Chuyên đề Giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán qua ngân hàng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Đống Đa

Ngân hàng ra đời và phát triển thì hầu hết các khoản thanh toán chi trả về hàng hóa, dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế đều được chuyển giao cho ngân hàng. Mọi quan hệ thanh toán được thực hiện bằng cách các chủ thể mở tài khoản tại ngân hàng và yêu cầu ngân hàng thực hiện các khoản chi trả hoặc ủy nhiệm cho ngân hàng thực hiện việc thu nhận các khoản tiền vào tài khoản của mình. Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để thanh toán, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi nhanh chóng, tiện lợi, nhất là với những khoản thanh toán giá trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém và không an toàn.

doc69 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán qua ngân hàng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
69,9% tổng số món thanh toán tại chi nhánh, với doanh số thanh toán là 698.850 triệu đồng, chiếm 91,05% tổng doanh số thanh toán. Sang năm 2003, số món thanh toán bằng ủy nhiệm chi đạt 3.651 món, chiếm 68,7% tổng số món thanh toán tại chi nhánh, so với năm 2002 tăng 1.461 món, đạt 166,7%. Doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm chi năm 2003 cũng tăng 1.461triệu đồng so với năm 2002, đạt 1.369125 triệu đồng, chiếm 91,02% tổng doanh số thanh toán. Năm 2004, tỷ trọng số món thanh toán bằng ủy nhiệm chi tăng lên 68,8%, đạt 4.380 món.Tỷ trọng doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm chi cũng tiếp tục tăng lên 92,5%, đạt 1.953.048 triệu đồng. So với năm 2003, số món thanh toán bằng ủy nhiệm chi năm 2004 tăng 729 món với doanh số tăng lên là 583.923 triệu đồng. Như vậy, số món và doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm chi liên tục tăng qua các năm. Tỷ trọng số món và doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm chi luôn chiếm cao nhất trong số các hình thức thanh toán tại chi nhánh. Tuy nhiên, tỷ trọng số món và doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm chi không tăng đều mà có sự tăng giảm nhẹ qua các năm. Năm 2002, tỷ trọng số món và doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm chi lần lượt là 69,9% và 91,05% thì đến năm 2003 giảm xuống còn 68,7% và 91,02%. Sang năm 2004, tỷ trọng số món và doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm chi lại tăng lên lần lượt là 68,8% và 92,5%. Sở dĩ hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi được sử dụng rộng rãi là do nó có rất nhiều thuận lợi cho người mua, người bán và cho cả ngân hàng. Hình thức thanh toán ủy nhiệm chi có phạm vi thanh toán rộng. Hình thức này được dùng để thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản tại các chi nhánh cùng một ngân hàng hoặc khác ngân hàng, trên cùng địa bàn hoặc khác địa bàn. Đặc biệt, trong trường hợp tài khoản người trả tiền không đủ tiền để thanh toán, người trả tiền chỉ bị ngân hàng phục vụ mình trả lại ủy nhiệm chi mà không phải chịu bất kỳ khoản phạt nào như đối với séc chuyển khoản, séc định mức hay ủy nhiệm thu. Đối với séc chuyển khoản và séc định mức, nếu người trả tiền phát hành séc quá số dư sẽ bị phạt chậm trả và phạt phát hành quá số dư. Còn đối với ủy nhiệm thu, nếu số dư tài khoản của người trả tiền không đủ để thanh toán, người trả tiền sẽ bị phạt chậm trả như phạt chậm trả do phát hành séc chuyển khoản và séc định mức quá số dư. Một ưu điểm nữa của hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi là thủ tục thanh toán rất đơn giản. Sau khi nhận hàng, người mua chỉ cần lập ủy nhiệm chi theo mẫu in sẵn của ngân hàng nơi mình mở tài khoản gửi đến ngân hàng đó đề nghị trích tài khoản tiền gửi của mình trả cho người thụ hưởng. Tại ngân hàng của người thụ hưởng, khi nhận được các chứng từ thanh toán ủy nhiệm chi do ngân hàng phục vụ bên trả tiền chuyển đến, sau khi kiểm soát chứng từ, nếu đủ điều kiện thanh toán, ngân hàng ghi Có tài khoản bên thụ hưởng và gửi giấy báo Có cho người thụ hưởng. Người thụ hưởng không phải làm nhiều thủ tục thanh toán như hình thức thanh toán bằng séc (người thụ hưởng phải nộp séc và bảng kê nộp séc cho ngân hàng) và ủy nhiệm thu (người thụ hưởng phải lập ủy nhiệm thu gửi tới ngân hàng cùng với hóa đơn giao hàng). Như vậy, thủ tục thanh toán bằng ủy nhiệm chi thuận tiện cho cả người mua và người bán. Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi cũng có lợi đối với ngân hàng phục vụ người trả tiền. Ngân hàng phục vụ người trả tiền có quyền trả lại ủy nhiệm chi cho người trả tiền nếu ủy nhiệm chi bị lập sai hoặc số dư tài khoản của khách hàng không đủ để thanh toán mà không có trách nhiệm phải thanh toán cho người thụ hưởng trong các trường hợp này. Chính vì sự an toàn này đối với mình mà các ngân hàng khuyến khích khách hàng áp dụng hình thức thanh toán ủy nhiệm chi trong thanh toán. Bên cạnh những ưu điểm trên, hình thức thanh toán ủy nhiệm chi vẫn còn có những hạn chế đối với người thụ hưởng.Khi thanh toán theo hình thức này, người thụ hưởng dễ gặp rủi ro ứ đọng vốn vì họ giao hàng trước, nhận tiền sau. Việc thu được tiền hay không phụ thuộc vào khả năng tài chính và thiện chí trong thanh toán của người mua.Không những thế, nếu tài khoản của người trả tiền không đủ tiền để thanh toán thì người thụ hưởng cũng không được nhận tiền phạt chậm trả đối với người trả tiền như hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản, séc định mức hay ủy nhiệm thu. Chính vì những nhược điểm trên nên người thụ hưởng chỉ chấp nhận thanh toán theo hình thức thanh toán ủy nhiệm chi đối với những bạn hàng mà họ hoàn toàn tín nhiệm về việc thanh toán tiền hàng. Tại chi nhánh NHNo & PTNTChi nhánh Đống Đa, khách hàng là các doanh nghiệp thường có giao dịch thường xuyên với nhau nên rất tín nhiệm nhau về việc thanh toán. Do đó, họ chủ yếu lựa chọn hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi. 2.2.1.3. Thanh toán bằng ủy nhiệm thu Tại chi nhánh, hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu ít được sử dụng. Tỷ trọng số món thanh toán bằng ủy nhiệm thu luôn thấp nhất trong số các hình thức thanh toán khác tại chi nhánh. Năm 2002 chỉ có 102 món thanh toán bằng ủy nhiệm thu, chiếm 3,3% tổng số món thanh toán tại chi nhánh. Sang năm 2003, số món thanh toán bằng ủy nhiệm thu giảm 4 món so với năm 2002, chỉ đạt 98 món, chiếm 1,8% tổng số món thanh toán tại chi nhánh. Năm 2004, số món thanh toán bằng ủy nhiệm thu tăng lên 21 món, đạt 121,2% so với năm 2003. Tuy số món thanh toán tăng lên nhưng do số món thanh toán bằng séc và ủy nhiệm chi năm 2004 tăng mạnh nên tỷ trọng số món thanh toán bằng ủy nhiệm thu chỉ chiếm 1,9% tổng số món thanh toán tại chi nhánh, đạt 119 món. Doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm thu cũng chiếm tỷ trọng thấp nhất so với doanh số thanh toán theo các hình thức thanh toán khác. Năm 2002, doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm thu đạt 307 triệu đồng, chiếm 0,04% tổng doanh số thanh toán. Năm 2003, doanh số thanh toán đạt 343 triệu đồng, chiếm 0,02% tổng doanh số thanh toán, so với năm 2002 tăng 36 triệu đồng, đạt 111,7%. Năm 2004, doanh số thanh toán đạt 476 triệu đồng, chiếm 0,02% tổng doanh số thanh toán, so với năm 2003 tăng 132 triệu đồng, đạt 138,5%. Nhìn chung, số món thanh toán bằng ủy nhiệm thu trong thời gian qua tương đối ổn định. Tuy số món có tăng giảm qua các năm nhưng không đáng kể. Doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm thu cũng tăng lên qua các năm nhưng không nhiều. So với tỷ trọng doanh số thanh toán theo các hình thức thanh toán khác, tỷ trọng doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm thu quá thấp, chưa tới 0,1%. Từ số liệu của bảng, ta tính được doanh số thanh toán bình quân mỗi món là 3 triệu đồng. Điều này chứng tỏ hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu thường được áp dụng trong thanh toán những khoản tiền nhỏ. Tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa, khách hàng sử dụng hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu chủ yếu là các đơn vị cung cấp dịch vụ thường xuyên như Bưu điện Hà Nội, công ty điện lực,….Vì vậy, hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu phát sinh nhiều vào cuối tháng. Tuy nhiên, do số tiền mỗi món không nhiều nên doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm thu không cao. Sở dĩ hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu ít được sử dụng là do hình thức này còn nhiều hạn chế.Trước hết là do thủ tục thanh toán bằng ủy nhiệm thu rườm rà, gây khó khăn cho người thụ hưởng. Khi muốn thanh toán theo hình thức thanh toán ủy nhiệm thu, người trả tiền và người thụ hưởng phải thống nhất thỏa thuận dùng hình thức thanh toán này với những điều kiện thanh toán cụ thể đã ghi trong hợp đồng kinh tế, đồng thời phải thông báo bằng văn bản cho ngân hàng phục vụ người thụ hưởng biết để làm căn cứ thực hiện các ủy nhiệm thu. Sau khi giao hàng, người thụ hưởng lập giấy ủy nhiệm theo mẫu của ngân hàng kèm hóa đơn gửi tới ngân hàng phục vụ mình hoặc ngân hàng phục vụ người trả tiền để yêu cầu thu hộ. Thứ hai là do thanh toán bằng ủy nhiệm thu ít an toàn cho người thụ hưởng. Họ có thể bị đọng vốn trong trường hợp tài khoản của người trả tiền không đủ tiền để thanh toán. Chính vì thế mà hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu được sử dụng khi người thụ hưởng ít tín nhiệm người trả tiền. Tuy vậy, hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu cũng có ưu điểm nên vẫn được khách hàng lựa chọn. Giống như ủy nhiệm chi, hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu cũng có phạm vi rộng. Hình thức này được áp dụng để thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản tại các chi nhánh cùng một ngân hàng hoặc khác ngân hàng, trên cùng địa bàn hoặc khác địa bàn. Ngoài ra, nếu tài khoản của người trả tiền không đủ tiền để thanh toán thì người thụ hưởng sẽ nhận được khoản tiền phạt trả chậm đối với người trả tiền. Đây là ưu điểm của hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu mà hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi không có. 2.2.1.4. Thanh toán bằng thư tín dụng Thanh toán bằng thư tín dụng thường được lựa chọn khi người bán không tín nhiệm người mua và giá trị hàng hóa giao dịch lớn. Vì vậy, hình thức thanh toán này chủ yếu được các đơn vị xuất - nhập khẩu hàng hóa sử dụng trong thanh toán quốc tế. Trong thanh toán nội địa, hình thức thanh toán bằng thư tín dụng tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa trong thời gian qua không được khách hàng lựa chọn. Nguyên nhân là do thủ tục mở và thanh toán thư tín dụng hết sức phức tạp, quy trình luân chuyển chứng từ rất vòng vèo, gây chậm trễ trong thanh toán. Những quy định để đảm bảo thanh toán thư tín dụng cũng hết sức chặt chẽ. Khi có nhu cầu thanh toán bằng thư tín dụng, người trả tiền lập giấy mở thư tín dụng yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản hoặc gửi tiền vào ngân hàng một số tiền bằng tổng giá trị hàng hóa đặt mua để lưu ký vào một tài khoản riêng. Mức tiền tối thiểu của một thư tín dụng là 10 triệu đồng. Tiền gửi đảm bảo thư tín dụng lại không được hưởng lãi. Mỗi thư tín dụng chỉ dùng để trả cho một người thụ hưởng. Như vậy, để thanh toán với nhiều bạn hàng, người mua phải mở nhiều thư tín dụng. Điều này khiến họ không những mất thời gian mà còn bị đọng vốn lớn. Ngoài ra, hình thức thanh toán bằng thư tín dụng còn hạn hẹp. Do những nhược điểm trên mà khách hàng của chi nhánh đã lựa chọn các hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi, séc hay ủy nhiệm thu thay vì thanh toán bằng thư tín dụng trong thanh toán nội địa. 2.2.1.5. Thanh toán bằng thẻ Thẻ là hình thức thanh toán hiện đại, đã được thế giới công nhận về tính ưu việt của nó. Thẻ thanh toán đầu tiên mang tên “Diners Club”, được người Mỹ sử dụng vào năm 1949 để trả tiền ăn tại 27 nhà hàng trong hoặc ven thành phố New York. Ngày nay, trên 80% gia đình tại Mỹ đã sử dụng thẻ thanh toán để trả tiền hàng hóa và dịch vụ thay vì họ phải trả bằng tiền mặt hoặc các hình thức thanh toán khác. Nhưng ở Việt Nam đến nay thẻ thanh toán vẫn còn ở dạng tiềm năng mà chưa được đưa vào sử dụng phổ biến. Có rất nhiều lý do làm cho việc mở rộng thanh toán bằng thẻ trong điều kiện hiện nay gặp nhiều khó khăn như: người dân vẫn còn thói quen sử dụng tiền mặt mà chưa quen sử dụng các hình thức thanh toán hiện đại qua ngân hàng; nguồn thu nhập của người dân còn thấp và không ổn định; vốn đầu tư cho cơ sở vật chất thanh toán thẻ còn thiếu, mạng lưới máy đọc thẻ và cơ sở chấp nhận thẻ còn quá ít… 2.2.1.6. Thanh toán bằng tiền mặt Số liệu trên bảng 1 và bảng 2 cho thấy số món và doanh số thanh toán bằng tiền mặt khá cao, cao hơn rất nhiều so với hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu. Năm 2002, số món thanh toán bằng tiền mặt đạt 261 món, chiếm 8,3% tổng số món thanh toán tại chi nhánh. Tổng doanh số thanh toán bằng tiền mặt đạt 32.640 triệu đồng, chiếm 4,31% tổng doanh số thanh toán tại chi nhánh, xấp xỉ doanh số thanh toán bằng séc. Năm 2003, số món thanh toán bằng tiền mặt đạt 228 món, chiếm 4,3% tổng số món thanh toán tại chi nhánh, so với năm 2002 giảm 33 món, đạt 87,5%. Tỷ trọng doanh số thanh toán bằng tiền mặt năm 2003 cũng giảm, chỉ còn 2,74%, đạt 41.148 triệu đồng. Số món thanh toán bằng tiền mặt năm 2004 giảm 99 món so với năm 2003, chỉ còn 129 món, chiếm 2% tổng số món thanh toán tại chi nhánh. Năm 2004, tổng doanh số thanh toán bằng tiền mặt đạt 23.890 triệu đồng, chiếm 1,13% tổng Như vậy, tỷ trọng số món và doanh số thanh toán bằng tiền mặt đã giảm mạnh qua các năm. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho thấy người dân đang dần làm quen với các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng. Tuy nhiên, số món và doanh số thanh toán bằng tiền mặt tại chi nhánh vẫn còn cao. Đây là một sự lãng phí lớn đối với chi nhánh nói riêng và nền kinh tế nói chung do một lượng vốn lớn trong dân đã không được huy động vào ngân hàng để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này. Nguyên nhân trước tiên là do tâm lý ưa dùng tiền mặt của người dân không dễ xóa bỏ. Mặc dù đã mở tài khoản tại ngân hàng nhưng người dân vẫn lựa chọn hình thức thanh toán bằng tiền mặt khi có thể. Đặc biệt, trong thời gian qua, sự hấp dẫn của ngân phiếu thanh toán (thực chất là tiền mặt có mệnh giá cao) đã càng khuyến khích mọi người thanh toán bằng tiền mặt. Ngoài ra còn do chi nhánh chưa tích cực trong việc tuyên truyền cho mọi người hiểu rõ tiện ích cũng như nội dung của các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh. 2.2.2. Thực trạng thanh toán theo các phương thức thanh toán tại chi nhánh Trong số các phương thức thanh toán qua ngân hàng đã giới thiệu ở chương 1, thời gian qua, chi nhánh chỉ thực hiện thanh toán theo ba phương thức, bao gồm: phương thức thanh toán liên hàng (còn gọi là thanh toán nội bộ), phương thức thanh toán bù trừ và phương thức thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước. Hai phương thức thanh toán còn lại là thanh toán bằng cách mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng khác và ủy nhiệm thanh toán giữa các ngân hàng không được áp dụng. Bảng 5: Tổng số món thanh toán theo các phương thức thanh toán tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa Đơn vị: món Năm Phương thức thanh toán 2002 2003 2004 So sánh 2003/2002 2004/2003 Số món Tỷ trọng (%) Số món Tỷ trọng (%) Số món Tỷ trọng (%) Tăng, giảm Tỷ trọng (%) Tăng, giảm Tỷ trọng (%) (1) (2) (3) (4) (5) (6) (3)- (1) (3)/(1) (5)-(3) (5)/ (3) Thanh toán nội bộ 812 25,9 1.711 32,2 2.133 33,5 899 210,9 421 125,0 Thanh toán bù trừ 1.999 63,8 3.226 60,7 3.737 58,7 1.227 161,3 512 116,0 Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN 323 10,3 378 7,1 497 7,8 55 116,9 119 132,0 Tổng 3.134 5.315 6.367 2.181 169,6 1.052 119,8 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa Bảng 6: Tổng doanh số thanh toán theo các phương thức thanh toán tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa Đơn vị: triệu đồng Năm Phương thức thanh toán 2002 2003 2004 So sánh 2003/2002 2004/2003 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tăng, giảm Tỷ trọng (%) Tăng, giảm Tỷ trọng (%) (1) (2) (3) (4) (5) (6) (3)-(1) (3)/(1) (5)-(3) (5)/(3) Thanh toán nội bộ 169.717 22,4 388.085 25,8 470.820 22,3 218.368 228,7 82.736 121,3 Thanh toán bù trừ 381.107 50,3 898.011 59,7 1.287.894 61,0 516.904 235,6 389.882 143,4 Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN 206.843 27,3 218.110 14,5 352.587 16,7 11.267 105,4 134.477 161,7 Tổng 757.667 1.504.206 2.111.301 746.539 198,5 607.095 140,0 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa 2.2.2.1. Phương thức thanh toán liên hàng (thanh toán nội bộ) Phương thức thanh toán liên hàng (thanh toán nội bộ) là việc thanh toán vốn giữa các chi nhánh cùng một ngân hàng, còn được gọi là phương thức thanh toán chuyển tiền. Chuyển tiền qua ngân hàng trước đây được thực hiện qua mạng vi tính. Sau đó, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, thanh toán qua ngân hàng ở Việt Nam cũng ngày càng phát triển. Từ hình thức thanh toán bằng chứng từ giấy, ngày nay việc thanh toán bằng chứng từ điện tử đã được áp dụng. Với sự ra đời của quyết định số 196/TTg ngày 1/4/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng các dữ liệu thanh toán trên vật mang tin để làm chứng từ kế toán và thanh toán của các ngân hàng và tổ chức tín dụng, công tác thanh toán đã có bước tiến rõ rệt. Văn bản này là cơ sở pháp lý cho việc triển khai quyết định số 153/1997/QĐ-NHNN2 ngày 22/10/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế chuyển tiền điện tử. Phương thức thanh toán chuyển tiền điện tử đã được áp dụng rộng rãi tại các ngân hàng thương mại đầu năm 1999. Ngân hàng NHNo&PTNT do đặc thù là hệ thống ngân hàng trải rộng, có nhiều chi nhánh nhỏ ở vùng sâu, vùng xa nên vẫn dùng phương thức chuyển tiền qua mạng vi tính mà chưa đầu tư áp dụng phương thức chuyển tiền điện tử. Nhưng đến ngày 26/7/2000, Tổng giám đốc ngân hàng NHNo&PTNT đã ban hành hai quyết định: quyết định số 516/QĐ/2000-NHNo-04 “Về việc ban hành quy trình nghiệp vụ chuyển tiền điện tử trong hệ thống ngân hàng NHNo&PTNT Việt Nam” và quyết định số 517/QĐ/2000-NHNo-04 “Về việc ban hành quy trình xây dựng, cấp phát, sử dụng và quản lý khóa bảo mật dùng trong chuyển tiền điện tử của NHNo&PTNT Việt Nam”. Đây là cơ sở triển khai phương thức thanh toán chuyển tiền điện tử trong các chi nhánh của NHNo&PTNT nói chung và chi nhánh NHNo & PTNTChi nhánh Đống Đa nói riêng. Do tới tận tháng 7/2002 phương thức thanh toán chuyển tiền điện tử mới được áp dụng nên năm 2002 chỉ có 812 món thanh toán theo phương thức này, chiếm 25,9% tổng số món thanh toán qua chi nhánh, với doanh số thanh toán đạt 169.717 triệu đồng, chiếm 22,4% tổng doanh số thanh toán tại chi nhánh. Sang năm 2003và 2004, khách hàng dần thấy được ưu điểm của phương thức thanh toán chuyển tiền điện tử so với phương thức thanh toán chuyển tiền sử dụng chứng từ giấy trước đây nên số món thanh toán cũng như doanh số thanh toán theo phương thức thanh toán này tăng lên qua các năm. Năm 2003, số món thanh toán chuyển tiền điện tử đạt 1.711 món, chiếm 32,2% tổng số món thanh toán tại chi nhánh, so với năm 2002 tăng 899 món, đạt 210,9%. Doanh số thanh toán theo phương thức này đạt 388.085 triệu đồng, chiếm 25,8% tổng doanh số thanh toán tại chi nhánh, tăng 218.368 triệu đồng so với năm 2002, ứng với 228,7%. Năm 2004, số món thanh toán chuyển tiền điện tử đạt 2.133 món, chiếm 33,5% tổng số món thanh toán tại chi nhánh, với doanh số thanh toán đạt 470.820 triệu đồng, chiếm 22,3% tổng doanh số thanh toán. So với năm 2003, số món thanh toán chuyển tiền điện tử năm 2004 tăng lên 421 món, đạt 125% và doanh số thanh toán tăng lên 82.736 triệu đồng, đạt 121,3%. Như vậy, số món và doanh số thanh toán bằng phương thức thanh toán chuyển tiền tại chi nhánh liên tục tăng qua các năm và có xu hướng ngày càng phát triển. Sở dĩ như vậy là do phương thức thanh toán chuyển tiền điện tử của NHNo&PTNT có rất nhiều ưu điểm. Ưu điểm trước tiên là tốc độ thanh toán rất nhanh chóng. Phương thức thanh toán chuyển tiền điện tử đã rút ngắn được thời gian thanh toán xuống còn một đến hai giờ chứ không phải là một đến hai ngày như thanh toán bằng chứng từ giấy qua mạng vi tính trước đây. Không những nhanh chóng mà việc thanh toán còn được xử lý rất chính xác. Chuyển tiền điện tử trong NHNo&PTNT Việt Nam được kiểm soát, hạch toán và đối chiếu tập trung tại trung tâm thanh toán. Lệnh chuyển tiền xuất phát từ ngân hàng A (ngân hàng gửi lệnh chuyển tiền) được kiểm soát, hạch toán trước khi gửi cho ngân hàng B (ngân hàng nhận lệnh chuyển tiền). Khi kiểm soát lệnh chuyển tiền, nếu phát hiện có sai sót, trung tâm thanh toán sẽ tra soát ngay ngân hàng A để xác định nguyên nhân và có biện pháp xử lý thích hợp. Do đó, sai sót được nhanh chóng phát hiện, tránh gây chậm trễ cho khách hàng. Không những thế, tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa, cán bộ kiểm soát đều giỏi nghiệp vụ, giàu kinh nghiệm nên thường sớm phát hiện sai sót của kế toán viên khi lập lệnh chuyển tiền trước khi gửi lệnh cho trung tâm thanh toán. Vì thế, tình trạng lệnh chuyển tiền do chi nhánh gửi lên bị trung tâm phát hiện sai sót hầu như không có. Ngoài ra, từ khi đi vào hoạt động, hệ thống chuyển tiền điện tử của NHNo&PTNT luôn được đảm bảo vận hành thông suốt, chưa để xảy ra sự cố kỹ thuật nào. Chương trình phần mềm được xây dựng bằng công nghệ mới nên có khả năng bảo mật và chống xâm nhập cao. Do phương thức thanh toán chuyển tiền điện tử nhanh chóng, an toàn nên khách hàng rất ưa dùng hình thức thanh toán ủy nhiệm chi để thanh toán qua chuyển tiền điện tử. Do đó mà số món cũng như doanh số thanh toán bằng phương thức này luôn chiếm tỷ trọng cao. Bên cạnh ưu điểm nhanh chóng, an toàn, phương thức thanh toán chuyển tiền điện tử trong NHNo&PTNT còn được quy định rất thuận tiện cho khách hàng. Khoản 2, điều 7 Quy chế chuyển tiền điện tử (ban hành kèm theo Quyết định số 353/1997/QĐ-NHNN2 ngày 22/10/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) có ghi “Ngân hàng A chỉ nhận lệnh chuyển tiền Nợ hợp lệ do người phát lệnh nộp vào kèm theo hợp đồng chấp nhận chuyển tiền Nợ (chuyển tiền Nợ có ủy quyền) của người nhận lệnh và người nhận lệnh nhất thiết phải có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng B”. Nghĩa là, để thực hiện chuyển tiền Nợ, các bên khách hàng phải ký hợp đồng chuyển Nợ và thông báo bằng văn bản cho các ngân hàng liên quan làm cơ sở chấp nhận chuyển tiền Nợ cho khách hàng. Để thuận tiện hơn cho khách hàng, Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam quy định “Đối với các khoản chuyển tiền Nợ thanh toán séc chuyển tiền, thư tín dụng, séc bảo chi, thanh toán thẻ do NHNo&PTNT phát hành được mặc nhiên coi như chuyển tiền Nợ có ủy quyền (không cần hợp đồng chấp nhận chuyển tiền Nợ)”. Quy định này đã giúp cho khách hàng giảm được thủ tục trong thanh toán. Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam còn quy định phí được thu định kỳ hàng tháng đối với đơn vị mở tài khoản tại ngân hàng chứ không thu theo món như đối với chuyển tiền cá nhân. 2.2.2.2. Phương thức thanh toán bù trừ Trong các phương thức thanh toán qua ngân hàng hiện nay, thanh toán bù trừ là phương thức thanh toán rất cơ bản và thường xuyên của các ngân hàng và tổ chức tín dụng trên địa bàn các tỉnh, thành phố trong cả nước. Phương thức thanh toán bù trừ góp phần đẩy nhanh tốc độ lưu thông tiền tệ, đảm bảo thanh toán an toàn, nhanh chóng và chính xác, tạo điều kiện tập trung vốn thanh toán của các cá nhân, tổ chức tại ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa, phương thức thanh toán bù trừ luôn chiếm tỷ trọng cao nhất cả về số món thanh toán và doanh số thanh toán. Năm 2002, số món thanh toán bằng phương thức thanh toán bù trừ đạt 1.999 món, chiếm 63,8% tổng số món thanh toán tại chi nhánh. Năm 2003, số món thanh toán bằng phương thức này đạt 3.226 món, chiếm 60,7% tổng số món thanh toán qua chi nhánh, so với năm 2002 tăng 1.227 món, đạt 161,3%. Tuy số món thanh toán có tăng lên nhưng do số món thanh toán bằng phương thức thanh toán chuyển tiền điện tử tăng tới 899 món nên tỷ trọng số món thanh toán bằng phương thức thanh toán bù trừ giảm đi so với năm 2002. Sang năm 2004, tỷ trọng số món thanh toán bằng phương thức thanh toán bù trừ tiếp tục giảm xuống còn 58,7% do chỉ tăng 512 món so với năm 2003, đạt 3.737 món. Tuy tỷ trọng số món thanh toán bằng phương thức thanh toán bù trừ giảm qua các năm nhưng tỷ trọng doanh số thanh toán bằng phương thức này liên tục tăng. Năm 2002, tỷ trọng doanh số thanh toán bằng phương thức này là 50,3%, đạt 381.107 triệu đồng thì đến năm 2002 đã là 59,7%, đạt 898.011 triệu đồng. So với năm 2002, doanh số thanh toán bằng phương thức thanh toán bù trừ năm 2003 tăng 516.904 triệu đồng, đạt 235,6%. Sang năm 2004, doanh số thanh toán bằng phương thức này tăng thêm 389.882 triệu đồng so với năm 2003, đạt 1.287.894 triệu đồng, chiếm 61% tổng doanh số thanh toán tại chi nhánh. Như vậy, số món và doanh số thanh toán theo phương thức thanh toán bù trừ luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong số các phương thức thanh toán tại chi nhánh. Một trong những ưu thế của chi nhánh là được nằm trên địa bàn Hà Nội, trung tâm kinh tế, văn hóa của cả nước. Thu nhập cũng như trình độ của người dân Hà Nội cao hơn so với các địa phương khác, giao dịch mua bán giữa các khách hàng trên địa bàn cũng diễn ra rất sôi động. Do đó, nhu cầu thanh toán qua ngân hàng tại Hà Nội tương đối lớn. Nhu cầu thanh toán giữa khách hàng của chi nhánh với các khách hàng tại các chi nhánh khác trên địa bàn Hà Nội khá lớn. Vì thế, số lượng thanh toán theo phương thức thanh toán bù trừ tại chi nhánh luôn chiếm tỷ trọng cao. Trong suốt thời gian hoạt động, chi nhánh luôn đảm bảo số dư thanh toán bù trừ (khoảng 10 tỷ đồng), chưa phải vay Ngân hàng Nhà nước để thực hiện thanh toán bù trừ. Tuy nhiên, tỷ trọng số món thanh toán theo phương thức thanh toán bù trừ lại liên tục giảm qua các năm, từ 63,8% năm 2002 xuống còn 60,7% năm 2003 và 58,7% năm 2004. Nguyên nhân là do phương thức thanh toán bù trừ tại chi nhánh không còn là phương thức tối ưu nữa khi mà công nghệ thông tin ngày càng phát triển, các phương thức thanh toán khác ngày càng hiện đại hơn. Cho đến nay, công tác thanh toán bù trừ tại chi nhánh vẫn được tổ chức và thực hiện theo quyết định số 181/QĐ-NH ngày 10/10/1991 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Đó là phương thức thanh toán bù trừ giấy hay bù trừ thủ công. Hàng ngày, nhân viên phòng kế toán phải thực hiện hai phiên bù trừ sáng và chiều tại Ngân hàng Nhà nước. Việc chứng từ phải được giao nhận trực tiếp giữa các ngân hàng tại phiên thanh toán bù trừ rất mất thời gian. Khách hàng phải đợi đến phiên thanh toán bù trừ mới được thanh toán.Do mỗi ngày chỉ có hai phiên thanh toán bù trừ nên khách hàng phải đợi khá lâu để được thanh toán, gây ứ đọng vốn trong thanh toán. Không những thế, thanh toán bù trừ giấy còn ảnh hưởng đến công tác của các cán bộ làm công tác thanh toán tại chi nhánh. Sự ra đời của hệ thống thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng, một phần của hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, đã khắc phục được những hạn chế trên. Tuy nhiên, đến nay chi nhánh vẫn chưa được thực hiện phương thức thanh toán bù trừ điện tử. Luồng thanh toán giá trị thấp, còn gọi là hệ thống thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng, xử lý các khoản thanh toán có giá trị dưới 500 triệu đồng. Khác với thanh toán bù trừ thủ công chỉ có một đến hai phiên giao dịch trong ngày, bù trừ theo hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng sẽ liên tục thực hiện trong ngày với các “phiên” được tính bằng giây. So với thanh toán bù trừ thủ công, tốc độ thanh toán qua hệ thống thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng tăng lên rất nhiều. 2.2.2.3. Phương thức thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước được áp dụng thanh toán giữa hai chi nhánh khác ngân hàng và khác địa bàn. Tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa, đây là phương thức thanh toán có tỷ trọng số món cũng như doanh số thanh toán thấp nhất. Năm 2002, số món thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước đạt 323 món, chiếm 10,3% tổng số món thanh toán tại chi nhánh, với doanh số thanh toán đạt 206.843 triệu đồng, chiếm 27,3% tổng doanh số thanh toán. Năm 2003, số món thanh toán bằng phương thức này đạt 378 món, chiếm 7,1% tổng số món thanh toán tại chi nhánh, tăng 55 món so với năm 2003, ứng với 116,9%. Doanh số thanh toán năm 2003 đạt 218.110 triệu đồng, chiếm 14,5% tổng doanh số thanh toán, tăng 11.267 triệu đồng so với năm 2002, ứng với 105,4%. Số món thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước năm 2004 tại chi nhánh tăng 119 món so với năm 2003, ứng với 132%, đạt 497 món, chiếm 7,8% tổng số món thanh toán tại chi nhánh. Doanh số thanh toán theo phương thức này cũng tăng lên 134.477 triệu đồng so với năm 2003, đạt 352.587 triệu đồng, chiếm 16,7% tổng doanh số thanh toán tại chi nhánh. Như vậy, so với hai phương thức thanh toán nội bộ và thanh toán bù trừ tại chi nhánh, phương thức thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước chiếm tỷ trọng thấp nhất cả về số món và doanh số thanh toán. Tỷ trọng số món và doanh số thanh toán theo phương thức này không ổn định mà giảm mạnh vào năm 2003, sau đó lại tăng nhẹ vào năm 2004. Sở dĩ số lượng thanh toán theo phương thức thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước không nhiều là do phương thức này còn nhiều hạn chế. Thứ nhất là thời gian thanh toán theo phương thức này khi chưa áp dụng hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng còn chậm. Khi thực hiện thanh toán theo phương thức này, mọi khoản thanh toán phải qua chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố, qua nhiều khâu hạch toán ở nhiều chi nhánh ngân hàng nên luân chuyển chứng từ bị chậm lại, gây đọng vốn cho khách hàng. Thứ hai là phương thức thanh toán này làm phân tán vốn của các ngân hàng thương mại do các ngân hàng thương mại phải chia sẻ vốn ở các tài khoản tiền gửi tại các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước. Vì thế, tài sản Có sinh lời của các ngân hàng thương mại giảm và sinh lời giảm theo. Sự ra đời của hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đã khắc phục được những hạn chế trên. Thời gian thanh toán được rút ngắn xuống còn vài giây. Như đã giới thiệu ở trên, những lệnh thanh toán thuộc luồng thanh toán giá trị thấp (dưới 500 triệu đồng) được thanh toán bù trừ điện tử, còn những lệnh thanh toán thuộc luồng thanh toán giá trị cao (từ 500 triệu đồng trở lên) và lệnh chuyển tiền khẩn sẽ được thực hiện quyết toán tổng tức thời tại Trung tâm thanh toán quốc gia. Trường hợp lệnh thanh toán quá số dư còn được thực hiện thấu chi theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Các ngân hàng thương mại không còn lo bị phân tán vốn do số dư tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của các chi nhánh được tập trung về hội sở ngân hàng thương mại và mỗi ngân hàng thương mại là thành viên chỉ cần mở một tài khoản tiền gửi duy nhất tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước. 2.2.3. Những thành tựu và hạn chế của hoạt động thanh toán tại chi nhánh 2.2.3.1. Thành tựu Trong thời gian qua, hoạt động thanh toán tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa đã có nhiều thành tích đáng khích lệ. Hoạt động thanh toán tăng nhanh cả về quy mô và doanh số. Từ 3.134 món năm 2002 với doanh số 757.667 triệu đồng, 5.315 món năm 2003 với doanh số 1.504.206 triệu đồng đến 6.367 món năm 2004 với doanh số 2.111301 triệu đồng. Doanh số thanh toán năm sau cao hơn năm trước phần nào đã nói lên công tác thanh toán tại chi nhánh ngày càng được cải tiến. Thái độ phục vụ của cán bộ làm công tác thanh toán tận tình và cởi mở đã làm vui lòng khách đến vừa lòng khách đi. Với khối lượng thanh toán rất lớn, các cán bộ trong phòng đã có nhiều cố gắng, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, hạch toán đầy đủ, cập nhật những khoản tiền đi đến trong ngày, giảm tối đa phiền hà cho khách hàng trong khâu thanh toán. Chính nhờ những nỗ lực trên mà chi nhánh đã và đang thu hút được ngày càng nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán. Năm 2002, chi nhánh có 1.875 khách hàng mở tài khoản, trong đó có 345 khách hàng là doanh nghiệp và 1.521 khách hàng là cá nhân. Năm 2003, chi nhánh có 2.100 tài khoản, gồm 400 tài khoản doanh nghiệp và 1.700 tài khoản cá nhân. Năm 2004, số tài khoản đã tăng lên, đặc biệt là tài khoản cá nhân, đạt 2.427 tài khoản cá nhân và 605 tài khoản doanh nghiệp. Lãnh đạo NHNo&PTNT cũng rất quan tâm tới hoạt động thanh toán tại chi nhánh, đã trang bị thêm các máy trạm, máy chủ, máy tính xách tay… cho phòng Kế toán – ngân quỹ để tăng tốc độ thanh toán và triển khai các chương trình ứng dụng tin học mới, tạo lòng tin và thu hút khách hàng đến với chi nhánh ngày càng nhiều. Phòng cũng liên hệ với trung tâm tin học để đào tạo lại 100% cán bộ trong phòng biết sử dụng máy tính, vận hành thành thạo các chương trình phần mềm giao dịch tại chỗ. Cán bộ làm công tác thanh toán không ngừng nâng cao ý thức học hỏi lẫn nhau trong công việc để mọi người thạo một việc, biết nhiều việc. 2.2.3.2 Tồn tại và nguyên nhân Bên cạnh những thành tích đã đạt được, hoạt động thanh toán tại chi nhánh còn gặp nhiều khó khăn làm giảm hiệu quả hoạt động thanh toán. Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu còn thấp cả về số món và doanh số thanh toán. Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng, séc định mức và séc chuyển tiền không còn được khách hàng lựa chọn. Hình thức thanh toán bằng thẻ tại chi nhánh còn triển khai chậm.Tỷ trọng số món và doanh số thanh toán bằng tiền mặt còn khá cao. Phương thức thanh toán bù trừ điện tử với nhiều tiện ích nhưng chi nhánh vẫn chưa được thực hiện. Trước hết phải kể đến những khó khăn chung đối với hoạt động thanh toán của cả hệ thống ngân hàng thương mại nước ta. - Tâm lý ưa thích tiền mặt của nhân dân ta từ ngàn đời nay là rào cản không dễ xóa bỏ. Thu nhập của đại bộ phận dân cư còn thấp và không ổn định. Trình độ của người dân chưa cao nên còn e ngại khi phải tiếp cận với các hình thức thanh toán qua ngân hàng. Trong khi đó, các ngân hàng lại chưa đề ra được chiến lược khách hàng thích hợp, chưa có biện pháp tuyên truyền, quảng cáo thường xuyên, sâu rộng các tiện ích của việc thanh toán qua ngân hàng tới dân cư trong xã hội. - Một số hình thức thanh toán còn bị quy định quá khắt khe, thủ tục thanh toán còn rườm rà nên chưa thu hút nhiều khách hàng sử dụng. Điển hình là hình thức thanh toán bằng thư tín dụng. Thủ tục mở và thanh toán thư tín dụng hết sức phức tạp, quy trình luân chuyển chứng từ rất vòng vèo, gây chậm trễ trong thanh toán. Những quy định để đảm bảo thanh toán thư tín dụng cũng hết sức chặt chẽ. Người mua phải lưu ký tiền vào một tài khoản riêng để đảm bảo thanh toán thư tín dụng. - Cơ sở hạ tầng đảm bảo cho hệ thống thanh toán qua ngân hàng còn yếu và thiếu do điều kiện kinh tế nước ta còn nghèo, vốn đầu tư cho cơ sở vật chất còn khiêm tốn. Đến nay, hầu hết các ngân hàng còn chưa thể triển khai dịch vụ thanh toán bằng thẻ do chi phí cho phát hành thẻ, mua máy đọc thẻ rất lớn. Một số ít ngân hàng đã triển khai dịch vụ thanh toán thẻ nhưng số lượng máy đọc thẻ còn ít, chủ yếu được đặt tại những nơi có nhiều người sử dụng, như: sân bay, siêu thị, khách sạn… Chi nhánh có một số hạn chế sau: - Chi nhánh còn chưa tích cực trong việc tuyên truyền, quảng cáo sâu rộng tới người dân về tiện ích cũng như nội dung các hình thức thanh toán . - Do đặc thù kinh doanh của chi nhánh nên việc bố trí thời gian học tập các văn bản chế độ cho cán bộ làm công tác thanh toán chưa được thường xuyên. - Việc ứng dụng công nghệ mới tại chi nhánh còn nhiều hạn chế do trình độ tin học của cán bộ làm công tác thanh toán còn nhiều bất cập. Như vậy, trình độ của đa số cán bộ làm công tác thanh toán tại chi nhánh còn yếu về nghiệp vụ, tin học và ngoại ngữ nên gây khó khăn cho việc triển khai dịch vụ thanh toán thẻ. Chương 3 Những giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán tại NHNo & PTNT Chi nhánh Đống Đa 3.1. Định hướng phát triển hoạt động thanh toán tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa Trong thời gian tới, hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán tại chi nhánh sẽ phải đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức. Những cơ hội và thách thức này xuất phát từ nhiều sự kiện, như: quá trình hội nhập quốc tế ngày càng tăng, hệ thống pháp luật trong nước đang được xây dựng hoàn chỉnh, công nghệ phát triển ngày càng nhanh và sản phẩm ngân hàng ngày càng đa dạng. Kinh tế nước ta đang từng bước thực hiện các điều kiện của AFTA, triển khai hiệp định thương mại Việt Mỹ. Việt Nam đang đàm phán để được gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Xu hướng tự do hóa tài chính và mở cửa ngân hàng của nền kinh tế là một thực tế. Trước những cơ hội và thách thức sẽ phải đối mặt, NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa đã đề ra định hướng phát triển hoạt động thanh toán tại chi nhánh như sau: - Thu hút ngày càng nhiều khách hàng mở tài khoản và thanh toán qua chi nhánh. - Mở rộng dịch vụ mới nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. - Đầu tư trang thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ ngân hàng để hiện đại hóa công tác thanh toán, thực hiện thanh toán nhanh chóng, chính xác và an toàn. - Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán thông thạo nghiệp vụ, giỏi tin học, ngoại ngữ để nhanh chóng tiếp cận các hình thức và phương thức thanh toán hiện đại. - Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán có phong cách giao dịch văn minh lịch sự để thực hiện chiến lược thu hút khách hàng. - Nâng cao khả năng cạnh tranh của chi nhánh trong tương lai gần với các ngân hàng nước ngoài. Để thực hiện được những định hướng đã đề ra, chi nhánh phải triển khai rất nhiều giải pháp, đồng thời phải có được sự hỗ trợ từ phía NHNo&PTNT, Ngân hàng Nhà nước và Nhà nước. 3.2. Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa 3.2.1. Xây dựng và thực hiện chiến lược khách hàng phù hợp nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng mở tài khoản và thanh toán qua chi nhánh Mở rộng tối đa các hình thức huy động vốn trên cơ sở hạ nâng cao chất lượng hoạt động các phòng giao dịch. Tìm mọi biện pháp để thu hút nguồn tiền gửi không kì hạn của các tổ chức kinh tế và dân cư bằng cách tiếp cận, khai thác các khách hàng có năng lực tài chính. Nâng cao công tác tiếp thị, quảng cáo có chiều sâu. Thay đổi nhận thức của cán bộ công nhân viên trong giao tiếp với khách hàng. Đẩy mạnh các công tác thanh toán, chuyển tiền, phát hành thẻ ATM. Phát huy và tiếp tục đổi mới phong cách giao dịch, phục ụ khách hàng theo phương châm “ Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi “ 3.2.2. Chi nhánh cần cải tiến cách làm hiện nay của mình về chuyển tiền cá nhân theo hướng thuận lợi hơn để thu hút khách hàng chuyển tiền qua chi nhánh ở nước ta, chuyển tiền cá nhân qua ngân hàng là việc người chuyển tiền nộp tiền mặt hoặc trích tài khoản ở chi nhánh này, trả cho người thụ hưởng ở chi nhánh khác, cùng một ngân hàng. Để thu hút khách hàng chuyển tiền qua chi nhánh, chi nhánh cần phải có sự thay đổi trong việc lập lệnh chuyển tiền. Khi đóng vai trò là chi nhánh phát lệnh, NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa phải ghi rõ địa chỉ và số điện thoại (nếu có) của người thụ hưởng. Khi đóng vai trò là chi nhánh nhận lệnh, NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa phải đề nghị chi nhánh phát lệnh ghi rõ địa chỉ người thụ hưởng, kèm số điện thoại (nếu có). Khi nhận được lệnh chuyển tiền, NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa phải thông báo ngay cho người thụ hưởng đến nhận tiền. Khi đến chi nhánh, người thụ hưởng chỉ phải xuất trình chứng minh nhân dân. Cán bộ làm công tác thanh toán tại chi nhánh có thể kiểm tra thêm bằng câu hỏi “Ai chuyển tiền cho anh/chị?”, nếu khách hàng trả lời đúng sẽ nhận được tiền. Chỉ cần thay đổi chi tiết nhỏ trên, chắc chắn chi nhánh sẽ thu hút thêm được nhiều khách hàng có nhu cầu chuyển tiền cá nhân. 3.2.3. Chi nhánh cần chuẩn bị sẵn sàng cho việc triển khai dịch vụ thanh toán bằng thẻ NHNo&PTNT Việt Nam từ năm 2002 đã thực hiện trả lương cho nhân viên vào tài khoản và cho sử dụng thẻ ATM để rút tiền sử dụng dần. Tuy vậy, tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa, hình thức thanh toán bằng thẻ mới đang trong giai đoạn chuẩn bị triển khai. Để hình thức thanh toán bằng thẻ sớm được đưa vào áp dụng, chi nhánh cần nhanh chóng thực hiện các biện pháp sau: Chi nhánh phải hướng dẫn cho cán bộ làm công tác thanh toán tại chi nhánh để họ làm quen và thực hiện thành thạo nghiệp vụ thanh toán thẻ. Tiếp tục nâng cao trình độ nghiệp vụ, tin học và ngoại ngữ của họ để đáp ứng được yêu cầu của hình thức thanh toán hiện đại như thẻ. Chi nhánh phải tuyên truyền cho mọi người về nội dung và tiện ích của hình thức thanh toán bằng thẻ để hướng sự chú ý của mọi người về sản phẩm mới này, giúp họ làm quen dần với nó. Khi nghiệp vụ thanh toán bằng thẻ được triển khai, chi nhánh cần thông báo rộng rãi qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, truyền hình, qua băngrôn, tờ rơi… để mọi người được biết. 3.2.4. Mở rộng thêm các sản phẩm, dịch vụ thanh toán mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng - Chi nhánh cần tiếp cận với các doanh nghiệp để thực hiện dịch vụ chi trả tiền lương cho cán bộ nhân viên qua chi nhánh. Qua đó, chi nhánh không chỉ tăng số lượng tài khoản doanh nghiệp mà còn tăng số lượng tài khoản cá nhân. Từ đó, hoạt động thanh toán tại chi nhánh sẽ phát triển ngày càng mạnh. Các doanh nghiệp, cá nhân có thể ủy nhiệm cho chi nhánh thanh toán các khoản chi có tính định kỳ như tiền điện, nước, bảo hiểm, nhà ở, thuế…. Hàng tháng, thay vì gửi hóa đơn đến từng doanh nghiệp, cá nhân, các cơ quan như Bưu điện Hà nội, công ty Điện lực, công ty Kinh doanh nước sạch Hà nội, các công ty bảo hiểm... sẽ gửi trực tiếp đến chi nhánh nhờ thu hộ tiền. - Chi nhánh có thể thực hiện dịch vụ chuyển tiền theo định kỳ, ví dụ như khách hàng có con học đại học, hàng tháng đề nghị ngân hàng chuyển một số tiền nhất định vào một ngày ấn định cho con. 3.2.5. Nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ làm công tác thanh toán - Căn cứ vào năng lực, trình độ của cán bộ, chi nhánh phải phân công công việc phù hợp với khả năng của từng người để mọi người phát huy tốt năng lực của bản thân. - Chi nhánh phải không ngừng nâng cao phong cách giao dịch của cán bộ làm công tác thanh toán với khách hàng, đảm bảo tác phong giao dịch văn minh, lịch sự để tạo tín nhiệm với khách hàng. - Chi nhánh cần giáo dục cho mọi cán bộ làm công tác thanh toán hiểu rằng họ phải lao động có kỷ luật, nề nếp, có ý thức trách nhiệm cao với công việc được giao. Họ còn phải đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong công việc, người đi trước phải dìu dắt người đi sau. Có như vậy chi nhánh mới xây dựng được tập thể đoàn kết, vững mạnh, hoàn thành tốt công tác thanh toán. 3.3. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT, Ngân hàng Nhà nước và Nhà nước 3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước - Nhà nước cần sớm ban hành luật séc. Chúng ta đều biết, thanh toán bằng séc là một hình thức thanh toán phổ biến trên thế giới ngay cả khi xuất hiện hình thức thanh toán mới hiện đại hơn như thanh toán bằng thẻ. Việt Nam cũng đang nỗ lực phát triển hình thức thanh toán bằng thẻ. Nhưng nhìn chung, những điều kiện để phát triển thanh toán thẻ ở nước ta phải mất một thời gian dài nữa mới có thể phát triển đầy đủ do nền kinh tế còn nghèo nàn. Vì thế, hiện tại và trong tương lai lâu dài, thanh toán bằng séc vẫn được coi là hình thức thanh toán chủ yếu ở nước ta. Séc không chỉ thanh toán bằng tiền VND mà còn có séc ngoại tệ, không chỉ để thanh toán trong nước mà còn phải được sử dụng để thanh toán với các nước trong khu vực và thế giới. - Ngày nay, thanh toán điện tử là xu thế tất yếu, vấn đề bảo mật cho khách hàng phải được đặt lên hàng đầu nên Nhà nước cần xử lý nghiêm các tội phạm tin học. - Nhà nước cần có giải pháp nâng cao trình độ dân trí về các kiến thức kinh tế, công nghệ thông tin và ngoại ngữ. - Nhà nước cần tạo điều kiện làm tăng thu nhập cho dân, cho công chức Nhà nước. Khi thu nhập còn thấp, chưa đủ đáp ứng những nhu cầu tối thiểu thì người dân chưa thể nghĩ tới việc gửi tiền vào tài khoản ngân hàng để thực hiện thanh toán. - Nhà nước nên cho phép không thu thuế thu nhập cá nhân trên tài khoản cá nhân của các đối tượng có thu nhập cao khi họ mở tài khoản và thanh toán qua tài khoản trong một vài năm tới. - Đối với các doanh nghiệp thương nghiệp, dịch vụ có bán hàng cho dân cư sử dụng séc, thẻ tín dụng… thì doanh số bán bằng hình thức thanh toán qua ngân hàng nên được miễn hoặc giảm thuế trong một thời kỳ nhất định. - Nhà nước cần hỗ trợ vốn cho các ngân hàng thương mại phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động thanh toán, cũng như có chính sách khuyến khích các dự án đầu tư phát triển công nghệ thanh toán hiện đại. 3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước - Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản pháp quy có hiệu lực cao để tạo môi trường pháp lý vững chắc cho hoạt động thanh toán. - Ngân hàng Nhà nước cần cải tiến quy định hiện nay đối với hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản theo hướng thuận tiện hơn cho người sử dụng. Việc cho vay thanh toán séc chuyển khoản chắc chắn sẽ khuyến khích mọi người sử dụng hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản nhiều hơn vì cả người trả tiền, người thụ hưởng và ngân hàng cùng có lợi. + Đối với người thụ hưởng, khi nộp séc vào ngân hàng, nếu người trả tiền phát hành séc chuyển khoản quá số dư nhưng vẫn thuộc hạn mức cho vay thanh toán thì người thụ hưởng vẫn được thanh toán ngay mà không phải đợi cho đến khi tài khoản của người trả tiền đủ tiền thanh toán. + Đối với người trả tiền, việc được vay thanh toán sẽ giúp họ đảm bảo uy tín với người thụ hưởng. + Đối với ngân hàng, khi áp dụng cho vay thanh toán, ngân hàng sẽ kết hợp được nghiệp vụ thanh toán và nghiệp vụ tín dụng. - Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách ưu đãi đối với khách hàng sử dụng séc bảo chi và mở rộng phạm vi áp dụng của hình thức thanh toán này. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cần mở rộng phạm vi thanh toán của séc bảo chi, cho phép séc bảo chi được sử dụng để thanh toán trong phạm vi toàn quốc do séc bảo chi đã được ngân hàng bảo chi séc đảm bảo thanh toán.Ngân hàng Nhà nước cần có những quy định linh hoạt hơn đối với hình thức thanh toán bằng thư tín dụng để khuyến khích khách hàng áp dụng hình thức này trong thanh toán nội địa. - Ngân hàng Nhà nước phải tiếp tục thúc đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa công nghệ thanh toán qua ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước phải có biện pháp, kế hoạch tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ của nước ngoài, đặc biệt là của Ngân hàng Thế giới. Từ các nguồn tài trợ này, Ngân hàng Nhà nước cần ưu tiên đầu tư vốn cho phát triển công nghệ thông tin và ứng dụng vào hoạt động thanh toán, từng bước hoàn thiện hệ thống thanh toán quốc gia theo hướng tự động hóa, tạo nền tảng kỹ thuật để mở rộng dịch vụ thanh toán trong dân cư và toàn xã hội. 3.3.3. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT - NHNo&PTNT cần ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn công tác thanh toán đi đôi với việc thường xuyên kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của từng tập thể, cá nhân làm công tác thanh toán. - Đẩy mạnh mối quan hệ hai chiều giữa ngân hàng quận và các phòng ban chức năng trong thành phố, tạo diều kiện thuận lợi nhanh chóng cho công việc chung. Đề nghị ngân hàng thành phố khẩn trương cho xây kho tiền. Do phố Tôn Đức Thắng cấm để xe trên vỉa hè, đề nghị ban giám đốc cho chi nhánh được phép chi tiền gửi xe cho khách hàng. - NHNo&PTNT cần có chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với khách hàng là cá nhân mở tài khoản và thanh toán tại các chi nhánh của ngân hàng.Những chính sách ưu đãi này sẽ thu hút ngày càng nhiều cá nhân mở tài khoản và thanh toán tại các chi nhánh của NHNo & PTNT, trong đó có chi nhánh Đống Đa. - NHNo&PTNT cần có sự thay đổi trong quy định đối với việc chuyển tiền cá nhân. - NHNo&PTNT cần nhanh chóng xúc tiến việc phát hành séc cá nhân để hình thức thanh toán này có thể triển khai tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa nói riêng và các chi nhánh NHNo&PTNT nói chung. - NHNo&PTNT phải xây dựng các chương trình phần mềm vừa đảm bảo tính hiện đại ngang tầm với trình độ thế giới vừa phải đảm bảo phù hợp với trình độ cán bộ làm công tác thanh toán của ngân hàng, phù hợp với điều kiện, đặc điểm kinh tế xã hội Việt Nam nhằm sử dụng một cách hữu hiệu, giảm bớt phần lãng phí về vốn. - NHNo&PTNT thực hiện nối mạng vi tính với các ngân hàng khác để có thể giao dịch trực tiếp, rút ngắn thời gian thanh toán. Kết luận Như vậy, hoạt động thanh toán qua ngân hàng có vai trò hết sức to lớn vì nó giúp cho việc điều hòa lưu thông tiền tệ được dễ dàng, nền kinh tế thu hút được một nguồn vốn lớn trong dân cư để đầu tư vào sản xuất, việc thanh toán giữa các khách hàng nhanh chóng tạo điều kiện cho quá trình sản xuất, kinh doanh diễn ra trôi chảy, nhịp nhàng. Xuất phát từ vai trò to lớn này thì việc nghiên cứu nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán qua ngân hàng là một yêu cầu cần thiết. Chính vì thế, việc nghiên cứu thực trạng hoạt động thanh toán tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa, tìm nguyên nhân gây ra những hạn chế, trên cơ sở đó đề ra giải pháp để phát triển hoạt động thanh toán tại chi nhánh có ý nghĩa hết sức thiết thực. Qua việc nghiên cứu hoạt động thanh toán tại chi nhánh, em đã tìm ra được những nguyên nhân chủ quan và khách quan khiến cho hoạt động thanh toán tại chi nhánh còn kém phát triển. Đó là do chi nhánh còn chưa tích cực tuyên truyền, quảng cáo cho người dân thấy được những tiện ích của việc thanh toán qua ngân hàng, trình độ của cán bộ làm công tác thanh toán tại chi nhánh còn chưa cao, vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ tại chi nhánh còn thiếu. Nguyên nhân khách quan là do tâm lý ưa thích tiền mặt của nhân dân ta không dễ xóa bỏ, thu nhập và trình độ của đại đa số người dân còn thấp; các văn bản pháp quy về hoạt động thanh toán còn thiếu và chưa khoa học; cơ sở hạ tầng đảm bảo cho hệ thống thanh toán qua ngân hàng còn yếu và thiếu. Từ những nguyên nhân trên, em đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để phát triển hoạt động thanh toán tại chi nhánh. Tuy nhiên, do em không được trực tiếp tham gia vào hoạt động thanh toán tại chi nhánh để tìm hiểu sâu hơn về các hình thức và phương thức thanh toán tại chi nhánh nên chuyên đề còn có hạn chế. Một số giải pháp nêu ra còn chung chung, chưa có những bước đi cụ thể để thực hiện. Chính vì thế, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các cán bộ nhân viên tại chi nhánh. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn cô Ngọc và các cán bộ nhân viên tại NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Tài liệu tham khảo 1. Ngân hàng thương mại – GS. TS. Lê Văn Tư 2. Giáo trình Kế toán và xử lý thông tin trong các ngân hàng thương mại - Đại học Kinh tế quốc dân. 3. Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng – Học viện ngân hàng. 4. Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNo & PTNT chi nhánh Đống Đa. 5. Quyết định số 22/QĐ-NN1 ngày 21-2-1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành “Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt” 6. Nghị định của Chính phủ số 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. 7. Văn bản chuyển tiền điện tử – NHNo&PTNT Việt Nam. 8. Hệ thống hóa văn bản về thanh toán điện tử – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 9. Tạp chí ngân hàng. 10. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ. Nhận xét của đơn vị thực tập Họ và tên người nhận xét:……………………………………………………… Chức vụ:………………………………………………………………. Nhận xét: Người nhận xét ( ký tên , đóng dấu) nhận xét của giáo viên hướng dẫn Họ và tên người hướng dẫn : …………………………………………………... Chức vụ : ………………………………………………………………… Lời nhận xét : Người nhận xét ( Đóng dấu , Ký tên )

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34066.doc
Tài liệu liên quan