Chuyên đề Hoàn thiện kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ tại Công ty Cổ phần Dệt 10/10

Từ trước đến nay, thông tin kế toán đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của tất cả các doanh nghiệp dù là doanh nghiệp sản xuất hay thương mại. Trong nền kinh tế có nhiều thay đổi như hiện nay, để hoà nhập, tồn tại và phát triển, việc cung cấp thông tin kinh tế, thông tin tài chính được cung cấp một cách chuẩn xác từ bộ phận kế toán càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, hoàn thiện bộ máy kế toán đặc biệt là công tác kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ sản phẩm không chỉ giúp các doanh nghiệp có thể tăng doanh thu, lợi nhuận, tiết kiệm chi phí mà còn đảm bảo có được định hướng phát triển trong tương lai phù hợp với tình hình thực tế. Do đó, để bộ máy kế toán nói chung kế toán phần hành tiêu thụ nói riêng có thể cung cấp các thông tin hữu ích một cách nhanh chóng, chính xác, đầy đủ việc hoàn thiện nó từ khâu tổ chức bộ máy cho đến khâu tổ chức hệ thống chứng từ, tài khoản, sổ sách, báo cáo này là điều cần thiết.

doc87 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1380 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ tại Công ty Cổ phần Dệt 10/10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: Chi phí lãi vay 23 5.791.975,894 6.858.297.628 8. Chi phí bán hàng 24 17.720.975.894 10.235.324.138 9. Chi phí quản lý doanh nghiệp 25 17.668.054.379 13.487.795.538 10 Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh {30 = 20 + (21 - 22) - (24 + 25)} 30 6.788.821.474 11.474.868.379 11. Thu nhập khác 31 879.060.377 2.146.294 12. Chi phí khác 32 28.013.867 13. Lợi nhuận khác (40 = 31 - 32) 40 851.046.510 2,146,294 14. Tổng LN kế toán trước thuế (50 = 30+40) 50 7.639.867.984 11.477.014.673 15. Chi phí thuế TNDN hiện hành (28%) 51 VI.30 2.139.163.036 3.213.564.108 16. Chi phí thuế TNDN hoãn lại 52 VI.30 17. LN sau thuế TNDN (60 = 50 – 51 - 52) 60 5.500.704.948 8.263.450.565 18. Lãi cơ bản trên cổ phiếu (*) 70 Lập ngày 12 tháng 03 năm 2008. Kế toán trưởng Tổng giám đốc (Nguồn Phòng Kế toán – Tài chính) *************************** Tóm lại, phần 2 của chuyên đề với tên gọi: “Thực trạng kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ tại Công ty Cổ phần Dệt 10/10” đã tập trung trình bày về kế toán tiêu thụ theo 2 phương thức chủ yếu cũng như công thức, phương pháp xác định kết quả tiêu thụ tại Công ty. Những phân tích, đánh giá về thực trạng kế toán phần hành này là cơ sở để đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ tại Công ty Cổ phần Dệt 10/10. PHẦN 3: HOÀN THIỆN KẾ TOÁN TIÊU THỤ VÀ KẾT QUẢ TIÊU THỤ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT 10/10 Đánh giá khái quát thực trạng kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ tại Công ty Cổ phần Dệt 10/10 Về tổ chức bộ máy kế toán Bộ máy kế toán trong một doanh nghiệp có thể hiểu như một tập hợp thống nhất các nhân viên kế toán cùng với trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện ghi chép, tính toán nhằm mục đích cung cấp thông tin đúng lúc, đúng nơi đảm bẩo yêu cầu quản trị doanh nghiệp. Có thể nói, bộ máy kế toán là bộ mặt của toàn doanh nghiệp, tổ chức bộ máy kế toán quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh là trình độ quản lý của Ban giám đốc. Do đó, tổ chức bộ máy kế toán có vai trò chủ đạo trong công tác tổ chức hạch toán kế toán nói riêng, công tác quản trị doanh nghiệp nói chung. Hiểu được tầm quan trọng của bộ máy kế toán, Công ty Cổ phần Dệt 10/10 đã tổ chức mô hình bộ máy kế toán theo hình thức tập trung, đây là một hình thức rất phù hợp với các doanh nghiệp sản xuất. Hình thức này có ưu điểm là các quyết định tài chính được đưa ra một cách chính xác do Kế toán trưởng là người nắm bắt tất cả thông tin kế toán của các khâu trong bộ máy kế toán. Đồng thời, mối kế toán quản lý các phần việc của mình trong mối liên kết với các kế toán phần hành khác đảm bảo tính chặt chẽ và tính trách nhiệm cao. Do vậy, khối lượng ghi sổ được giảm nhẹ, có thể thường xuyên đối chiếu số liệu giữa kế toán các phần hành được kịp thời, cung cấp nhanh chóng thông tin cho việc tập hợp các chỉ tiêu kinh tế tài chính. Mô hình tập trung Công ty đang áp dụng giúp cho công tác chỉ đạo được thống nhất, là cơ sở cho việc kiểm tra, chỉ đạo của cấp trên và của đối tượng quan tâm; từ đó, tạo điều kiện cho phân công lao động kế toán, nâng cao trình độ chuyên môn hoá công tác kế toán. Nói chung, bộ máy kế toán của Công ty tương đối hoàn thiện, phản ánh đầy đủ nội dung hạch toán và đáp ứng được yêu cầu quản lý. Tuy nhiên, do tổ chức bộ máy kế toán theo hình thức tập trung nên mọi yêu cầu, chỉ đạo đều thuộc quyền Kế toán trưởng, vì vậy, các quyết định Tài chính, các kế hoạch đưa ra thường chậm, không kịp thời đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin. Phòng kế toán gồm 8 người trong đó có 1 Kế toán trưởng và 7 Kế toán phần hành. Hầu hết các nhân viên kế toán đều có trình độ Đại học (3/4 số lao động kế toán là có trình độ Đại học) và đều tốt nghiệp từ chuyên ngành kế toán. Điều này chứng tỏ trình độ lao động của bộ máy kế toán là khá cao, mọi nhân viên đều được đào tạo chuyên sâu về hạch toán kế toán, do đó, khi thử việc không cần đào tạo lại về nghiệp vụ chuyên môn, tiết kiệm được chi phí đào tạo cho Công ty. Trong Công ty, ngoài Kế toán trưởng và Thủ quỹ, còn lại 6 nhân viên kế toán phần hành phụ trách từng khâu của quy trình hạch toán như: NVL, tiền lương, TSCĐ & tiêu thụ, chi phí, thuế và thanh toán cho thấy việc phân công lao động kế toán là hết sức khoa học, hợp lý và vừa đủ, từng phần hành được giao cho từng nhân viên đảm nhiệm nên không xảy ra tình trạng chồng chéo, không có việc làm hay dư thừa lao động. Mỗi nhân viên chịu trách nhiệm một phần công việc khác nhau tạo điều kiện chuyên môn hoá, nâng cao nâng suất lao động. Điều đó giúp cho mỗi nhân viên có thể phát huy hết khả năng của mình, đi sâu tìm hiểu công việc, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Ngoài đội ngũ cán bộ trẻ nhiều kinh nghiệm, Công ty còn thực hiện cơ giới hoá bộ máy kế toán giúp giảm bớt khối lượng công việc cho nhân viên và tiết kiệm được nhiều chi phí (có sự hỗ trợ của máy tính điện tử sẽ giúp giảm bớt số nhân viên phụ trách từng phần hành). Đặc biệt Công ty luôn tổ chức các khoá học ngắn ngày cho nhân viên nhằm bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, đảm bảo việc cập nhật chế độ mới ban hành thuộc các lĩnh vực như: thuế, kế toán, tài chính ... Các cán bộ kế toán hầu hết đều là những người có năng lực, tinh thần trách nhiệm cao, có khả năng sử dụng thành thạo máy vi tính, kết hợp với trang thiết bị, kỹ thuật được đầu tư đầy đủ, hiện đại bộ máy tổ chức được sắp xếp gọn nhẹ phù hợp với trình độ, sự tiến bộ của từng người. Đây có thể nói là một ưu điểm lớn nhất của bộ máy kế toán Công ty Cổ phần Dệt 10/10. Tuy nhiên, với chiến lược mở rộng thị trường, cải tiến công nghệ, máy móc thiết bị trong tương lai, việc tổ chức phân công lao động, tổ chức phân công lao động kế toán trong Công ty như hiện nay còn bộc lộ một khuyết điểm nhỏ, đó là công việc của Kế toán trưởng quá nhiều (vừa trực tiếp tập hợp chi phí và tính giá thành SP, lập kế hoạch thu chi hàng kỳ, tổng hợp công nợ phải thu, phải trả định kỳ theo tháng, quý hoặc theo năm vừa thực hiện tổng hợp, quyết toán thuế với cơ quan Nhà nước, kiểm tra tình hình kế toán chi tiết các phần hành, sổ sách số liệu trược khi lên báo cáo, tiến hành lập các Báo cáo tài chính), quyền hành tập trung vào Kế toán trưởng quá lớn. Hơn nữa, mặc dù hiện nay, toàn bộ nhân viên Phòng Tài vụ Công ty Cổ phần Dệt 10/10 đều được trang bị máy tính điện tử nhưng hầu hết công việc hạch toán vẫn được thực hiện thủ công, máy vi tính chỉ được sử dụng như một công cụ trợ giúp việc kẻ bảng, biểu, sổ sách, nhập dữ liệu và tính toán đơn giản trên Excel. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ công việc và chất lượng thông tin kế toán. Về phần hành kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ, có thể thấy việc theo dõi quá trình tiêu thụ thành phẩm tại Công ty còn rất phức tạp do hai chỉ tiêu số lượng và giá trị của thành phẩm được theo dõi bởi hai kế toán riêng biệt (Kế toán tiêu thụ theo dõi về mặt số lượng còn việc theo dõi chỉ tiêu giá trị thành phẩm lại do Kế toán trưởng phụ trách). Điều này có thể dẫn đến việc sử dụng quá nhiều sổ sách và không phản ánh chính xác giá trị thành phẩm xuất kho. Chẳng hạn như, cuối kỳ, Kế toán tiêu thụ lập Bảng cân đối thành phẩm tổng hợp số lượng thành phẩm nhập, xuất, tồn kho trong kỳ; trong khi đó, Kế toán trưởng lại lập Bảng tổng hợp nhập, xuất, tồn kho để theo dõi về cả chỉ tiêu số lượng và giá trị thành phẩm. Tóm lại, về tổ chức bộ máy kế toán cũng như phân công lao động kế toán của Công ty Cổ phần Dệt 10/10 là khá hợp lý, đầy đủ, thể hiện ở chỗ bộ máy này vừa tiết kiệm được chi phí vừa giúp giảm bớt công việc, kế toán viên có thể hoàn thành phần việc được giao một cách nhanh nhất, chính xác nhất. Mặc dù vậy, như mọi bộ máy kế toán của các đơn vị khác, bộ máy kế toán của Công ty cũng có những nhược điểm, tồn tại. Việc khắc phục những nhược điểm này nhưng vẫn đảm bảo bộ máy kế toán được tổ chức tối ưu sẽ giúp Công ty hoàn thiện công tác tổ chức hạch toán kế toán từ đó, nâng cao hiệu quả hoạt động. Về sử dụng chứng từ kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ Với sự đầu tư và trang thiết bị hiện đại như đã nói ở trên, công tác kế toán nói chung và tổ chức vận dụng chế độ kế toán (hệ thống chứng từ, tài khoản, sổ sách và báo cáo kế toán) của Công ty Cổ phần Dệt 10/10 được thiết lập một cách hệ thống, tương đối đầy đủ và khoa học. Về vận dụng hệ thống chứng từ, chứng từ kế toán bao gồm đầy đủ các chứng từ bắt buộc và một số chứng từ hướng dẫn cần thiết. Chứng từ ban đầu được hạch toán nghiêm chỉnh và sắp xếp khoa học. Chứng từ sử dụng trong đơn vị vừa đảm bảo tính hợp pháp (không vi phạm pháp luật, chứng từ kế toán đảm bảo đủ số liên theo quy định), hợp lý (chứng từ phản ánh đúng nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh), hợp lệ (những chứng từ quan trọng, cần thiết có đầy đủ chữ ký của những người có liên quan đến nghiệp vụ), vừa đảm bảo hình thức chứng từ do Nhà nước ban hành. Hệ thống chứng từ đều đảm bảo tính thống nhất, kịp thời và phản ánh đúng với tình hình tiêu thụ thành phẩm của Công ty. Việc xử lý, trình tự luân chuyển chứng từ nhanh chóng, không chồng chéo, phù hợp với các nghiệp vụ kinh tế phát sinh của xí nghiệp đã giúp cho công tác kế toán trong giai đoạn kế tiếp được tiến hành nhanh gọn, đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin đúng lúc của tổ chức kế toán. Thêm vào đó, việc quy định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân về lập, phê chuẩn luân chuyển và sắp xếp, lưu trữ chứng từ hợp lý, khoa học, không chỉ giúp ích cho cán bộ nhân viên kế toán có thể tìm thấy thông tin cần thiết nhanh chóng mà còn giúp cho công tác kiểm tra, giám sát công việc của Ban giám đốc cũng như đơn vị kiểm toán khi có yêu cầu. Tuy nhiên, công tác tổ chức vận dụng chứng từ kế toán trong Công ty Cổ phần Dệt 10/10 vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục, ví dụ như, trong công tác hạch toán, một số chứng từ hướng dẫn không được lập đầy đủ hay một số chứng từ phản ánh nghiệp vụ không quan trọng, giá trị thấp (như một số Phiếu thu, Phiếu chi có giá trị không cao) còn thiếu các thủ tục, chữ ký của Kế toán trưởng, việc lập chứng từ, lưu trữ, quản lý còn thủ công (các chứng từ hầu hết đều bằng giấy, lưu trữ thủ công) nên chứng từ không được bảo đảm nguyên vẹn, rõ nét. Đặc biệt, trong phần hành kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ, hệ thống chứng từ sử dụng trong Công ty còn bộc lộ một khuyết điểm, đó là khi xuất kho thành phẩm đi tiêu dùng nội bộ hay biếu tặng, viện trợ, khen thưởng, Công ty không lập Phiếu xuất kho hay Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ chỉ viết Hoá đơn GTGT, do đó, khó có thể phân biệt được thành phẩm được xuất đi để sử dụng cho mục đích nào ... Về tài khoản kế toán phản ánh tiêu thụ và kết quả tiêu thụ Trên cơ sở đáp ứng yêu cầu tập hợp chi phí, phù hợp với đặc điểm kinh doanh và đặc điểm bộ máy kế toán, trên cơ sở hệ thống tài khoản kế toán theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20 tháng 03 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Công ty Cổ phần Dệt 10/10 đã tiến hành mở các tài khoản chi tiết cho từng phân xưởng, từng khách hàng (Công ty đã chi tiết TK 131, 331 theo từng khách hàng và chủ nợ để dễ dàng theo dõi) ... góp phần tạo nên sự thuận lợi cho công tác quản lý của Công ty. Tuy nhiên, việc sử dụng một hệ thống tài khoản chi tiết như vậy còn đem lại khó khăn cho Công ty trong việc quản lý, tổng hợp số liệu. Bên cạnh đó, hệ thống tài khoản sử dụng tại Công ty chưa đầy đủ, thiếu một số tài khoản ngoại bảng và một số tài khoản phản ánh các nghiệp vụ ít phát sinh tại Công ty. Ví dụ như, để hạch toán doanh thu tiêu thụ nội bộ, Công ty sử dụng tài khoản 511 là không chính xác. Theo quy định của Bộ Tài chính ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ - BTC ngày 20 tháng 03 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, doanh thu tiêu thụ nội bộ phải được hạch toán qua TK 512. Khi thành phẩm được xuất đi biếu tặng, viện trợ hay khen thưởng cho công nhân viên trong Công ty, kế toán phải ghi nhận doanh thu vào TK 512. Mặc dù có thể doanh thu này không lớn và đã được theo dõi trên các Sổ chi tiết nhưng việc hạch toán như vậy không những trái với quy định mà còn không phản ánh đúng bản chất nghiệp vụ kinh tế phát sịnh, làm sai lệch thông tin kế toán. Mặt khác, chế độ kế toán Việt Nam quy định rõ về việc sử dụng các TK 521 – Chiết khấu thương mại, TK 531 – Hàng bán bị trả lại, TK 532 – Giảm giá hàng bán để hạch toán các khoản giảm trừ doanh thu. Nhưng kế toán Công ty Cổ phần Dệt 10/10 mới chỉ hạch toán Hàng bán bị trả lại như một khoản giảm trừ doanh thu, Chiết khấu thương mại và Giảm giá hàng bán chưa được đề cập đến trong công tác kế toán tiêu thụ. Tuy sản phẩm Công ty sản xuất ra thường đảm bảo chất lượng nhưng trong trường hợp xảy ra sản phẩm, hàng hoá kém, mất phẩm chất hay không đúng quy cách theo quy định trong hợp đồng kinh tế, Công ty không muốn hàng bị trả lại nên giảm giá hàng bán để khách hàng chấp nhận. Còn đối với khoản chiết khấu thương mại, Công ty cũng đã thực hiện giảm giá bán cho người mua số lượng nhiều nhưng việc thay đổi giá trên được Công ty hạch toán trừ vào đơn giá bán lẻ không ghi nhận như một khoản giảm trừ doanh thu. Đây có lẽ là một thiếu sót của kế toán Công ty Cổ phần Dệt 10/10 trong công tác hạch toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ. Hơn nữa, kế toán Công ty Cổ phần Dệt 10/10 lại ghi nhận khoản chênh lệch đánh giá giảm giữa tỷ giá hạch toán và tỷ giá thực tế như một khoản giảm trừ doanh thu là không đúng với chế độ. Mặc dù Công ty thường ghi nhận tỷ giá thấp hơn tỷ giá thực tế nên ít có trường hợp khoản chênh lệch này được hạch toán giảm doanh thu nhưng quy trình hạch toán như vậy của Công ty là không hợp lý cần thay đổi. Do chủ yếu sử dụng hình thức thanh toán trực tiếp, chỉ chấp nhận hình thức thanh toán trả chậm đối với khách hàng xuất khẩu và một số khách hàng thường xuyên nên trong nghiệp vụ thanh toán tại Công ty chưa xảy ra các trường hợp khách hàng mất khả năng thanh toán, do đó, Công ty đã bỏ qua tài khoản 139 – Dự phòng phải thu khó đòi và TK 004 - Nợ khó đòi đã xử lý để ghi nhận khoản dự phòng phải thu khách hàng. Bên cạnh đó, kế toán Công ty không sử dụng tài khoản 157 – Hàng gửi bán trong hạch toán xuất khẩu thành phẩm. Do đó, trong suốt quá trình chuyển hàng từ kho thành phẩm đến cảng Hải Phòng, thành phẩm đã xuất kho nhưng không được ghi nhận chỉ khi thành phẩm đã lên phương tiện vận chuyển, lúc này doanh thu mới được ghi nhận và kế toán ghi nhận thành phẩm đã được tiêu thụ. Đặc biệt, kế toán Công ty Cổ phần Dệt 10/10 không sử dụng TK 007 - Ngoại tệ các loại (tài khoản ngoại bảng) để theo dõi số phát sinh, tình hình tăng, giảm và số dư nguyên tệ các loại. Đây là một thiếu sót trong tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản, bởi Công ty là một doanh nghiệp sản xuất có quan hệ mua bán với nhiều nước trên thế giới, hoạt động xuất khẩu là hoạt động chủ đạo trong Công ty, trong khi đó, theo nguyên tắc hạch toán ngoại tệ, khi có nghiệp vụ phát sinh về thu, chi, ngoại tệ, số nguyên tệ phải được theo dõi trên tài khoản 007. Do vậy, Công ty cần quan tâm hơn nữa đến việc thiết lập hệ thống tài khoản phù hợp với đặc điểm kinh doanh và quan trọng hơn hết là đảm bảo chi phí được phản ánh chính xác nhất. Về sổ sách kế toán phản ánh tiêu thụ và kết quả tiêu thụ Công ty Cổ phần Dệt 10/10 đang áp dụng hình thức Nhật ký - Chứng từ, việc mở sổ ghi chép tính toán theo đúng chế độ quy định của Nhà nước, phần nghiệp vụ kế toán được vận dụng theo đúng chế độ kế toán doanh nghiệp quy định theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20 tháng 03 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Đặc trưng cơ bản của hình thức Nhật ký chứng từ là các nghiệp vụ phát sinh đều dược phân loại trước khi ghi sổ. Sổ NKCT cuối tháng được tổng hợp từ chứng từ, các Bảng kê và Bảng phân bổ có liên quan để vào Sổ cái các tài khoản. Việc áp dụng hình thức này hoàn toàn phù hợp với quy mô SX của Công ty Cổ phần Dệt 10/10 và phù hợp với trình độ, tay nghề của nhân viên kế toán. Hình thức tổ chức sổ Công ty đang áp dụng không chỉ giúp giảm bớt khối lượng công việc kế toán (vì các nghiệp vụ phát sinh đều được phân loại trước khi ghi sổ) mà còn là cơ sở đảm bảo công việc kế toán được tiến hành nhanh gọn (do có sự kết hợp chặt chẽ giữa kế toán chi tiết và kế toán tổng hợp), công việc được phân chia đồng đều giữa các khâu trong toàn bộ công tác kế toán. Đây có thể nói là một điểm khắc phục cho mô hình tổ chức bộ máy kế toán tập trung của Công ty. Ngoài ra, trong quá trình ghi sổ, đối với những khách hàng, chủ nợ có quan hệ giao dịch thường xuyên với Công ty, kế toán viên theo dõi cụ thể, chi tiết trên từng trang sổ. Điếu này giúp ích rất nhiều cho việc kiểm tra, đối chiếu, thuận tiện cho việc cung cấp thông tin khi xảy ra tranh chấp khiếu nại. Hơn nữa, kế toán tiêu thụ thành phẩm đã theo dõi được chi tiết tình hình tiêu thụ của từng loại sản phẩm trên Bảng tổng hợp tiêu thụ theo từng loại sản phẩm. Điều này rất quan trọng, vì qua việc xem xét từng loại thành phẩm được tiêu thụ, ta có thể biết được loại sản phẩm nào đang được ưu chuộng trên thị trường, từ đó, lập ra kế hoạch sản xuất, kế hoạch bán hàng, Marketing hợp lý hơn. Tuy vậy, việc sử dụng hình thức NKCT cũng có một số nhược điểm, đó là dễ chồng chéo giữa kế toán các phần hành do một nghiệp vụ phát sịnh có thể liên quan đến nhiều phần hành. Mặt khác, hình thức kế toán sổ Nhật ký chứng từ có mẫu sổ phức tạp, rất khó thực hiện trên máy, không thuận tiện áp dụng kế toán máy vào công tác hạch toán. Sổ sách hầu hết được lập bằng tay đem lại nhiều khó khăn cho kế toán viên. Đối với khâu hạch toán chi tiết tiêu thụ thành phẩm, kế toán không mở Sổ chi tiết thành phẩm mà chỉ theo dõi qua Sổ nhập kho thành phẩm, đây là một thiếu sót trong công tác kế toán tiêu thụ, vì Sổ chi tiết thành phẩm được mở chi tiết cho từng thành phẩm nhằm theo dõi về cả chỉ tiêu số lượng cũng như giá trị nhập, xuất, tồn từng loại thành phẩm, còn Sổ theo dõi thành phẩm nhập kho trong kỳ chỉ theo dõi khối lượng nhập kho của từng loại thành phẩm này. Như vây, việc hạch toán chi tiết tiêu thụ của Công ty chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý thành phẩm một cách chi tiết. Dù thành phẩm được theo dõi trên nhiều loại sổ sách nhưng vẫn không cung cấp đủ thông tin cho kế toán tiêu thụ. Hiện nay, Công ty chưa theo dõi chi tiết các khoản chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Ngoài ra, việc theo dõi các khoản phải thu khách hàng, kế toán Công ty Cổ phần Dệt 10/10 không mở Sổ chi tiết phải thu khách hàng ghi chép nghiệp vụ hàng ngày mà để đến cuối quý kế toán mới lập Sổ theo dõi phải thu khách hàng dựa vào Sổ tiêu thụ và Sổ tiêu thụ và các sổ sách liên qua khác. Việc theo dõi như trên là không đúng theo quy định.Theo quy định của chế độ kế toán, khoản phải thu khách hàng phải được theo dõi chi tiết thường xuyên trên Sổ chi tiết phải thu khách hàng và đến cuối quý, kế toán dựa vào sổ này để lập Bảng kê số 11 – giống như Sổ theo dõi phải thu khách hàng hiên nay của Công ty. Việc theo dõi khoản phải thu khách hàng là rất quan trọng đối với hoạt động SX kinh doanh của Công ty. Có quản lý tốt tình hình thanh toán với khách hàng, Công ty mới có kế hoạch huy động vốn hiêu quả. Do đó, Công ty nên quan tâm hơn nữa đến việc ghi sổ cũng như việc lập dự phòng cho khoản thu này. Về hệ thống báo cáo kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ Nhìn chung, hệ thống Báo cáo tài chính của Công ty Cổ phần Dệt 10/10 được lập đúng theo quy định của chế độ tài chính về số lượng các báo cáo bắt buộc, biểu mẫu và thời gian nộp báo cáo. Các Báo cáo tài chính trên đã trình bày một cách trung thực, hợp lý tình hình tài chính của Công ty, phản ánh chính xác tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty, tình hình tài sản, nguồn vốn chủ sở hữu, các luồng tiền cũng như các khoản nợ. Việc sử dụng hệ thống Báo cáo trên đáp ứng yêu cầu quản lý, yêu cầu cần kiểm tra của cơ quan thu, cơ quan kiểm toán; không những vậy, sử dụng các Báo cáo trên đã giúp cho Công ty minh bạch kết quả kinh doanh khiến nhà đầu tư yên tâm về tình hình hoạt động của Công ty, từ đó tăng cường đầu tư. Mặt khác, để phục vụ cho nhu cầu quản lý kinh tế, tài chính, yêu cầu chỉ đạo, điều hành của Ban giám đốc, công ty còn sử dụng một số Báo cáo quản trị nội bộ phản ánh tình hình tiêu thụ và kết quả tiêu thụ như: Báo cáo doanh thu, Báo cáo bán hàng. Báo cáo thu chi tiền mặt, tiền gửi Ngân hàng Báo cáo về công nợ với khách hàng, công nợ với người cung cấp ... Các báo cáo trên được lập theo yêu cầu khi cần thiết, chúng đều có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động quản lý kinh tế, hoạt động định hướng tiêu thụ trong năm hiện tại và trong tương lai của Công ty. Từ các báo cáo doanh thu, tiêu thụ nội bộ, Ban giám đốc có thể đưa ra những ý kiến kết luận đúng đắn, các quyết định linh hoạt, kịp thời đảm bảo Công ty hoạt động có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Về kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ Hiện nay, việc xác định kết quả tiêu thụ được thực hiện vào cuối mỗi quý, do đó, sổ sách của Công ty phần lớn được lập theo quý đối với các sổ tổng hợp và được lập theo tháng đối với các sổ chi tiết. Điều này đảm bảo cung cấp đủ thông tin về tiêu thụ và kết quả tiêu thụ thành phẩm cho Ban lãnh đạo Công ty, từ đó, giúp đưa ra những quyết định hợp lý trong việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch sản xuất và kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Doanh thu phát sinh hàng ngày, tập hợp vào cuối quý. Chi phí SX (giá xuất thành phẩm) được xác định vào cuối quý, vì Công ty đang áp dụng phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ để tính giá thành phẩm xuất kho. Theo phương pháp này, trong kỳ, tình hình thành phẩm nhập, xuất kho chỉ được theo dõi về số lượng, chỉ đến cuối quý khi tính ra đơn giá bình quân mới bổ sung chỉ tiêu giá trị. Việc ghi thiếu chỉ tiêu giá trị khiến cho thông tin kế toán không đảm bảo được tính kịp thời và dồn tích công việc vào cuối quý nên không thể tránh khỏi sai sót. Mặt khác, việc hạch toán xuất kho đi tiêu thụ ở hai kho thành phẩm của Công ty (kho xuất khẩu và kho nội địa) không có sự khác biệt sẽ gây khó khăn cho việc theo dõi thành phẩm ở cả hai kho. Đặc biệt, trong quá trình tiêu thụ xuất khẩu, Công ty đã vi phạm nguyên tắc xác định tỷ giá hối đoái để ghi nhận doanh thu. Việc kế toán ghi nhận doanh thu xuất khẩu theo tỷ giá hạch toán là trái với quy định. Theo quy định hiện hành, doanh thu ngoại tệ phải được phản ánh theo giá thực tế tại thời điểm ghi nhận khi đã có đầy đủ chứng từ về việc thành phẩm đã được tiêu thụ. Mặc dù, cuối quý, kế toán sẽ điều chỉnh doanh thu về tỷ giá thực tế ngày cuối quý nhưng điều này không phản ánh đúng giá trị của nghiệp vụ bán hàng trong kỳ. Về kế toán kết quả tiêu thụ, việc xác định kết quả (cụ thể là chi phí chung như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp) vẫn chưa được thực hiện chi tiết cho từng thành phẩm hay từng thị trường tiêu thụ. Vì thế, chưa đánh giá được khả năng tiêu thụ của từng mặt hàng cũng như nhu cầu của từng thị trường. Có thể nói, công tác kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ thành phẩm là một bộ phận quan trọng trong hệ thống quản lý kinh tế tài chính, giữ vai trò tích cực trong việc điều hành và kiểm soat các hoạt động kinh doanh. Trong những năm gần đây, Công ty Cổ phần Dệt 10/10 đã không ngừng hoàn thiện công tác hạch toán kế toán, đặc biệt là công tác kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ nhằm cung cấp thông tin kế toán cần thiết cho định hướng phát triển của Công ty. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ tại Công ty Cổ phần Dệt 10/10 Hoàn thiện tổ chức bộ máy kế toán Để đảm bảo thông tin kế toán được cập nhật một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời đáp ứng được yêu cầu quản lý cũng như giảm bớt khối lượng cuối tháng của Kế toán trưởng, Công ty nên có thêm một Phó phòng Kế toán giúp việc cho Kế toán trưởng, được uỷ quyền thay mặt Kế toán trưởng trong các quyết định Tài chính những khi Kế toán trưởng vắng mặt. Phó phòng kế toán có thể kiêm luôn Kế toán tổng hợp, có nhiệm vụ hàng tháng căn cứ vào các NKCT, Bảng kê, Bảng phân bổ (do kế toán NVL, kế toán thanh toán, kế toán tiền lương, kế toán chi phí ... chuyển lên) để tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm và vào sổ tổng hợp cân đối thu chi, lập Bảng cân đối số phát sinh, chuyển lên cho Kế toán trưởng những thông tin tổng hợp giúp việc lập các Báo cáo Tài chính. Phó phòng Kế toán còn có trách nhiệm cùng với Kế toán trưởng quyết toán cũng như thanh tra kiểm tra công tác kế toán. Phó phòng Kế toán cũng có thể tổng hợp chi phí thay Kế toán chi phí. Ngoài ra, trong tổ chức kế toán phần hành tiêu thụ và kết quả tiêu thụ, Phòng Tài vụ Công ty Cổ phần Dệt 10/10 nên phân công công việc hạch toán thành phẩm cho một nhân viên kế toán thực hiện, kế toán viên này sẽ theo dõi cả về số lượng lẫn giá trị của thành phẩm nhập, xuất, tồn kho thay cho kế toán tiêu thụ. Việc phân công lao động kế toán như vậy không những đảm báo tính chuyên môn hoá trong công tác kế toán, giảm bớt hệ thống sổ sách tránh xảy ra sai sót trong quá trình làm việc mà còn đáp ứng được quá trình mở rộng sản xuất, tiêu thụ của Công ty trong thời gian tới. Đồng thời, để phù hợp với sự thay đổi của các chế độ, chính sách, chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế, Công ty cần tổ chức thêm nhiều khoá học giúp các kế toán viên cập nhật thông tin, trau dồi khả năng nghiệp vụ, tiếp cận với các thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực kế toán cũng như các lĩnh vực khác. Hơn nữa, bộ máy kế toán cũng cần được tranh bị máy móc, trang thiết bị hiện đại hơn nữa, đặc biệt là Công ty nên áp dụng một chương trình kế toán máy phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh để một mặt vừa giảm bớt khối lượng công việc của các nhân viên kế toán, một khác giúp công tác kế toán được thực hiện nhanh chóng đáp ứng yêu cầu sử dụng thông tin của Ban lãnh đạo Công ty. Có thể nói, trong hệ thống thông tin hiện đại, kế toán máy là một mảng ứng dụng quan trọng. Xu hướng áp dụng kế toán với các phần mềm chuyên dụng là khá phổ biến do những hiệu quả mà nó mang lại. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, nhiều phầm mềm kế toán đã ra đời phục vụ nhiều hình thức, quy mô, tính chất hoạt động khác nhau. Với sự giúp đỡ của phần mềm kế toán, công tác hạch toán được giảm bớt nhiều lần, những sai sót thường gặp do con người trong quá trình tính toán, cộng sổ, chuyển sổ được hạn chế rất nhiều. Không những vậy, áp dụng một phần mềm phù hợp còn giúp tốc độ xử lý thông tin nhanh gấp nhiều lần vì công việc được thực hiện theo chương trình có sắn vừa chính xác vừa linh hoạt. Vì thế, để đảm bảo công tác kế toán được thực hiện một cách nhanh gon, chính xác, Công ty nên lựa chọn một phần mềm kế toán phù hợp với nhu cầu, hoàn nảnh và năng lực của nhân viên kế toán. Phần mềm này có thể được Công ty thuê mua lập trình đúng với hoàn cảnh đặc thù của một doanh nghiệp SX các mặt hàng thiết yếu. Tuy hình thức chi phí khá cao nhưng lại hoàn toàn thích hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh, trình độ nhân viên kế toán trong Công ty. Hoàn thiện kế toán tính giá thành phẩm xuất kho Trong viêc xác định giá vốn thành phẩm xuất kho, Công ty hiện đang áp dụng phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ. Đây là một phương pháp dễ sử dụng, tính toán đơn giản nhưng kế toán không đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời và công việc tính toán được dồn lại ngày cuối quý gây vất vả cho Kế toán trưởng. Vì thế, với đặc thù của Công ty chuyên sản xuất các sản phẩm tiêu dùng thường ít xảy ra biến động về giá cả giữa các kỳ hạch toán; vì thế, Công ty nên sử dụng phương pháp giá hạch toán để ghi nhận giá vốn thành phẩm xuất kho đi tiêu thụ. Đơn giá hạch toán có thể xác định là đơn giá thực tế thành phẩm xuất kho cuối quý trước để đảm bảo độ chệnh lệch ít so với giá thành thực tế. Khi dùng phương pháp này, trên các sổ theo dõi thành phẩm sẽ có thêm cột đơn giá hạch toán và cột giá trị thành phẩm xuất kho theo giá hạch toán. Cuối quý, sau khi tính được tổng giá trị thực tế thành phẩm nhập trong kỳ, kế toán tính ra hệ số giá thành phẩm cho tất cả các mặt hàng theo công thức sau: = Hệ số giá Giá thực tế TP tồn đầu kỳ + Giá thực tế TP nhập trong kỳ thành phẩm Giá hạch toán TP tồn đầu kỳ + Giá hạch toán TP nhập trong kỳ Sau đó, kế toán căn cứ vào hệ số giá thành phẩm để xác định giá trị thực tế thành phẩm xuất kho trong kỳ cho từng mặt hàng theo công thức: x = Giá trị thực tế Giá hạch toán TP Hệ số giá TP xuất kho xuất kho thành phẩm Cột giá trị thực tế sẽ được bổ sung vào chứng từ, sổ sách và được tập hợp để ghi vào Sổ tổng hợp theo giá thực tế thành phẩm xuất kho tiêu thụ. Phương pháp này có ưu điểm là phản ánh chính xác giá trị thành phẩm xuất kho do đơn giá hạch toán là giá thực tế cuối kỳ liền trước, giá vốn hàng bán được ghi chép kịp thời nhưng cũng có nhược điểm đó là tính toán phức tạp hơn so với phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ; mặc dù vậy, với sự trợ giúp của máy tính điện tử, công việc này không còn là trở ngại đối với các kế toán. Ngoài ra, trong việc quản lý, theo dõi thành phẩm xuất kho, Công ty nên có sự phân biệt giữa hai kho nội địa và xuất khẩu.Công ty nên có biện pháp theo dõi từng thành phẩm cụ thể riêng của từng kho (bởi thành phẩm của hai kho có sự khác biệt về mẫu mã, chất lượng, giá trị ...) để có thể xem xét, đánh giá tình hình SX cũng như tiêu thụ của từng thị trường. Bên cạnh đó, trong hạch toán chi tiết thành phẩm Công ty nên mở Sổ chi tiết thành phẩm (Biểu số 3 – 1) để theo dõi về số lượng cũng như giá trị thành phẩm nhập, xuất, tồn kho trong kỳ. Việc theo dõi thành phẩm được thực hiện đầy đủ, ghi chép trên ít sổ hơn. Công ty có thể hợp nhất hai bảng: Bảng cân đối thành phẩm với Bảng tổng hợp nhập, xuất, tồn kho thành phẩm chỉ sử dụng Bảng tổng hợp nhập, xuất, tồn kho thành phẩm. Dựa trên Sổ chi tiết thành phẩm, Bảng tổng hợp nhập, xuất, tồn kho thành phẩm, kế toán viên sẽ tiến hành lập Bảng kê số 8. Nếu việc hạch toán thành phẩm được giao cho một nhân viên kế toán thực hiện, khi đó chỉ cần mở Sổ chi tiết thành phẩm để theo dõi tình hình nhập, xuất, tồn kho về hai chỉ tiêu số lương, giá trị. Đến cuối kỳ, kế toán chỉ phải tiến hành lập Bảng tổng hợp nhập, xuất, tồn kho thành phẩm, có thể giảm bớt việc lập Bảng cân đối thành phẩm và Sổ theo dõi nhập kho thành phẩm. Sổ chi tiết thành phẩm có thể được thiết kế theo mẫu sau: Biểu số 3 – 1: Mẫu Sổ chi tiết thành phẩm Đơn vị : Mẫu số S10 – DN Địa chỉ : (Ban hành theo QĐ số 15/2006/QĐ-BTC Ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng BTC) SỔ CHI TIẾT THÀNH PHẨM Năm: Tên, nhãn hiệu, quy cách sản phẩm: Đơn vị tính: Chứng từ Diễn giải TK đối ứng Đơn giá Nhập Xuất Tồn SH NT Số lượng Trị giá Số lượng Trị giá Số lượng Trị giá 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Tồn đầu kỳ Tồn cuối kỳ   x x Hà Nội, ngày ... tháng ... năm Người lập Kế toán trưởng Hoàn thiện kế toán doanh thu tiêu thụ nội bộ Một trong những yêu cầu của công tác kế toán đó là việc hạch toán phải đảm bảo phù hợp với nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Thành phẩm của Công ty được xuất dùng phục vụ cho công tác bán hàng, khen thưởng, tiêu dùng nội bộ ... phải được xem như một khoản doanh thu nội bộ. Vì vậy, để ghi nhận doanh thu tiêu thụ trong xuất thành phẩm với mục đích viện trợ, khen thưởng, khuyến mãi ..., Công ty nên sử dụng TK 512 - Doanh thu tiêu thụ nội bộ. Tài khoản này dùng để phản ánh doanh thu của số sản phẩm tiêu thụ trong nội bộ các doanh nghiệp. Doanh thu tiêu thụ nội bộ là lợi ích kinh tế thu được từ việc bán hàng hoá, sản phẩm, cung cấp dịch vụ nội bộ được tính theo giá nội bộ. Nội dung phản ánh của Tài khoản này như sau: Bên Nợ: - Trị giá hàng bán bị trả lại, khoản giảm giá hàng bán đã chấp nhận trên khối lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã bán nội bộ kết chuyển cuối kỳ kế toán; - Kết chuyển doanh thu bán hàng nội bộ thuần sang Tài khoản 911 - “Xác định kết quả kinh doanh”. Bên Có: Tổng số doanh thu nội bộ của đơn vị thực hiện trong kỳ kế toán. Tài khoản 512 không có số dư cuối kỳ. Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ xuất kho đi tiêu thụ nội bộ được định khoản như sau: Khi thành phẩm được xuất kho đi tiêu thụ nội bộ ngoài bút toán phản ánh giá vốn thành phẩm: Nợ TK 632 Có TK 155 Còn có bút toán phản ánh doanh thu tiêu thụ nội bộ: Nợ TK 641, 642, 431 Có TK 512 (Có thể lấy bằng giá vốn hoặc khác giá vốn) Có TK 3331 (nếu có) Doanh thu tiêu thụ nội bộ nên được theo dõi trên một trang sổ riêng. Mẫu sổ có thể được thiết kế theo (Biểu số 3 – 2). Biểu số 3 – 2: Mẫu Sổ theo dõi doanh thu tiêu thụ nội bộ Đơn vị : Địa chỉ : SỔ THEO DÕI DOANH THU TIÊU THỤ NỘI BỘ Quý năm Đơn vị tính: VND Chứng từ Mục đích xuất DT chưa thuế Thuế GTGT Tài khoản đối ứng SH NT TK 136 TK 641 TK 642 TK 431 Cộng Hà Nội, ngày ... tháng ... năm 2008 Kế toán trưởng Hoàn thiện kế toán phản ánh doanh thu xuất khẩu Khi hạch toán tiêu thụ xuất khẩu, Công ty ghi nhận doanh thu theo giá hạch toán, cuối kỳ điều chỉnh tăng doanh thu hoặc ghi nhận như một khoản giảm trừ doanh thu. Việc hạch toán như vậy là không hợp lý, trái với chế độ và chuẩn mực kế toán. Theo hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam, kế toán các chỉ tiêu kinh doanh có gốc ngoại tệ được thực hiện theo quy định tại chuẩn mực kế toán Việt Nam – VAS 10, ban hành và công bố tại Quyết định số 165/2002/QĐ – BTC ngày 31 tháng 12 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thông tư 105/2003/TT – BTC ngày 04/11/2003. Những ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá luôn chi phối độ lớn của các chỉ tiêu kinh doanh xuất khẩu. Bởi vậy, việc tuân thủ nguyên tắc ghi nhận chỉ tiêu kinh doanh có gốc phát sinh bằng ngoại tệ là cần thiết. Nguyên tắc kế toán các chỉ tiêu KD có gốc ngoại tệ được nêu rõ trong VAS 10 chủ yếu tại các đoạn 07, 08, 09, ... Trong đó, đối với những doanh nghiệp sử dụng tỷ giá hạch toán để ghi sổ như Công ty Cổ phần Dệt 10/10 cần tuân thủ các quy định: + Đối với tiền ngoại tệ, nợ phải thu, nợ phải trả, nợ vay có gốc ngoại tệ khi phát sinh được ghi sổ theo giá hạch toán. + Đối với doanh thu xuất khẩu, chi phí ngoại tệ cho xuất khẩu ... phải được quy đổi ra tiền VND và ghi sổ theo tỷ giá thực tế tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ hoặc tỷ giá giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. + Chênh lệch giữa tỷ giá hạch toán và tỷ giá thực tế được ghi thu, chi tài chính tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ. Cuối kỳ, kế toán điều chỉnh theo tỷ giá hối đoái cho tiền ngoại tê, nợ phải thu, phải trả có gốc ngoại tệ còn dư cuối năm ... Kế toán phản ánh doanh thu Nợ TK 635 - Lỗ chênh lệch tỷ giá Nợ TK 1112, 1122, 131 (tỷ giá hạch toán) Có TK 511 - Tỷ giá thực tế Có TK 515 – Lãi chênh lệch tỷ giá. Do đó, khi hạch toán ngoại tệ, Công ty nên ghi nhận doanh thu theo tỷ giá thực tế thời điểm phát sinh nghiệp vụ, chỉ có các khoản phải thu, tiền ngoại tệ ... được hạch toán theo tỷ giá hạch toán và được điều chỉnh vào thời điểm cuối kỳ. Hơn nữa, Công ty nên sử dụng các TK ngoài bảng, đặc biệt là TK 007 để phản ánh tình hình biến động nguyên tệ, đảm bảo phản ánh đúng tỷ giá ngoại tệ cũng như ghi nhận chính xác chi phí, doanh thu có được từ chênh lệch tỷ giá. Chẳng hạn như, trong nghiệp vụ xuất khẩu ngày 28/10/2008, đồng thời với bút toán ghi nhận giá vốn, kế toán nên phản ánh doanh thu xuất khẩu theo tỷ giá thực tế vào ngày 28/10/2008 (16.500 VND/USD): Nợ TK 131.1 : 35.990.041.600 (tỷ giá hạch toán) Nợ TK 635 : 1.124.688.800 Có TK 511.2 : 2,411 x 1.049.150 x 16.500 = 37.114.730.400 (tỷ giá thực tế) Đồng thời, kế toán ghi đơn : Nợ TK 007 – USD: 2.249.377,6. Cuối quý, kế toán chỉ phải điều chỉnh theo tỷ giá hối đoái cho tiền ngoại tệ, nợ phải thu, phải trả có gốc ngoại tệ cuối quý (hoặc cuối năm). Hạch toán nghiệp vụ xuất khẩu như vậy, Công ty vừa đảm bảo phản ánh doanh thu đúng giá trị vừa không vi phạm trong ghi nhận chênh lệch tỷ giá như một khoản điều chỉnh doanh thu. Ngoài ra, trong quá trình tiêu thụ theo hợp đồng xuất khẩu, khi xuất kho thành phẩm vận chuyển đến cảng Hải Phòng, kế toán Công ty Cổ phần Dệt 10/10 nên ghi nhận thành phẩm xuất kho ngay khi vừa xuất ra qua TK 157 – Hàng gửi bán sẽ đảm bảo việc hạch toán được chuẩn xác hơn. Tài khoản này dùng để phản ánh trị giá thành phẩm đã gửi hoặc chuyển đến cho khách hàng; thành phẩm gửi bán đại lý, ký gửi; sản phẩm chuyển cho đơn vị cấp dưới hạch toán phụ thuộc để bán; trị giá dịch vụ đã hoàn thành, bàn giao cho người đặt hàng, nhưng chưa được chấp thuận thanh toán. Thành phẩm phản ánh trên TK 157 vẫn thuộc quyền sở hữu của đơn vị, kế toán phải mở sổ chi tiết theo dõi từng loại thành phẩm, từng lần gửi hàng từ khi gửi đi cho đến khi xác định là đã bán. Nội dung phản ánh của tài khoản này như sau: Bên nợ: Trị giá thành phẩm đã gửi cho khách hàng nhưng chưa được ghi nhận doanh thu. Bên Có: - Trị giá thành phẩm gửi đi bán được được xác định là đã bán; - Trị giá hàng hóa, thành phẩm, dịch vụ đã gửi đi bị khách hàng trả lại; Số dư bên Nợ: Giá trị hàng gửi bán chưa được xác định là đã bán trong kỳ. Các bút toán ghi nhận việc xuất kho thành phẩm qua TK 157 được hạch toán như sau: Khi xuất kho thành phẩm cho mục đích xuất khẩu, căn cứ vào hợp đồng kinh tế, phiếu xuất kho, kế toán ghi: Nợ TK 157 - Hàng gửi đi bán      Có TK 155 - Thành phẩm. Khi thành phẩm được xác định là đã tiêu thụ (đã hoàn thành thủ tục xuất khẩu, hàng đã lên phương tiện chuyển chở), kế toán ghi nhận doanh thu: Nợ TK 131      Có TK 511.1 – Doanh thu xuất khẩu. đồng thời phản ánh trị giá vốn của số thành phẩm, dịch vụ đã bán trong kỳ: Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán      Có TK 157 - Hàng gửi đi bán. Tài khoản 157 cũng có thể được sử dụng để ghi nhận lượng hàng gửi bán cho các cửa hàng, siêu thị ... khi Công ty mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước sau này. Hoàn thiện kế toán các khoản giảm trừ doanh thu Trong quá trình sản xuất không thể tránh khỏi sai sót, vì thế, để mở rộng thị trường, thu hút khách hàng Công ty Cổ phần Dệt 10/10 nên sử dụng TK 521, TK 532 để hạch toán các khoản giảm trừ. Trong đó, Tài khoản 521 phản ánh khoản chiết khấu thương mại người mua được hưởng khi đã thực hiện trong kỳ theo đúng chính sách chiết khấu thương mại của doanh nghiệp đã quy định. Trường hợp người mua hàng nhiều lần mới đạt được lượng hàng mua được hưởng chiết khấu thì khoản chiết khấu thương mại này được ghi giảm trừ vào giá bán trên “Hoá đơn GTGT” hoặc “Hoá đơn bán hàng” lần cuối cùng. Nội dung phản ánh của tài khoản 521 như sau: Bên Nợ: Số chiết khấu thương mại đã chấp nhận thanh toán cho khách hàng. Bên Có: Cuối kỳ kế toán, kết chuyển toàn bộ số chiết khấu thương mại sang Tài khoản 511 để xác định doanh thu thuần của kỳ báo cáo. Tài khoản 521 - Chiết khấu thương mại, không có số dư cuối kỳ. TK 532 phản ánh khoản giảm giá hàng bán thực tế phát sinh và việc xử lý khoản giảm giá hàng bán trong kỳ và chỉ phản ánh các khoản giảm trừ do việc chấp thuận giảm giá sau khi đã bán hành và phát hành hoá đơn (Giảm giá ngoài hoá đơn) do hàng bán kém, mất phẩm chất. . . Bên Nợ: Các khoản giảm giá hàng bán đã chấp thuận cho người mua hàng do hàng bán kém, mất phẩm chất hoặc sai quy cách theo quy định trong hợp đồng kinh tế. Bên Có: Kết chuyển toàn bộ số tiền giảm giá hàng bán sang TK 511. Tài khoản 532 không có số dư cuối kỳ. Đến cuối kỳ, khoản chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán được kết chuyển toàn bộ sang TK 511 để xác định doanh thu thuần thực tế thực hiện Ngoài ra, phải theo dõi chi tiết chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán đã thực hiện cho từng khách hàng và từng loại thành phẩm. Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ phát sinh liên quan đến khoản chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán như sau: Phản ánh số chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán thực tế phát sinh trong kỳ, ghi: Nợ TK 521, 532 Nợ TK 3331 - Thuế GTGT được khấu trừ (33311) (Nếu có)      Có các TK 111, 112, 131,. . . Cuối kỳ, kết chuyển số chiết khấu thương mại. giảm giá hàng bán đã chấp thuận cho người mua phát sinh trong kỳ sang tài khoản doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, ghi: Nợ TK 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ      Có TK 521, 532. Đặc biệt, kế toán Công ty không được coi khoản chênh lệch giảm khi đánh giá lại tỷ giá hối đoái là một khoản giảm trừ doanh thu việc ghi nhận chênh lệch tỷ giá phải được thực hiện theo quy định tại Chuẩn mực kế toán VAS 10. Việc sử dụng các khoản giảm trừ doanh thu như trên không những tạo điều kiện cho khách hàng mua sản phẩm của Công ty, là biện pháp khuyến khích tiêu thụ mà còn phản ánh công tác kế toán tiêu thụ của Công ty được thiết lập hết sức đầy đủ đảm bảo cung cấp thông tin cho Ban giám đốc. Hoàn thiện kế toán kết quả tiêu thụ Đối với các khoản chi phí, Công ty nên theo dõi chi tiết hơn các khoản chi phí này. Chẳng hạn như, chi phí bán hàng có thể chi tiết thành: chi phí nhân viên bán hàng, chi phí bằng tiền khác ...; chi phí quản lý DN có thể chi tiết thành: chi phí khấu hao TSCĐ dùng cho bộ phận quản lý, chi phí dự phòng ... Khi đã chi tiết các khoản chi phí này, Công ty nên mở sổ theo dõi riêng từng loại chi phí; làm vậy, Công ty có thể biết được chi phí nào tăng nhiều nhất so với các năm trước để tiến hành điều chỉnh. Ngoài ra, để đảm bảo cung cấp thông tin cho Ban lãnh đạo, công tác kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ tại Công ty nên phân bổ chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp cho từng mặt hàng tiêu thụ hoặc từng thành phẩm tiêu thụ. Công việc này có thể được theo dõi chi tiết trên Bảng tổng hợp kết quả tiêu thụ. Sổ này sẽ theo dõi, tổng hợp doanh thu, giá vốn, chi phí chung (bao gồm chi phí bán hàng, chi phí quản lý) cho từng mã hàng tiêu thụ trong kỳ để từ đó xác định phần lợi nhuận gộp cho từng loại thành phẩm hoặc kế toán có thể xác định riêng cho từng thị trường để có kế hoạch phù hợp cho sự tăng trưởng của từng thị trường tiêu thụ. Trong đó, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp nên phân bổ theo chỉ tiêu một chỉ tiêu ổn định như giá vốn hàng bán (chỉ tiêu có tính ổn định phụ thuộc vào chi phí SX trong kỳ) không nên phân bổ theo doanh thu (bởi doanh thu tiêu thụ còn phụ thuộc nhiều vào thị trường). Biểu số 3 – 3: Bảng tổng hợp kết quả tiêu thụ. Đơn vị : Địa chỉ : BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ TIÊU THỤ Quý IV/ 2008 TT Loại hàng Đơn vị tính SL Giá vốn Doanh thu Thuế Giảm trừ DT Lãi gộp CP BH CP QLDN Lãi (lỗ) I. Màn XK ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... II. Màn nội địa ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... Tổng Hà Nội, ngày ... tháng ... năm Kế toán trưởng Chẳng hạn, cuối quý IV/2008, ta có thể xác định lãi lỗ của từng mặt hàng chủ đạo sau khi phân bổ chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp như sau: Chi phí bán hàng phân bổ cho các sản phẩm màn xuất khẩu: 4.878.322.440 = = 5.200.362.392 x 316.876.904.500 337.795.370.704 Chi phí bán hàng phân bổ cho các sản phẩm màn nội địa: = 5.200.362.392 - 4.878.322.440 = 1.539.500.079 Chi phí quản lý phân bổ cho các sản phẩm màn xuất khẩu: 4.143.483.649 = = 4.417.013.595 x 306.876.904.500 337.795.370.704 Chi phí quản lý phân bổ cho các sản phẩm màn nội địa = 4.417.013.595 - 4.143.483.649 = 404.289.986 Cuối quý, tiến hành vào Bảng tổng hợp kết quả tiêu thụ để xác định lãi lỗ từng loại mặt hàng. Lãi tiêu thụ màn xuất khẩu: = 336.890.634.192 - 316.876.904.500 - 4.878.322.440 - 4.143.483.649 = 10.991.923.603 VND Lãi tiêu thụ màn nội địa: = 24.255.364.856 - 20.918.466.204 - 1.539.500.079 - 404.289.986 = 2.741.328.754 VND. Như vậy, lãi từ hoạt động tiêu thụ nội đia tuy nhỏ nhưng so với tỷ lệ so với doanh thu tiêu thụ lại lớn (lãi tiêu thụ màn nội địa chiếm gần 12% doanh thu nội địa, trong khi đó, lãi từ thị trường xuất khẩu tuy lớn nhưng chỉ chiếm tỷ lệ gần 3,5% so với doanh thu tiêu thụ). Điều đó chứng tỏ việc phát triển thị trường tiêu thụ trong nước là một điều cần thiết để Công ty gia tăng lợi nhuận. Hoàn thiện công tác kế toán quản trị Kế toán quản trị là một bộ phận của bộ máy kế toán, cung cấp các thông tin nội bộ có giá trị cho Ban lãnh đạo. Tuy nhiên, hiện nay, tại Công ty Cổ phần Dệt 10/10, công tác kế toán quản trị chưa được coi trọng, hoạt động chưa hiệu quả. Công tác kế toán mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, chưa đi sâu và tại Công ty chưa có bộ phận kế toán quản trị riêng để có thể tham dự vào các quyết định kinh doanh. Đặc biêt, đối với phần hành tiêu thụ và kết quả tiêu thụ, nhiệm vụ của kế toán viên không chỉ phải theo dõi tình hình biến động doanh thu, chi phí trong kỳ mà còn phải phân tích các chỉ tiêu tương quan để từ đó, xác định được cơ cấu sản phẩm hợp lý, nhằm tăng doanh thu, giảm chi phí, tối đa hoá lợi nhuận. Chính việc không coi trọng công tác quản trị đã khiến vai trò tham mưu của bộ phận kế toán giảm đi rõ rệt. Bởi công tác kế toán quản trị có chức năng xác định các khoản chi phí, dựa trên việc phân chia định phí và biến phí để lập Báo cáo kế toán quản trị. Các báo cáo này được lập dựa trên các yếu tố doanh thu, biến phí, định phí giúp cho người quản lý thấy trước sự biến động của chi phí khi mức độ tiêu thụ thay đổi. Từ đó, nhà quản trị có thể lập các kế hoạch sản xuất, kiểm soát và điều tiết chi phí ... Vì lẽ đó, Công ty nên xây dựng và phát triển một bộ máy kế toán toàn diện bao hàm cả kế toán tài chính và kế toán quản trị góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. Cụ thể, trước hết, Công ty cần phân tích rõ những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ bao gồm: những nguyên nhân thuộc về khách hàng như: phong tục tập quán, thói quen, nhu cầu, mức thu nhập ... hoặc những nguyên nhân thuộc về doanh nghiệp như: thành phẩm dự trữ, chính sách giá, tổ chức thị trường ... Việc tìm hiểu những nguyên nhân trên không chỉ giúp cho Công ty có nhận ra những sai sót trong công tác tiêu thụ để có biện pháp cải thiện mà còn đêm lại khả năng chiếm lĩnh thị trường do nắm bắt được tâm lý khách hàng. Bên cạnh đó, để đánh giá khái quát tình hình tiêu thụ, Công ty cần sử dụng một số chỉ tiêu như: (1) 100% x = Hệ số tiêu thụ Doanh thu tiêu thụ thành phẩm Giá trị sản xuất Hệ số tiêu thụ phản ánh tình hình tiêu thụ so với kết quả sản xuất của doanh nghiệp. Hệ số tiêu thụ sản phẩm lớn hơn hoặc bằng 1 là biểu hiện tốt chứng tỏ nhịp điệu sản xuất phù hợp nhịp điệu tiêu thụ. Nói cách khác, sản xuất bao nhiêu tiêu thụ bấy nhiêu. Sản phẩm tiêu thụ nhanh chóng thúc đẩy sản xuất phát triển, sản phẩm sản xuất đảm bảo chất lượng, đáp ứng nhu cầu thị trường, giá thành hạ, giá bán đủ sức cạnh tranh trên thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tiêu thụ nhanh chóng. Tiêu thụ nhanh chóng với khối lượng lớn tạo điều kiện tăng doanh thu, lợi nhuận. Do đó, có thể nói, chỉ tiêu hệ số tiêu thụ là một công cụ hữu hiệu giúp Công ty đánh giá thực trạng tiêu thụ và sản xuất trong từng quý, từng năm. 100% x (2) = Tỷ suất Lợi nhuận gộp lợi nhuận gộp Doanh thu thuần Tỷ suất lợi nhuận gộp thể hiện tỷ lệ giữa doanh thu tiêu thụ và giá vốn thành phẩm xuất bán. Tỷ suất này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp đã có biện pháp giảm chi phí, tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ. Tỷ suất này cũng nên được tính riêng cho từng thành phẩm, từng thị trường để xác định được chính xác kết quả tiêu thụ từng mặt hàng, từ đó giúp đưa ra những biện pháp hợp lý nhất nhằm tăng doanh thu, lợi nhuận, tăng uy tín của doanh nghiệp. ************************ Tóm lại, phần 3 của chuyên đề với tiêu đề “Hoàn thiện kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ tại Công ty Cổ phần Dệt 10/10” đã nêu lên một số ưu điểm cũng như khuyết điểm trong quá trình hạch toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ tại Công ty Cổ phần Dệt 10/10. Những khuyết điểm có thể xuất phát từ nguyên nhân chủ quan nhưng cũng có khi lại do khách quan ảnh hưởng đến. Do đó, chuyên đề có đưa ra một số nhận xét và biện pháp hoàn thiện công tác kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ tại Công ty. Tuy để hoàn thiện được phần hành kế toán này là rất khó khăn đòi hỏi Công ty phải bỏ ra nhiều chi phí như: tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, phổ biến các văn bản pháp luật liên quan cho các nhân viên kế toán; mua phần mềm kế toán phù hợp với Công ty, hay khiến các kế toán viên phải thêm sổ sách, chứng từ ... nhưng đối với một Công ty đang hoạt động có hiệu quả, mức lợi nhuận cao như Công ty Cổ phần Dệt 10/10 thì việc tăng thêm chi phí hoàn thiện công tác kế toán là việc nên làm. Sự thay đổi này không chỉ giúp bộ máy kế toán đang hoạt động được hoàn thiện hơn qua đó cung cấp thông tin tài chính, kế toán được chính xác, nhanh chóng mà còn đảm bảo việc thực thi đúng pháp luật, chế độ, quy định kế toán ... KẾT LUẬN Từ trước đến nay, thông tin kế toán đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của tất cả các doanh nghiệp dù là doanh nghiệp sản xuất hay thương mại. Trong nền kinh tế có nhiều thay đổi như hiện nay, để hoà nhập, tồn tại và phát triển, việc cung cấp thông tin kinh tế, thông tin tài chính được cung cấp một cách chuẩn xác từ bộ phận kế toán càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, hoàn thiện bộ máy kế toán đặc biệt là công tác kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ sản phẩm không chỉ giúp các doanh nghiệp có thể tăng doanh thu, lợi nhuận, tiết kiệm chi phí mà còn đảm bảo có được định hướng phát triển trong tương lai phù hợp với tình hình thực tế. Do đó, để bộ máy kế toán nói chung kế toán phần hành tiêu thụ nói riêng có thể cung cấp các thông tin hữu ích một cách nhanh chóng, chính xác, đầy đủ việc hoàn thiện nó từ khâu tổ chức bộ máy cho đến khâu tổ chức hệ thống chứng từ, tài khoản, sổ sách, báo cáo này là điều cần thiết. Công ty Cổ phần Dệt 10/10 là một đơn vị hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng với một thị trường tiêu thụ rộng lớn. Bộ máy kế toán tại Công ty, công tác tổ chức kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ được thiết kế tương đối hoàn chỉnh, linh hoạt, dễ vận dụng nhưng vẫn bộc lộ một số nhược điểm vốn có. Trong thời gian thực tập tại Công ty, được sự giúp đỡ tận tình của cán bộ nhân viên Phòng Kế toán, em đã có điều kiện tìm hiểu về công tác kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ. Sau thời gian nghiên cứu, dựa trên những kiến thức đã học, qua quá trình phân tích thực trạng, em đã đưa ra một số nhận xét, kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán tiêu thụ và kết quả tiêu thụ tại Công ty. Do giới hạn về thời gian và trình độ, những nhận xét em đưa ra không thể tránh khỏi sai sót. Em mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô và nhân viên trong Công ty để đề tài được hoàn thiện hơn. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị trong phòng Kế toán, cán bộ công nhân viên trong Công ty Cổ phần Dệt 10/10 và PGS.TS. Nguyễn Văn Công đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong việc tìm hiểu, nghiên cứu đề tài, từ đó, giúp em có thể hoàn thành chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31424.doc
Tài liệu liên quan