Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

- Sửa đổi hoặc ban hành các quy định pháp luật để tách bạch chức năng làm chủ sở hữu (đối với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và phần vốn nhà nước) ra khỏi các cơ quan quản lý nhà nước, trong đó: loại bỏ chức năng thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn góp của nhà nước tại doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận (tại Điều 82 Luật tổ chức Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân năm 2003) và nghiên cứu “hình thành tổ chức chuyên trách thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu Nhà nước đối với công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước, các tổng công ty nhà nước quy mô lớn quan trọng, kể cả Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước” tại Quyết định 1715/QĐ-TTg ngày 26 tháng 10 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án đổi mới quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp theo hướng không phân biệt hình thức sở hữu và điều chỉnh quản lý, hoạt động, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước khi thực hiện cam kết gia nhập Tổ chức thương mại thế giới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi các tổng công ty, tập đoàn kinh tế sang hoạt động theo các nguyên tắc quy định tại Điều 168 Luật Doanh nghiệp. Đồng thời, nghiên cứu ban hành các văn bản quy định về quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp khác thay thế cho các văn bản pháp lý quy định về thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty nhà nước (Nghị định 132/2005/NĐ-CP và Nghị định 86/2006/NĐ-CP). - Bổ sung quy định cụ thể về việc chỉ những cơ quan, tổ chức được giao chức năng là chủ sở hữu mới được quyền ban hành văn bản với tư cách là chủ sở hữu nhà nước. Đồng thời, ban hành quy định hướng dẫn hình thức văn bản do chủ sở hữu ban hành và loại hình văn bản chỉ áp dụng để điều chỉnh mối quan hệ giữa chủ sở hữu nhà nước với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước nhằm khắc phục tình trạng hành chính hoá việc ban hành các quyết định và mối quan hệ giữa cơ quan, tổ chức được giao thực hiện chức năng chủ sở hữu với công ty. - Xoá bỏ tình trạng cơ quan quản lý nhà nước, kể cả cơ quan kiêm nhiệm chức năng chủ sở hữu nhà nước bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. - Quy định rõ trách nhiệm Chủ sở hữu nhà nước phải đầu tư đủ vốn điều lệ đã cam kết; có nguồn lực và chính sách rõ ràng về bổ sung vốn điều lệ cho các doanh nghiệp để tăng thêm năng lực tài chính cho các doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp tiếp tục tái đầu tư phát triển. - Đối với các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty, tập đoàn kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sanh sách chuyển đổi, đề nghị Chính phủ giao quyền chủ động cho các tổng công ty, tập đoàn kinh tế tự quyết định chuyển đổi doanh nghiệp thành viên và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. - Ban hành quy định và triển khai thực hiện nghiêm túc chế độ cung cấp thông tin và báo cáo thường xuyên cho chủ sở hữu về các vấn có liên quan của công ty; bổ sung các quy định về cơ chế cho phép Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty tiếp cận các thông tin thuộc quyền kiểm soát của Giám đốc, đồng thời đa dạng hóa các kênh thông tin ngoài chế độ báo cáo bằng sổ sách như hiện nay. - Nghiên cứu bổ sung quy định về nội dung quản lý, giám sát của chủ sở hữu đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; mối quan hệ giữa chủ sở hữu với Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty trong quản lý, giám sát công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Trong đó quy định chủ sở hữu quản lý, giám sát đối với công ty trách nhiệm hữu hạn về các vấn đề trọng đại trong các lĩnh vực sau: Về thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và phương hướng hoạt động; Về vốn và tài chính; Về tổ chức và cán bộ.

doc77 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1503 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh nghiệp lỗ, doanh nghiệp không cần nắm giữ, giảm bớt đầu mối, chuyển từ cấp quản lý này sang cấp quản lý khác…), mà chưa tạo được cơ cấu hợp lý và chưa điều chỉnh được cơ cấu tương quan giữa doanh nghiệp nhà nước với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. + Việc sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước chưa được thực hiện theo một đề án tổng thể kết hợp giữa ngành và địa bàn mà lại được thực hiện theo từng đề án của từng bộ, ngành, địa phương, tổng công ty nên còn có sự chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, giữa doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương trên cùng một địa bàn. + Phần lớn các ngành, các cấp vẫn có tư tưởng giữ lại nhiều doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoặc có cổ phần chi phối của Nhà nước. Cụ thể là có tới gần 60% số doanh nghiệp được xác định là doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn tại các đề án sắp xếp đã được phê duyệt không đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí, danh mục phân loại công ty nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc tổng công ty nhà nước. + Việc triển khai thực hiện sắp xếp lại, cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua còn chậm so với tiến độ đã đề ra và chủ yếu là đối với các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ; trong khi đó, các doanh nghiệp cần chuyển đổi sở hữu trong thời gian tới lại tập trung vào các doanh nghiệp quy mô lớn, tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước có cơ cấu tổ chức phức tạp bao gồm nhiều pháp nhân, chi nhánh hoạt động trên các địa bàn trong cả nước lại phải vừa sắp xếp, tổ chức lại vừa phải triển khai cổ phần hóa toàn bộ tổng công ty hoặc cổ phần hóa một bộ phận các doanh nghiệp thành viên vừa hình thành công ty mẹ có 100% vốn điều lệ do Nhà nước sở hữu trong thời hạn 4 năm như Luật định là điều không dễ dàng trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, có thể nói đây là thách thức to lớn, đòi hỏi phải có Chương trình mang tính tổng thể với những điều chỉnh quyết liệt hơn của các ngành, các cấp, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế, thực hiện các cam kết quốc tế và đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. - Nhìn chung, quy mô của nhiều công ty nhà nước chưa đạt được yêu cầu “Đại bộ phận doanh nghiệp nhà nước phải có quy mô vừa và lớn” như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 xác định (vẫn còn gần 40% số công ty nhà nước có quy mô vốn dưới 5 tỷ đồng). Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển; chưa giảm được nhiều tình trạng xoá nợ, khoanh nợ, giãn nợ, bù lỗ....; cụ thể là: - Năm 2008, mặc dù số doanh nghiệp có lãi chiếm tới 79,4% nhưng số có mức lãi bằng hoặc cao hơn lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại chỉ khoảng 40%. Nếu tính đủ chi phí phát sinh trong kỳ như khấu hao tài sản cố định, các khoản trích dự phòng phải thu khó đòi, giảm giá tồn kho, xử lý nợ khó đòi thì lãi thực tế sẽ thấp hơn rất nhiều. Tuy tổng số nộp ngân sách của khu vực doanh nghiệp nhà nước khá lớn nhưng chủ yếu là thuế gián thu. - Nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước tuy đã có xu hướng giảm so với những năm trước nhưng vẫn còn lớn, trong khi khả năng thanh toán nợ rất hạn chế. Không ít đối với doanh nghiệp nhà nước kinh doanh rất kém hiệu quả, không có khả năng thanh toán nợ, ảnh hưởng đến tình hình tài chính của cả khu vực đối với doanh nghiệp nhà nước nói chung, trong đó có các ngân hàng thương mại nhà nước. - Năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp nhà nước so với doanh nghiệp nước ngoài còn ở mức độ yếu, chi phí sản xuất, giá thành cao, nhất là các chi phí về quản lý, tiêu hao nguyên vật liệu, chi phí khấu hao, lãng phí, thất thoát lớn. Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước có trình độ trang thiết bị, công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới, công suất huy động thấp dẫn đến chi phí khấu hao trên đơn vị sản phẩm cao; nhiều doanh nghiệp chỉ đạt hiệu suất sử dụng tài sản cố định 50-60%. Tỷ lệ lao động dôi dư (khoảng 20%) và lao động gián tiếp lớn, thiếu lao động tay nghề cao, năng suất lao động thấp. - Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2005-2008 của khu vực doanh nghiệp nhà nước thấp hơn nhiều so với khu vực dân doanh, chưa tương xứng với các nguồn lực Nhà nước đã đầu tư và những thuận lợi so với các thành phần kinh tế khác. Đồng thời kết quả hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu cho thấy, hầu hết các chỉ tiêu về lợi nhuận, doanh thu, đầu tư, thu nhập của người lao động đều tăng hơn so với trước khi cổ phần hoá. Thực trạng này cho thấy, các thách thức của việc đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước là rất to lớn; đồng thời tiềm năng, cơ hội cho tăng trưởng GDP của nước ta cũng còn rất nhiều nếu chúng ta thực hiện tốt việc đổi mới, cơ cấu lại, cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đang có tại khu vực doanh nghiệp nhà nước. - Cổ phần hóa còn mang tính “khép kín”; trong đó, chủ yếu cổ đông vẫn là người lao động, người quản lý và Nhà nước. Mặc dù năm 2008 đã chứng kiến sự tăng lên về tỷ trọng cổ phần nắm giữ bởi cổ đông bên ngoài nhưng vẫn còn rất nhỏ; thể hiện, trong hơn 2.600 công ty nhà nước được cổ phần hóa chỉ có 25 doanh nghiệp có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài hoặc theo kết quả điều tra 444 doanh nghiệp đã cổ phần hóa trên 1 năm của Viện NCQLKTTW năm 2009 thì số cổ đông ngoài doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 11% tổng số cổ phần của doanh nghiệp tại năm thực hiện cổ phần hóa. Với tỷ lệ cổ đông ngoài doanh nghiệp, nhất là số cổ đông chiến lược còn ít thì việc quản trị của các DNNN cổ phần hóa khó có thể được cải thiện đáng kể. Hơn nữa, những phân biệt đối xử về đất đai, tài chính, tín dụng và quản lý nhà nước về lao động, tiền lương,... sau chuyển đổi là những khó khăn không nhỏ đối với các doanh nghiệp chuyển đổi. - Quá trình chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Cơ chế hoạt động sau chuyển đổi của doanh nghiệp ít thay đổi. Việc thiếu rõ ràng về lợi ích kinh tế, mô hình tổ chức quản lý, nhân sự, địa vị pháp lý và quan hệ với chủ sở hữu nhà nước cũng là nguyên nhân không nhỏ khiến các doanh nghiệp chưa mặn mà với việc chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. - Quá trình chuyển tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn sang mô hình công ty mẹ – công ty con và thành lập tập đoàn kinh tế cũng có nhiều vấn đề nảy sinh. Một số tổng công ty và công ty nhà nước chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con nhưng chưa tuân thủ điều kiện khách quan, đặc biệt điều kiện về liên kết kinh tế và đầu tư chi phối lẫn nhau, khiến cho việc chuyển đổi mang bản chất sắp xếp hành chính, khiên cưỡng và ép buộc. Nhiều công ty mẹ vẫn quen với cách điều hành theo kiểu quyết định hành chính mà thực hiện cách điều hành mới thông qua liên kết về vốn; bộ máy chuyên môn nghiệp vụ của công ty mẹ chưa theo kịp yêu cầu thực hiện đồng thời hai chức năng của công ty mẹ là vừa trực tiếp sản xuất kinh doanh, vừa đầu tư tài chính. - Việc hình thành tập đoàn kinh tế còn nhiều lúng túng, nhiều vấn đề chưa được tập trung quan tâm đúng mức trong chỉ đạo tổ chức thực hiện như: tên của công ty mẹ trong tập đoàn còn chưa theo thông lệ quốc tế (gọi công ty mẹ là tập đoàn), có thể gây lẫn lộn với toàn bộ tập đoàn; vấn đề chiến lược phát triển của toàn tập đoàn, thương hiệu, cơ chế vận hành chung của tập đoàn và vấn đề quản trị các doanh nghiệp trong tập đoàn còn chưa được tập trung quan tâm đúng mức trong các đề án hình thành tập đoàn. Ngoài ra, vấn đề chính sách đầu tư và tài chính chưa phù hợp, khuyến khích việc tăng cường tích tụ tái đầu tư vốn để hình thành tập đoàn; chưa hình thành khung pháp luật đầy đủ hướng dẫn cho việc hình thành và quản lý đối với tập đoàn. - Vấn đề chủ sở hữu và thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với phần vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp chưa có tiến triển rõ nét. Mặc dù, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 đã xác định thành lập Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước nhằm chuyển việc quản lý vốn của chủ sở hữu sở hữu nhà nước tại công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chuyển từ công ty nhà nước độc lập, quản lý phần vốn nhà nước tại công ty cổ phần sang phương thức đầu tư, kinh doanh vốn theo cơ chế phù hợp với kinh tế thị trường nhưng cho đến nay, sau hơn 2 năm Luật Doanh nghiệp nhà nước được ban hành, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định thành lập Tổng công ty này nhưng Tổng công ty vẫn chưa thực sự đi vào hoạt động. Do đó, việc thực hiện quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với phần vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp vẫn thực hiện theo cách quản lý cũ và vẫn còn nhiều nhược điểm, đó là: Cơ chế thực hiện các quyền chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN còn chồng chéo, đan xen, thiếu hiệu lực, bị phân tán ra nhiều cơ quan, nhiều tổ chức dẫn tới chồng chéo, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau do lợi ích cục bộ. Hơn nữa, các cơ quan đại diện chủ sở hữu lại đồng thời thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực ngành kinh tế-kỹ thuật hoặc địa bàn của mình. Hậu quả là có quyết định thực hiện chức năng quản lý nhà nước song lại mang tính can thiệp của chủ sở hữu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là các quyết định về tín dụng (xoá nợ, khoanh nợ, giãn nợ), giá cả (định giá độc quyền), tiền lương-thu nhập (khống chế lương tối đa trong doanh nghiệp). Đồng thời, giữa các cơ quan trong bộ máy còn thiếu sự phối hợp, trong khi việc xác định chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan không rõ dẫn đến tình trạng quản lý và công tác giám sát doanh nghiệp nhà nước tuân thủ pháp luật thiếu hiệu quả. - Hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước còn thấp; công tác kế toán, kiểm toán còn nhiều yếu kém chưa bảo đảm phục vụ một cách hữu hiệu công tác quản lý, kiểm tra, giám sát dẫn đến tình trạng sau: + Đánh giá chưa đúng đắn và không giám sát được tình hình tài chính doanh nghiệp. Ví dụ điển hình là chỉ khi thực hiện cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu mới phát hiện ra nhiều doanh nghiệp nhà nước báo cáo có lãi nhưng thực tế lại đang thua lỗ. + Tình trạng chia chác, tham nhũng trong khu vực doanh nghiệp nhà nước đang diễn ra khá trầm trọng. Biểu hiện rõ nét nhất là trong lĩnh vực đầu tư, mua sắm (lại quả, gửi giá). Hiện tượng này xảy ra bên cạnh lý do về cơ chế, chính sách, hiệu lực quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước còn có lý do từ chính quy mô quá lớn, vượt quá giới hạn tối ưu của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, trong thời gian tới bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế chính sách, nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước (bao gồm cả việc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước), cần giảm thiểu quy mô khu vực doanh nghiệp nhà nước tới giới hạn tối ưu của công tác quản lý. Đồng thời, cần chuyển từ cách đầu tư, sở hữu và chịu trách nhiệm (hữu hạn) đối với toàn bộ một doanh nghiệp sang định hướng kinh doanh vốn nhà nước, tăng cường sức mạnh chi phối của từng đồng vốn nhà nước và cách quản lý của chủ sở hữu vốn góp vào doanh nghiệp khác, chia sẻ rủi ro với các chủ sở hữu khác. Tóm lại, các thách thức của việc đẩy mạnh chuyển đổi, cải cách doanh nghiệp nhà nước là rất gay gắt trong bối cảnh nước ta đang mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế nhưng nếu chúng ta thực hiện tốt việc đổi mới, cơ cấu lại bao gồm cả việc chuyển đổi sở hữu để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đang có tại khu vực doanh nghiệp nhà nước sẽ tạo điều kiện nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp và nâng cao mức tăng trưởng GDP của nước ta. 3. Nguyên nhân của tồn tại Về cổ phần hóa: Đối tượng của cổ phần hóa hiện nay đã chuyển sang loại doanh nghiệp qui mô lớn, chủ yếu là các tổng công ty và ngân hàng thương mại nhà nước, do đó vấn đề của cổ phần hóa cũng tập trung và xoay quanh đối tượng này. Có một số vấn đề chưa được làm rõ, đó là: nhận thức về cổ phần hóa tổng công ty; lựa chọn phương án cổ phần hóa; cách tiếp cận trong cổ phần hóa tổng công ty, hay bước đi và trình tự cổ phần hóa tổng công ty. Hiện nay nhận thức cổ phần hóa tổng công ty còn chưa thống nhất, hoặc cho rằng đó là cổ phần hóa cả các doanh nghiệp thành viên lẫn văn phòng tổng công ty, hoặc là chỉ cổ phần hóa các doanh nghiệp thành viên mà không cổ phần hóa văn phòng tổng công ty. Đối với các tổng công ty khác nhau thì trình tự tiến hành cổ phần hóa phụ thuộc tỉ lệ % vốn nhà nước còn nắm giữ ở tổng công ty và doanh nghiệp thành viên. Các biện pháp trong cải cách và quản lý doanh nghiệp nhà nước còn thiên về khu vực doanh nghiệp nhà nước có 100% vốn hoạt động theo Luật DNNN, chưa chú trọng các biện pháp cải cách các doanh nghiệp sau cổ phần hóa, nhất là doanh nghiệp nhà nước còn nắm cổ phần chi phối. Các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh và các cơ quan đổi mới doanh nghiệp nhà nước mới chỉ quan tâm đến thực hiện kế hoạch sắp xếp, cổ phần hóa, giao, ban, khoán, cho thuê, chuyển đổi sang luật Doanh nghiệp mà chưa quan tâm quản trị doanh nghiệp sau cổ phần hóa, quản lý phần vốn nhà nước, đặc biệt là doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước. Chưa phân định rõ ràng và rành mạch điều hành doanh nghiệp có cổ phần chi phối của Nhà nước với công ty nhà nước có 100% vốn nhà nước. Về tổng công ty, công ty mẹ- công ty con và tập đoàn kinh tế Xu thế chung là các tổng công ty đang chuyển sang mô hình tổng công ty mẹ- con. Vấn đề đang xuất hiện thể hiện ở các điểm sau: Một là có nguy cơ không đồng bộ trong hình thành công ty mẹ- công ty con: hình thành công ty mẹ trước khi tiến hành các hoạt động để biến các doanh nghiệp thành viên thành các công ty con, công ty liên kết. Việc này kéo dài tạo ra tâm lý bất lợi cho quá trình hình thành mô hình khi trước đó các doanh nghiệp đều là thành viên bình đẳng, nhưng có doanh nghiệp trở thành “mẹ” có doanh nghiệp trở thành “con”. Do đó cần chuyển đổi doanh nghiệp thành viên trước, sau đó hình thành công ty mẹ. Hai là, có khả năng không đánh giá đúng giá hiệu quả thực, nếu không kiểm soát được việc chuyển doanh thu, lợi nhuận trong nội bộ và báo cáo tài chính hợp nhất của tập đoàn. Ba là, đi kèm với việc hình thành tập đoàn kinh tế từ tổng công ty, xuất hiện nguy cơ lẫn lộn giữa khái niệm đúng về tập đoàn (là tổ hợp các doanh nghiệp, tập đoàn không có tư cách pháp nhân) với tập đoàn- công ty mẹ( gọi công ty mẹ là tập đoàn) đang được sử dụng trong các đề án được phê duyệt, triển khai ở một số tổng công ty hiện nay. Sự lẫn lộn này có khả năng dẫn đến nguy cơ áp đặt hành chính của công ty mẹ. Về cơ chế quản lý và quyền chủ sở hữu Vấn đề còn tồn tại trong rất nhiều năm mà chưa có bước bứt phá là về trách nhiệm và động lực của bộ máy quản lý doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù đối với doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều cải cách theo hướng thị trường, nhưng trách nhiệm và động lực của bộ máy quản lý chưa được cải cách triệt để, còn tụt hậu so với các cải cách khác. Các doanh nghiệp nhà nước hiện vẫn xếp hạng theo cấp doanh nghiệp như thời kì trước đổi mới. Giám đốc doanh nghiệp nhà nước vẫn được coi là công chức nhà nước, bổ nhiệm và miễn nhiễm như trong bộ máy nhà nước. Giám đốc được trả lương phụ thuộc vào hạng doanh nghiệp theo ba tiêu chí là độ phức tạp, quy mô quản lý và hiệu quả sản xuất. Việc tuyển dụng, trả lương chưa gắn với hợp đồng trách nhiệm cụ thể, đồng thời thiếu cơ chế đánh giá sát thực tế. Quyền chủ sở hữu không được cải cách tương xứng và trở thành bất cập so với yêu cầu chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước. Một là, chưa có phân định rõ ràng quyền, trách nhiệm, quyền lợi gắn với trách nhiệm của các đại diện chủ sở hữu. Hai là, quản lý chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam còn chồng chéo, đan xen, thiếu hiệu lực, bị phân tán ra nhiều cơ quan, nhiều tổ chức, dẫn tới chồng chéo, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau do lợi ích cục bộ. Ba là, nhiều bộ, UBND và cán bộ chưa nhận thức được tầm quan trọng và còn có cái nhìn bảo thủ đối với các biện pháp, hình thức chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước, nhất là chuyển đổi sở hữu công ty nhà nước. Bốn là, thiếu tiêu chí đánh giá, giám sát đối với quyền chủ sở hữu, với người đại diện chủ sở hữu. Năm là, năng lực của nhiều cán bộ quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp không phù hợp với đòi hỏi của quá trình đổi mới quyền chủ sở hữu, trong khi chưa mạnh dạn cải cách cơ chế lựa chọn những người tài làm giám đốc, không đào thải được giám đốc yếu kém, yếu kém trong áp dụng các chế tài. Phần III: Giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước I. Định hướng và mục tiêu về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước 1. Định hướng Quá trình cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước đang bước vào những thời điểm gấp rút khi mà luật doanh nghiệp nhà nước 2005 sắp đến lúc hết hiệu lực vào 1-7-2010. Thực chất của quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo nghị định được ban hành mới nhất vào ngày 19-3 chỉ là một bước đệm nhằm đẩy mạnh việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước khi thời hạn sắp hết. Còn đích đến cuối cùng để thay đổi khối doanh nghiệp nhà nước được chính phủ xem xét đến là việc cổ phần hóa. Do vậy với việc đưa ra yêu cầu về mốc thời gian, nhà nước vẫn cần giám sát việc chuyển đổi chặt chẽ hơn, cùng với đó là việc chuẩn bị đánh giá, xác định giá trị của doanh nghiệp với cái đích là cổ phần hóa. Những doanh nghiệp nhà nước thuộc diện cổ phần hóa mà chưa tiến hành cổ phần hóa kịp trước 1-7-2010 được tiến tới giải pháp chuyển sang mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên để kịp tiến độ chuyển đổi khối doanh nghiệp nhà nước. Sau đó tiếp tục quá trình tiến hành cổ phần hóa theo như kế hoạch đã được chính phủ ban hành. Chính phủ đã có những định hướng cho công tác chuyển đổi khối doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hóa trong thời gian tới: - Tiếp tục bảo đảm ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp thuộc mọi các thành phần kinh tế hoạt động và phát triển theo cơ chế thị trường; hỗ trợ doanh nghiệp có thời hạn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và cung ứng các sản phẩm thiết yếu tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; thu hẹp tối đa các lĩnh vực độc quyền kinh doanh của Nhà nước; xoá bỏ đặc quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Hạn chế việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước; chỉ thành lập mới doanh nghiệp nhà nước khi có đủ điều kiện và trong các lĩnh vực sản xuất, cung ứng những sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho phát triển kinh tế - xã hội và doanh nghiệp được thành lập chủ yếu dưới hình thức công ty cổ phần. - Tiếp tục thực hiện các đề án sắp xếp và phát triển doanh nghiệp nhà nước; tập trung đẩy nhanh và mở rộng diện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cả các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty lớn với sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối; đồng thời, mở rộng các hình thức chuyển đổi sở hữu khác nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước. Hoàn thành chuyển đổi tất cả các công ty thuộc diện nhà nước cần sở hữu 100% vốn sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc công ty cổ phần. Thành lập và phát triển một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình mở cửa thị trường để hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với điều kiện trong nước và các cam kết quốc tế. - Xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý tài chính, tạo ra hành lang pháp lý cần thiết để các tập đoàn kinh tế có thể nâng cao sức cạnh tranh, hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với các cam kết quốc tế. - Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Hợp tác xã nhằm tạo môi trường pháp lý đồng bộ và thuận lợi cho các hợp tác xã hình thành và phát triển. Ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ các loại hình kinh tế hợp tác phát triển theo hướng đa sở hữu. - Xây dựng môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi; thực hiện và áp dụng thống nhất các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư, kinh doanh theo hướng bình đẳng; thực hiện các chính sách khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhất là các chính sách về xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và chuyển giao công nghệ. Thực hiện tích cực các giải pháp nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính; khắc phục tình trạng hình sự hóa trong xử lý vi phạm về kinh tế. 2. Mục tiêu Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sự tồn tại hàng loạt các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả đặc biệt đem lại gánh nặng lớn cho Ngân sách Nhà nước và kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, do vậy quá trình Cổ phần hoá và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước hướng tới những mục tiêu sau: - Phải xây dựng khối doanh nghiệp đủ mạnh thông qua các hình thức chuyển đổi, cổ phần hóa góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Chuyển đổi khối doanh nghiệp nhà nước theo cơ cấu hợp lý, hoạt động có hiệu quả và sức cạnh tranh cao, chiếm được thị phần lớn trong những ngành và lĩnh vực kinh tế then chốt để nhà nước chi phối, điều khiển được nền kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế. - Làm nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và xây dựng công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp sản xuất công nghệ cao, công nghiệp quốc phòng, tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. - Đảm bảo được các sản phẩm dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và nhu cầu cần thiết cho quốc phòng và an ninh. - Hoàn thành cơ bản việc sắp xếp , cơ cấu lại và đổi mới hoạt động của doanh nghiệp nhà nước hiện có trên cơ sở phân định rõ, doanh nghiệp nhà nước giữ 100% vốn, doanh nghiệp nhà nước giữ cổ phần chi phối, doanh nghiêp nhà nước thực hiện đa dạng hóa sở hữu... - Giải quyết cơ bản nợ tồn đọng không có khả năng thanh toán; lao động dôi dư mà những nhiệm vụ xã hội mà doanh nghiệp nhà nước không phải làm. - Đổi mới và hiện đại hóa một bước quan trọng công nghệ và quản lý của đại bộ phân doanh nghiệp nhà nước sau khi tiến hành chuyển đổi, cổ phần hóa nhất là trong điều kiện Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, nhằm nâng cao sức cạnh tranh cũng như đáp ứng được những nhu cầu căn bản của WTO. - Bổ sung, sửa đổi cơ chế chính sách, hình thành khung pháp lý đồng bộ, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng trong cơ chế thị trường cho mọi thành phần kinh tế, trong đó khối doanh nghiệp sau chuyển đổi phát huy được đầy đủ quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, xóa bỏ bao cấp và có động lực mạnh mẽ trong sản xuất, kinh doanh. - Thực hiện việc chuyển đổi toàn diện đối với khối doanh nghiệp nhà nước theo mô hình công ty hiện đại, hoàn thành cơ bản cổ phần hóa đối với những doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn, đặc biệt đẩy mạnh việc cổ phần hóa và đổi mới cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa những tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm… tiếp tục cổ phần hóa những công ty nhà nước đang thuộc diện phải cổ phần xong đã chuyển sang mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo nghị định ngày 19-3. Hoàn tất việc sáp nhập, cho thuê hoặc giao, bán giải thể, phá sản đối với những doanh nghiệp nhỏ, không cổ phần hóa được và nhà nước không cần nắm giữ. II. Các giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước 1. Giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa 1.1. Hoàn thiện việc xác định giá trị doanh nghiệp và giải quyết những tồn đọng về mặt tài chính Xác định giá trị của doanh nghiệp là một khâu hết sức quan trọng trong quá trình tiến hành CPH doanh nghiệp. Để làm tốt công việc này không phải là một điều dễ dàng và nhanh chóng. Xác định giá trị doanh nghiệp không phải là công việc mang tính kỹ thuật nghiệp vụ thuần tuý mà nó còn có ý nghĩa kinh tế - xã hội trọng yếu vì nó liên quan đến việc bảo toàn vốn của Nhà nước, đến quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp và đến khả năng đảm bảo hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty cổ phần trong tương lai. Việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp cần bảo đảm: không gây nên những thất thoát tài sản và vốn của Nhà nước; tạo tiền đề tài chính thuận lợi cho doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Trên thực tế trong việc xác định giá trị doanh nghiệp cần chú ý thêm một số vấn đề sau: Thứ nhất: Tiến hành phân loại các tài sản mà trước đây Nhà nước đầu tư cho doanh nghiệp để có biện pháp sử lý hợp lý, theo đó: - Những tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp phù hợp với phương án kinh doanh mới của công ty cổ phần sẽ chuyển giao lại cho công ty cổ phần theo giá thị trường tại thời điểm tiến hành cổ phần hoá. - Những tài sản của Nhà nước không phù hợp sẽ được chuyển giao lại cho Nhà nước để điều chuyển cho doanh nghiệp khác hoặc thanh lý, chứ không ép buộc công ty cổ phần mới phải nhận. - Những tài sản đã hết thời hạn khấu hao sẽ được chuyển giao lại cho công ty cổ phần mà không tính vào giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Thứ hai: Với những tài sản trước đây doanh nghiệp vay vốn để đầu tư, nay đã hoàn lại đủ vốn cho người cho vay, nên được chia làm 2 phần: - Một phần thuộc sở hữu Nhà nước theo tinh thần doanh nghiệp của Nhà nước đầu tư, phần vốn tăng thêm thuộc sở hữu Nhà nước. - Một phần tính cho người lao động trong doanh nghiệp, coi đó là sự ưu đãi khuyến khích tính tích cực và chủ động phát triển vốn của người lao dộng trong doanh nghiệp. Thứ ba: Xác định hợp lý những tồn đọng tài chính mà công ty cổ phần có thể kế thừa từ doanh nghiệp Nhà nước. Có thể xoá bỏ cho doanh nghiệp những khoản nợ khó đòi, khoản lỗ phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh trước đây do những nguyên nhân khách quan. Thứ tư: Đổi mới việc tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp: - Mời các chuyên gia kinh tế - kỹ thuật ở các cơ quan khoa học vào việc đánh giá tài sản, tôn trọng ý kiến của họ trong việc đánh giá giá trị thực tế của các tài sản. - Đề cao vai trò của Đại diện doanh nghiệp trong việc xác định giá trị doanh nghiệp - Mở rộng sự phân cấp trong việc quyết định giá trị doanh nghiệp. Với các doanh nghiệp có giá trị trên 10 tỷ đồng, thay vì Bộ Tài chính thẩm định và Thủ tướng Chính phủ quyết định, nên quy định là " cấp nào ra quyết định thành lập doanh nghiệp sẽ có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp khi chuyển sang công ty cổ phần". Điều này sẽ góp phần rút ngắn thời gian cổ phần hoá. 1.2. Hoàn thiện chính sách ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá Nghị định 44/CP ra đời đã tăng cường ưu đãi, tạo điều kiện cho người lao động được sở hữu cổ phần và thực hiện quyền làm chủ của mình đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên việc thực hiện các quy định này trong thực tế lại nảy sinh thêm những vấn đề mới cần phải bổ sung và điều chỉnh. Dưới đây là một số vấn đề liên quan đến chính sách ưu đãi đối với người lao động. Tăng cường mức độ ưu đãi cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước theo thâm niên công tác và mức độ đóng góp của họ với doanh nghiệp. Mức độ ưu đãi này thể hiện ở chỗ Nhà nước sẽ cho người lao động làm ở doanh nghiệp một số cổ phần. Nên có điều này bởi lẽ người lao động đã cống hiến cho doanh nghiệp thì khi doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu người chủ sở hữu nên trích một phần vốn cho họ. Mặt khác, việc điều chỉnh này còn bảo đảm cho người lao động có khả năng trở thành người chủ thực sự của công ty cổ phần khi năng lực tài chính của bản thân họ không đủ để mua cổ phần theo giá mà Nhà nước bán ưu đãi cho họ. Tiến hành điều chỉnh sự ưu đãi đối với người lao động tương ứng với ngành nghề và lĩnh vực hoạt động, thay vì quy định sự ưu đãi cho người lao động của tất cả các loại doanh nghiệp thuộc các ngành nghề và lĩnh vực hoạt động. Sự điều chỉnh này nhằm hướng tới sự bình đẳng, tránh sự ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đến quyền lợi của người lao động. Như vậy, mức ưu đãi cho người lao động trong các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, xây dựng, giao thông vận tải, thương mại, du lịch, khách sạn…. sẽ khác nhau. Chế độ ưu đãi đối với người lao động nghèo được mua chịu cổ phần và trả chậm cho Nhà nước trong thời hạn 10 năm cũng cần được điều chỉnh lại cho phù hợp với thực tế. Việc xác dịnh một chuẩn mực chung về lao động nghèo cho tất cả các vùng rõ ràng là không hợp lý do mức giá sinh hoạt và mức sống của các vùng là rất khác nhau. Vì vậy, Chính phủ cần phải xem xét lại chuẩn mực nghèo theo vùng trên cơ sở những tài liệu điều tra về mức sống đã thực hiện trong những năm trước đây. Những thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng…có mức giá cả sinh hoạt cao hơn các địa phương khác nên tiêu chuẩn lao động nghèo ở đây cũng phải khác. Tạo điều kiện cho người lao động tham gia mua cổ phiếu làm sao để không có sự chênh lệch quá lớn giữa lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động. Khắc phục tình trạng hạn chế mức cho hưởng cổ tức trên số cổ phần thuộc về sở hữu Nhà nước. Khắc phục tình trạng hạn chế mức mua chịu cổ phần, lưu ý đến tình trạng cách biệt về số lượng mua cổ phần giữa công nhân và cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp. Giải quyết hợp lý lao động dôi dư trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Phương án giải quyết số lao động dôi dư được xét trên 2 mặt: Bảo đảm việc làm và cuộc sống của người lao động; bảo đảm điều kiện để công ty cổ phần đạt được yêu cầu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong đó có hiệu quả sử dụng lao động. Trên cơ sở nhận thức rõ ràng quan điểm giải quyết việc làm là trách nhiệm của cả người lao động, doanh nghiệp và Nhà nước. Xoá bỏ quy định mức khống chế cổ phần tối đa được mua của cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành, cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp (Giám đốc, Phó Giám đốc, Kế toán trưởng) không được mua cổ phần quá mức bình quân chung của người lao động trong doanh nghiệp. Quy định này bộc lộ những khiếm khuyết trong việc tạo tâm lý tin tưởng của người lao động trong doanh nghiệp, hạn chế khả năng huy động vốn. Bởi vậy, để bảo đảm sự công bằng xã hội, Nhà nước có thể sử dụng các công cụ kinh tế khác chứ không nên quy định hạn chế mức mua cổ phần của mọi người trong doanh nghiệp. 1.3. Đổi mới tổ chức chỉ đạo thực hiện quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước - Xác định đối tượng thực hiện CPH: Trong quá trình thực hiện CPH, cần linh hoạt và mềm dẻo trong việc xác định doanh nghiệp cổ phần hoá, tránh sự gò ép khiên cưỡng và cứng nhắc. Tiến hành phân loại doanh nghiệp là hoạt động vô cùng quan trọng trong việc xác định doanh nghiệp CPH. Thông qua phân loại, chúng ta sẽ có chính sách cụ thể áp dụng cho từng loại doanh nghiệp. Từ sự phân loại doanh nghiệp đó, bản thân mỗi doanh nghiệp đã tự xác định được sự tất yếu phải tiến hành CPH. Bên cạnh đó, khi chỉ định doanh nghiệp CPH cần có sự trao đổi,giải quyết những vướng mắc tư tưởng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền về chủ trương CPH cho người lao động trong doanh nghiệp. Đó chính là điều kiện rất quan trọng đảm bảo quá trình CPH của doanh nghiệp được tiến hành một cách thuận lợi. - Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch CPH doanh nghiệp Nhà nước Ở cấp Trung ương, kế hoạch Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được xây dựng trên cơ sở chiến lược đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước mà Đảng, Nhà nước đề ra. Còn ở cấp doanh nghiệp, trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện quá trình Cổ phần hoá cần chú ý tới những vấn đề sau: Xác định rõ những công việc phải làm trong toàn bộ quá trình cổ phần hoá, những công việc trọng tâm trong từng giai đoạn của quy trình Cổ phần hoá. Từ đó có kế hoạch bố trí lực lượng hợp lý thực hiện các công việc đó. Phân chia trách nhiệm cụ thể rõ ràng trong Ban cổ phần hoá của doanh nghiệp, quy định rõ chức năng nhiệm vụ quyền hạn của từng bộ phận trong Ban, đề ra được kế hoạch chung trong tiến trình hoạt động của Ban. Từ kế hoạch chung, Trưởng ban sẽ tổ chức sự điều hoà, phối hợp chung bảo đảm sự nhịp nhàng cân đối trong thực hiện các công việc của quá trình Cổ phần hoá. Đề cao trách nhiệm của Ban chỉ đạo Cổ phần hoá, Ban này không chỉ có chức năng đôn đốc và kiểm tra quá trình Cổ phần hoá mà còn phải hết sức coi trọng việc hướng dẫn thực hiện các công việc của quá trình này và trực tiếp giải quyết các vấn đề phát sinh thuộc thẩm quyền của mình. Đơn giản hoá các thủ tục liên quan đến cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho công ty cổ phần có nguồn gốc từ doanh nghiệp Nhà nước. Coi trọng việc sử dụng các tổ chức và cá nhân làm tư vấn cho cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp trong việc triển khai các công việc của quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần cũng như các vấn đề liên quan đến hoạt động của nó sau khi chuyển đổi. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là công tác được tiến hành lâu dài. Bởi vậy, để tiến hành công tác này một cách có hiệu quả cần đổi mới Ban chỉ đạo cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có tính chất chuyên trách. Ban này sẽ có trách nhiệm trực tiếp lập kế hoạch và tổ chức thực hiện các công việc liên quan đến chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần và những vấn đề hậu cổ phần hoá. 1.4. Tạo môi trường pháp lý đầy đủ, ngày càng đồng bộ hơn cho tổ chức và hoạt động của công ty Cổ phần Để công cuộc Cổ phần hoá thực sự đi vào đúng quỹ đạo, việc tạo dựng khung pháp lý đầy đủ và thuận lợi cũng hết sức cần thiết. Chúng ta cần phải sửa đổi nội dung các văn bản pháp quy về cổ phần hoá trước đây cũng như ban hành các văn bản mới sao cho thật phù hợp với tình hình hiện nay. Nhà nước và Chính phủ nên ban hành những tài liệu đầy đủ và hoàn chỉnh về công tác Cổ phần hoá: từ các văn bản mang tính chủ trương chính sách, các văn bản pháp lý cho tới những hướng dẫn cho các doanh nghiệp thực hiện các bước Cổ phần hoá một cách chi tiết nhất, cụ thể nhất. Thực ra như đã nói ở trên, trong số các doanh nghiệp muốn Cổ phần hoá, có tình trạng các cấp lãnh đạo không nắm rõ mình phải làm theo trình tự nào, có những văn bản nào hướng dẫn việc Cổ phần hoá… do vậy đó cũng là nguyên nhân làm chậm tiến độ Cổ phần hoá. Như vậy một mặt cần thêm các văn bản để tạo môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ về Cổ phần hoá, mặt khác cũng nên tránh việc ban hành quá nhiều văn bản hướng dẫn Cổ phần hoá như trước đây, bởi điều này sẽ gây ra nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp. Chẳng hạn như hầu hết các nghị định của Chính phủ về Cổ phần hoá khi ban hành đều có sửa đổi so với tình hình thực tế nhưng sau một thời gian ngắn lại không phù hợp nên phải bổ sung hoặc sửa đổi. Đối với các doanh nghiệp Cổ phần hoá, đây là một khó khăn, gây ảnh hưởng đến quá trình Cổ phần hoá. Vì vậy các nhà hoạch định chính sách nên nghiên cứu kỹ để ban hành các văn bản sao cho các văn bản thực sự tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh và ổn định để các cấp các ngành thuận lợi trong công tác Cổ phần hoá. Bên cạnh đó cũng cần phải tạo một khuôn khổ pháp lý ngày càng đồng bộ cho việc tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. Chú trọng việc hướng dẫn thi hành các điều khoản về công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp, đẩy mạnh hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán vì nếu hoạt động của nó phát triển sẽ giúp công ty cổ phần tạo và tăng được nguồn vốn và định mức được giá thị trường cổ phần của công ty. 2. Giải pháp thúc đẩy chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước 2.1. Về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng - Nghiên cứu việc mở rộng phạm vi chuyển đổi, bao gồm việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước và tổ chức quản lý doanh nghiệp sau chuyển đổi do Nhà nước làm chủ sở hữu nhằm tạo khung pháp lý đồng bộ, chi tiết, cụ thể cho việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước. - Mở rộng đối tượng áp dụng Nghị định bao gồm các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc chuyển đổi, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp sau chuyển đổi do Nhà nước làm chủ sở hữu cho phù hợp với việc mở rộng phạm vi điều chỉnh nêu trên. Trong đó, đối với đối tượng chuyển đổi cũng được mở rộng bao gồm: các doanh nghiệp được quy định tại Nghị định 95/2006/NĐ-CP; các công ty lâm nghiệp, nông trường quốc doanh; doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa được Thủ tướng Chính phủ cho phép tạm thời chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên trước khi chuyển thành công ty cổ phần (để kịp thời hạn chuyển sang Luật Doanh nghiệp trước ngày 1/7/2010). Đồng thời, cho phép các tổ chức sự nghiệp có thể không thuộc diện chuyển thành doanh nghiệp khoa học và công nghệ được áp dụng những quy định của chuyển đổi. 2.2. Về điều kiện chuyển đổi - Nghiên cứu việc bỏ quy định điều kiện về mức vốn điều lệ nhằm đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi và giải quyết vướng mắc, phiền hà do phải thêm thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ cho phép chuyển đổi đối với từng trường hợp doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp công ích ở các địa phương không đạt quy mô vốn điều lệ tối thiểu 30 tỷ đồng của Nghị định 95/2006/NĐ-CP. - Cân nhắc việc quy định cụ thể điều kiện chuyển đổi phù hợp với đặc điểm của từng loại doanh nghiệp: Loại doanh nghiệp độc lập, công ty mẹ thuộc diện chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước là chủ sở hữu; Loại đơn vị hạch toán phụ thuộc tổng công ty, công ty mẹ thuộc diện chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước là chủ sở hữu; Loại doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa được Thủ tướng Chính phủ cho phép chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên trước khi chuyển thành công ty cổ phần. 2.3. Về trình tự chuyển đổi và nguyên tắc xử lý tài chính, tài sản và lao động khi chuyển đổi và việc xác định vốn điều lệ - Cần quy định chi tiết và cụ thể về trình tự thủ tục chuyển đổi để tránh phải ban hành thông tư hướng dẫn tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp chuyển đổi. - Rà soát để sửa đổi, bổ sung những quy định về xử lý tài chính, lao động, đất đai cho phù hợp những quy định mới về cơ chế, chính sách xử lý tài chính, lao động, đất đai và yêu cầu thực tiễn đòi hỏi. Đồng thời, để tạo điều kiện chuyển một số doanh nghiệp (là đối tượng của cổ phần hóa, nhưng không kịp hoàn thành cổ phần hóa trước thời điểm ngày 01/07/2010 nên tạm thời chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, sau đó sẽ chuyển thành công ty cổ phần) nên cân nhắc việc quy định không thực hiện xử lý tài chính, lao động, đất đai đối với các doanh nghiệp thuộc diện này nhằm giảm bớt công sức, thời gian, chi phí cho việc xử lý khi chuyển đổi và phù hợp với nguyên tắc mỗi doanh nghiệp chuyển đổi, cổ phần hóa chỉ được xử lý lao động dôi dư một lần. 2.4. Về vấn đề chủ sở hữu - Sửa đổi hoặc ban hành các quy định pháp luật để tách bạch chức năng làm chủ sở hữu (đối với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và phần vốn nhà nước) ra khỏi các cơ quan quản lý nhà nước, trong đó: loại bỏ chức năng thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn góp của nhà nước tại doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận (tại Điều 82 Luật tổ chức Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân năm 2003) và nghiên cứu “hình thành tổ chức chuyên trách thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu Nhà nước đối với công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước, các tổng công ty nhà nước quy mô lớn quan trọng, kể cả Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước” tại Quyết định 1715/QĐ-TTg ngày 26 tháng 10 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án đổi mới quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp theo hướng không phân biệt hình thức sở hữu và điều chỉnh quản lý, hoạt động, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước khi thực hiện cam kết gia nhập Tổ chức thương mại thế giới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi các tổng công ty, tập đoàn kinh tế sang hoạt động theo các nguyên tắc quy định tại Điều 168 Luật Doanh nghiệp. Đồng thời, nghiên cứu ban hành các văn bản quy định về quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp khác thay thế cho các văn bản pháp lý quy định về thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty nhà nước (Nghị định 132/2005/NĐ-CP và Nghị định 86/2006/NĐ-CP). - Bổ sung quy định cụ thể về việc chỉ những cơ quan, tổ chức được giao chức năng là chủ sở hữu mới được quyền ban hành văn bản với tư cách là chủ sở hữu nhà nước. Đồng thời, ban hành quy định hướng dẫn hình thức văn bản do chủ sở hữu ban hành và loại hình văn bản chỉ áp dụng để điều chỉnh mối quan hệ giữa chủ sở hữu nhà nước với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước nhằm khắc phục tình trạng hành chính hoá việc ban hành các quyết định và mối quan hệ giữa cơ quan, tổ chức được giao thực hiện chức năng chủ sở hữu với công ty. - Xoá bỏ tình trạng cơ quan quản lý nhà nước, kể cả cơ quan kiêm nhiệm chức năng chủ sở hữu nhà nước bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. - Quy định rõ trách nhiệm Chủ sở hữu nhà nước phải đầu tư đủ vốn điều lệ đã cam kết; có nguồn lực và chính sách rõ ràng về bổ sung vốn điều lệ cho các doanh nghiệp để tăng thêm năng lực tài chính cho các doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp tiếp tục tái đầu tư phát triển. - Đối với các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty, tập đoàn kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sanh sách chuyển đổi, đề nghị Chính phủ giao quyền chủ động cho các tổng công ty, tập đoàn kinh tế tự quyết định chuyển đổi doanh nghiệp thành viên và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. - Ban hành quy định và triển khai thực hiện nghiêm túc chế độ cung cấp thông tin và báo cáo thường xuyên cho chủ sở hữu về các vấn có liên quan của công ty; bổ sung các quy định về cơ chế cho phép Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty tiếp cận các thông tin thuộc quyền kiểm soát của Giám đốc, đồng thời đa dạng hóa các kênh thông tin ngoài chế độ báo cáo bằng sổ sách như hiện nay. - Nghiên cứu bổ sung quy định về nội dung quản lý, giám sát của chủ sở hữu đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; mối quan hệ giữa chủ sở hữu với Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty trong quản lý, giám sát công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Trong đó quy định chủ sở hữu quản lý, giám sát đối với công ty trách nhiệm hữu hạn về các vấn đề trọng đại trong các lĩnh vực sau: Về thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và phương hướng hoạt động; Về vốn và tài chính; Về tổ chức và cán bộ. 2.5. Về tổ chức quản lý - Quy định cụ thể việc áp dụng mô hình và cơ cấu tổ chức quản lý đối với từng loại công ty: Công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, công ty mẹ thuộc nhóm công ty mẹ-công ty con, công ty quy mô lớn, kinh doanh đa ngành, hoạt động tại nhiều địa bàn có cơ cấu tổ chức gồm Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc và các Kiểm soát viên; Đối với công ty mẹ hoạt động trong các ngành, lĩnh vực đặc biệt, cơ cấu tổ chức quản lý của công ty mẹ do Thủ tướng Chính phủ quyết định; Đối với các công ty khác: căn cứ vào quy mô, đặc điểm ngành nghề và hoạt động của từng công ty: chủ sở hữu quyết định áp dụng cơ cấu tổ chức quản lý theo mô hình Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc và các Kiểm soát viên hoặc theo mô hình Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc và Kiểm soát viên; việc Chủ tịch công ty kiêm hoặc không kiêm Tổng giám đốc. - Hướng dẫn và cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng thành viên; cơ cấu, tiêu chuẩn thành viên Hội đồng thành viên; Chủ tịch Hội đồng thành viên; Tổng giám đốc công ty; Mối quan hệ giữa Hội đồng thành viên và Tổng giám đốc công ty trong quản lý, điều hành; Kiểm soát viên; Thù lao, tiền lương và lợi ích khác của thành viên Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc, Kiểm soát viên. Trong đó, quy định cụ thể những vấn đề Hội đồng thành viên được tự quyết định và những vấn đề mà Hội đồng thành viên được quyết định sau khi được sự chấp thuận của chủ sở hữu (những quyết định của Hội đồng thành viên có giá trị pháp lý sau khi được sự chấp thuận của chủ sở hữu) nhằm đảm bảo quyền quản lý của chủ sở hữu đối với những vấn đề quan trọng của công ty và nhóm công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước. - Hướng dẫn và cụ thể về quyền hạn, nhiệm vụ, tiêu chuẩn Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc, Kiểm soát viên; Mối quan hệ giữa Chủ tịch công ty và Tổng giám đốc công ty trong quản lý, điều hành; Thù lao, tiền lương và lợi ích khác của Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc, Kiểm soát viên; việc Chủ tịch công ty kiêm hoặc không kiêm Tổng giám đốc. 2.6. Về quản trị doanh nghiệp - Về người đại diện theo pháp luật của công ty: cần quy định Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty là đại diện theo pháp luật của công ty. Theo thông lệ quản trị hiện đại và kinh nghiệm ở Trung Quốc thì việc Chủ tịch Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng thành viên của công ty hoàn toàn vốn nhà nước được giao là người đại diện theo pháp luật của công ty sẽ tách bạch được quyền quản lý và quyền điều hành doanh nghiệp cũng như tạo điều kiện cho Chủ tịch thay mặt Hội đồng thực hiện đúng chức năng nhân danh công ty thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty và để Tổng giám đốc (Giám đốc) tập trung vào việc điều hành công việc hàng ngày của doanh nghiệp; Tổng Giám đốc (Giám đốc) được ủy quyền ký kết hợp đồng và điều hành hoạt động hàng ngày của công ty. Đồng thời thực tế ở nước ta cho thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc thuê Tổng giám đốc (Giám đốc) ở các công ty nhà nước gặp nhiều vướng mắc là do Tổng giám đốc (Giám đốc) được thuê được pháp luật hoặc Điều lệ công ty quy định là người đại diện theo pháp luật của công ty và là chủ tài khoản của công ty; vì vậy, việc quy định Chủ tịch Hội đồng thành viên là người đại diện theo pháp luật của công ty cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thuê Tổng giám đốc (Giám đốc). - Nghiên cứu việc quy định chức danh Giám đốc lĩnh vực tại công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo thông lệ tốt nhất và quản trị doanh nghiệp hiện đại (giám đốc lĩnh vực như giám đốc marketing, giám đốc tài chính, giám đốc đầu tư, giám đốc nội chính, giám đốc quan hệ công cộng,...) nhằm tạo đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ chuyên môn sâu trong từng lĩnh vực và nâng cao vị thế, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong từng lĩnh vực cũng như việc triển khai và quyết định nhanh, sát hơn và giảm tải công việc cụ thể cho Tổng giám đốc. - Rà soát để sửa đổi, bổ sung những quy định chưa rõ trong Luật Doanh nghiệp (vấn đề kiêm nhiệm hay không được kiêm nhiệm giữa Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty và Giám đốc; đảm bảo sự nhất quán giữa quy định về nguyên tắc thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước tại Điều 168 Luật Doanh nghiệp và các quy định về cơ cấu tổ chức quản lý của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên ...). - Cải thiện năng lực quản trị doanh nghiệp của chủ sở hữu, nâng cao năng lực tổ chức, quản lý theo yêu cầu của đổi mới quản trị doanh nghiệp. 2.7. Giải pháp về tổ chức, cán bộ, lao động, tiền lương - Tiếp tục tiến hành tập huấn, tuyên truyền tới tất cả các đối tượng liên quan: cơ quan, ban, ngành, tổng công ty, doanh nghiệp và người lao động để nhận thức được đúng đắn mục tiêu và bản chất của chuyển đổi. - Sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc thuê Tổng giám đốc (Giám đốc) điều hành để thu hút được người tài trong quản lý, điều hành, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty sau chuyển đổi. - Sớm ban hành hướng dẫn về cơ chế quản lý lao động, tiền lương bình đẳng giữa công ty do Nhà nước là chủ sở hữu với các loại hình doanh nghiệp khác theo hướng công ty là Nhà nước được tự chủ về hợp đồng lao động, tuyển dụng lao động, chế độ trả lương, cơ chế trả lương, được tự chủ xây dựng hệ thống thang, bảng lương trên cơ sở hướng dẫn của Nhà nước. Kết luận Cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước là một quá trình khó khăn và lâu dài, hơn nữa lại không có một con đường chung nào cho mọi doanh nghiệp đi theo mà tùy thuộc vào từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mỗi doanh nghiệp để có thể thực hiện. Tuy nhiên, khi đã hội nhập vào sân chơi chung là tổ chức thương mại thế giới WTO thì việc cổ phần hóa cũng như chuyển đổi khối doanh nghiệp nhà nước là việc làm vô cùng cần thiết, quan trọng nếu các doanh nghiệp muốn tồn tại và cạnh tranh trong xu thế toàn cầu như hiện nay. Mặc khác việc cổ phần hóa cũng như chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước cũng góp phần xóa bỏ những yếu kém, hạn chế đã tồn tại rất lâu trong khối doanh nghiệp nhà nước, đồng thời đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của khối doanh nghiệp này, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam. Trong suốt quá trình phát triển của khối doanh nghiệp nhà nước, kể từ khi nhà nước ban hành chủ trương cổ phần hóa cũng như chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước đã trải qua những khó khăn cũng như thách thức to lớn, từ mặt thời gian, tiến độ thực hiện cổ phần, chuyển đổi doanh nghiệp sang mô hình công ty cho đến những khó khăn về hình thức chuyển đổi, nội dung chuyển đổi vậy nhưng song hành cùng những khó khăn đó là những nỗ lực từ phía chính phủ và từ phía những doanh nghiệp, những bài học kinh nghiệm và những tác động hỗ trợ cần thiết đã góp phần tạo nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới khối doanh nghiệp. Những doanh nghiệp sau cổ phần, những tổng công ty, tập đoàn đã phát triển mạnh, năng suất lợi nhuận tăng cao hơn hẳn, cơ chế quản lý, bộ máy hoạt động trở nên nhanh nhạy, trơn tru là những thành công to lớn sau chuyển đổi, góp phần giúp các doanh nghiệp vững tin đi đương đầu với mọi sức ép cạnh tranh. Tuy nhiên vẫn còn có những doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại và hoạt động yếu kém, tác động tiêu cực đến nền kinh tế nhà nước. Công cuộc thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp vẫn là mục tiêu chính đối với Chính phủ và các Ban, ngành lãnh đạo nhất là khi bô luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2005 sắp đến thời hạn hết hiệu lực. Danh mục tài liệu tham khảo Luật doanh nghiệp nhà nước các năm 1999, 2003, 2005. Thời báo kinh tế Sài Gòn số 13-2010. Sách hội thảo khoa học quốc tế: Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Báo cáo thường niên- doanh nghiệp Việt Nam 2008. Cơ sở khoa học của việc chuyển doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo mô hình công ty của kinh tế thị trường ( đề tài cấp bộ- chủ nhiệm: TS Trần Tiến Cường). Cải cách doanh nghiệp nhà nước: Thực trạng và vấn đề ( Bùi Văn Dũng- Phó trưởng ban cải cách và phát triển DN- Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương). Doanh nghiệp nhà nước trong phát triển KTXH ở Việt Nam đến 2010 (NXB chính trị quốc gia). Sách “Công ty vốn, quản lý và tranh chấp theo luật doanh nghiệp 2005”. Văn bản hướng dẫn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam (NXB Thống kê- năm 1999).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25633.doc
Tài liệu liên quan