Chuyên đề Giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm

LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: 3 HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ. 3 1.1. DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 3 1.1.1.Khái niệm. 4 1.1.2 Đặc điểm của DNVVN 5 1.1.3. Vai trò. 8 1.2 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI . 11 1.2.1 Sự hình thành và phát triển 11 1.2.2. Chức năng của ngân hàng thương mại . 13 1.2.3 Các nghiệp vụ chủ yếu. 14 1.3 HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI CÁC DNVVN 15 1.3.1 Các nguồn vốn huy động của DNVVN và sự cần thiết của nguồn vốn vay ngân hàng. 15 1.3.2Quy chế cho vay đối với các DNVVN ở nước ta hiện nay 17 1.3.3 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với sự phát triển DNVVN 20 1.4 NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DNVVN 23 1.4.1 Nhân tố từ phía ngân hàng . 23 1.4.2Nhân tố về phía doanh nghiệp 24 1.4.3 Những nhân tố khác . 27 CHƯƠNG 2: 29 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNVVN TẠI NHCTHK 29 2.1 SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM 29 2.1.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển 29 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng công thương hoàn kiếm. 30 2.1.3. Tình hình hoạt động của NHCTHK trong thời gian qua 32 - Các hoạt động khác 35 2.2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN TẠI NHCTHK 37 2.2.1Quy mô cho vay đối với DNVVN của NHCTHK 37 2.2.2. Dư nợ cho vay đối với các DNVVN phân theo thành phần kinh tế. 39 2.2.3 Dư nợ cho vay DNVVN phân theo thời hạn cho vay. 42 2.2.4 Về nợ quá hạn 44 2.3. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CHO VAY DNVVN TẠI NHCTHK. 45 2.3.1. Những kết quả đạt được: 45 2.3.2Những hạn chế cần khắc phục. 46 2.3.3. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế. 48 CHƯƠNG 3 : 52 GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNVVN 52 3.1 PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU CỦA HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN 52 3.1.1Định hướng phát triển DNVVN ở Việt Nam tới năm 2010 52 3.1.2 Định hướng hoạt động cho vay của NHCTHK trong năm 2004. 53 3.2 GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNVVN TẠI NHCTHK. 55 3.2.1 Xây dựng một cơ chế cho vay linh hoạt phù hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ 56 3.2.2/ Đẩy mạnh hoạt động Marketting Ngân hàng : 61 3.2.3 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định khách hàng và dự án vay vốn 62 3.2.4/ Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trong tất cả các khâu của quá trình cho vay. 65 3.2.5/ Coi trọng công tác tổ chức bồi dưỡng trình độ cho cán bộ tín dụng 66 3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. 68 3.3.1Kiến nghị đối với các cơ quan quản lí nhà nước . 68 3.3.2Kiến nghị với NHCTVN 70 3.3.3 kiến nghị với các DNVVN 70 KẾT LUẬN 73

doc75 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iên . Cụ thể ngân hàng đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ tín dụng trẻ tuổi , năng động và nhiệt tình với công việc nhờ đó hoạt động cho vay được thực hiện thuận lợi, nhanh chóng hơn. 2.3.2Những hạn chế cần khắc phục. Bên cạnh những kết quả đã đạt được , hoạt động cho vay đối với các DNVVN còn rất nhiều tồn tại cần được tiếp tục khắc phục: Thứ nhất, dù đã dành được nhiều sự chú ý đến các DNVVN nhưng khối lượng cho vay các DNVVN còn rất thấp, quy mô nhỏ bé , số lượng các DNVVN có quan hệ tín dụng với ngân hàng còn quá ít so với hơn 300 DNVVN trên địa bàn thành phố Hà Nội. Điều này chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của ngân hàng , chưa tạo ra được bước phát triển mạnh cho DNVVN . Khoảng chênh lệch giữa các doanh nghiệp lớn và các DNVVN còn rất lớn .Trong khi thị trường các DNVVN còn đang rộng lớn , rất nhiều tiềm năng và cần được khai thác. Những yêu cầu và điều kiện ngân hàng đặt ra đối với các DNVVN còn quá khắt khe. Vì thế rất nhiều các DNVVN gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay ngân hàng nhất là các doanh nghiệp mới thành lập , họ đành phải phải tìm đến các nguồn vay khác với giá cao hơn nhiều . Như thế , chính ngân hàng cũng đã bỏ qua nhiều qua nhiều cơ hội kinh doanh tốt , hứa hẹn thu được lợi nhuận cao . Thứ hai là nhìn vào biểu đồ về dư nợ cho vay đối với DNVVN phân theo thành phần kinh tế ở phần thực trạng , ta thấy còn có sự phân biệt đối xử rõ nét giữa khu vực kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh. Dư nợ cho vay đối với kinh tế Nhà nước luôn chiếm tỉ lệ áp đảo. Khi xét duyệt cho vay , DNNN vẫn luôn là đối tượng khách hàng được ưu tiên, trong đó có DNVVN . Lợi thế của DNNN là uy tín, tài sản thế chấp, từng có quan hệ tín dụng với ngân hàng , thực hiện đúng chế độ kế toán…. đã tạo điều kiện để doanh nghiệp vay vốn ngân hàng . Các doanh nghiệp vay thuộc sở hữu Nhà nước nên đã tạo được sự tin tưởng với ngân hàng . Vì thế, quá trình xét duyệt cho vay và thẩm định được tiến hành nhanh hơn, đơn giản hơn. Còn các DNVVN ngoài quốc doanh thì phải chặt chẽ, khắt khe hơn . Chính vì thế mà dư nợ cho vay đối với khu vực KTNQD còn rất hạn chế. Thứ ba, về phương thức cho vay. Theo quyết định 1627/2001-QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế cho vay thì ngân hàng đươc quyền áp dụng rất nhiều phương thức cho vay . Nhưng hiện nay, NHCTHK chỉ áp dụng có 3 phương thức cho vay chính. Đó là cho vay theo hạn mức, cho vay từng lần, và cho vay theo dự án. Đây cũng là cách thức cho vay phổ biến của các NHTM khác chứ không riêng gì NHCTHK . Nhưng thực tế thì nhu cầu của khách hàng rất đa dạng và ngân hàng có thể áp dụng những phương thức khác tối ưu hơn. Thứ tư, về tài sản đảm bảo . Các DNVVN gặp rất nhiều khó khăn khi vay vốn từ ngân hàng bởi muốn vay được vốn từ ngân hàng, các doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo, và theo quy định cho vay của ngân hàng, ngân hàng chỉ chấp nhận cho vay tối đa tới 70% giá trị của tài sản đảm bảo. Bởi vậy, rất nhiều doanh nghiệp đã không thể đáp ứng được yêu cầu này. Mặt khác, việc đánh giá giá trị tài sản quá thấp của ngân hàng (bằng khung giá của Nhà nước nhân hệ số ) nên một số khách hàng do cần vốn lớn đành phải từ bỏ ngân hàng để đi tìm một nguồn khác. 2.3.3. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế. 2.3.3.1. Nguyên từ phía Nhà nước. Tuy hệ thống văn bản liên quan đến hoạt động của ngân hàng đã được dần sửa đổi và bộ sung, nhưng nó vẫn còn chưa hoàn thiện, vẫn chưa đủ để điều chỉnh những diễn biến phức tạp của hoạt động ngân hàng. Giữa các văn bản luật ngân hàng và các luật khác có liên quan như Luật đất đai, luật doanh nghiệp, Luật dân sự, hình sự… chưa đồng bộ, nhiều khi còn mâu thuẫn , khi xảy ra tranh chấp thì rất khó giải quyết. Thêm nữa, Nhà nước lại chưa có chính sách cụ thể và rõ ràng đối với việc vay vốn của các DNVVN . Trong cơ chế cho vay do NHNN ban hành tuy không có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, nhưng trên thực tế các quy định về cho vay như bảo đảm tiền vay lại là những cản trở đối với khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận với vốn vay ngân hàng , trong đó quy định khách hàng khi vay vốn ngân hàng phải có tài sản thế chấp có nguồn gốc xác định, mà đối với các DNVVN, tài sản thế chấp hiện nay chủ yếu là đất đai, nhà xưởng nhưng những tài sản này lại chưa được cơ quan có trách nhiệm cấp chứng từ sở hữu cho chủ tài sản đó. Chính vì vây mà ngân hàng rất khó xem xét , xử lý tài sản thế chấp. Công tác quản lý nhà nước đối với các DNVVN còn nhiều sơ hở , lơi lỏng dẫn đến tình trạng phát triển tràn lan nhưng không hiệu quả của các DNVVN trong thời gian qua. Nhiều doanh nghiệp có những biểu hiện làm ăn phi pháp , trốn thuế… ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh của các DNVVN khác. Hơn nữa, bộ máy theo dõi và quản lý của nhà nước chưa bắt kịp nhịp độ phát triển của các doanh nghiệp này. Theo quy định, cơ quan chủ quản về đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xây dựng và quản lý hệ thống thông tin về doanh nghiệp trong phạm vi trách nhiệm của mình, và cung cấp thông tin về doanh nghiệp cho các tổ chức , cá nhân có nhu cầu. Tuy vậy, các phòng đăng ký kinh doanh mới chỉ làm được chức năng tiếp nhận hồ sơ và cấp đăng ký kinh doanh , chứ chưa cập nhật thông tin, theo dõi các động thái hoạt động sản xuất kinh doanh của DNVVN. Điều này cản trở ngân hàng nắm bắt các thông tin về doanh nghiệp để ra quyết định cho vay. 2.3.3.2. Về phía các DNVVN : Những điểm yếu và khó khăn của DNVVN trong hoạt động sản xuất kinh doanh chính là một trong những nguyên nhân chính hạn chế việc ngân hàng cung cấp tín dụng cho các DNVVN . Trong thời gian qua, được sự hỗ trợ của các cấp , các ngành các DNVVN đã có những thay đổi đáng kể , nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm. Một trong những khó khăn lớn nhất mà các DNVVN gặp phải khi vay vốn tại ngân hàng là thiếu những dự án khả thi. Thường các DNVVN tham gia vào các hoạt động thị trường không mang tính định hướng chiến lược , ít đề ra được cho mình một kế hoạch sản xuất lâu dài, hơn nữa do thiếu thông tin thị trường mà họ ít có khả năng nắm bắt cơ hội đầu tư, khó xây dựng được một dự án thuyết phục . Do không có kinh nghiệm và trình độ năng lực hạn chế nên các dự án của các DNVVN nhiều khi không tính toán đầy đủ , rõ ràng các yếu tố chi phí, thời gian chỉnh sửa hay thẩm định và ảnh hưởng đến quyết định cho vay . Nhìn chung, khả năng lập dự án đầu tư của các DNVVN còn yếu, chủ yếu là hình thức do đó tính khả thi, thuyết phục không cao, khó mà đạt được nguồn vốn tín dụng của ngân hàng . Các DNVVN với đặc điểm là qui mô nhỏ, vốn tự có ít, năng lực tài chính nhỏ bé, thường không có đủ tài sản thế chấp tương ứng với lượng vốn cần vay, hoặc có nhưng lại thiếu giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hợp pháp tài sản đó. Hoặc không đáp ứng đủ tỷ lệ vốn tự có tham gia vào dự án theo quy định của ngân hàng . Nhiều doanh nghiệp mới thành lập chưa tạo dựng được uy tín với khách hàng cũng như với ngân hàng … Với hiện trạng đó, các DNVVN rất khó tiếp cận với vốn vay ngân hàng . Một thực tế nữa là hầu hết các DNVVN đều chưa thực hiện tốt chế độ hạch toán kế toán theo pháp lệnh hạch toán kế toán. Cụ thể là phần lớn các báo cáo của doanh nghiệp đều được lập một cách thiếu chính xác, thường xuyên được chỉnh sửa để đáp ứng các yêu cầu . Do đó , nó không thể phản ánh được tình hình thực tế tại doanh nghiệp . Hầu hết các doanh nghiệp chưa thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính , gây khó khăn trong việc xem xét quyết định cho vay. Hiện tượng một số DNVVN làm ăn phi pháp, lừa đảo , chiếm dụng vốn và nhất là giả mạo giấy tờ vay vốn ngân hàng rồi bỏ trốn, đã tạo nên ấn tượng không tốt về các DNVVN. Hay một số doanh nghiệp cố tình sử dụng vốn vay sai mục đích, không trả nợ đúng hạn…tạo nên tâm lý e ngại cho các cán bộ tín dụng khi xem xét cho vay . Dù con số doanh nghiệp như vậy không nhiều nhưng nó cũng hạn chế phần nào sự đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các DNVVN . 2.3.3.3Về phía ngân hàng . Mặc dù chính sánh của Nhà nước đã nêu rõ: tạo sân chơi công bằng bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp nhưng trên thực tế thì các quy chế cho vay của ngân hàng về tải thế chấp , cầm cố , bảo lãnh yêu cầu vốn tự có của doanh nghiệp tham gia vào dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh , dịch vụ … luôn là vấn đề khó khăn cho các DNVVN , đặc biệt là các DNVVN ngoài quốc doanh, khi tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng . Đây không phải vấn đề của riêng NHCTHK mà là của chung cho toàn ngành ngân hàng . Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ do đó mục tiêu của ngân hàng không nhằm vào điều gì khác ngoài lợi nhuận. Hoạt động chính của ngân hàng là cho vay nhưng không phải cho vay càng nhiều càng tốt mà cho vay có sàng lọc những khách hàng có uy tín và năng lực để đảm bảo chất lượng tín dụng , giảm bớt tình trạng nợ quá hạn , nợ khó đòi và tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Rõ ràng với tình hình hiện nay các DNVVN chưa phải là những khách hàng có uy tín và năng lực của ngân hàng . Cho vay các DNVVN là ngân hàng chấp nhận rủi ro , mạo hiểm. Vì vây ngân hàng vẫn có tâm lí e ngại , dè chừng khi cho vay DNVVN. Thêm vào đó , đội ngũ cán bộ tín dụng trong ngân hàng chưa phải là đã có kiến thức và và kinh nghiệm đầy đủ về hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Nhiều cán bộ tín dụng bị khách hàng lừa đảo , tạo hình ảnh không đẹp về ngân hàng . Tình trạng hình sự hoá các mối quan hệ kinh tế , dân sự trong quan hệ vay vốn ngân hàng với khách hàng thời gian qua đã tác động lớn đến cán bộ tín dụng . Các cán bộ tín dụng sợ trách nhiệm hình sự nên đã hạn chế việc mở rộng cho vay , nhất là đối với kinh tế tư nhân quy mô vừa và nhỏ, mặc dù họ có dự án đầu tư tốt , mang tính khả thi. Một vấn đề khác là ngân hàng không có những thông tin đầy đủ chính xác về các DNVVN . Ngân hàng đã phải hạn chế cho vay khu vực DNVVN vì những rủi ro bất khả kháng, không thể dự đoán trước được bởi những thông tin sai lệch do khách hàng cung cấp mà ngân hàng không có khả năng thẩm định tính chính xác của nó. Bên cạnh đó , khả năng về nguồn vốn phát triển tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng còn hạn chế. Trong cơ cấu nguồn vốn huy động thì lại chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn, chiếm tới 55%. Trong khi đó nhu cầu của các DNVVN lại chủ yếu là vốn trung và dài hạn để phát triển sản xuất đổi mới thiết bị , công nghệ. Do đó ngân hàng đã hạn chế không cho các doanh nghiệp vay vì sợ doanh nghiệp không có khả năng chi trả , ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng . CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNVVN 3.1 PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU CỦA HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN 3.1.1Định hướng phát triển DNVVN ở Việt Nam tới năm 2010 Hỗ trợ DNVVN là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta: Với những ưu thế vốn có của mình, DNVVN phát triển sẽ giải quyết sức ép về việc làm cho xã hội tăng thêm thu nhập và cải thiện đời sống cho người dân đồng thời là một biện pháp để tăng tích luỹ cho nền kinh tế phục vụ cho các giai đoạn phát triển sau này . Tuy nhiên , loại hình doanh nghiệp này ở Việt Nam tuy đông đảo về số lượng nhưng thực chất số lượng vẫn chưa cao . Hỗ trợ phát triển DNVVN sẽ khuyến khích và tăng cường cạnh tranh ngay tại thị trường trong nước các doanh nghiệp sẽ phải không ngừng vươn lên khẳng định vị trí của mình bằng chất lượng và hiệu quả . Nhờ đó , nền kinh tế sẽ có cơ hội phát triển , tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới , thúc đẩy tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. -DNVVN được ưu tiên phát triển trong một số ngành có lựa chọn: Do đặc điểm vốn đầu tư tương đối nhỏ và số lao động không nhiều nên DNVVN đặc biệt có lợi thế trong một số lĩnh vực sau: +Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh +Sản xuất chế biến đầu vào cũng như tổ chức tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho các doanh nghiệp lớn tạo ra mối liên hệ chặt chẽ giữa hai loại hình doanh nghiệp này từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế cho hoạt động sản xuất . +Các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp nông thôn thủ công mĩ nghệ , các sản phẩm gia truyền vừa phát huy tinh hoa dân tộc vừa tạo thu nhập cho người nông dân ở nông thôn. -Ưu tiên phát triển DNVVN ở nông thôn cả trong công nghiệp và trong ngành dịch vụ, coi công nghiệp vừa và nhỏ là biện pháp quan trọng trong chiến lược CNH-HĐH ở nông thôn. Nước ta hiện nay có khoảng 80% dân số sống ở nông thôn , nhưng có sự chênh lệch đáng kể giữa nông thôn và thành thị. Với chủ trương đảm bảo sự phát triển cân bằng giữa các vùng các miền trong cả nước , Đảng và Nhà nước ta đã khuyến khích phát triển loại hình doanh nghiệp này ở nông thôn . Thực tế trong thời gian qua , DNVVN đã làm cho bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi , khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân lực sẵn có tại địa phương, đời sống của nhân dân tăng lên đáng kể. -Phát triển các DNVVN trong mối liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp lớn. Cụ thể là thực hiện chuyên môn hoá có hiệu quả giữa DNVVN với doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp lớn hỗ trợ cácVNVVN trong việc đào tạo tay nghề , trao đổi thông tin , chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lí , giao thầu lại một phần việc trong các hợp đồng lớn tạo điều kiện cùng phát triển có hiệu quả. -Phát triển các khu , cụm công nghiệp dành cho các DNVVN : Đây là một trong những giải pháp nhằm sắp xếp bố trí lại DNVVN nhằm giải quyết khó khăn về cơ sở hạ tầng cũng như tạo thuận lợi cho Nhà nước trong việc hỗ trợ giúp đỡ doanh nghiệp . 3.1.2 Định hướng hoạt động cho vay của NHCTHK trong năm 2004. Năm 2004, tình hình kinh tế xã hội trong nước và quốc tế sẽ có nhiều thuận lợi . Nền kinh tế tiếp tục phát triển vững chắc với tốc độ tăng trưởng cao . Bên cạnh những thuận lợi chung thì hoạt động kinh doanh của NHCTHK tiếp tục phải đối mặt với những khó khăn , thách thức lớn đòi hỏi ngân hàng phải nỗ lực cao về mọi mặt. Nhằm cụ thể hoá phương hướng và để thực hiện tốt những nhiệm vụ ban lãnh đạo NHCTHK quán triệt tại hội nghị tổng kết năm 2003 , NHCTHK đã đề ra những hướng triển khai trong hoạt động cho vay trong năm 2004 như sau: -Nghiên cứu nắm chắc tình hình sản xuất kinh doanh của đất nước , xu hướng biến động của từng ngành nghề sản xuất kinh doanh mà khách hàng là các DNVVN đang hoạt động , đưa ra các sách lược phù hợp với từng thời kì, tránh những ảnh hưởng xấu có tính chu kì của nền kinh tế . -Tập trung nâng cao chất lượng tín dụng , kiên quyết làm mạnh hoá và minh bạch hoá chất lượng tín dụng . Thường xuyên rà soát , phân tích đánh giá khách hàng , rút dư nợ và chấm dứt quan hệ với các khách hàng có tình hình sản xuất kinh doanh yếu kém. Thực hiện nghiêm túc quy chế tín dụng và chỉ đạo của NHNN, NHCTVN, tăng cường kiểm tra , giám sát việc sử dụng vốn vay và hoạt động kinh doanh của khách hàng , kiên quyết chuyển nợ quá hạn kịp thời các khoản nợ xấu. Tiếp tục thay đổi toàn diện cơ cấu tín dụng ( gồm cả cơ cấu cho vay theo ngành , theo thành phần kinh tế , theo quy mô khách hàng , theo đối tượng vay vốn ) theo hướng tập trung đầu tư cho vay các đối tượng có ít rủi ro , đa dạng hoá khách hàng vay vốn, mở rộng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh , chú trọng cho vay các DNVVN và khách hàng cá nhân , cho vay phục vụ tiêu dùng , sinh hoạt .. Giải quyết có trách nhiệm , bài bản các khoản nợ quá hạn , nợ khó đòi , áp dụng các biện pháp mạnh đối với những con nợ chây ì , nhằm thu hồi vốn đọng tái tạo vốn cho kinh doanh -Tiếp tục mở rộng cho vay đối với những khách hàng là các DNVVN có dự án khả thi , các công trình trọng điểm , ngằm giữ vững và nâng cao chất lượng dư nợ. -Thực hiện tốt công tác huy động vốn , đẩy mạnh thu hút tiền gửi dân cư với những dịch vụ thuận lợi và công nghệ hiện đại , bởi đây là nguồn vốn nhàn rỗi , ổn định và lâu dài nhất cho hoạt động cho vay của ngân hàng . Chỉ tiêu đặt ra cho năm 2004: Dư nợ cho vay 5500 tỷ Nguồn vốn 1200 tỷ Lợi nhuận 27tỷ NHCTHK đang tập trung cao độ để thích nghi với những yêu cầu mới của thị trường. Hy vọng với hướng phát triển mới , mở rộng cho vay với các DNVVN sẽ có những đóng góp đáng kể cho ngân hàng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2004 và những năm tiếp theo. 3.2 GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNVVN TẠI NHCTHK. DNVVN đang ngày càng chứng minh vai trò tích cực của mình trong nền kinh tế quốc dân, và hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển trong những năm tới. Tuy nhiên, hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp này vẫn còn chưa tương xứng với vai trò của nó. Vì vậy , việc mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác cho vay đối với DNVVN là rất cần thiết đối với hệ thống ngân hàng nói chung và đối với NHCTHK nói riêng. Trên cơ sở các nhận xét , phân tích về vai trò , vị trí , sự cần thiết khách quan của các DNVVN trong nền kinh tế , cũng như chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước và nhất là định hướng trong hoạt động cho vay đối với DNVVN tại NHCTHK , xin được đưa ra một số giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với DNVVN tại NHCTHK như sau: 3.2.1 Xây dựng một cơ chế cho vay linh hoạt phù hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ 3.2.1.1 Về chính sách lãi suất Chúng ta biết rằng , lãi suất cho vay là giá cả của tín dụng, và cũng là cái giá mà doanh nghiệp phải trả cho ngân hàng để dược sử dụng một khoản tiền vay. Mặt khác , lãi suất cũng là một phần chi phí sản xuất của doanh nghiệp . Bởi thế, nên một trong những điều quan tâm của doanh nghiệp khi đến vay vốn ngân hàng là lãi suất bởi lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận mang lại cho doanh nghiệp . Nếu lãi suất quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn và làm giảm thu nhập hay lợi nhuận của doanh nghiệp Lãi suất phụ thuộc chặt chẽ vào chính sách tài trợ của ngân hàng cũng như tình hình thị trường tài chính trong nước và quốc tế. Không phải ngân hàng nào cũng có thể dùng lãi suất thấp để thu hút khách hàng bởi nó ảnh hưởng đến thu nhập và chi phí hoạt động của ngân hàng. Nếu điều này xảy ra sẽ gây nên cuộc chạy đua về lãi suất giữa các ngân hàng mà hậu quả thường rất xấu , tác động lớn đến hoạt động kinh doanh ngân hàng. Một lãi suất cho vay hợp lý là lãi suất phải thấp hơn tỷ suất lợi nhuận thu được của doanh nghiệp vay vốn , đồng thời phải cao hơn chi phí hoạt động vốn của ngân hàng và một số chi phí hoạt động khác. Cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có rủi ro lớn hơn, chi phí cho thẩm định giao dịch cũng lớn hơn. Vì vậy, mà lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cao hơn so với doanh nghiệp lớn, các tổng công ty đã có quan hệ với tín dụng lâu dài với ngân hàng . Vì vậy, để chính sách lãi suất thúc đẩy mở rộng tín dụng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì ngân hàng nên áp dụng mức lãi suất đa dạng, linh hoạt cho từng loại khách hàng, dùng lãi suất như một công cụ kích thích các doanh nghiệp chú ý và sử dụng sản phẩm tín dụng của ngân hàng. Ngân hàng phải tiến hành phân loại khách hàng để cho vay với các mức lãi suất khác nhau. Chúng ta biết rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ là một khu vực kinh tế đa dạng , hoạt động trong nhiều lĩnh vực , thuộc nhiều ngành nghề và thuộc nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Với các ngành nghề sản xuất kinh doanh đang có nhiều triển vọng phát triển, được Nhà nước khuyến khích hỗ trợ, các khách hàng quen thuộc, vốn có quan hệ tín dụng với ngân hàng từ trước , được ngân hàng tín nhiệm thì ngân hàng có thể xem xét mức lãi suất thấp hơn so với các khách hàng khác nhau. 3.2.1.2. Phương thức cho vay: Trong quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng do thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam ban hành, có quy định: Trên cơ sở nhu cầu sử dụng từng khoản vốn vay của khách hàng , độ tín nhiệm của khách hàng trong quan hệ tín dụng và khả năng kiểm tra giám sát khách hàng sử dụng vốn vay ngân hàng , ngân hàng thoả thuận với khách hàng về việc áp dụng phương thức cho vay phù hợp . Như vậy có nghĩa là có rất nhiều phương thức cho vay mà ngân hàng có thể áp dụng với khách hàng như phương thức cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án, cho vay trả góp, cho vay thông qua nhiệm vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng , cho vay theo hạn mức thấu chi… Nhưng hiện nay, Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm mới chỉ áp dụng chủ yếu 3 phương thức cho vay từng lần , cho vay theo dự án và cho vay theo hạn mức đối với các DNVVN. Điều này phần nào cũng làm hạn chế khả năng mở rộng hoạt động tín dụng của ngân hàng đối với các DNVVN. Do đó, giải pháp về phương thức cho vay ở đây là ngân hàng nên mạnh dạn áp dụng thêm các phương thức cho vay khác đối với các khách hàng là các doanh nghiệp có tình hình sản xuất kinh doanh ổn định, vay vốn trả nợ thường xuyên và có tín nhiệm với ngân hàng. 3.2.1.3/ Thời hạn cho vay: Thời hạn cho vay là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới an toàn vốn vay ngân hàng cũng như tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng số tiền vay được một cách hiệu quả . Xác định kỳ hạn nợ hợp lý không chỉ tạo điều kiên thuận lợi cho doanh nghiệp luôn đủ vốn thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục mà còn giúp ngân hàng có thể thu lãi và gốc với tỉ lệ cao. Điều này quyết định bởi chính các cán bộ tín dụng của ngân hàng. Các cán bộ tín dụng ngân hàng nên xác định và điều chỉnh thời hạn cho vay, thời gian biểu trả lãi, trả gốc một cách linh hoạt , phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của DNVVN. Do một trong các nhược điểm của các DNVVN là hạn chế về trình độ công nghệ kỹ thuật và khả năng trang bị máy móc hiện đại nên nguồn vốn mà các DNVVN đang thiếu là nguồn vốn trong dài hạn để đầu tư vào các dây chuyền sản xuất công nghệ mới. Vì vậy, ngân hàng cần căn cứ vào tình hình thực tế, khả năng sinh lời và tuổi thọ của thiết bị máy móc để xác định thời hạn cho vay phù hợp. Ngân hàng cũng có thể dựa vào các thông tin từ khách hàng như báo cáo tài chính gồm: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, hợp đồng mua bán của doanh nghiệp để xác định kỳ hạn nợ, dù mức độ chính xác của kỳ hạn nợ này chỉ là tương đối bởi việc xác định kỳ hạn nợ cho khoản vay tuyệt đối chính xác là rất khó. 3.2.1.4/ Vấn đề đảm bảo tiền vay. Trên lý thuyết , tài sản đảm bảo là nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn trả nợ thứ nhất là thu nhập từ hoạt động kinh doanh không đủ đảm bảo trả nợ . Thực tế, đa số các ngân hàng ở nước ta trong đó có Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm khi xem xét một đơn xin vay hầu như chỉ quan tâm đến giá trị tài sản thế chấp và các giấy tờ liên quan đến giá trị tài sản thế chấp có đây đủ và hợp pháp không. Dẫu biết rằng việc cho vay DNVVN là rủi ro cao và các doanh nghiệp không có nhiều uy tín để làm đảm bảo cho ngân hàng . Vì thế nên với đối tượng khách hàng là các DNVVN thì ngân hàng phải coi tài sản đảm bảo là một yếu tố quan trọng. Tuy nhiên, không nên tuyệt đối hoá vai trò của tài sản đảm bảo và coi đây là điều kiên tiên quyết để quyết định cho vay. Bởi trong điều kiện của nước ta hiện nay thì tài sản thế chấp chưa thể được coi là một đảm bảo chắc chắn cho doanh nghiệp bởi vấn đề xử lý tài sản thế chấp còn gặp nhiều khúc mắc , ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc thu hồi vốn khi doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả . Trong khi đó, với quy mô “vừa và nhỏ” tức là không lớn lắm nên vốn chủ sở hữu của DNVVN thường phải thế chấp tài sản có giá trị lớn hơn nhiều so với giá trị khoản vay đó để đảm bảo trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng. Đây quả là một thách thức lớn đối với DNVVN khi muốn tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng . Không phải chúng ta phủ nhận vai trò , tầm quan trọng của các tài sảm đảm bảo nhưng trong điều kiện cụ thể hiện nay thì ngân hàng không nên quá coi trọng tài sản thế chấp. Vì trong những năm qua, tài sản thế chấp đã chứng tỏ nó không phải là vật đảm bảo tiền vay phù hợp và duy nhất. Làm như vậy , vô hình chung , ngân hàng đã làm khó cho các DNVVN muốn vay vốn. Ngân hàng nên cho vay dựa vào thực trạng doanh nghiệp , thẩm định chắc chắn dự án đầu tư, coi trọng thông tin kế toán và kiểm toán tài chính, tức là dựa vào năng lực thực tế của doanh nghiệp thông qua quá trình xét duyệt , cán bộ ngân hàng phải có điều kiên sử dụng các dịch vụ tư vấn có liên quan và có thẩm quyền ( về pháp lý, thẩm định dự án…..) để làm giảm rủi ro ngay từ ban đầu. Một vấn đề nữa là trong công tác định giá tài sản đảm bảo hiện nay , theo quy định của NHNN là định giá theo khung giá của nhà nước và một phần theo giá cả thị trường , thì cán bộ tín dụng có thể tự linh hoạt điều chỉnh cho phù hợp . Như vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng là các DNVVN hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng cán bộ tín dụng có thể xét đến yếu tố thị trường nhiều hơn khi định giá tài sản cố định . Như thế giá trị tài sản đảm bảo sẽ được xác định cao hơn và khách hàng sẽ có thể vay được nhiều hơn. Các cán bộ ngân hàng nên xem xét đến vấn đề này , coi đó như một giải pháp mở rộng cho vay đối với DNVVN. Ngoài ra, một hình thức cho vay không có tài sản đảm bảo hiện nay đang được quan tâm là hình thức cho vay tín chấp. Đây là hình thức cho vay dựa trên uy tín và kết quả hoạt động thực tế của doanh nghiệp. Có thể áp dụng hình thức cho vay tín chấp này đối với các doanh nghiệp đã có quan hệ tín dụng lâu dài, tin cậy đối với ngân hàng. Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm có thể xem xét để đưa hình thức cho vay này áp dụng với các khách hàng là DNVVN. Nhất là khi Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN đã ra đời thì hình thức cho vay này được đánh giá là có nhiều cơ hội phát triển, mở ra giải pháp mới trong việc thúc đẩy tín dụng đối với các DNVVN. Quỹ bảo lãnh tín dụng có nguyên lý cơ bản là DNVVN đi vay ngân hàng với sự bảo lãnh của quỹ. Quỹ là nguồn trung gian đắc lực giữa ngân hàng và DNVVN trong việc thẩm định dự án của doanh nghiệp để kiến nghị với ngân hàng cho vay. Quỹ còn đứng ra bảo lãnh cho các khách hàng vay còn thiếu thế chấp và trả nợ thay cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp chưa có khả năng trả nợ. Vì thế, các DNVVN có uy tín hoặc có nhiều dự án khả thi mà không đủ tài sản thế chấp có thể dựa vào thiết chế bảo lãnh tín dụng để dễ dàng tiếp cận với vốn vay ngân hàng. Tất nhiên, khách hàng trong trường hợp này phải là DNVVN có đủ số liệu thực tế để chứng minh được tình hình tài chính thực tế của mình là lành mạnh, có tài sản cố định và tài sản lưu động đủ lớn, hàng hoá - dịch vụ đang sản xuất kinh doanh có hiệu quả và ổn định trên thị trường. Vì thế, Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm nên mạnh dạn áp dụng cho vay dưới hình thức này bởi sự bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng dành cho DNVVN cũng có thể coi như là một nguồn trả nợ thứ hai cho ngân hàng khi nguồn thứ nhất không đảm bảo. 3.2.2/ Đẩy mạnh hoạt động Marketting Ngân hàng : Quan niệm trước đây trong thời bao cấp, cho rằng : Các doanh nghiệp phải tự tìm hiểu, lựa chọn, tìm dến ngân hàng, ngân hàng chỉ việc thực hiện quan hệ tín dụng với những khách hàng có nhu cầu và tìm đến mình thì giờ đây không còn đúng nữa. Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, khi mà sự cạnh tranh giữa các ngân hàng càng ngày càng càng trở nên gay gắt thì ngân hàng không thể ngồi yên để chờ cho khách hàng tự đến với mình. Bởi nếu không tự đi tìm khách hàng thì ngân hàng sẽ rất khó tồn tại , thị phần sẽ bị các đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh . Vì thế , Marketing ngân hàng là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng. Tuy nhiên, những hoạt động thuộc về Marketting của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm thực hiện còn hạn chế . Mặc dù trong năm vừa qua, trong quá trình tái cơ cấu lại hệ thống tổ chức trong ngân hàng, đã có thêm phòng tiếp thị tổng hợp, với nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện các chiến lược Marketting ngân hàng . Nhưng vẫn còn tồn tại tình trạng khách hàng biết quá ít hay chưa biết đến những tiện ích của các dịch vụ mà ngân hàng có thể cung cấp, hay các tầng lớp dân cư, hộ sản suất hiểu biết rất hạn chế về hoạt động tín dụng ngân hàng. Nhiều đơn vị kinh tế nghĩ rằng, việc vay vốn ngân hàng rất khó khăn về thủ tục, thời gian. Hơn nữa họ cũng không hiểu biết nhiều về hình thức cho vay mà ngân hàng đang áp dụng như về thời gian , lãi suất, từ đó ngân hàng bị mất khả năng lựa chọn đon vị tài trợ vốn cho khách hàng . Vì thế, để cho vay đối với các DNVVN thì trong thời gian tới , ngân hàng cần phải tích cực áp dụng các biện pháp Marketting khác nhau, phù hợp với tình hình thực tế đối với các DNVVN. Cụ thể là - Ngân hàng phải đẩy mạnh tìm kiếm khách hàng Ngân hàng phải chủ động tìm kiếm những DNVVN hoạt đông hiệu quả, sản xuất kinh doanh có lãi hay đang có dự án khả thi, ngân hàng có thể lên danh sách , liệt kê tất cả các DNVVN đã mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, từ đó ngân hàng xác định được DNVVN nào đã có quan hệ tín dụng với ngân hàng và doanh nghiệp nào chưa có quan hệ tín dụng . Khi ngân hàng chủ động tìm đến khách hàng thì ngân hàng đã có được một số thông tin cần thiết về khách hàng hay nói cách khác, ngân hàng đã chủ động thẩm định được một phần về khách hàng. Điều này sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng phát hiện kịp thời về những thông tin mà khách hàng cung cấp để kịp thời xử lý. Mặt khác , đây là một biện pháp tiếp thị rất hiệu quả , nhất là đối với những DNVVN mới thành lập hoặc mới vay ngân hàng lần đầu và ngay cả những khách hàng đã từng vay các ngân hàng thương mại khác. - Tăng cường thực hiện chính sách giao tiếp khuyếch trương với khách hàng , phương tiện truyền thanh truyên hình , báo chí.. . nhất là khi có sản phẩm mới hay cải tiến. Ngoài ra, ngân hàng còn có thể phát tờ rơi, thông báo trên loa đài, địa phương… Bên cạnh đó, ngân hàng phải trực tiếp tiếp cận khách hàng. Hoạt động này phải được thực hiện thường xuyên, mọi lúc, mọi nơi. Cán bộ ở các bộ phận giao dịch với khách hàng có thể giới thiệu về các sản phẩm tín dụng, mời khách hàng đặt quan hệ tín dụng ngân hàng. Các cán bộ ngân hàng khi đi dự hội thảo , hội nghị tranh thủ làm quen với doanh nghiệp và giới thiệu họ đến giao dịch với ngân hàng . Tổ chức hội nghị khách hàng, mời các DNVVN và cơ quan hữu quan trung gian, tạo điều kiện cho các bên trực tiếp gặp gỡ thảo luận các vấn đề liên quan, do đó củng cố mối quan hệ gắn bó giữa Ngân hàng với các DNVVN, lấy ý kiến của các ngân hàng về những mong muốn của họ, những khó khăn thực tế doanh nghiệp phải đối mặt khi vay vốn ngân hàng . Từ đó , nắm được nhu cầu của khách hàng và đề ra những phương hướng đáp ứng 3.2.3 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định khách hàng và dự án vay vốn Thẩm định là khâu đầu tiên nhưng lại vô cùng quan trọng trong trong toàn bộ quy trình cho vay . Thông qua thẩm định ngân hàng sẽ kiểm tra và nắm bắt được năng lực tài chính , uy tín cũng như tính khả thi của phương án, dự án sao cho thích hợp và có hiệu quả. Thực tế và lí luận đã chứng minh rằng điều quan trọng nhất không phải là tài sản đảm bảo mà là tính khả thi của phương án , dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xin vay vốn. Vì vậy , cần nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng trong công tác thẩm định, đánh giá tính khả thi của phương án xin vay, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài sản thế chấp nhưng có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả có thể vay được vốn của ngân hàng . Trong khâu thẩm định , cán bộ tín dụng cần kiểm tra năng lực pháp lí , năng lực tài chính của khách hàng , hiệu quả của dự án và tài sản bảo đảm của khoản vay. Về tư cách pháp lí và uy tín của khách hàng , ngân hàng cần xem xét các giấy tờ chứng nhận tư cách pháp nhân , thể nhân , đăng ký thành lập , đăng kí kinh doanh.. chứng minh doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo đúng quy định của pháp luật. Mục đích của việc thẩm định này là để hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro chủ quan của khách hàng gây ra: rủi ro về đạo đức, rủi ro về thiếu năng lực , trình độ , kinh nghiệm , khả năng thích ứng với thị thường , đề phòng phát hiện những âm mưu lừa đảo.. để làm được như vậy đòi hỏi người cán bộ tín dụng phải rất nhạy cảm và có kinh nghiệm để có thể nhanh chóng nắm bắt ngay từ những lần tiếp xúc đầu tiên. Về năng lực tài chính , điều này rất quan trọng đối với khả năng thu hồi vốn của khoản vay . Đánh giá chính xác năng lực tài chính của khách hàng nhằm xác định sức mạnh tài chính khả năng độc lập tự chủ về tài chính trong kinh doanh , khả năng thanh toán và hoàn trả nợ của người vay. Muốn phân tích được vấn đề này phải dựa vào các báo cáo tài chính . Ngoài thông tin từ các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ.. ngân hàng cũng nên lấy thông tin từ các nguồn khác nhau như đến tận cơ sở thẩm định , hỏi han cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp , khai thác thông tin từ đối thủ cạnh tranh hay của những ngân hàng , chủ nợ trước đây của doanh nghiệp . Cán bộ tín dụng cần phải thận trọng và tỉnh táo khi thẩm định vấn đề này vì đối với DNVVN việc hạch toán kế toán không dược chặt chẽ , không tuân thủ pháp lệnh hạch toán thống kê và cũng chưa qua kiểm toán ở các đơn vị kiểm toán độc lập. Thẩm định phương án vay vốn và khả năng trả nợ, đây là việc khó khăn nhất. Bởi vì cái mà cán bộ tín dụng xem xét chỉ hoàn toàn dựa trên giấy tờ và những con số kế hoạch dự kiến. Do đó , xác định đúng đắn và hợp lí của những thông tin mà khách hàng đưa ra là rất quan trọng . Trước hết , cán bộ tín dụng phải thẩm định hiệu quả kinh tế và khả năng thực thi của phương án vay vốn: Đánh giá kiểm tra kế hoạch sản xuất kinh doanh , phương án sử dụng vốn có phù hợp với thị trường hay không? các điều kiện cần thiết để thực hiện phương án ; các số liệu thu thập và chi phí , các định mức kinh tế , kỹ thuật , tỷ lệ lợi nhuận theo dự toán …có hợp lí không? Sau đó ngân hàng phải tính toán xác định nguồn tiền trả nợ (gốc và lãi) của khách hàng :xác định độ chính xác cho vay và hợp lí của các số liệu kế hoạch và số liệu dự báo , loại trừ các yếu tố bên trong , bên ngoài có ảnh hưởng, đánh giá nguồn thu nhập và các chỉ số về khả năng trả nợ trong thời gian vay vốn , xác định xem phương án trả nợ có khả thi không :cân đối giữa các nguồn thu của dự án , phương án vay vốn với kế hoạch trả nợ. Việc sử dụng những chỉ tiêu tài chính để đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư như tỷ suất sinh lợi của đồng vốn , tỷ suất sinh lợi của doanh thu , vòng quay vốn lưu động , thời gian hoàn vốn .. Ngoài ra, đối với những dự án thuộc lĩnh vực phức tạp , trình độ cán bộ tín dụng không thể đảm đương được hết thì nên thuê chuyên gia về lĩnh vực đó để tư vấn thêm. Đánh giá các đảm bảo tiền vay: Các đảm bảo tiền vay là nguồn thu nợ dự phòng trong trường hợp khách hàng không trả được nợ. Do đó mục đích thẩm định tài sản thế chấp, cầm cố bảo lãnh khi phát mại phải dễ bán, giá trị thu được thực tế phải bù đắp dư nợ vay gốc, lãi và các loại thuế theo quy định. Tuy nhiên ngân hàng không nên quan trọng quá vào tài sản đảm bảo vì đây chỉ là biện pháp thu nợ cuối cùng khi có rủi ro xảy ra. Và lại , hiện nay , vấn đề tài sản thế chấp vẫn đang còn nhiều vướng mắc , cơ chế định giá tài sản chưa nhất quán . … việc xử lí tài sản khi có rủi ro xảy ra chưa thích đáng bởi các quy định phấp luật có liên quan chưa đồng bộ . Bởi vậy khi thẩm định , cán bộ ngân hàng cần phải linh hoạt hơn trong vấn đề tài sản đảm bảo, nếu quá chú trọng vào đó sẽ có thể bỏ qua nhiều khoản vay tốt. 3.2.4/ Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trong tất cả các khâu của quá trình cho vay. Đây là nguyên tắc cần thiết và quan trọng trong hoạt động cho vay . Đồng thời , nâng cao chất lượng công tác kiểm tra trước trong và sau khi cho vay sẽ ảnh hưởng trực tiếp với chất lượng của khoản vay. Đây là công việc của các cán bộ tín dụng. Họ là người trực tiếp xem xét và giải quyết nhu cầu vay vốn của khách hàng nên trách nhiệm giám sát, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay là thuộc về họ. Để đi đến quyết định cho vay , đầu tiên các cán bộ tín dụng phải kiểm tra các điều kiện vay vốn, tính pháp lý của hồ sơ vay vốn và các nội dung đảm bảo phù hợp với các quy định hướng dẫn cho vay . Những yếu tố này được các ngân hàng đặc biệt chú trọng do đăc điểm của tín dụng đối với DNVVN là số tiền vay thấp, số lượng món vay nhiều, với nhiệm vụ và rủi ro cao nên cần phải đảm bảo chắc chắn ngay từ khi bắt đầu thành lập mối quan hệ. Trong quá trình giải ngân, cán bộ tín dụng phải đảm bảo khách hàng sử dụng vốn vay đúng mụch đích và phù hợp với tiến độ sử dụng vốn thực tế, hình thức thanh toán của ngân hàng . Do đó đòi hỏi phải kiểm tra các chứng từ tài liệu kèm giấy nhận nợ như hoá đơn hoá đơn mua hàng, biên lai xác nhận.. tức là kiểm tra các căn cứ của việc rút tiền vay ra khỏi ngân hàng luôn có hàng hoá đối ứng . Sau cùng là giám sát sau khi cho vay . Đây là giai đoạn phức tạp và cần thiết nhất. Trong quá trình sử dụng vốn vay , có thể sau một thời gian , khách hàng mới bộc lộ những nhược điểm nhất định. Do vậy , thường xuyên đánh giá mức độ tín nhiệm khách hàng trong giai đoạn này là rất quan trọng , nhằm theo dõi kịp thời khả năng ro có thể xảy ra để có biện pháp đối phó thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng . Cán bộ tín dụng có thể kiểm tra thường xuyên , đột xuất tại cơ sở sản xuất kinh doanh của các DNVVN , cũng có thể thu thập thông tin từ những người biết đến doanh nghiệp như cán bộ chính quyền địa phương , bạn hàng có quan hệ mua bán với doanh nghiệp Cán bộ tín dụng phải yêu cầu khách hàng cung cấp các báo cáo tài chính , báo cáo lưu chuyển tiền tệ mới nhất để tiến hành phân tích , đánh giá từ đó nắm bắt toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh , tài chính của doanh nghiệp . Đồng thời cũng cần phải theo dõi tình hình thị trường , ngành hàng , mặt hàng của người vay để đưa ra những dự đoán , giúp đỡ , tư vấn cho khách hàng những thay đổi kịp thời . Song song với các việc trên , cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra , đánh giá tài sản bảo đảm theo giá hiện hành , hiện trạng và tình hình bảo quản , nếu giảm giá so với ban đầu thì yêu cầu bổ sung ngay ngay hay giảm dư nợ tương ứng. Hiện nay đang tồn tại một thực trạng là nhiều DNVVN không thực hiện kiểm toán độc lập , các báo cáo tài chính thì thiếu chính xác , không theo quy định hiện hành nên công tác kiểm tra , giám sát việc sử dụng vốn vay trước , trong và sau khi vay lại càng gặp nhiều khó khăn hơn , đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có năng lực nghiệp vụ tốt, trung thực để có thể đánh giá đúng thực trạng của doanh nghiệp , phát hiện sớm những sai sót để chấn chỉnh, giải quyết kịp thời. 3.2.5/ Coi trọng công tác tổ chức bồi dưỡng trình độ cho cán bộ tín dụng Như ta đã biết, con người là nguồn lực quý báu nhất , là nhân tố có tính chất quyết định đến việc thành bại trong mọi vấn đề. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng thì con người lại cũng đóng vai trò quan trọng trong mọi khâu của quá trình cho vay: từ thẩm định tín dụng, quyết định cho vay , thu hồi nợ, kiểm tra, giám sát, đánh giá khoản vay… Nhận thức được điều này nên Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã không ngừng tổ chức lại bộ máy nhân sự . Hiện tại, đội ngũ cán bộ tín dụng của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm là một tập thể của những con người trẻ trung, năng động , hết mình vì công việc và được đào tạo rất bài bản. Đại đa số đội ngũ cán bộ tại ngân hàng có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực ngân hàng . Nhưng trong thực tế, do tính chất phức tạp của kinh tế thị trường, đặc biệt là những vướng mắc trong khu vực DNVVN, thì việc cán bộ tín dụng phải luôn luôn học hỏi, trau dồi kiến thức, nghiệp vụ và cả những kiến thức tổng hợp một cách thường xuyên là một đòi hỏi khách quan. Một vấn đề đặt ra với NHCTHK là phải phân loại đội ngũ cán bộ tín dụng, bố trí cán bộ phù hợp với khả năng làm việc của họ để khai thác tối đa chất xám và năng lực của nhân viên, nâng cao hiệu quả hoạt động cho ngân hàng. Những cán bộ năng lực yếu kém, sa sút về phẩm chất đạo đức cần phải loại bỏ ra khỏi lĩnh vực tín dụng. Ngoài ra, ngân hàng nên thường xuyên hỗ trợ, tổ chức, đào tạo và tập huấn đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ và thực hiện tốt các quy định, luật của Nhà Nước và Ngân hàng về công tác tín dụng. Ngân hàng cũng có thể cử cán bộ tham gia vào các lớp học bồi dưỡng nghiệp vụ, các phương pháp và kỹ thuật thẩm định dự án đầu tư, phân tích hoạt động kinh doanh các kiến thức pháp lí trong hoạt động kinh tế. Ngân hàng cũng nên quan tâm hơn đến chế độ thưởng phạt nhằm tạo ra động lực lao động cho các cán bộ. Với những cán bộ hoạt đông tích cực và có thành tích trong công tác tín dụng , ngân hàng cần khen thưởng kịp thời còn ngược lại cần có biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những người làm sai quy tắc, gây thiệt hại cho ngân hàng. 3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. 3.3.1Kiến nghị đối với các cơ quan quản lí nhà nước . Đến nay , Đảng và nhà nước nhận thức dược vai trò to lớn của các DNVVN đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam và đã có một số biện pháp để khuyến khích hỗ trợ phát triển khu vực này . Tuy nhiên để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của các DNVVN , nhà nước phải là thành viên tích cực và quan trọng hơn trong việc tạo ra những thuận lợi để ngân hàng có thể mở rộng tín dụng đến các DNVVN , cũng như các DNVVN có thể tiếp cận dễ dàng hơn nguồn vốn của ngân hàng , Nhà nước cần triển khai sớm các công việc sau: 3.3.1.1Hoàn thiện môi trường pháp lí Nhà nước cần phải nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lí , tạo hành lang pháp lí an toàn cho DNVVN hoạt động. Các văn bản pháp quy , các chính sách chủ trương phải nhất quán , hợp lí , tạo được sân chơi bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp . Có như vậy doanh nghiệp mới yên tâm hoạt động , các nhà đầu tư và ngân hàng mới yên tâm tài trợ cho các DNVVN để mở rộng sản xuất kinh doanh góp phần phát triển kinh tế . Đặc biệt là môi trường pháp lí cho các hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với các DNVVN , nhà nước cần ban hành , hướng dẫn và sửa đổi các văn bản pháp luật có liên quan cho phù hợp , nhất là các văn bản liên quan đến vấn đề tài sản thế chấp. Cụ thể : -Các ngân hàng phải chủ động hơn nữa trong việc xử lí , phát mại tài sản thế chấp cầm cố để việc thu hồi nợ được kịp thời , giảm những chi phí không cần thiết trong quá trình phát mại . -Các quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản , quyền sử dụng đất cần nhanh chóng sửa đổi cho thống nhất giúp các doanh nghiệp khi đi vay có thể hoàn thiện những thủ tục cần thiết. -Đơn giản hoá công tác công chứng nhà nước. 3.3.1.2 Cụ thể hoá các chiến lược xây dựng và phát triển các DNVVN . Để tạo điều kiện cho các DNVVN hoạt động thì nhà nước cần có một chiến lược lâu dài , ổn định với những biện pháp cụ thể hơn. Do vậy , chiến lược này cần khẳng định và nêu bật được vai trò của các DNVVN trong nền kinh tế nước ta , đưa ra những ưu tiên phát triển khu vực này theo ngành , vùng lãnh thổ , lĩnh vực sản xuất kinh doanh . Có những biện pháp khuyến khích đối với một số đối tượng là các DNVVN sản xuất các sản phẩm thuộc các ngành nghề truyền thống ( như mây tre đan , gỗ mỹ nghệ , dệt thủ công…) và các sản phẩm tiêu dùng thuộc các ngành công nghiệp , tiểu thủ công nghiệp. Đồng thời, có những biện pháp định hướng cho doanh nghiệp về công nghệ , thị trường , nhân lực . Qua đó cũng nâng cao được khả năng tín chấp cho DNVVN .Cụ thể là : -Khuyến khích thành lập các tổ chức, trung tâm tư vấn, xúc tiến , hỗ trợ cho các DNVVN . Các tổ chức này đóng vai trò quan trọng trong việc tư vấn , giúp đỡ cho các DNVVN về thông tin thị trường , giá cả , đầu tư, lập kế hoạch , dự án sản xuất kinh doanh , về văn bản pháp luật , mở các lớp đào tạo ngắn hạn về từng chuyên đề.. Nhà nước có những chính sách ủng hộ , hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức này hoạt động , giúp đỡ DNVVN đạt hiệu quả thiết thực hơn. -Hỗ trợ lao động và quản lí, đầu tư thành lập các trường lớp , trung tâm đào tạo trình độ quản lí, tay nghề lao động theo hướng Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi , khuyến khích phát triển và giúp đỡ nâng cao chất lượng cho các cơ sở tay nghề , góp phần hình thành nên một lực lượng lao động có chất lượng cao cung cấp cho các DNVVN. -Có chương trình hỗ trợ các DNVVN triển khai từng bước áp dụng hệ thống quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn ISO9000, cũng như hướng dẫn các DNVVN nhận thức , chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho quá trình hội nhập . Hỗ trợ xúc tiến về thị trường (đặc biệt là thị trường xuất khẩu), có cơ chế giảm chi phí xúc tiến như môi giới thương mại , tìm kiếm khách hàng , xuất khẩu gián tiếp qua các hợp đồng của các Tổng công ty hoặc công ty lớn , tăng cường cung cấp thông tin về pháp lí , kinh tế và thị trường cho doanh nghiệp . 3.3.2Kiến nghị với NHCTVN Là cơ quan lãnh đạo , điều hành trực tiếp hoạt động của NHCTHK , NHCTVN cần dành sự quan tâm nhất định tới việc mở rộng hoạt động cho vay đối với DNVVN trong chính sách khách hàng trong thời gian tới .Cụ thể: -Đưa ra hướng chiến lược về thị trường , về khách hàng là DNVVN. -Tổ chức hội thảo chuyên đề về hoạt động cho vay đối với DNVVN . -Dành một nguồn vốn chất định để cấp tín dụng cho DNVVN . -Tăng cường thực hiện công tác bồi dưỡng , nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ tín dụng . -Phối hợp chặt chẽ với NHNN để tổ chức hiệu quả chương trình thông tin tín dụng , nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi thông tin , giúp NHCTKH phòng ngừa tốt nhất những rủi ro có thể xảy ra. -Đặc biệt , NHCTVN cần nghiên cứu , bổ xung , hoàn thiện quy trình thẩm định cho vay , Quy chế cho vay phù hợp với điều kiện kinh tế , xã hội, phù hợp với đối tượng vay vốn có tính đặc thù như DNVVN. 3.3.3 kiến nghị với các DNVVN 3.3.3.1 Các DNVVN cần tạo lập khả năng tín chấp của mình. Để có thể nâng cao uy tín của mình và tạo được hình ảnh đẹp trong con mắt của các ngân hàng thương mại , các DNVVN cần tạo lập và nâng cao khả năng tín chấp của mình . Nhờ đó có thể đạt được nguồn tài trợ từ ngân hàng dễ dàng, thuận lợi hơn . Trước hết, doanh nghiệp cần nâng cao tay nghề , trình độ chuyên môn cho người lao động và trình độ quản lí của chủ doanh nghiệp thông qua việc chủ động đào tạo , đạo tạo lại dưới nhiều hình thức . Sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc đào tạo lao động cho doanh nghiệp chỉ có giới hạn , nên các DNVVN phải tự mình tổ chức hay liên kết với các trung tâm , cơ sở dạy nghề để mở các lớp đào tạo ngắn hạn , bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lí. Thứ hai , doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán , theo đúng quy định của nhà nước . Thực hiện quản lí , xử lí thông tin trong quá trình hoạt động , quản lí tài chính chặt chẽ , ghi chép sổ kế toán đầy đủ rõ ràng theo đúng quy định. Nhờ đó , việc thẩm định hồ sơ xin vay sẽ nhanh chóng chính xác , đồng thời các ngân hàng cũng tin tưởng hơn vào sự thành thật cũng như hiệu quả thực sự của doanh nghiệp . Cuối cùng các DNVVN phải tạo lập được lòng tin từ phía ngân hàng thông qua hoạt động và quan hệ vay trả . Trong quá trình hoạt động, ngoài việc thực hiện ghi chép sổ sách kế toán theo quy định , các doanh nghiệp cần chứng tỏ uy tín của mình thông qua việc hoạy động kinh doanh một cách trung thực , trong quan hệ với các bạn hàng cần lấy chữ tín làm đầu. Đặc biệt , khi xem xét cho vay , ngân hàng rất quan tâm đến các hồ sơ tín dụng trước đây của ngân hàng cần vay trả sòng phẳng đối với các chủ nợ để tạo nên ấn tượng tốt với khách hàng. 3.3.3.2 Xây dựng dự án khả thi , thực hiện an toàn trong kinh doanh và sử dụng vốn có hiệu quả . Khi đồng vốn được đầu tư một cách hợp lí sẽ là cơ hội để các DNVVN tiếp tục được các ngân hàng thương mại cho vay . Hiện nay các ngân hàng đếu khẳng định cho vay chú trọng đến hiệu quả của dự án kinh doanh hơn là các tài sản bảo đảm tận dụng cơ hội các doanh nghiệp cần phải xác định cho mình một dự án hiệu quả , có tính khả thi . Và khi đã được cấp vốn rồi thì doanh nghiệp cần phải theo dõi sát sao việc phân bổ , sử dụng vốn theo đúng tiến trình sản xuất nhằm tránh sự lãng phí mất mát. Đối với vốn cố định, cần xác định phương pháp khấu hao hợp lí, phù hợp với từng loại tài sản và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản . Vốn lưu động luôn chiếm tỉ trọng lớn trong vốn kinh doanh của DNVVN nên cần nghiên cứu hoàn thiện các biện pháp nhằm tiết kiệm và tăng nhanh vòng quay của vốn như xác định đúng mức vốn tối thiểu thường xuyên , cần thiết , vật tư cho sản xuất phải có định mức tiêu thụ hợp lí và thường xuyên rà soát lại , nâng cao công tác tổ chức lao động , tiêu thụ sản phẩm nhằm tiết kiệm chi phí cho một đơn vị . Trong quá trình sử dụng vốn phải đề cao trách nhiệm , ý thức trả nợ ngân hàng , tuân thủ các điều kiện đã kí kết trong hợp đồng , không nên đầu tư vào các lĩnh vực quá mạo hiểm có thể gây phương hại cho doanh nghiệp và ngân hàng . Ngoài ra DNVVN cần phải tăng cường phối hợp , hợp tác trong kinh doanh , tạo lập riêng cho mình các hiệp hội , thông qua đó hỗ trợ cho nhau cùng phát triển và trình bày những nguyện vọng của mình đối với các cơ quan chức năng hay các tổ chức tài trợ . Song song với các hoạt động trên , các DNVVN cần tạo lập mối quan hệ tốt với các doanh nghiệp lớn để có thể chứng tỏ khả năng của mình với các ngân hàng thương mại vừa có thể được chính các doanh nghiệp lớn đứng ra bảo lãnh trong quan hệ tín dụng với ngân hàng KẾT LUẬN Nguyên nhân của mọi khó khăn , hạn chế của các DNVVN suy cho cùng cũng là do thiếu vốn. Không có vốn , thì các doanh nghiệp không có tiềm lực để phát triển , mở rộng sản xuất kinh doanh , nâng cao vị thế cạnh cạnh tranh trên thị thường…Nếu giải quyết vấn đề vốn sẽ là mấu chốt tháo gỡ mọi vấn đề khác của DNVVN. Trong thời gian thực tập tại NHCTHK em nhận thấy khả năng mở rộng cho vay các DNVVN của ngân hàng là rất lớn, góp phần tạo nguồn thu và nâng cao vị thế cho ngân hàng trên địa bàn thủ đô, do đó cần thiết phải đề ra định hướng và chính sách cụ thể nhằm tăng cường cho vay tới các đối tượng DNVVN. Bài viết của em đi sâu nghiên cứu và phân tích tình hình hoạt động cho vay của NHCTHK đối với các DNVVN , rút ra những mặt được và chưa được , tìm hiểu những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân vướng mắc. Trên sơ sở đó , đưa ra giải pháp của ngân hàng và một số kiến nghị đối với cơ quan quản lí nhà nước cũng như các DNVVN nhằm tạo ra sự thống nhất , phối hợp đồng bộ giữa các bên liên quan , nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết khó khăn , tháo gỡ rào cản cho hoạt động tín dụng của NHCTHK đối với các DNVVN. Trogn thời gian thực tập tại NHCTHK , được sự giúp đỡ của các cán bộ tín dụng ngân hàng , và sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Thạc sĩ Phạm Long , em đã có gắng hết sức để hoàn thành đề tài này. Song do thời gian và trình độ có hạn , nên bài viết không tránh khỏi thiếu sót , em mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các cán bộ ngân hàng cùng những ai quan tâm đến đề tài này để đề tài có ý nghĩa hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Tháng 4/2004

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC2041.doc
Tài liệu liên quan