Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU thời kỳ hậu WTO

Qua những phân tích trên có thể thấy trước khi Việt Nam đàm phán để gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU là không ổn định, sau đó khi EU dỡ bỏ hạn ngạch cho hàng dệt may Việt Nam thì kim ngạch xuất khẩu tăng lên mạnh mẽ. Tuy nhiên, khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO thì kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU lại tăng lên không đáng kể, một phần là do Mỹ đã xóa bỏ hạn ngạch cho hàng dệt may Việt Nam cùng với những nguyên nhân khác về phía doanh nghiệp Việt Nam. EU là một thị trường tiêu thụ lớn với khoảng 456 triệu dân có mức thu nhập cao đã và sẽ là thị trường chiến lược quan trọng của ngành dệt may nói riêng và Việt Nam nói chung. Chính vì vậy, để có thể tận dụng được quan hệ kinh tế thương mại tốt đẹp giữa Việt Nam và EU Chính phủ cần phối hợp với các doanh nghiệp dệt may đề ra giải pháp nâng cao kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này.

doc78 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1794 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU thời kỳ hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hị trường EU giai đoạn 2001 - 2007: 1. Kim ngạch xuất khẩu và cơ cấu hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU giai đoạn từ năm 2001 đến thời điểm Việt Nam gia nhập WTO (tháng 11/2006): 1.1 Tổng hợp tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU trước khi Việt Nam gia nhập WTO: Trước khi Việt Nam gia nhập WTO thì EU là thị trường nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam theo hạn ngạch lớn thứ hai sau Mỹ. Từ năm 1980, Việt Nam đã xuất khẩu hàng dệt may sang một số nước thuộc Liên minh châu Âu như: Đức, Anh, Pháp; từ đó đến nay kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng mạnh. Trong giai đoạn 2001 – 2006 kim ngạch tăng gấp đôi từ 617 triệu USD năm 2001 lên 1,24 tỷ USD năm 2006 và chiếm khoảng 35 - 40% tổng kim ngạch xuất khẩu xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU giai đoạn 2001 – 2006 (triệu USD) Nguồn: Tổng cục Hải quan, www.customs.gov.vn Có thể thấy giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2003 giá trị kim ngạch xuất khẩu liên tục giảm, nguyên nhân là các doanh nghiệp Việt Nam hướng sự chú ý sang thị trường Mỹ sau khi Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được ký kết. Nhìn vào biểu đồ 1 về kim ngạch xuất khẩu thấy rõ kim ngạch tăng qua các năm và năm 2001 với 617 triệu USD chiếm 31,23% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước là mức cao nhất trong giai đoạn này. Bước sang năm 2002, do chịu ảnh hưởng của hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ nên kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU đã bị giảm sút và chỉ đạt 533 triệu USD chiếm 20,11% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và giảm 11,12% so với năm 2001. Tính đến hết tháng 6/2003, kim ngạch xuất khẩu sang EU mới chỉ đạt 195 triệu USD, giảm 31,3% so với cùng kỳ năm 2002. Từ năm 2004 trở đi do có sự nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về tầm quan trọng của thị trường EU và sự định hướng của Hiệp hội dệt may nên kim ngạch xuất khẩu bắt đầu tăng trở lại, năm 2004 đạt 762 triệu USD, năm 2005: 800 triệu và năm 2006 là 1,24 tỷ USD. Điều này có được là nhờ những ưu đãi ngày càng nhiều từ phía EU dành cho chúng ta, cụ thể trong Hiệp định buôn bán hàng dệt may sửa đổi thì EU đã gia tăng mức hạn ngạch và điều chỉnh mức thuế quan theo hướng có lợi cho Việt Nam. Thêm vào đó sang năm 2005, EU đã dỡ bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam căn cứ vào Thoả thuận về việc bãi bỏ hạn ngạch hàng dệt may Việt Nam được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và Liên minh châu Âu (3/12/2004). Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam và kết quả là kim ngạch xuất khẩu năm 2006 là 1,24 tỷ USD, tăng đến 55% so với năm 2005. 1.2 Những khó khăn ngành dệt may gặp phải trong giai đoạn này và nguyên nhân: * Sau khi Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được sửa đổi, kim ngạch xuất khẩu của chúng ta sang thị trường EU tăng nhanh, cơ cấu mặt hàng liên tục được thay đổi phù hợp với xu hướng thời trang. Tuy nhiên, trong giai đoạn này ngành dệt may Việt Nam cũng gặp phải những khó khăn nhất định như: - Thiếu bạn hàng tiêu thụ trực tiếp, không ký được hợp đồng xuất khẩu trực tiếp với các bạn hàng EU mà phải thông qua trung gian nên gần 80% hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường EU phải gia công qua nước thứ ba mang lại hiệu quả kinh tế thấp. Trong đó, phần gia công cho các nước khác (không thuộc ASEAN) xuất sang EU thì không được hưởng ưu đãi thuế quan dành cho Việt Nam. - Số lượng hàng hóa EU nhập khẩu của Việt Nam còn quá thấp so với các quốc gia khác: chỉ bằng 5% của Trung Quốc, 10 - 20% của các nước ASEAN. - Sản phẩm xuất khẩu chỉ tập trung vào một số sản phẩm truyền thống, quên thuộc dễ thu lợi nhuận như: áo Jacket, áo sơ mi và quần Âu. Các sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật phức tạp, chất lượng cao thì Việt Nam chưa sản xuất được hoặc sản xuất với một tỷ lệ rất thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân trong EU. * Nguyên nhân chủ yếu của những khó khăn trên là: - Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên vật liệu cho ngành dệt may, một số nguyên phụ liệu chúng ta vẫn phải nhập khẩu với giá cao. - Ngành dệt may tuy phát triển rất nhanh nhưng vẫn là một ngành sản xuất với phương thức gia công, tác phong công nghiệp hạn chế và thiếu khả năng cạnh tranh. - Phương thức phân bổ hạn ngạch của ngành dệt may chưa hợp lý cũng kìm hãm tính năng động và sáng tạo của các doanh nghiệp may. - Những rào cản trong thương mại tại thị trường EU cũng là một khó khăn đòi hỏi ngành dệt may cùng với các doanh nghiệp cần khắc phục. Để đẩy mạnh xuất khẩu sang EU trong thời gian tới, ngoài nỗ lực của Chính phủ tạo điều kiện cho ngành dệt may phát triển, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải cải tiến kỹ thuật và nâng cao chất lượng, đa dạng sản phẩm để đáp ứng yêu cầu của thị trường, có thể cạnh tranh được với các sản phẩm của Trung Quốc và các nước ASEAN khác. 1.3 Phương thức thâm nhập vào thị trường EU: Xuất khẩu qua trung gian là con đường mà phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng để thâm nhập thị trường EU ở thời kỳ ban đầu mới kham phá thị trường này. Khi đó thị trường EU còn rất mới mẻ và bỡ ngỡ đối với các doanh nghiệp Việt Nam, hơn nữa lại thiếu kinh nghiệm về quan hệ kinh doanh trên thương trường nên không thiết lập được quan hệ bạn hàng trực tiếp với các đối tác EU. Do vậy, các doanh nghiệp đã phải xuất khẩu sang EU qua các bạn hàng trung gian, chủ yếu là ở châu Á. Hình thức này làm giảm đáng kể lợi nhuận của các doanh nghiệp và chỉ thích hợp trong thời kỳ đầu, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm ra phương thức xuất khẩu mới phù hợp hơn nhằm tăng lợi nhuận. Xuất khẩu trực tiếp là con đường chính thâm nhập thị trường EU hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên hình thức này lại tạo ra khó khăn trong việc nắm bắt thông tin về thị trường như: thay đổi về chính sách ngoại thương, quy chế xuất khẩu … của EU có ảnh hưởng tới hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài hình thức trên thì đầu tư trực tiếp và liên doanh là hình thức sẽ được chú ý trong thời gian tới, trong đó liên doanh có thể dưới hình thức sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hóa, có nghĩa là hàng hóa của mình xuất sang thị trường dưới danh nghĩa của các công ty nước ngoài nổi tiếng bởi vì người tiêu dùng trong thị trường EU có thói quen sử dụng những nhãn hiệu sản phẩm nổi tiếng. Chất lượng là yếu tố quyết định mức tiêu dùng đối với phần lớn các mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này chứ không phải là giá cả. Tại thời điểm này, hàng hóa Việt Nam chưa có danh tiếng nên rất khó thâm nhập vào thị trường EU, hơn nữa năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu do đó liên doanh dưới hình thức sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hóa, tên sản phẩm sẽ là biện pháp tối ưu để các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thâm nhập vào thị trường này. Còn đối với hình thức đầu tư trực tiếp thì đây chưa phải là hướng chính để thâm nhập thị trường EU hiện tại và trong tương lai gần của các nhà doanh nghiệp Việt Nam vì hình thức này đòi hỏi nhiều vốn và hơn nữa tiềm năng kinh tế của Việt Nam còn hạn hẹp, tuy nhiên hình thức này rất cần thiết cho giai đoạn phát triển cao hơn của nền kinh tế Việt Nam. 1.4 Cơ cấu các thị trường chính nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam: Liên minh châu Âu (EU) bao gồm 27 quốc gia có những điểm tương đồng về kinh tế, văn hóa nhưng bên cạnh đó cũng có đặc thù riêng về thị hiếu tiêu dùng, xu hướng thời trang do đó Việt Nam muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang EU cần tìm hiểu kỹ những đặc thù này. Nhìn vào cơ cấu các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU có thể thấy Đức là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của nước ta với 46,9% tổng kim ngạch hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU. Trong những năm qua Đức vẫn là thị trường truyền thống của dệt may Việt Nam và ngoài ra, Đức còn là nước có dân số đông nhất trong EU (82,4 triệu dân) do đó trong thời gian tới ngành dệt may cần chú ý hơn nữa đến nhu cầu của thị trường Đức để nâng cao kim ngạch xuất khẩu sang đây. Bảng 9: Các thị trường chính trong EU nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam Tỷ trọng nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam (%) Đức 46,9 Pháp 10,8 Anh 10,3 Bỉ 6,1 Tây Ban Nha 5,1 Đan Mạch 2 Thụy Điển 1,9 Italia 4,4 Áo 2 Phần Lan 0,6 Nguồn: Tập đoàn Dệt - May Việt Nam, www.vinatex.com Hai quốc gia có giá trị nhập khẩu hàn dệt may của Việt Nam đứng thứ hai trong EU là Pháp (10,8%) và Anh (10,3%). Với dân số tương đối lớn và người dân ngày càng ưa chuộng sản phẩm may mặc của Việt Nam thì đây chắc chắn là hai thị trường tiềm năng của ngành dệt may. Chúng ta cần có định hướng sản xuất đúng đắn và phù hợp để tận dụng cơ hội đối với hai thị trường này. 1.5 Cơ cấu các mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU: Cơ cấu sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU rất đa dạng, bao gồm khoảng 30 loại sản phẩm chính như: áo T-shirt, áo len, áo nỉ, bít tất, quần Âu, sơmi nữ, sơmi nam, khăn bông, găng tay … Tuy nhiên, chúng ta chỉ tập trung vào một số mặt hàng có thế mạnh để có thể cạnh tranh với các đối thủ lớn như: Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan … Trong năm 2006, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường EU như sau: áo Jacket (51,7%), sơmi (11%), quần Âu (5%), áo len (3,9%), áo T-shirt (3,4%) và còn lại là các sản phẩm khác. Trong giai đoạn 2001 – 2006, cơ cấu các mặt hàng hầu như không thay đổi nhiều mà chỉ dao động từ 0.2 – 0.5%. Sở dĩ chúng ta lựa chọn những sản phẩm này vì đây là những mặt hàng quen thuộc với người tiêu dùng châu Âu và dễ thu lợi nhuận. Đối với những sản phẩm chất lượng cao, đòi hỏi kỹ thuật và vốn đầu tư thì Việt Nam không đủ khả năng hoặc mới chỉ sản xuất với số lượng có hạn. Trong thời gian tới để gia tăng lợi nhuận ngành dệt may cần nghiên cứu, phát triển những sản phẩm chất lượng và mang tính thời trang phù hợp với thị trường EU. Biểu đồ 2: Cơ cấu các sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU Nguồn: Tập đoàn Dệt – May Việt Nam, www.vinatex.com. 2. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO: 2.1 Những kết quả đạt được và tồn tại của ngành dệt may trong năm 2007: Hoạt động của ngành dệt may trong năm 2007 có nhiều khởi sắc, mặc dù có nhiều khó khăn như: tình trạng thiếu lao động cục bộ; giá bông xơ tăng cao (sản lượng bông xơ trong nước chỉ đạt 7 đến 8 nghìn tấn/năm, chỉ đáp ứng 5% nhu cầu của ngành; năm 2007 toàn ngành phải nhập 230 nghìn tấn bông xơ các loại); tỷ lệ sản xuất theo phương thức gia công còn lớn (hơn 70%), nhưng các doanh nghiệp đã có nhiều cố gắng. Với sự hoạt động khá tích cực và hiệu quả của Hiệp hội dệt may, kim ngạch xuất khẩu của ngành đã vươn lên là một trong các mặt hàng đứng đầu trong danh mục mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (đạt 7,78 tỷ USD, tăng 33,4% so với thực hiện năm 2006) và đứng trong danh sách 10 quốc gia và vùng lãnh thổ có kim ngạch xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Giá trị sản xuất tăng 17,9% so với năm 2006; một số sản phẩm có tốc độ tăng trưởng khá, như: quần áo may sẵn đạt 1.324,2 triệu sản phẩm, tăng 14,6%; vải lụa thành phẩm 630 triệu m2, tăng 10,5%; quần áo dệt kim 172,2 triệu sản phẩm, tăng 7,3%; sợi toàn bộ 100,5 nghìn tấn, tăng 10,9%... Tuy nhiên, trong năm 2007, hàng may mặc Việt Nam nhập khẩu vào châu Âu tăng không đáng kể, thấp hơn rất nhiều so với xuất sang thị trường Mỹ. Lượng hàng may mặc Việt Nam xuất sang châu Âu chỉ tăng 8%, đạt 1.02 tỉ USD. Bên cạnh đó, trong năm vừa qua ngành dệt may vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, dù tăng trưởng đạt mức cao nhưng về bản chất lợi nhuận của ngành vẫn thấp. Nguyên nhân của tình trạng trên là do phần lớn nguyên phụ liệu cho ngành này phải nhập khẩu từ nước ngoài, mặc dù chưa có thống kê chính xác, song theo ước tính của một số chuyên gia ngành dệt may, con số này phải lên tới 80%, trong đó chủ yếu là nhập bông, sợi, vải và việc này đã dẫn đến việc ngành dệt may dù tăng trưởng cao nhưng lợi nhuận vẫn bị "âm". Ngoài ra, một hạn chế nữa là sự chậm trễ trong triển khai xây dựng hai trung tâm nguyên phụ liệu tại Tp.HCM và Hà Nội, đình công lao động của ngành diễn biến phức tạp, các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Dệt may chủ yếu tập trung thị trường xuất khẩu mà bỏ quên thị trường nội địa, sản xuất kinh doanh chủ yếu gia công lại sản phẩm. Với các kết quả đạt được và những hạn chế còn tồn tại, dệt may Việt Nam đang phải đứng trước những thách thức lớn trong năm 2008. Theo đánh giá của Bộ Công Thương và Vitas thì trong năm 2008 việc EU xoá bỏ hạn ngạch cho Trung Quốc, Nhật Bản đạt được tiêu chí xuất xứ "hai công đoạn" với hàng dệt may trong ERA với 6 nước ASEAN (Singapore, Mailaysia, Indonesia, Thái Lan và Brunei) khiến các doanh nghiệp Việt Nam chịu nhiệu áp lực và gánh nặng hơn năm 2007. 2.2 Những kết quả đạt được và hạn chế trong những tháng đầu năm 2008: Hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu tăng mạnh trong quý đầu của năm 2008, bất chấp sự sụt giảm của ngành dệt toàn cầu và thị trường hàng may mặc Thế giới. Tuy nhiên, xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vẫn đang đứng trước một số nguy cơ như: lạm phát tăng mạnh, tỉ lệ lãi suất cho vay tín dụng cao và chi phí sản xuất cũng đang tăng lên. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan thì hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu tăng mạnh trong ba tháng đầu của năm 2008: trong tháng 1, hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu tăng 20.7%, đạt 720 triệu USD, sau đó, tăng 18% trong tháng 2, đạt 650 triệu USD. Theo ngành may mặc trong nước, tổng kim ngạch hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu có thể đạt 6.1 tỉ USD trong năm nay, tăng 32% so với năm 2007. Nhưng điều đáng chú ý là trong những con số ấn tượng đó thì xuất khẩu hàng dệt may sang EU lại tăng lên không đáng kể. Trong khi đó, hàng may mặc Việt Nam xuất sang Mỹ tăng mạnh 62%, đạt 400 triệu USD trong tháng 1/2008. Mục tiêu xuất khẩu của ngành dệt may trong năm 2008 là 9,5 tỷ USD, tăng 21,8% so với ước thực hiện; trong đó thị trường EU đạt khoảng 1,6 – 1,8 tỷ USD do đó trong thời gian tới Chính phủ cần có những biện pháp hỗ trợ để cùng với các doanh nghiệp dệt may hoàn thành chỉ tiêu đặt ra. Một số chỉ tiêu kế hoạch năm 2008 của Dệt may Việt Nam: Kim ngạch xuất khẩu là 9,5 tỷ USD, tăng 21,8% so với ước thực hiện, trong đó dự kiến: thị trường Hoa Kỳ ước đạt 5,3 - 5,5 tỷ USD, thị trường EU đạt khoảng 1,6 - 1,8 tỷ USD, Nhật Bản đạt khoảng 800 triệu USD. Cụ thể : - Sợi toàn bộ là 100 nghìn tấn, tăng 8,7% so với ước thực hiện 2007. - Vải lụa thành phẩm là 683 triệu m2 , tăng 9,1% so với ước thực hiện 2007. - Quần áo dệt kim là 188,5 triệu sản phẩm tăng 8,1% ước thực hiện 2007. - Quần áo may sẵn là 1.591 triệu sản phẩm, tăng 16,6% ước thực hiện 2007. 3. Những ảnh hưởng bất lợi chung đến hoạt động xuất khẩu dệt may Việt Nam vào thị trường EU: 3.1 Rào cản thuế và tiêu chuẩn kỹ thuật: 3.1.1 Chính sách thuế quan: EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá: đẩy mạnh tự do hoá thương mại (giảm dần thuế quan đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu và tiến tới xoá bỏ hạn ngạch, GSP). Hiện nay, 27 nước thành viên EU cùng áp dụng một biểu thuế quan chung đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. Đối với hàng nhập khẩu vào khối, mức thuế trung bình đánh vào hàng công nghiệp là 2% trong đó có hàng dệt may. Bên cạnh đó, EU còn sử dụng Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), trong đó EU chia các sản phẩm được hưởng GSP thành 4 nhóm với 4 mức thuế ưu đãi khác nhau dựa trên mức độ nhậy cảm đối với bên nhập khẩu, mức độ phát triển của nước xuất khẩu và những văn bản thoả thuận đã ký kết giữa hai bên. Hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) từ 1/7/1996 cho đến nay. Thuế đánh vào hàng dệt may của Việt Nam hiện nay là từ 6.8% đến 11.2%. 3.1.2 Tiêu chuẩn kỹ thuật: Các yêu cầu kỹ thuật đối với hàng dệt may Việt Nam khi xuất vào EU: - Nhãn và đóng gói: Theo quy định của EU thì bao bì đóng gói phải đủ vững chắc để giữ cho hàng hoá có thể chống đỡ lại những thay đổi khi vận chuyển, xử lý. Ngoài ra các sản phẩm cũng được yêu cầu chống lại sự thay đổi của thời tiết, thay đổi nhiệt độ, xử lý không cẩn thận và chống mất mát. Với lý do môi trường trong một vài trường hợp các loại bao bì bằng PVC không được các Chính phủ cho phép, các doanh nghiệp xuất khẩu tại Việt Nam cần phải thảo luận với khách hàng của mình và cần phải dự đoán trước các chi phí đóng gói đặc biệt trong chi phí bán hàng nếu khách hàng có yêu cầu. Nhìn chung có 2 loại quy định trên nhãn của sản phẩm: + Các yêu cầu bắt buộc như: xuất xứ, tỉ lệ sợi, khả năng dễ cháy. + Các yêu cầu không bắt buộc: hướng dẫn giặt tẩy, độ nhẵn, kích cỡ. - Giấy chứng nhận trách nhiệm xã hội : Giấy chứng nhận trách nhiệm xã hội 8000 (SA 8000) là một tiêu chuẩn quốc tế về nơi làm việc nhằm mục đích đảm bảo nguồn gốc đúng đắn của hàng hoá và dịch vụ. Đây là một tiêu chuẩn tự nguyện và coi các vấn đề chủ chốt như lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, sức khoẻ và an toàn, bồi thường, phân biệt đối xử, giờ làm việc, tự do lập hội, quyền thương lượng tập thể và các tập quán kỷ luật. SA 8000 dựa trên các định chuẩn quốc tế về nơi làm việc của ILO – Tổ chức Lao động Quốc tế và về các hiệp định và công ước của Liên hiệp quốc (Nhân quyền, Quyền của trẻ em). Sự ủng hộ của các tổ chức quan trọng này và đòi hỏi của khách hàng và người tiêu dùng trên toàn cầu đã làm tăng tầm quan trọng của SA 8000. Hiện đã có các công ty được cấp chứng nhận SA 8000 trên 22 ngành nghề ở 30 nước khắp 5 châu. Social Accountability International là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập năm 1997 để chứng nhận tiêu chuẩn SA 8000. Các công ty đáp ứng yêu cầu sẽ có quyền niêm yết chứng nhận SA 8000 trong vòng 3 năm kể từ khi được cấp. 3.2 Cạnh tranh từ phía Trung Quốc: Theo thoả thuận toàn cầu MFA đạt được ở hội nghị WTO năm 1995, các nước đang phát triển được hưởng phần hạn ngạch do các nước phát triển cấp cho và điều này đã nuôi sống nhiều ngành dệt may đang còn non trẻ phát triển trong đó có Việt Nam. Điều này làm kìm hãm sự bùng nổ của Trung Quốc, đất nước có dân số hơn 1,2 tỷ người, với rất nhiều tiềm năng trong ngành dệt may, nhờ đó sản phẩm dệt may của Việt Nam vẫn có thể cạnh tranh nhờ quota. Tuy nhiên, theo Báo cáo của Tổ chức Thương mại Thế Giới (WTO), kể từ năm 2005 Trung Quốc sẵn sàng chiếm lĩnh thị trường dệt may Thế giới trị giá hơn 400 tỷ USD, theo đó các nước như Mỹ, Canada và Liên minh châu Âu (EU) không được phép bảo hộ ngành dệt may trong nước bằng hình thức quota, giá trần v.v.. đối với hàng dệt may nhập khẩu từ các nước khác. Lúc đó, hàng dệt may giá thấp, chất lượng tốt sẽ được xuất khẩu hàng loạt và các chuyên gia cho rằng hàng dệt may Trung Quốc sẽ không có đối thủ. Có thể thấy điểm mạnh của ngành dệt may Trung Quốc đó là: nguồn lao động và nguyên vật liệu rẻ do đó tỷ lệ nội địa hoá cao; có sự hỗ trợ mạnh từ ngành công nghiệp dệt; có nhiều mối quan hệ với các nước nhập khẩu; thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường dệt may và công nghệ hiện đại. Trong khi đó, ngành dệt may Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên liệu của ngành may thì ngược lại, hầu hết nguyên phụ liệu ngành may của Trung Quốc được sản xuất trong nước, giá thành sản phẩm của Việt Nam lại cao hơn 15-20% so với sản phẩm cùng loại của Trung Quốc. Theo đánh giá thì tuy giá lao động dệt may ở Việt Nam dao động từ 28 - 48 USD/tháng là rất cạnh tranh so sánh với giá lao động ở Trung Quốc (trung bình 73 USD/tháng) nhưng hiệu quả của các nhà máy Việt Nam chỉ bằng 60% so với các nhà máy Trung Quốc. 3.3 Nguyên phụ liệu cho ngành dệt may: Mặc dù xuất khẩu hàng dệt may có bước tiến vượt bậc nhưng phần đóng góp của ngành kinh tế mũi nhọn này vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế lại rất không tương xứng. Nhận định này dựa vào những căn cứ sau đây: Trước hết, nhìn một cách tổng quát, tuy xuất khẩu hàng dệt may tăng nhanh, nhưng nhập khẩu các loại nguyên phụ liệu cần thiết cho ngành này cũng tăng lên đáng kể. Cụ thể, theo thống kê của Tổng cục Hải quan thì chỉ riêng kim ngạch nhập khẩu bốn loại vật tư chủ yếu gồm: bông, sợi, vải và nguyên phụ liệu dệt may trong năm 2007 đã đạt 7,12 tỷ USD, tăng 24,9% so với năm 2006. Trong đó, trị giá vải nhập khẩu là: 3,96 tỷ USD, nguyên phụ liệu: 2,15 tỷ USD, bông: 267 triệu USD (210 nghìn tấn) và sợi là 741 triệu USD (424 nghìn tấn). Sự gia tăng trong nhập khẩu các loại vật tư nói trên có thể do việc tăng giá của các mặt hàng này trên thị trường Thế giới. Chẳng hạn, các số liệu thống kê của Bộ Thương Mại cho thấy giá sợi nhập khẩu tăng khoảng 16%, giá bông nhập khẩu tăng trên 11% … Bảng 10: Tình hình nhập khẩu bông và sợi của Việt Nam 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Bông (nghìn tấn) 98 98.5 91 125.6 159.6 180.2 210 Sợi (triệu USD) 347.5 391.6 298.3 396.2 512.5 631.8 741 Nguyên phụ liệu dệt may (tỷ USD) 1.34 1.02 1.095 1.52 1.65 1.71 2.15 Nguồn: Tổng cục thống kê Bộ thương mại Theo số liệu trên, có thể thấy từ năm 2001 đến năm 2007, giá trị nhập khẩu bông, sợi và nguyên phụ liệu dệt may của nước ta tăng rất nhanh, bông tăng 114.3%, sợi tăng 113.2% và nguyên phụ liệu dệt may tăng 160%. Những số liệu đó chứng tỏ rằng, nếu như công nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu trong nước đáp ứng được nhu cầu của ngành dệt may thì lợi nhuận của ngành sẽ gia tăng đáng kể và ngành dệt may sẽ có những bước tiến nhất định trên thị trường Thế giới. Như vậy, tuy ngành công nghiệp dệt may xuất khẩu của nước ta đã có những bước tiến vượt bậc trong giai đoạn 2001 – 2007 song vai trò của nó trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển thì hoàn toàn không tương xứng, bởi chúng ta đang phải nhập siêu quá lớn. 3.4 Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam: Trước hết phải nói rằng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam là chưa cao, điều này được chứng minh qua những vấn đề sau: - Nhà xưởng thiết bị công nghệ của ngành dệt may còn lạc hậu chưa đáp ứng được yêu cầu mới, năng suất lao động thấp cho dù chỉ so sánh với những nước trong khu vực như: Thái Lan, Indonesia và Philippin đã có khoảng cách khá lớn. Ngoài ra các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết là sản xuất nhỏ, chưa có sự chủ động về tài chính, khả năng liên kết giữa các doanh nghiệp còn hạn chế. - Phần lớn nguyên phụ liệu đầu vào phải nhập khẩu với chi phí vận chuyển cao mà nguyên nhân chính là các doanh nghiệp gia công quá nhiều và phải nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài, trong khi ngành bông và dệt của chúng ta rất có tiềm năng. Thêm vào đó, giá các dịch vụ thiết yếu cho phân phối cao cũng là một nguyên nhân góp phần làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. - Cơ cấu các mặt hàng dệt may Việt Nam đơn giản, kiểu cách, mẫu mã, bao bì đơn điệu, chưa đáp ứng được sự thay đổi xu hướng thời trang thường xuyên của thị trường quốc tế nói chung và thị trường EU nói riêng. Điều này là do đội ngũ thiết kế, tạo mẫu chưa có điều kiện tiếp cận với thông tin tại các thị trường. - Các doanh nghiệp Việt Nam có tỷ trọng sản phẩm gia công hoặc xuất khẩu qua khâu trung gian còn cao, sau một thời gian khá dài làm gia công hoặc xuất khẩu qua trung gian mà các doanh nghiệp này vẫn chưa tiếp cận trực tiếp được với nhiều khách hàng. Những nguyên nhân trên dẫn tới chất lượng sản phẩm dệt may của Việt Nam còn thấp, giá thành cao, chưa chủ động về thị trường, tính cạnh tranh của các sản phẩm không cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Việc liên kết giữa các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập quốc tế là cần thiết và cần được Chính phủ tạo điều kiện thông qua các chính sách hợp lý. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU THỜI KỲ HẬU WTO *** I. Những cơ hội và thách thức cho xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU thời kỳ hậu WTO: 1. Cơ hội cho ngành dệt may Việt Nam: 1.1 Phát huy lợi thế so sánh của ngành dệt may Việt Nam: + Nguồn lao động dồi dào với giá nhân công tương đối rẻ: Việt Nam là một nước nằm trên rìa bán đảo Đông Dương, có vị trí địa lý thuận tiện cho việc phát triển thương mại qua đường biển và đường sắt. Việt Nam còn có nguồn lực lao động dồi dào với giá nhân công rẻ. Mức lương nhân công trung bình hiện nay khá thấp so với các nước trong khu vực và trên Thế giới 0,48 USD/giờ, Thái Lan 0,87 USD/giờ, Anh 10,16 USD/giờ… Nguồn lao động dồi dào như vậy rất phù hợp với đặc điểm của ngành dệt may là ngành sử dụng nhiều nhân công. + Khả năng tự sản xuất nguyên phụ liệu cung cấp cho ngành dệt may: Thêm vào đó, Việt Nam còn có rất nhiều vùng có điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng phù hợp với việc phát triển cây bông, đay và các loại cây khác dùng làm nguyên phụ liệu cho ngành dệt may, từ đó đã ngày càng ít phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu. Một lợi thế nữa phải kể đến là các chính sách hỗ trợ của Chính phủ (những chính sách đổi mới tích cực của Chính phủ tạo điều kiện mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu cho các doanh nghiệp) như: Nghị định số 02/1998/NĐ - CP, số 57/1998/NĐ - CP. Bên cạnh đó còn luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi) theo Nghị định số 07/1998/NĐ - CP và 03/1998/NĐ - CP, luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi) số 10/1998/NĐ - CP đã qui định về các chế độ ưu đãi đầu tư … Cùng với các dự án sản xuất phụ liệu may, các dự án có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao đã tháo gỡ phần nào khó khăn về tài chính của doanh nghiệp cũng như khó khăn đầu tư vào ngành dệt may. Mặt khác, ngành dệt may đòi hỏi khối lượng vốn đầu tư ban đầu cho từng công đoạn không lớn. Trong điều kiện thiếu vốn như nước ta hiện nay có thể coi đây là một lợi thế của ngành. 1.2 Nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của EU: Tuy với những tiềm năng lớn về xuất khẩu, nhưng EU vẫn có nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may tương đối cao. Hàng năm, EU nhập khẩu khoảng 63 tỷ USD quần áo các loại và trên 46 tỷ USD hàng dệt may. Với tốc độ bình quân hàng năm đối với hàng may mặc chiếm gần 50% trong tổng giá trị nhập khẩu của cả Thế giới, hàng dệt may chiếm 36 – 37 %, song so với toàn Thế giới có xu hướng giảm. Những năm gần đây, do tăng cường hình thức gia công nên tỷ lệ nhập khẩu hàng gia công của EU càng tăng. Đây chính là biện pháp nhằm tận dụng nguồn lao động rẻ, dồi dào từ các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Với Việt Nam, đây là cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào EU. 2. Thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp dệt may: 2.1 Sự cạnh tranh gay gắt của các quốc gia khi xuất khẩu vào EU: Như chúng ta đã biết, tại thị trường EU, Trung Quốc đang là quốc gia đừng đầu về xuất khẩu với những ưu thế về nguồn lao động, chủng loại mặt hàng và nguồn nguyên liệu tự cung tự cấp. Thêm vào đó, trong năm 2008 EU sẽ bỏ hạn ngạch dệt may cho Trung Quốc và điều này sẽ gây ra những ảnh hưởng bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi cạnh tranh trên “sân chơi” EU. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), khi chế độ hạn ngạch dệt may không còn nữa thì thị trường dệt may toàn cầu sẽ nằm trong tay các doanh nghiệp Trung Quốc, thị phần sẽ tăng từ 17% hiện nay lên 45%. Sở dĩ hàng dệt may của Trung Quốc xuất vào EU có nhiều lợi thế như vậy là vì họ hoàn toàn tự túc và chủ động nguồn nguyên liệu, chi phí sản xuất lại thấp, giá thành rất cạnh tranh … Ngoài ra nếu chúng ta so sánh với các đối thủ trong khu vực về mặt hàng dệt may như Philippines, Thái Lan, Indonesia thì trình độ công nghệ của họ đều đi trước ta nhiều năm, hơn nữa họ rất nhậy bén, thích ứng nhanh với thay đổi của thị trường nên sản phẩm thường rất sinh động và phong phú. Đây là một điều hết sức quan trọng bởi lẽ hàng dệt may là một mặt hàng mang tính thời điểm và phụ thuộc vào xu thế thời trang. Chính vì vậy, chúng ta cần có biện pháp nâng cao khả năng thiết kế cho các nhà thiết kế thời trang nhằm thích ứng nhanh với sự thay đổi hàng ngày hàng giờ của thời trang EU. 2.2 Ảnh hưởng của xu thế tự do hoá thương mại: Ngoài việc phải cạnh tranh quyết liệt với những nước xuất khẩu hàng dệt may vào EU, chúng ta còn phải đối mặt với những vấn đề như: lạm phát tăng nhanh làm tăng chi phí sản xuất đầu vào, tiền Việt Nam đồng tăng giá, lãi suất cho vay tín dụng tăng lên … Trước hết, đối với vấn đề lạm phát, căn cứ vào tình hình giá cả đang leo thang tại Việt Nam, thì lạm phát là điều dễ hiểu. Chỉ số giá tiêu dùng tăng 15.67% trong tháng 2/2008, tăng mạnh trong 12 năm qua. Việc giá tiêu dùng tăng lên như vậy đã dẫn đến một loạt các cuộc đình công đòi tăng lương của công nhân các nhà máy may. Tiền lương tối thiểu trong ngành may mặc đã được Chính phủ tăng lên trong năm ngoái, nhưng vẫn không theo được cơn bão tăng giá hàng tiêu dùng. Do đó, các nhà xuất khẩu hàng may mặc có thể sẽ phải đối mặt với tình hình chi phí sản xuất tăng cao. Vấn đề thứ hai đó là tiền Việt Nam đồng tăng giá, để kiềm chế lạm phát, Chính phủ đã nới biên độ giao dịch giữa tiền Việt Nam đồng và tiền USD. Do đó, tiền đồng đã tăng lên, cùng với việc các nhà xuất khẩu hàng may mặc lên tiếng về sự cần thiết phải tăng giá thành sản phẩm của họ và xuất khẩu hàng may mặc sang EU có thể sụt giảm. Tuy nhiên, tiền đồng tăng lên làm cho nhập khẩu các sản phẩm dệt trở nên rẻ hơn. Ngành dệt may Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn phải nhập khẩu các nguyên liệu thô, từ xơ cho đến vải. Một vấn đề nữa cũng hết sức quan trọng đó là lãi suất cho vay tín dụng tăng lên trong khi các kế hoạch đầu tư lớn đang được đưa ra để nâng cao công suất sản xuất xơ và các sản phẩm dệt may. Vì thế các kế hoạch này có thể bị đình lại vì lãi suất cho vay tín dụng tăng lên hơn 18%, cùng với cuộc chiến chống lạm phát và chính sách liên tục thắt chặt cho vay tín dụng. Tuy nhiên, theo dự đoán, các nhà xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sẽ vượt qua được một loạt các khó khăn này, nhờ khả năng cạnh tranh của Trung Quốc và Ấn Độ đã giảm sút. Trước những vấn đề cấp bách như vậy, Chính phủ đang soạn thảo một số chính sách phối hợp với các doanh nghiệp dệt may nhằm giải quyết tình hình trên. Hy vọng trong thời gian tới ngành dệt may của chúng ta sẽ vượt qua khó khăn và phát triển hơn nữa những tiềm năng về nguồn lao động, nguồn nguyên liệu. II. Định hướng của xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU trong thời gian tới: 1. Định hướng phát triển ngành dệt may của Việt Nam đến năm 2020: Ngày 31/07/2007 Bộ trưởng Bộ Công nghiệp đã phê duyệt Quy hoạch phát triển Công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Trong đó quyết định một số quan điểm, định hướng, quy hoạch phát triển ngành dệt may Việt Nam như sau: 1.1 Quan điểm phát triển: - Phát triển nhanh các sản phẩm hỗ trợ để sản xuất hàng xuất khẩu nhằm nâng cao tính chủ động trong sản xuất và khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trường. - Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất các nguyên phụ liệu cho ngành, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nhà đầu tư nước ngoài. 1.2 Định hướng phát triển: - Phát triển các trung tâm, cơ sở thiết kế thời trang. - Phát triển sản xuất các loại vải cho may xuất khẩu, một số loại hoá chất, chất trợ nhuộm, các chất làm mềm; các loại chất giặt, tẩy; các loại hồ dệt có nguồn gốc tinh bột; hồ hoàn tất tổng hợp; các loại phụ liệu may khác. 1.3 Mục tiêu phát triển: - Đến 2010 đáp ứng trên 30% nhu cầu nội địa, đến 2015 khoảng 39% và đến 2020 khoảng 40% nhu cầu vải dệt thoi. - Phấn đấu đến 2010 tự sản xuất trong nước từ 10 - 70% tuỳ loại phụ tùng cơ khí dệt may và 40 - 100% vào năm 2020. - Đến năm 2015 đáp ứng 50% nhu cầu nội địa về các sản phẩm xơ, sợi tổng hợp, đến năm 2020 đáp ứng 80% nhu cầu nội địa và tiến tới xuất khẩu sau năm 2020. - Phấn đấu đáp ứng đủ nhu cầu các loại phụ liệu may như: cúc, chỉ, khoá kéo… - Xây dựng 3 trung tâm nguyên phụ liệu dệt may ở Hưng Yên, Long An, Bình Dương và Đà Nẵng. 1.4 Quy hoạch phát triển: - Xây dựng và phát triển 3 trung tâm nguyên phụ liệu dệt may ở Hưng Yên, Long An, Bình Dương và Đà Nẵng. - Phát triển các dự án sản xuất phụ tùng cơ khí dệt may. - Hình thành ở phía Bắc 3 dự án sản xuất nồi, khuyên, thiết bị kéo sợi, dệt vải và ở miền Nam 4 dự án sản xuất khung go, dây go, lamen, suốt kéo dài, nồi khuyên. - Xây dựng một số cơ sở sản xuất hoá chất trợ nhuộm tại 2 miền Bắc và Nam, tại miền Trung là cơ sở sản xuất xơ Polyester. 2. Định hướng và mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU Căn cứ vào tình hình hiện nay, Tập đoàn Dệt – May Việt Nam đã đưa ra mục tiêu kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may trong năm 2010 là 8 tỷ USD và đến năm 2020 là 20 tỷ USD. Riêng đối với thị trường EU, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ có thuận lợi là không còn rào cản về hạn ngạch nhưng bên cạnh đó chúng ta phải đối đầu với những đối thủ rất mạnh như Trung Quốc, Ấn Độ … Môi trường kinh doanh mở cửa buộc các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải nỗ lực nhiều hơn để giành được phần thắng trong sân chơi đầy thách thức này. Trên cơ sở đó, mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU của Việt Nam như sau: Bảng 11: Mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU (Đơn vị: tỷ USD) 2010 2015 2020 Kim ngạch xuất khẩu 2 3.5 4.5 Nguồn: Tập đoàn Dệt – May Việt Nam III. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU: 1. Giải pháp từ phía Chính Phủ: 1.1 Đàm phán với EU: 1.1.1 Duy trì tốt mối quan hệ về chính trị, kinh tế: Tiếp tục thực hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước xác định EU là một đối tác quan trọng trong quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước với lý do EU là một thị trường rộng lớn, thường xuyên nhập khẩu các sản phẩm có lợi thế so sánh của Việt Nam như: hàng dệt may, thuỷ sản, giày dép … và là nơi cung cấp các công nghệ nguồn hiện đại để nâng cao trình độ sản xuất của Việt Nam. Để thực hiên chủ trương trên Việt Nam cần thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam – EU thông qua một số biện pháp như: lập các diễn đàn trao đổi về các chính sách thương mại và các biện pháp xúc tiến trong các ngành hàng các bên quan tâm, thành lập các nhóm cộng tác nhằm tăng cường liên kết doanh nghiệp về trao đổi thông tin cơ hội thị trường giữa các doanh nghiệp … Ngoài ra, EU cũng đã đưa ra một chiến lược quan hệ mới với châu Á và xác định Việt Nam - cửa ngõ của Đông Nam Á - là điểm tựa để EU xâm nhập thị trường châu Á đầy tiềm năng đồng thời tạo ra một chính sách thương mại đặc biệt dành cho Việt Nam. 1.1.2 Tăng cường xúc tiến thương mại song phương với EU: Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sẽ được nâng cao và có nhiều thuận lợi nếu chúng ta có những hoạt động xúc tiến quan hệ song phương với Liên minh châu Âu. Để thực hiện được điều này Việt Nam cần thường xuyên tổ chức các cuộc triển lãm, giới thiệu đất nước, con người và văn hóa Việt Nam sang thị trường EU; cung cấp tin tức cập nhật về nhu cầu của thị trường EU cho các doanh nghiệp Việt Nam; cải tiến và đơn giản các thủ tục xuất nhập khẩu nhằm rút ngắn thời gian giao hàng và thanh lý hợp đồng. Ngoài ra, Chính phủ cũng cần tạo cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam và các quốc gia thuộc EU thảo luận, tìm hiểu nhau qua đó doanh nghiệp sẽ nắm bắt được thị hiếu, xu hướng tiêu dùng của người dân châu Âu mà định hướng sản xuất. 1.1.3 Nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước về hoạt động thương mại quốc tế: Để nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế Thế giới và đặc biệt là Liên minh châu Âu, một thị trường đầy tiềm năng, Việt Nam cần có các điều kiện tương thích với Quốc tế như: một hệ thống pháp luật chặt chẽ, một cơ chế quản lý‎‎ linh hoạt, giản đơn của Nhà nước, giảm dần tính quan liêu. Hệ thống pháp luật của EU rất chi tiết, chặt chẽ và phần lớn thống nhất với các qui định của WTO nên để có thể hợp tác với EU, Việt Nam cần tạo nên một môi trường pháp lý tương đối ổn định, minh bạch, đảm bảo tính công bằng, bình đẳng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nhà nước cần chỉ đạo các Bộ ngành hữu quan tiếp tục rà soát lại hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng của Việt Nam nhằm loại bỏ những văn bản luật hoặc dưới luật đã lỗi thời, bất cập. Đồng thời sửa đổi lại luật Thương mại vốn chỉ điều chỉnh thương mại hàng hoá mà chưa đề cập đến thương mại dịch vụ và các quan hệ sở hữu trí tuệ; xây dựng Luật chống bán phá giá; nhanh chóng đưa Luật cạnh tranh, Luật chống độc quyền vào thực thi nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước … Một điều quan trọng nữa là cần tạo một kênh thông tin hiệu quả, kịp thời giữa Chính phủ và giới doanh nghiệp để sự hỗ trợ, hợp tác được thông suốt. Chỉ có như vậy các doanh nghiệp Việt Nam mới đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp rất mạnh thuộc các quốc gia như: Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Malaysia … 1.2 Chính sách, cơ chế của Chính Phủ: 1.2.1 Chính sách tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất: Chính phủ cần chỉ đạo các ngành hữu quan như : bưu chính viễn thông, vận tải hàng không, tàu biển, điện nước v.v… tìm cách giảm giá những dịch vụ để tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm giá đầu vào. Ngoài ra, Bộ Công Thương cần tiếp tục cải thiện chính sách thuế, hỗ trợ xúc tiến và tạo điều kiện đầu tư nâng cấp dây chuyền công nghệ để các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Chính sự nỗ lực từ nhiều phía sẽ làm giảm chi phí và giá thành sản phẩm bắt nguồn từ việc giảm thiểu các khoản thuế và phí, giảm thiểu chi phí trung gian về quy trình, thủ tục liên quan đến các khâu như: nhập khẩu nguyên vật liệu, tổ chức sản xuất, xuất khẩu … Bên cạnh đó phát huy những lợi thế cạnh tranh khác và nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường. 1.2.2 Quy hoạch và đầu tư xây dựng các khu công nghiệp dệt may: Quy hoạch và đầu tư xây dựng các khu công nghiệp may, cơ sở sản xuất nguyên liệu, phụ liệu, bao bì cho ngành dệt may để từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hoá và là cơ sở để giảm giá thành sản phẩm. Qua những hoạt động đó làm giảm chi phí đầu vào, tăng tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm ngành dệt may để tăng lợi nhuận cho ngành. Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ đưa bông vào cơ cấu cây trồng để đảm bảo cho đến năm 2010 phải có 90.000 tấn bông xơ, trong đó chủ động 70% nguyên liệu và tiến tới làm chủ hoàn toàn nguyên liệu trong nước là mục tiêu của ngành dệt may. Thủ tướng Chính Phủ đã ký quyết định đầu tư 1.500 tỷ đồng cho việc phát triển vùng nguyên liệu, đồng thời Công ty bông Việt Nam đang tích cực đầu tư phát triển vùng nguyên liệu. Dự báo tới năm 2010, diện tích trồng bông trên cả nước có khả năng sẽ đạt 150.000 ha, năng suất bông bình quân đạt 18 tấn/ha có thể đáp ứng 70% nhu cầu nguyên liệu cho dệt may. Việt Nam đủ điều kiện để sản xuất, phát triển cây bông cho năng suất cao, giống bông sợi màu, các giống bông lai Việt Nam 20, c118, VN 15 … tương đương chất lượng bông nhập khẩu. Ngoài ra, Nhà nước còn đầu tư các cụm công nghiệp sản xuất sản phẩm phụ liệu cho ngành may với tổng số vốn đầu tư là 40 triệu USD, sản xuất các sản phẩm như: mác áo, nút kim loại, nút nhựa, chỉ, các loại dây thun … nhà máy kéo sợi polyester công suất 30.000 tấn/năm cũng đang hoạt động tích cực để đáp ứng nhu cầu sợi cho ngành dệt may. 1.2.3 Hỗ trợ các doanh nghiệp nhanh chóng đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế: Liên minh châu Âu có một hệ thống quản lý chất lượng hàng hóa nhập khẩu khá chặt chẽ để bảo vệ người tiêu dùng bao gồm: tiêu chuẩn về kỹ thuật, tiêu chuẩn về chất lượng, vệ sinh môi trường, an toàn khi sử dụng. Do đó, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ, hướng dẫn và giúp đỡ doanh nghiệp dệt may nhanh chóng xác lập và đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế (ISO 9000, ISO 14000, SA 8000...), bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và sớm đăng ký nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp tại thị trường quốc tế mà trước hết là thị trường quan trọng như: EU, Mỹ, Nhật Bản, Canada. 2. Giải pháp từ phía Hiệp hội dệt may: Sự ra đời của Hiệp hội dệt may Việt Nam là tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường trong tiến trình hội nhập, nó gắn liền với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong ngành. Đề mở rộng lĩnh vực hoạt động, phục vụ và đáp ứng nhu cầu của ngành và nhu cầu của các doanh nghiệp Chính phủ đã cho phép Hiệp hội dệt may Việt Nam được thành lập Trung tâm Thông tin tư vấn dịch vụ (VITAS – CSC) nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp với mục đích phục vụ hiệu quả hơn. Một trong những nhiêm vụ quan trọng của Hiệp hội là phải nâng cao vai trò của mình trong hoạt động hợp tác và xúc tiến thương mại sang thị trường EU. Chính vì vậy, Vitas phải đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn các doanh nghiệp về luật chơi và đối phó với rào cản trong quá trình hội nhập. Đề đạt được mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU năm 2020 là 4,5 tỷ USD Vitas cần có những chương trình hành động như sau: - Liên tục tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại để xây dựng hình ảnh tốt đẹp về ngành dệt may Việt Nam đối với các đối tác tại EU thông qua các cuộc triển lãm, hội chợ xuất khẩu. - Tổ chức tốt hơn các hoạt động thông tin, đầu tư, sản xuất, xuất nhập khẩu liên quan đến ngành dệt may thông qua Website và bản tin hàng tháng. - Tăng cường hiệu quả hoạt động của Trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu ngành dệt may tại Thành phố Hồ Chí Minh. - Tham gia chuẩn bị tốt phương án đàm phán Hiệp định thương mại dệt may song phương với EU. 3. Giải pháp từ phía các doanh nghiệp dệt may: Hiện nay, 80% doanh nghiệp dệt may Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, để tồn tại các doanh nghiệp cần có chính sách cạnh tranh hợp lý khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường EU. Chiến lược cạnh tranh này có thể được thực hiện thông qua 4 chương trình gồm: giảm giá - quản lý - hiệu quả - tăng năng suất; nâng cao chất lượng - đảm bảo các tiêu chuẩn môi trường và lao động; kinh doanh chủ động (chủ động trong mọi nguồn lực lao động, tài chính, thị trường, vật tư…) và chăm sóc khách hàng – giao hàng – dịch vụ. Mỗi doanh nghiệp với một thế mạnh riêng cần xây dựng một chiến lược xuất khẩu phù hợp, trong đó cần cụ thể hoá thị trường, khách hàng, mặt hàng … Để cạnh tranh thắng lợi với các nước xuất khẩu hàn dệt may, đặc biệt là Trung Quốc thì ngành dệt may Việt Nam cần hướng tới chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng khả năng đáp ứng nhanh trước sự thay đổi của xu thế thời trang; tận dụng cơ hội để mở rộng thị trường. Ngày từ lúc này ngành dệt may cần phải có những biện pháp cấp bách như: 3.1 Hạ giá thành sản phẩm: Nâng cao nhận thức của mọi thành viên trong từng doanh nghiệp, từ đội ngũ lãnh đạo, quản lý đến người lao động về ý nghĩa quan trọng của việc giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời khơi dậy khả năng sáng tạo, phát huy tài năng của từng cá nhân nhằm tìm ra sang kiến tối thiểu hoá chi phí sản xuất, đặc biệt là chi phí nguyên vật liệu, chi phí quản lý doanh nghiệp,… 3.2 Không ngừng mở rộng thị trường, tạo dựng thương hiệu cũng như uy tín của sản phẩm đối với khách hàng: Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần đẩy mạnh xúc tiến thị trường bằng một số biện pháp như: khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp mở văn phòng đại diện, chi nhánh, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, trung tâm xúc tiến thương mại, tổ chức hội trợ triển lãm giới thiệu hàng hoá, thời trang. Khuyến khích và có cơ chế hỗ trợ để các doanh nghiệp chủ động ra nước ngoài tìm kiếm thị trường, xác lập hệ thống kênh phân phối, tiêu thụ sản phẩm tại các thị trường lớn. Đặc biệt đối với thị trường EU cần nghiên cứu kỹ thị hiếu của khách hàng và nhu cầu thị trường để tìm ra chính sách cạnh tranh với các sản phẩm của Trung Quốc và các nước khác trong lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt may. 3.3 Nâng cao tay nghề cho công nhân, trình độ và khả năng sáng tạo của đội ngũ thiết kế: Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất, thiết kế, kinh doanh, lao động có tay nghề cao cho dệt may, cho các trung tâm dệt may và các địa phương. Từng thành viên trong doanh nghiệp, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý cần tự trau dồi, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề. Ngoài ra cần tạo điều kiện cho đội ngũ thiết kế tham dự các khóa đào tạo và các buổi trình diễn thời trang tại những kinh đô thời trang của Thế giới như: Milan, Paris … 3.4 Đẩy mạnh đầu tư và thay thế máy móc, thiết bị sản xuất lạc hậu: Cần phải đầu tư xây dựng nhà xưởng hiện đại, đổi mới thiết bị, công nghệ theo hướng phải tiếp cận với công nghệ cao trong thiết kế mẫu, trong sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, năng suất lao động, hạ giá thành. Tuy vậy, trong điều kiện nhiều doanh nghiệp ngành dệt may còn thiếu vốn, tiềm lực tài chính chưa đủ mạnh để đầu tư đồng bộ công nghệ và thiết bị thì các doanh nghiệp này cần chủ động trong việc liên kết và hợp tác kinh doanh với nhau. Việc đầu tư cho máy móc thiết bị hầu như mới chỉ góp phần cải tiến chất lượng sản phẩm chứ chưa thực sự giúp cho doanh nghiệp đổi mới và đa dạng hoá sản phẩm, muốn tạo ra sản phẩm mới đòi hỏi doanh nghiệp phải tự tìm tòi, nghiên cứu và sáng tạo. Để thực hiện được điều này các doanh nghiệp cần phát huy sức mạnh liên kết, bao gồm: liên kết chiều dọc để đảm bảo nguồn đầu vào - đầu ra, liên kết chiều ngang trong cùng một sản phẩm - mặt hàng. 4. Một số vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm để thành công trong việc xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU: 4.1 Xác định thị trường mục tiêu: EU là thị trường rộng lớn, đầy tiềm năng bao gồm 27 quốc gia có những phong tục, tập quán, đặc điểm văn hoá xã hội và tôn giáo khác nhau. Do vậy, tuỳ theo đặc điểm trình độ và khả năng sản xuất, mỗi doanh nghiệp cần xác định thị trường mục tiêu của mình là thị trường đại chúng có thu nhập thấp hay thị trường tiêu thụ có thu nhập trung bình, trung bình cao hoặc cao cấp. Đối với thị trường đại chúng thì giá cả sản phẩm là yếu tố quyết định cho sự thành công của chiến lược tiếp thị. Còn đối với thị trường có thu nhập trung bình và trung bình cao trở lên thì yếu tố quyết định lại là nhãn hiệu sản phẩm, đẳng cấp chất lượng, và khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi xu thế thời trang. 4.2 Khả năng thiết kế, quản lý chất lượng và trách nhiệm xã hội: Để sản xuất được nhiều mẫu hàng phù hợp với yêu cầu của thị trường EU các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường công tác nghiên cứu thị hiếu, xu thế thời trang từ đó có thể thiết kế và tổ chức sản xuất. Hiện nay, hầu hết các quốc gia trong EU đều có xu hướng muốn đặt hàng trực tiếp cho các nhà sản xuất nước ngoài với mẫu mã do chính doanh nghiệp thuộc quốc gia đó sáng tạo nên theo xu thế thời trang tại nước tiêu dùng. Nhìn lại thời gian vừa qua có thể thấy, nhiều nhà sản xuất Việt Nam có khả năng sáng tạo mẫu mã phù hợp thị hiếu đã nhận được hợp đồng thẳng từ các Công ty nhập khẩu EU theo phương thức kinh doanh FOB. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh tuân thủ theo yêu cầu của các tiêu chuẩn quản lý về chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh và trách nhiệm xã hội. Chính phủ nên phối hợp với Hiệp hội dệt may Việt Nam tạo điều kiện cho doanh nghiệp đạt được các chứng nhận quốc tế ISO 9000, ISO 14000, SA 8000 (hoặc WRAP), và OHSAS 18000. Đây là yêu cầu mà tất cả các công ty xuất nhập khẩu lớn của EU quan tâm và tổ chức đánh giá đầu tiên (đặc biệt là tiêu chuẩn SA 8000 hoặc WRAP) trước khi quyết định đàm phán về giá cả hoặc quy cách sản phẩm … 4.3 Chuyên môn hoá dây chuyền sản xuất và nâng cao khả năng quản lý: Bên cạnh đó, một vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam cần đặc biệt chú ý đó là chuyên môn hóa dây chuyền sản xuất theo mặt hàng để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Lý do là trên thực tế các công ty tại EU có đẳng cấp chỉ đặt hàng tại các xưởng sản xuất được tổ chức chuyên môn hoá, có thiết bị chuyên dùng phù hợp, có năng lực sản xuất tương đối lớn, có chất lượng sản phẩm ổn định, giao hàng đúng tiến độ và có khả năng thích ứng nhanh. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần áp dụng các phần mềm quản lý và thông tin dữ liệu trong sản xuất kinh doanh nhằm tăng cường hiệu quả quản lý, đồng thời có thể cung cấp thường xuyên và kịp thời các số liệu cần thiết theo yêu cầu của khách hàng. Các công ty thuộc EU có yêu cầu cao về thông tin liên lạc hàng ngày kể từ lúc chào hàng, nhận đơn hàng cho đến khi tổ chức sản xuất và giao hàng. Để thông tin được thông suốt và kịp thời doanh nghiệp cần thường xuyên sử dụng các công cụ điện tử như: e-mail, website. Các dữ liệu kiểm tra chất lượng cần được lưu trữ đến lúc giao hàng và việc truyền thông tin, lưu dữ liệu này còn phục vụ cho cả Hải quan tại nơi nhập khẩu để kiểm tra xuất xứ lô hàng khi cần. KẾT LUẬN Qua những phân tích trên có thể thấy trước khi Việt Nam đàm phán để gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU là không ổn định, sau đó khi EU dỡ bỏ hạn ngạch cho hàng dệt may Việt Nam thì kim ngạch xuất khẩu tăng lên mạnh mẽ. Tuy nhiên, khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO thì kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU lại tăng lên không đáng kể, một phần là do Mỹ đã xóa bỏ hạn ngạch cho hàng dệt may Việt Nam cùng với những nguyên nhân khác về phía doanh nghiệp Việt Nam. EU là một thị trường tiêu thụ lớn với khoảng 456 triệu dân có mức thu nhập cao đã và sẽ là thị trường chiến lược quan trọng của ngành dệt may nói riêng và Việt Nam nói chung. Chính vì vậy, để có thể tận dụng được quan hệ kinh tế thương mại tốt đẹp giữa Việt Nam và EU Chính phủ cần phối hợp với các doanh nghiệp dệt may đề ra giải pháp nâng cao kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh tế ngoại thương – GS.TS. Bùi Xuân Lưu, Đại học Ngoại thương, 2006. Tạp chí Kinh tế ngoại thương, các số năm 2007. Tạp chí Kinh tế phát triển số 4, 5, 6 năm 2007. www.gso.gov.vn www.vinatex.com www.tapchithuongmai.vn www.customs.gov.vn www.moit.gov.vn www.hoinhap.vn www.irv.moi.gov.vn DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Bảng 1: Mô hình giản đơn về lợi thế tuyệt đối Bảng 2: Mô hình giản đơn về lợi thế tuyệt đối thay đổi do chuyên môn hóa Bảng 3: Mô hình giản đơn về lợi thế so sánh Bảng 4: Mô hình giản đơn về lợi thế so sánh thay đổi do chuyên môn hóa Bảng 5: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ EU, nguồn: Tổng cục Hải quan, 2008 Bảng 6: Thời gian gia nhập EU của các quốc gia thành viên, nguồn: www.hoinhap.vn Bảng 7: Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của EU, nguồn: www.gso.gov.vn Bảng 8: Quy mô dân số một số nước thành viên EU năm 2006, nguồn: www.gso.gov.vn Bảng 9: Các thị trường chính trong EU nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam, nguồn: Tập đoàn Dệt – May Việt Nam, www.vinatex.com Bảng 10: Tình hình nhập khẩu bông và sợi của Việt Nam, nguồn: Tổng cục Thống kê Bộ Thương mại. Bảng 11: Mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU, nguồn: Tập đoàn Dệt – May Việt Nam. Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2001 – 2006, nguồn: Tổng cục Hải quan, www.customs.gov.vn Biểu đồ 2: Cơ cấu các sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU, nguồn: Tập đoàn Dệt – May Việt Nam, www.vinatex.com MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28605.doc
Tài liệu liên quan