương mại xuất nhập khẩu, tín dụng ngoài quốc doanh, tư nhân cá thể đẩy mạnh tín dụng cá nhân tiêu dùng...Tập trung cho những lĩnh vực, khu vực ngành nghề, địa bàn có khả năng sinh lời và nguồn thu tín dụng lớn đảm bảo khả năng tăng trưởng nhưng an toàn, rủi ro thấp và khả năng sinh lời, thu nhập nhiều, hiệu quả cao. Tăng trưởng bền vững: Mở rộng và tăng thị phần hoạt động dịch vụ và huy động vốn, đảm bảo tăng trưởng quy mô phù hợp với năng lực tài chính và khả năng kiểm soát rủi ro của ngân hàng. Đẩy mạnh dịch vụ theo hướng đột phá, tập trung vào các dịch vụ phi tín dụng, dịch vụ tài chính, đưa vào khai thác sản phẩm dịch vụ mới. Gắn tăng trưởng hoạt động dịch vụ với cung ứng công nghệ hiện đại, tiếp tục mở rộng phát triển mạng lưới và kênh phân phối. Phát huy những kết quả đạt được trong năm 2007, năm 2008 Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô phấn đấu để đạt được thành tích cao hơn cụ thể các chỉ tiêu phấn đấu như sau: - Tổng nguồn vốn huy động: là 1600 tỉ VND tăng 25% so với năm 2007. - Tổng dư nợ cho vay: đạt 950 tỷ tăng 30% so với năm 2007 Trong đó + Tỉ trọng dư nợ trung và dài hạn trong tổng dư nợ 40% + Tỉ trọng dư nợ quá hạn và nợ tồn đọng dưới 0,2% - Lợi nhuận kế toán sau thuế đạt 12 tỉ. Riêng trong lĩnh vực hoạt động tín dụng doanh nghiệp, chi nhánh đặt ra chỉ tiêu kế hoạch tăng doanh số cho vay từ 25% đến 30%, tăng mức dư nợ khoảng từ 30% - 40%, thu hồi hết nợ quá hạn của năm 2007 và trong năm 2008 phấn đấu không phát sinh nợ quá hạn. Để thực hiện được các định hướng trên, Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô đặt ra yêu cầu cụ thể với các cán bộ – nhân viên của chi nhánh như sau: - Bám sát chủ trương, đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, bám sát mục tiêu, định hướng của ngành từ đó xác định mục tiêu, kế hoạch nhiệm vụ phù hợp với từng giai đoạn cụ thể. - Điều chỉnh cơ cấu huy động vốn và đầu tư của chi nhánh sao cho có sự phù hợp với thực trạng và định hướng của chi nhánh trong từng giai đoạn cụ thể. - Thường xuyên chú ý thực hiện tốt công tác tiếp thị để đáp ứng tốt, nhiều tiện ích cho khách hàng, cung cấp được nhiều sản phẩm: Tín dụng, thanh toán, bảo lãnh và nhiều sản phẩm khác phù hợp với nhu cầu cuộc sống đang đòi hỏi. - Tập trung vào công tác đào tạo và đào tạo lại cho các cán bộ nâng cao trình độ hiểu biết kiến thức pháp luật và năng lực chuyên môn đáp ứng kịp thời yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới. - Tổng kết đúc rút ra những bài học kinh nghiệm về thành công, thất bại những năm qua trong hoạt động kinh doanh, củng cố cơ sở lý luận hoạt động góp phần phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. - Coi trọng công tác kiểm tra kiểm soát, kịp thời phát hiện và xử lý các sai sót tránh để có dư luận xấu, đồng thời gắn kiểm tra với việc chỉnh sửa và xử lý sau thanh tra, kiểm tra. - Đẩy mạnh việc phát động thi đua có sơ kết, tổng kết kết hợp khuyến khích bằng lợi ích vật chất nhân điển hình tiên tiến, giữ gìn đoàn kết nội bộ, tạo khí thế và sức sống trong toàn 3.2 Những khó khăn tồn tại và nguyên nhân Tuy quá trình phân tích TCDN trong hoạt động tín dụng của chi nhánh đã đạt được một số thành công nhất định nhưng qua xem xét thực tế, công tác phân tích còn có một số vấn đề tồn tại như sau: Thứ nhất: Bộ hồ sơ tài chính của doanh nghiệp chưa đầy đủ gây khó khăn cho việc phân tích tài chính. Hiện nay, ngân hàng chỉ yêu cầu cung cấp BCTC của 2 năm liên tiếp gần nhất mà số liệu của 2 năm hầu như chỉ mang ý nghĩa thống kê không thể nói lên xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Mặc dù Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam đã có tài liệu hướng dẫn cụ thể phương pháp cũng như vai trò quan trọng của phân tích dòng tiền nhưng không bắt buộc doanh nghiệp phải lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ nên cán bộ tín dụng chỉ có thể tiến hành phân tích dòng tiền với các doanh nghiệp có lập báo cáo. Trên thực tế, do báo cáo lưu chuyển tiền tệ là không bắt buộc nên cả với các doanh nghiệp có lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ thì việc phân tích dòng tiền cũng không được đánh giá đúng mức, việc phân tích rất sơ sài, thậm chí có thể bị bỏ qua. Trong trường hợp của Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Phương Bắc, công ty đã cung cấp cho ngân hàng BCTC của 3 năm nhưng không có báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Chính vì thế cán bộ tín dụng không tiến hành phân tích dòng tiền của doanh nghiệp Thứ hai: Về quy trình và phương pháp phân tích chưa thật sự được cập nhập những phương pháp hiện đại và hiệu quả nhất. Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam lựa chọn mô hình phân tích tài chính cổ điển tức là kết quả phân tích hoàn toàn phụ thuộc vào dữ liệu được dùng để tính toán mà các dữ liệu này do khách hàng xin vay vốn lập lên nên có thể các thông tin này không thực sự chính xác. Ngân hàng chưa yêu cầu các khách hàng phải tiến hành kiểm toán các BCTC trước khi đến với ngân hàng mà khách hàng tự chịu trách nhiệm về những thông tin mà mình mang đến, điều đó có nghĩa là tính chính xác và độ tin cậy của BCTC phụ thuộc vào sự trung thực của khách hàng. Trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp lập các BCTC khác nhau để cung cấp cho các đối tượng khác nhau phù hợp với mục đích riêng của doanh nghiệp. Ngay cả với các doanh nghiệp lập BCTC trung thực, thì khi nhận được số liệu con số đã không còn cập nhật ít nhất là vài tháng, đó là chưa kể đến các doanh nghiệp có kỳ luân chuyển vốn không trùng với kỳ kế toán nên BCTC không phản ánh được toàn diện theo mong muốn của ngân hàng. Những doanh nghiệp này không nộp BCTC đúng hạn hoặc nếu có nộp thì chất lượng chỉ tiêu tài chính cũng rất thấp, các hệ số như khoản phải thu nhiều, rất khó xếp loại một cách chính xác. Khi cán bộ tín dụng tiến hành phỏng vấn trực tiếp khách hàng hay xuống điều tra tại cơ sở thì chỉ tập trung nghiên cứu về dự án đầu tư hay phương án kinh doanh và tài sản đảm bảo, việc tìm kiếm thông tin phục vụ cho công tác phân tích tài chính của khách hàng không được coi trọng. Các thông tin trên hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng CIC rất thiếu và hầu như chỉ cung cấp được số dư nợ và thời hạn cho vay của doanh nghiệp với các tổ chức tín dụng khác mà không phản ánh được chất lượng các khoản tín dụng đó. Cán bộ tín dụng cũng không theo dõi đầy đủ diễn biến của các khoản vay như thời hạn vay, điều chỉnh nợ, gia hạn nợ, sự thay đổi của giá trị bảo đảm tiền vay, mà chủ yếu phụ thuộc vào số liệu kế toán. Hiện nay ngân hàng quy định các khách hàng phải nộp BCTC hàng năm cho cán bộ trực tiếp theo dõi khoản vay và chi nhánh phải phân tích đánh giá xếp loại tín dụng và tổng hợp kết quả phân tích quyết toán tài chính năm trước của khách hàng nộp cho ban tín dụng (Hội sở chính) trước ngày 15/7 hàng năm. Nhưng trên thực tế, việc phân tích sau khi cho vay rất sơ sài và gần như chỉ để phục vụ cho việc cho điểm và xếp loại tín dụng. Do vậy việc đánh giá phân loại nợ thiếu tính kịp thời, làm giảm khả năng giám sát việc hoàn trả nợ, không phát hiện những dấu hiệu xấu đi trong hoạt động của khách hàng Mặc dù các cán bộ tín dụng đã đưa ra được những biến động lên xuống của cá chỉ tiêu nhưng đánh giá đó không được so sánh với những doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực có cùng quy mô mà chủ yếu sử dụng các chỉ tiêu trung bình ngành do Hội sở chính cung cấp. Việc so sánh nhằm tìm ra xu hướng của chỉ tiêu theo thời gian còn yếu. Trong quy trình đánh giá tín dụng hiện nay của Chi nhánh còn có nhiều sự chồng chéo, có nhiều chỉ tiêu được đưa ra trùng lặp không cần thiết mà điển hình là chỉ tiêu phân tích cơ cấu vốn và chỉ tiêu phản ánh khả năng tự chủ tài chính. Đối với Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Phương Bắc, cán bộ tín dụng trong khi phân tích đánh giá chung đã tiến hành phân tích cơ cấu vốn, chỉ tiêu này sau đó lại được sử dụng lại trong phần đánh giá khả năng tự chủ tài chính của khách hàng. Việc đánh giá lặp lại, chồng chéo giữa các chỉ tiêu có thể gây ra sự lúng túng không cần thiết cho các cán bộ ngân hàng. Mặt khác, ta có thể nhận thấy so sánh tương quan ngành mà cán bộ tín dụng sử dụng ở đây đơn thuần chỉ là việc so sánh chỉ tiêu tài chính của Phương Bắc với bảng tiêu chuẩn đánh gía nhằm mục tiêu tính điểm và xếp loại tín dụng, không chỉ ra được xu hướng và sự biến động của các chỉ tiêu theo thời gian và mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các chỉ tiêu. Thứ ba: việc đánh giá các chỉ tiêu phản ánh khả năng tài chính chưa đầy đủ và còn sơ sài. Trên thực tế, cán bộ tín dụng chỉ tính toán các hệ số tài chính để phục vụ cho việc tính điểm và xếp hạng tín dụng. Nhiều các bộ tín dụng đánh giá chưa đúng về tầm quan trọng của công tác phân tích, chỉ chú trọng đến phân tích hiệu quả dự án hay phương án kinh doanh và tài sản đảm bảo. Vì thế công tác phân tích không đánh giá hoặc đánh giá sơ sài các chỉ tiêu. Một số chỉ tiêu như thuế và các khoản phải nộp nhà nước hay chỉ tiêu hệ số khả năng thanh toán tổng quát không được cán bộ tín dụng phân tích trong khi đây là những hệ số quan trọng phản ánh sâu sắc tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ngoài ra, một số nội dung cần thiết và qua trọng khác như phân tích điểm hoà vốn, vốn lưu động dòng của doanh nghiệp không được ngân hàng tiến hành phân tích. Đây là những chỉ tiêu phản ánh sự an toàn về doanh thu trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Công tác thẩm định tài chính của Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Phương Bắc đã chứng minh điều đó. Thực tế cán bộ tín dụng chỉ tính toán các hệ số phục vụ cho hoạt động chấm điểm và xếp loại tín dụng. Các hệ số khác như nguồn vốn lưu động xuyên, thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước không được tính toán đến. Việc đánh giá nhận xét về tình hình tài chính của công ty còn sơ sài, mà điển hình là các nhóm hệ số về khả năng sinh lời, hệ số tự tài trợ. Ngân hàng cũng không tiến hành phân tích điểm hoà vốn của công ty Phương Bắc nên không thể đánh giá được sự an toàn về doanh thu trong hoạt động sản xuất kinh doanh nếu xét dưới góc độ tài chính. Nguyên nhân chính của những tồn tại trên Từ phía doanh nghiệp: Thông tin tài chính là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng công tác phân tích TCDN trong ngân hàng. Những thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chủ yếu được thu thập qua các BCTC Do doanh nghiệp chưa nộp đủ BCTC hoặc BCTC của doanh nghiệp không mang tính đồng bộ. Hiện tượng doanh nghiệp cố tình che giấu hay thay đổi các thông tin trên BCTC để tạo ấn tượng tốt với ngân hàng xảy ra khá phổ biến vì thế cán bộ tín dụng không có đủ dữ liệu có chất lượng để đánh giá. Từ phía ngân hàng: Hạn chế về trình độ nghiệm vụ và kinh nghiệm của cán bộ tín dụng cũng là một nguyên nhân khiến cho quá trình phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Trên thực tế, hầu hết các cán bộ chưa coi trọng đúng mức công tác này, quyết định tín dụng chủ yếu phụ thuộc vào chất lượng dự án và chất lượng tài sản đảm bảo. Cho đến nay chi nhánh vẫn chưa có bộ phận chuyên trách về phân tích TCDN cũng như việc nghiên cứu các lĩnh vực kinh tế, pháp luật, để tư vấn cho các cán bộ tín dụng. Chuẩn mực kế toán mới có nhiều thay đổi làm ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp được áp dụng đối với các doanh nghiệp từ ngày 30/3/2005. Trong đó sự thay đổi lớn nhất là sự phân biệt rõ ràng giữa tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn, các hệ số như hệ số thanh toán ngắn hạn, vòng quay các khoản phải thu… đều thay đổi cách tính thể hiện rõ ràng khả năng thanh toán và khả năng hoạt động của doanh nghiệp nhưng đến nay Chi nhánh vẫn chưa áp dụng chuẩn mực mới này trong phân tích. Tóm lại, từ việc tìm hiểu thực tế tại Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô ta có thể nhận thấy công tác phân tích tình hình TCDN tại Chi nhánh tuy đã đạt được một số kết quả nhất định song vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục. 3.3. Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích TCDN trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô. Để thực hiện được định hướng và các mục tiêu trên đòi hỏi chi nhánh phải giải quyết đồng thời nhiều vấn đề, một trong những vấn đề quan trọng là phải nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Muốn vậy ngân hàng cần phải có những chính sách giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác đánh giá khách hàng mà phân tích tình hình tài chính là một trong những cái yêu cầu cấp thiết. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác phân tích TCDN tập trung giải quyết công tác tổ chức nâng cao chất lượng hệ thống cung cấp thông tin, hoàn thiện quy trình phân tích và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mở rộng mối quan hệ với khách hàng và áp dụng các giải pháp về khoa học công nghệ, tiến bộ kĩ thuật vào quá trình phân tích. 3.3.1. Hoàn thiện nội dung, quy trình phân tích tình hình TCDN Đánh giá tình hình tài chính khách hàng là vấn đề mà tất cả các NHTM luôn tìm các biện pháp để hoàn thiện và nâng cao chất lượng phân tích chứ không riêng đối với Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô. Các phương pháp kỹ thuật, chỉ tiêu thường xuyên thay đổi theo sự thay đổi của hệ thống quản lý tài chính. Các ngân hàng nếu không có sự quan tâm đúng mức thì khó có thể cập nhật những thay đổi này. - Trong quá trình hoạt động, chi nhánh phải luôn bám sát các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, các ngành nghề được khuyến khích… để đưa ra các nhiệm vụ cụ thể, các chuẩn mực đánh giá nhằm định hướng mục tiêu cho công tác tín dụng nói chung và công tác phân tích tình hình TCDN nói riêng. - Hàng năm, Chi nhánh cần tiến hành xây dựng chương trình hoạt động đối với công tác phân tích tình hình TCDN các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Chương trình đó sẽ bao gồm việc đánh giá những kết quả đạt được, chỉ ra những vướng mắc, tồn tại, từ đó có thể rút ra những bài học qua công tác năm trước, đồng thời vạch ra kế hoạch năm tiếp theo để nâng cao chất lượng hơn nữa công tác phân tích tình hình TCDN phục vụ hoạt động tín dụng. - Về nội dung đánh giá: Khi đánh giá tình hình TCDN thì việc tính toán các chỉ số tài chính là rất quan trọng do các số liệu BCTC chưa thể hiện hết thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Mỗi một doanh nghiệp khác nhau có các hệ số tài chính khác nhau, hệ số tài chính của cùng một doanh nghiệp tại các thời điểm khác nhau cũng không giống nhau. Tuy nhiên, một hệ số tài chính không thể hiện được nhiều về tình hình tài chính doanh nghiệp, Karl Max đã nói rằng khi xem xét một sự vật hiện tượng phải đặt nó trong sự biến động cả về không gian và thời gian. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục và chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan, chủ quan khác. Vì thế, cán bộ tín dụng phải dựa vào sự biến động lên xuống của các chỉ tiêu, hệ số để tìm ra nguyên nhân và đánh giá từng khoản mục TCDN, khắc phục tình trạng chỉ tính toán các hệ số để phục vụ cho việc tính điểm và xếp loại như hiện nay. Sự biến động của một chỉ tiêu phải được đánh giá trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác có liên quan. Việc phân tích nguyên nhân có ý nghĩa to lớn trong đánh giá thực trạng của doanh nghiệp, nếu một doanh nghiệp nào đó có khoản mục tài chính chưa đạt chuẩn chung nhưng vẫn có thể xem xét cho vay nếu xét thấy doanh nghiệp có khả năng khắc phục khó khăn. Nếu không phân tích cụ thể nguyên nhân thì ngân hàng có thể bỏ sót khách hàng tiềm năng. - Phân tích điểm hoà vốn và phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một bước cần thiết trong quá trình phân tích và đánh giá doanh nghiệp. Chi nhánh cần yêu cầu doanh nghiệp phải lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ, từ đó bắt buộc các cán bộ tín dụng phải đánh giá, phân tích dòng tiền. - Về quy trình phân tích: Quy trình phân tích hiện nay của chi nhánh là khá toàn diện, tuy nhiên cần phải nâng cao tinh thần tự giác của cán bộ tín dụng khắc phục tình trạng chỉ tính toán các chỉ tiêu tài chính phục vụ cho công tác tính điểm và xếp loại doanh nghiệp mà đánh giá một cách sơ sài các nguyên nhân tạo ra sự biến động chỉ số đó. Cán bộ tín dụng cần phải đánh giá đúng vai trò của công tác này trong hoạt động tín dụng từ đó áp dụng một cách linh hoạt và hiệu quả quy trình trong thực tế. 3.3.2. Nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lí thông tin Bản chất của việc đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn là quá trình phân tích, so sánh và đánh giá giữa các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp với các thông tin, tài liệu, số liệu theo chuẩn mực đánh giá chung. Thông tin là cơ sở cần thiết để cán bộ thẩm định có thể phân tích, đánh giá đúng thực trạng của doanh nghiệp, chất lượng thông tin đầu vào là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến chất lượng phân tích tài chính. Thông tin càng chính xác, cụ thể thì càng thuận lợi cho quá trình phân tích và đánh giá về doanh nghiệp. Chính vì thế nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin là một trong yêu cầu quan trọng trong quá trình nâng cao chất lượng công tác phân tích TCDN. - Với BCTC, ngân hàng phải yêu cầu doanh nghiệp cung cấp số liệu của ít nhất là 3 năm gần nhất, hiện nay các doanh nghiệp chỉ bị yêu cầu cung cấp BCTC của 2 năm, mà số liệu 2 năm mới chỉ mang ý nghĩa thống kê, không đủ để nói lên xu hướng phát triển của doanh nghiệp, cán bộ tín dụng sẽ rất khó đánh giá và dự đoán trước được tình hình của khách hàng trong tương lai. Hơn nữa, với những yêu cầu vay vốn lớn hoặc doanh nghiệp không phải là khách hàng quen thì cần phải kiểm toán các báo cáo này. Ngân hàng có thể thuê kiểm toán hoặc yêu cầu doanh nghiệp cung cấp BCTC đã có kiểm toán. Điều này sẽ đảm bảo cho các thông tin mà cán bộ tín dụng nhận được có tính chính xác và đầy đủ từ đó giúp chi nhánh thuận lợi hơn trong việc ra quyết định tín dụng, giảm chi phí và tăng lợi nhuận cho chi nhánh. Ngân hàng cũng nên yêu cầu doanh nghiệp có cả báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong bộ hồ sơ tài chính của doanh nghiệp. - Hỗ trợ, tư vấn cho khách hàng trong việc lập các BCTC: Trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh nhưng do trình độ cán bộ kế toán hạn chế nên lập BCTC có nhiều thiếu sót hoặc không đúng theo chuẩn mực kế toán hiện hành. Những trường hợp này hiện nay vẫn còn tồn tại làm các cán bộ tín dụng gặp khó khăn trong việc phân tích tình hình TCDN. Do vậy, ngân hàng có thể mở dịch vụ tư vấn khách hàng lập báo cáo tài chính khoa học chính xác từ đó góp phần nâng cao hiệu quả phân tích đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp. - Để có nguồn thông tin chất lượng cao, ngoài những hồ sơ tài liệu mà ngân hàng nhận được từ doanh nghiệp, cán bộ tín dụng phải tìm hiểu thông tin từ việc đi kiểm tra thực tế, phỏng vấn trực tiếp các kế toán viên của doanh nghiệp cũng như người lao động để đánh giá sự hiểu biết cũng như trình độ của họ. Tuy nhiên kết quả của hoạt động này tùy thuộc vào kinh nghiệm của cán bộ tín dụng. Người tiến hành phỏng vấn phải biết chọn lọc thông tin thu thập được để tránh hiện tượng quá nhiều thông tin dẫn đến hiện tượng “loãng thông tin”. - Khai thác triệt để nguồn thông tin từ thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng CIC. Đồng thời ngân hàng nên tận dụng thông tin có được trên sách báo và Internet… Ngân hàng nên có các kiến nghị đề xuất để góp phần nâng cao chất lượng trung tâm thông tin, phòng ngừa rủi ro của hệ thống Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam, tiến hành trang bị thiết bị kết nối Internet, xây dựng phòng thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng, kết nối với trung tâm thông tin của hệ thống để có thể cập nhật những thông tin đầy đủ về doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn với ngân hàng. Phòng thông tin này có các cán bộ được cung cấp đầy đủ các trang bị và phương tiện để thu thập, xử lý và lưu trữ dữ liệu phục vụ cho công tác đánh giá, tiến hành nghiên cứu dự báo thông tin phục vụ cho ngân hàng. Một trong những biện pháp để nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin là chi nhánh cần có sự phối kết hợp chặt chẽ với các chi nhánh khác, các NHTM khác, các cơ quan, chính quyền địa phương để trao đổi thông tin về mọi lĩnh vực có liên quan. 3.3.3. Nâng cao trình độ cán bộ tín dụng Trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt trong hoạt động tín dụng, tính phức tạp và độ rủi ro rất cao nên nhân tố con người đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp là một nhiệm vụ quan trọng của hoạt động tín dụng nên càng đòi hỏi cán bộ tín dụng thực hiện công việc này phải có trình độ nghiệp vụ cao hơn hẳn. Yêu cầu của công tác này đòi hỏi cán bộ lãnh đạo cũng như cán bộ trực tiếp làm công tác tín dụng không chỉ có trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ tốt mà còn phải có phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm cao và có kinh nghiệm trong công tác. Họ phải có kĩ năng phân tích, nắm vững các quy định và chuẩn mực tài chính và có khả năng đưa ra những đánh giá chính xác về tình hình tài chính của khách hàng, từ đó tránh được rủi ro cho ngân hàng. Một số giải pháp mà Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô có thể áp dụng như: - Chuẩn hoá cán bộ tín dụng: Để có được đội ngũ cán bộ tín dụng đáng tin cậy, Chi nhánh cần có chế độ tuyển dụng và đào tạo thích hợp. Số cán bộ tín dụng hiện nay của chi nhánh là 27 trên tổng số 113 cán bộ, nhân viên. Đây là một tỷ lệ chưa phù hợp với quy mô và định hướng phát triển của chi nhánh, Chi nhánh cần có chính sách tuyển dụng hợp lý . Việc tuyển dụng cần phải được thực hiện một cách nghiêm túc, đảm bảo chất lượng và nên có kế hoạch tuyển dụng theo định kỳ nhất định. Việc tuyển dụng cần áp dụng những biện pháp tiên tiến đã được các NHTM trên thế giới áp dụng thành công việc đánh giá nhân viên trên cơ sở năng lực trí tuệ của bản thân nhân viên đó. Cần coi trọng khả năng làm việc của họ trong tương lai khi đã có kinh nghiệm chứ không phải nhân viên đó đã biết gì ở hiện tại. Kinh nghiệm làm việc của họ sẽ được đào tạo và rèn luyện thêm qua thực tiễn học hỏi trong quá trình thử việc tại chi nhánh, có thế đội ngũ nhân viên mới có cơ hội bộc lộ mình và gắn bó với chi nhánh. - Chuyên môn hoá quản lý khách hàng. Thành công của hoạt động phân tích tín dụng mà cụ thể là hoạt động phân tích tài chính của khách hàng là doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào trình độ và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Chuyên môn hoá cán bộ tín dụng sẽ giúp chi nhánh thực hiện tốt cả hai mặt trên. Hiện nay ở nước ta các loại hình doanh nghiệp rất đa dạng, hoạt động trong nhiều ngành nghề như thương mại dịch vụ, xây dựng, nông lâm ngư nghiệp, sản xuất công nghiệp. BCTC của từng loại hình doanh nghiệp khác nhau đều có những khó khăn rất khác biệt. Vì thế để công việc đạt kết quả cao, phải phân công cán bộ tín dụng chuyên môn hoá phụ trách theo nhóm ngành và theo từng giai đoạn của quy trình tín dụng. Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô đã tiến hành phân công trách nhiệm của cán bộ phòng thẩm định tiến hành thẩm định tài sản bảo đảm nhưng không có sự phân công rõ ràng theo hướng chuyên môn hoá đối với từng cán bộ tín dụng theo nội dung phân tích. Một cán bộ tín dụng thường thực hiện tất cả các giai đoạn của quy trình thẩm định. Chuyên môn hoá theo nội dung phân tích có nghĩa là sẽ có các chuyên viên phân tích thủ tục pháp lý của hồ sơ vay vốn và tư cách pháp nhân của doanh nghiệp, chuyên viên thẩm định phương án vay vốn, chuyên viên thẩm định BCTC… Ưu điểm của phương pháp này là tính chuyên môn hoá cao, tránh được những sai sót khuyết điểm trong nghiệp vụ. Tuy nhiên thực hiện theo phương pháp này, cán bộ tín dụng sẽ không hiểu sâu sắc về khoản vay, đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các phòng ban, các cán bộ tín dụng. Ngân hàng cũng có thể tiến hành hoán đổi công việc của các cán bộ tín dụng sau một thời gian nhất định, có thể hoán đổi giữa các cán bộ tín dụng hoặc giữa các nhóm về lĩnh vực mà họ phụ trách. Điều này giúp các cán bộ tín dụng có thêm những kiến thức về lĩnh vực khác đồng thời cũng giúp cho lãnh đạo có thể xác định được những điểm mạnh, điểm yếu của từng cán bộ từ đó có sự sắp xếp điều chỉnh phù hợp. Cũng cần chú ý đến những khách hàng truyền thống, nếu việc thay đổi cán bộ tín dụng có khả năng ảnh hưởng xấu tới quan hệ của ngân hàng với khách hàng thì ngân hàng nên thận trọng. Phân công rõ trách nhiệm quyền lợi cho mỗi cán bộ tín dụng sẽ tạo sự năng động cho mỗi cán bộ. Phân công công việc phải tuân thủ nguyên tắc giới hạn tầm quản trị và quy rõ trách nhiệm và quyền lợi để cán bộ tín dụng có hướng rèn luyện và phấn đấu. - Số cán bộ tín dụng của chi nhánh đa phần còn rất trẻ, hầu hết là mới ra trường nên kinh nghiệm chưa nhiều, rất cần được đào tạo và học hỏi, rèn luyện nâng cao trình độ. Chính vì thế công tác đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng ngân hàng là một yêu cầu cấp thiết. Đặc biệt để có một đội ngũ cán bộ thẩm định tài chính tài năng, trước hết ngân hàng cần bồi dưỡng kiến thức về nghiệp vụ kế toán doanh nghiệp, phân tích hoạt động kinh doanh, vì mỗi cán bộ phải thực sự vững về nghiệp vụ kế toán, và nghiệp vụ phân tích hoạt động kinh doanh mới có thể kiểm tra tính chính xác, hợp lý của BCTC cũng như khả năng của kinh doanh, tài chính của doanh nghiệp. Việc định kỳ kiểm tra sàng lọc cán bộ tín dụng cũng là một việc làm cần thiết, ngân hàng có thể căn cứ vào năng lực thực tế và kết quả kiểm tra để bố trí, sắp xếp cán bộ cho phù hợp nhằm phát huy tốt nhất khả năng của mỗi người, từ đó đem lại hiệu quả cao trong công việc, hạn chế rủi ro có thể xảy ra. 3.3.4. Một số giải pháp hỗ trợ khác: - Hoàn thiện và đổi mới công nghệ ngân hàng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện ở mọi lĩnh vực của khoa học công nghệ toàn thế giới, việc áp dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt động ngân hàng đang ngày càng trở thành một xu thế tất yếu, một yêu cầu khách quan đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi ngân hàng thương mại trong điều kiện cạnh tranh. Lợi ích của ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực phân tích tài chính doanh nghiệp thể hiện rõ nhất qua tính ưu việt mà nó mang lại khi thu thâp, xử lý thông tin – một công cụ quan trọng bậc nhất của việc phân tích. Các thông tin nếu được xử lý qua phần mềm hiện đại, chuyên dụng sẽ cho kết quả nhanh chóng và chính xác hơn nhiều so với cách truyền thống, rút ngắn được thời gian, chi phí, nâng cao chất lượng phân tích đánh giá khách hàng cho ngân hàng. Nhận thức rõ tầm quan trọng và ý nghĩa của công nghệ thông tin, trang thiết bị và phương tiện trong hoạt động tín dụng doanh nghiệp, Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô đã đầu tư số vốn hợp lý cho đổi mới công nghệ thông tin, trang bị cơ sở vật chất hiện đại phục vụ cho công tác tín dụng. Đối với cán bộ tín dụng đều được trang bị máy tính đồng thời cũng phải đảm bảo họ có khả năng sử dụng, ứng dụng công nghệ. - Lập ra quĩ hỗ trợ công tác phân tích tình hình tài chính khách hàng. Thẩm định tài chính doanh nghiệp là một quá trình liên tục, gắn liền với cả quá trình vay vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do vậy, chi nhánh nên lập ra quĩ thẩm định riêng, dự trù tất cả các khoản chi phí có thể dùng đến hay phát sinh, tạo điều kiện cho việc thẩm định dự án diễn ra theo đúng qui trình, thủ tục và có chất lượng tốt. - Giải pháp về xây dựng chiến lược khách hàng: Muốn có kết quả phân tích tài chính tốt phải có các BCTC tốt, mà BCTC tốt chỉ có được ở những khách hàng kinh doanh giỏi và độ trung thực cao. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng công tác phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp Chi nhánh cần xác định được một chiến lược khách hàng, một chính sách khách hàng phù hợp. Làm sao để các khách hàng hiểu được rằng ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó với nhau, bổ sung và tạo điều kiện cho nhau cùng rèn luyện và phát triển. Để làm được điều đó, Chi nhánh phải biết đánh giá cao loại khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín, đồng thời không được bỏ qua các khách hàng tiềm năng. Đối với loại khách hàng này, khi xây dựng chiến lược Chi nhánh phải hết sức quan tâm, gắn hoạt động của Chi nhánh với hoạt động của khách hàng, thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả nhất là cần có các chính sách ưu tiên thích hợp. Qua đó xây dựng trong lòng doanh nghiệp hình ảnh một ngân hàng luôn gần gũi và hỗ trợ kịp thời. 3.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng phân tích TCDN trong hoạt động tín dụng. 3.4.1. Đối với chính phủ. Hệ thống chính sách nhà nước có ảnh hưởng chi phối tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội...Về lĩnh vực ngân hàng, các hoạt động luôn bị ảnh hưởng bởi các chính sách kinh tế- tài chính- ngân hàng của nhà nước. Vì vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng nói chung và nâng cao chất lượng công tác phân tích tình hình TCDN nói riêng không chỉ cần nỗ lực của riêng ngân hàng mà còn cần sự giúp đỡ, phối hợp của các cơ quan hữu quan khác. - Tăng cường vai trò quản lý nhà nước với hoạt động tín dụng Đây là một chính sách hết sức quan trọng trong lĩnh vực quản lý tài chính- ngân hàng của nhà nước. Nó tác động tới hoạt động tín dụng nói chung và ảnh hưởng đến công tác phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng nói riêng. Nhà nước cần bổ sung hoàn thiện các văn bản, cơ chế chính sách nhằm quản lý tốt hơn hoạt động tín dụng để hoạt động này thực sự trở nên lành mạnh và có hiệu quả. Tuy nhiên, Nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động tín dụng của NHTM, ngân hàng phải có quyền tự chủ trong các quyết định tín dụng của mình, nên tách biệt giữa các khoản tín dụng kinh doanh của ngân hàng với các khoản tín dụng chỉ định, uỷ thác đầu tư do nhà nước yêu cầu. - Về hoạt động kế toán doanh nghiệp Nhà nước ban hành hệ thống chuẩn mực kế toán phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện kiểm toán bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Hiện nay công tác quản lý nhà nước về pháp lệnh kế toán thống kê với các doanh nghiệp chưa được chú ý đúng mức nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong khi đó, các công ty kiểm toán của nước ta còn non trẻ, đội ngũ cán bộ chưa nhiều kinh nghiệm, vì vậy, Nhà nước cần ban hành những sắc lệnh đi kèm với các chế tài bắt buộc để mọi doanh nghiệp phải áp dụng một cách thống nhất, đồng bộ chế độ kế toán và thông tin báo cáo phải trung thực và đầy đủ. Nhà nước phải ban hành quy chế bắt buộc kiểm toán và công khai quyết toán của doanh nghiệp. Việc thực hiện kiểm toán phải được tiến hành thường xuyên và cần phải có các chế tài xử lý nghiêm ngặt trong các trường hợp doanh nghiệp cung cấp các thông tin sai lệch nhằm đưa các doanh nghiệp này vào khuôn khổ hoạt động và phát triển lành mạnh. Có như vậy, cán bộ tín dụng mới có được những thông tin trung thực, cần thiết cho việc đánh giá tình hình tài chính của khách hàng, phòng ngừa rủi ro. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện kiểm toán, Nhà nước cần củng cố và mở rộng mạng lưới các cơ quan kiểm toán hơn nữa. Hiện nay, số lượng các doanh nghiệp của Việt Nam rất nhiều nhưng số lượng các công ty kiểm toán còn ít, chưa đáp ứng được nhu cầu kiểm toán của các doanh nghiệp, vì vậy việc mở rộng mạng lưới kiểm toán là một biện pháp rất cần thiết. 3.4.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước cần hỗ trợ về mặt nghiệp vụ và tiến hành định hướng cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. NHNN quản lý hoạt động của các NHTM thông qua việc ban hành các văn bản, quy định về hoạt động tín dụng, từ đó NHTM có thể tự sắp xếp, điều chỉnh hoạt động tín dụng của mình sao cho phù hợp với các định hướng đó. NHNN nên sớm hoàn thiện cơ chế trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro, NHNN có thể lập Phòng hỗ trợ công tác phân tích TCDN trong hoạt động tín dụng của các NHTM, phòng hỗ trợ này có nhiệm vụ giúp đỡ các ngân hàng hoàn chỉnh quy trình phân tích, có thể hỗ trợ đào tạo, nâng cao kinh nghiệm cho các cán bộ tín dụng và tổng hợp kinh nghiệm và bài học của các ngân hàng trong và ngoài nước về công tác này. NHNN cần có các biện pháp hỗ trợ các NHTM trong việc thu thập thông tin. Hiện nay, NHNN đang thực hiện việc này thông qua hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng CIC, được đặt tại Vụ tín dụng của NHNN, có chi nhánh tại NHNN các tỉnh thành phố, thu thập các thông tin về các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp (chủ yếu là các doanh nghiệp lớn). Dịch vụ của CIC đã được thương mại hoá nên chất lượng phục vụ ngày càng tăng. NHNN nên xây dựng các văn bản đủ hiệu lực, quy định cụ thể tác nghiệp như: nguồn cung cấp thông tin, người sử dụng thông tin, các chỉ tiêu thu thập, các tiêu thức đánh gía phân tích. Ngoài ra, NHNN cần ban hành các quy định bắt buộc các NHTM khai thác, tham gia CIC, coi đó như quyền lợi nghĩa vụ của mình. 3.4.3. Đối với Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam cần có các văn bản hướng dẫn và chế độ đào tạo cán bộ tín dụng nhằm giúp các cán bộ tín dụng có thể áp dụng quy trình đánh giá doanh nghiệp sao cho đúng đắn, chính xác hơn. Đây là một biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng công tác phân tích tình hình TCDN trong hoạt động tín dụng của các chi nhánh vì thực tế các chi nhánh hình thành thói quen làm việc theo văn bản, áp dụng một cách cứng nhắc văn bản vào thực tế công việc. Hỗ trợ các chi nhánh trong việc thu thập thông tin bằng cách tăng cường hơn nữa hiệu quả trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của hệ thống. Cần thiết lập các phòng thông tin tại các chi nhánh nhằm nâng cao hiệu quả thu thập xử lý thông tin, dữ liệu từ cơ sở. Đồng thời Hội sở chính phải có kế hoạch hỗ trợ đào tạo cán bộ tín dụng cho các chi nhánh song song với công tác tuyển dụng mới. Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam nên tổ chức hàng năm hội nghị toàn hệ thống về công tác phân tích TCDN trong hoạt động tín dụng nhằm báo cáo kết quả hoạt động và trao đổi kinh nghiệm thực tiễn nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác này trong toàn hệ thống. KẾT LUẬN Hiện nay trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, để tồn tại các ngân hàng buộc phải vừa tăng cường hoạt động cho vay vừa phải hạn chế được rủi ro. Để giải quyết được cả hai vấn đề, ngân hàng thực hiện một trong những biện pháp được coi là hiệu quả nhất đó là nâng cao chất lượng phân tích đánh giá khách hàng trong hoạt động tín dụng mà phân tích tài chính là một nội dung. Dựa trên cơ sở tìm hiểu thực tiễn tại Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô cùng với việc kế thừa những nghiên cứu trước đó, chuyên đề đã tập trung giải quyết được những vấn đề sau: Thứ nhất: chuyên đề đã hệ thống cơ sở lý luận về tín dụng ngân hàng, tín dụng doanh nghiệp và trình bày phương pháp, quy trình, nội dung của công tác phân tích tình hình TCDN trong hoạt động tín dụng. Thứ hai: chuyên đề đã phân tích và đánh giá thực trạng công tác phân tích tình hình TCDN của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô, chỉ ra những thành công và tồn tại của hoạt động tại chi nhánh. Thứ ba: chuyên đề đã nêu rõ định hướng phát triển hoạt động tín dụng nói chung và công tác phân tích tình hình TCDN trong hoạt động tín dụng nói riêng của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác phân tích TCDN trong hoạt động tín dụng của chi nhánh. Do tài liệu thu thập và thời gian nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên khoá luận không thể tránh khỏi có những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự thông cảm ,góp ý, chỉ bảo thêm của các thầy cô giáo, các cán bộ nhân viên của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô cùng các bạn sinh viên để có thể nghiên cứu sâu hơn đề tài này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo PGS.TS. Nguyễn thị thu Thảo và các thầy cô trong khoa Ngân hàng -Tài chính cùng tập thể cán bộ nhân viên Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Đông Đô đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Fredric S. Mishkin, Tiền tệ , ngân hàng va thị trường tài chính, NXB. khoa học va kĩ thuật,1994. Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại-NXB Tài chính. GS.TS Lê Văn Tư, Quản trị ngân hàng thương mại- NXB Tài chính 2005. Luật tổ chức tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam . Giáo trình ngân hàng thương mại – Trường đại học kinh tế quốc dân,NXB thống kê. TS .Nguyễn Hữu Tài,Giáo trình lý thuyết tài chính tiên tệ- Trường đại học kinh tế quốc dân, NXB thống kê . Giáo trình tài chính doanh nghiệp – Trường đại học kinh tế quốc dân,NXB thống kê 2005. Giáo trình thẩm định tài chính dự án- Trường đại học kinh tế quốc dân, NXB tài chính 2004 Tạp chí ngân hàng. ThS. Hoàng Huy Hà 2004 “ một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng. Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong xu thế hội nhập – NXB lí luận chính trị. Báo cáo thường niên của Ngân hang ĐT&PT Viêt Nam – Chi nhánh Đông Đô. Các trang web: vnn.vn, bidv.com.vn, sbv.gov.vn, vneconomy.com. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33186.doc
Tài liệu liên quan