Chuyên đề Hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Công Thương Sông Nhuệ

Trong thời gian thực tập, đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu về hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Sông Nhuệ, tôi đã nhận thức được vai trò của hoạt động bảo lãnh và tầm quan trọng của việc hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh đối với hệ thống ngân hàng cũng như nền kinh tế nước ta hiện nay. Bảo lãnh không chỉ mang lại doanh thu cho ngân hàng mà còn góp phần nâng cao uy tín của NHCT Sông Nhuệ và phát triển hơn nữa hoạt động kinh tế đối ngoại của ngân hàng. Trong các năm vừa qua NHCT Sông Nhuệ với khả năng và sự nỗ lực của mình đã đạt được những thành công đáng ghi nhận trong hoạt động bảo lãnh. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt động này cũng gặp phải không ít những khó khăn và hạn chế. Do vậy, việc phân tích và đánh giá một cách khách quan về thực trạng hoạt động bảo lãnh tại NHCT Sông Nhuệ là một việc làm hết sức cần thiết.

doc72 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Công Thương Sông Nhuệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n thực hiện quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành ngày 25/04/2001. Công văn số 1942/CV- NHCT5 của Tổng Giám Đốc NHCT Việt Nam sửa đổi văn bản hướng dẫn thực hiện quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm ban hành ngày 14/06/2002. Ngoài ra có thêm một số điểm khác áp dụng cho hệ thống Ngân hàng Công thương mà NHCT Sông Nhuệ cần phải thực hiện. Đó là : Điều kiện bảo lãnh Ngoài các điều kiện như trong quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 v/v thì NHCT Sông Nhuệ phải thực hiện thêm 2 điều kiện sau: - Khách hàng phải có trụ sở làm việc hoặc hộ khẩu cùng địa bàn tỉnh, thành phố với chi nhánh Ngân hàng Công thương bảo lãnh đóng trụ sở. Trường hợp khác phải được sự đồng ý của Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam. - Điều kiện với khách hàng đề nghị bảo lãnh là đơn vị hạch toán phụ thuộc của pháp nhân là doanh nghiệp Nhà nước + Đơn vị phụ thuộc phải có giấy uỷ quyền đề nghị được bảo lãnh và cam kết bảo lãnh của đơn vị chính. + Đơn vị chính có quan hệ tiền gửi, tín dụng trong hệ thống Ngân hàng Công thương. Chi nhánh Ngân hàng Công thương giao dịch với đơn vị chính phải có văn bản xác nhận về: số dư thực tế tiền gửi, tiền vay, bảo lãnh... Trường hợp khách hàng đề nghị được bảo lãnh là đơn vị hạch toán kinh tế phụ thuộc của pháp nhân không phải là doanh nghiệp Nhà nước; đơn vị chính là doanh nghiệp Nhà nước không có quan hệ tiền gửi, tiền vay trong hệ thống Ngân hàng Công thương, việc bảo lãnh phải có sự đồng ý của tổng giám đốc Ngân hàng Công thương. Đối tượng được bảo lãnh. NHCT Sông Nhuệ không nhận bảo lãnh cho Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Sở dĩ như vậy là do NHCT Sông Nhuệ chỉ là 1 chi nhánh của Ngân hàng Công thương Việt Nam chứ không phải là một Ngân hàng thương mại độc lập. Vì thế, xét cả về mặt luật pháp cũng như khả năng tài chính của NHCT Sông Nhuệ đều không đủ bảo lãnh cho các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác. Phí bảo lãnh Mức phí bảo lãnh do 2 bên thoả thuận, mức tối đa không quá 2%/ năm tính trên số tiền còn đang được bảo lãnh, mức phí tối thiểu là 300.000 đồng. Ngoài ra, có thể thanh toán một số chi phí hợp lý khác liên quan theo thoả thuận bằng văn bản của 2 bên. Dưới đây là mức phí cụ thể tại NHCT Sông Nhuệ. Biểu phí dịch vụ bảo lãnh trong nuớc Loại phí Mức tính phí Tối thiểu 1. Phát hành bảo lãnh 300.000d/lần - Phần giá trị bảo lãnh không có ký quỹ 2%/năm - Phần giá trị bảo lãnh có ký quỹ 1%/năm 2.Sửa đổi tăng tiền, gia hạn 100.000d/lần - Phần giá trị bảo lãnh không có ký quỹ 2%/năm - Phần giá trị bảo lãnh có ký quỹ 1%/năm 3.Sửa đổi khác 50.000d/lần 4.Huỷ bỏ bảo lãnh 200.000d/lần Các loại hình bảo lãnh đang được thực hiện ở NHCT Sông Nhuệ: - Bảo lãnh vay vốn. - Bảo lãnh thanh toán - Bảo lãnh dự thầu - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng - Bảo lãnh ứng trước - Bảo lãnh hoàn thanh toán - Các loại bảo lãnh khác. Các hình thức bảo lãnh. - Phát hành thư bảo lãnh, xác nhận bảo lãnh. Theo yêu cầu của khách hàng NHCT Sông Nhuệ có thể phát hành thư bảo lãnh, xác nhận bảo lãnh thông qua mạng truyền dữ liệu có ký hiệu mật. - Ký xác nhận bảo lãnh đối với các hối phiếu, lệnh phiếu. - Các hình thức khác theo qui định của pháp luật. Khi thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh, cán bộ ngân hàng cần đối chiếu và sử dụng các quyết định và công văn hướng dẫn trên nhằm đảm bảo hoạt động bảo lãnh được an toàn và hiệu quả. 2.2.1.2. Qui trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tại NHCT Sông Nhuệ Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ xin bảo lãnh Cán bộ bảo lãnh tiếp nhận hồ sơ đề nghị bảo lãnh của khách hàng, kiểm tra và yêu cầu khách hàng bổ sung những hồ sơ còn thiếu. bộ hồ sơ đầy đủ gồm: - Đơn đề nghị bảo lãnh theo mẫu. - Hồ sơ về tư cách pháp nhân, năng lực pháp lý và báo cáo tài chính. - Các hồ sơ có liên quan đến phương án đề nghị bảo lãnh. - Hồ sơ tài sản đảm bảo (nếu có). Bước 2: Thẩm định hồ sơ xin bảo lãnh Thẩm định khách hàng gồm: - Có đầy đủ pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự - Tình hình tài chính lành mạnh - Mục đích đề nghị bảo lãnh hợp pháp - Phải mở tài khoản giao dịch tại NHCT Sông Nhuệ. - Không có nợ quá hạn khó đòi - Có tài sản đảm bảo hợp pháp Thẩm định về phương án phát hành thư bảo lãnh - Thẩm định năng lực của khách hàng trong lĩnh vực đề nghị bảo lãnh - Mức độ rủi ro có khả năng dẫn đến việc NHCT Sông Nhuệ phải trả thay bảo lãnh. Báo cáo thẩm định trình lên cấp có thẩm quyền phê duyệt phải gồm: loại thư bảo lãnh, giá trị thư bảo lãnh, thời hạn bảo lãnh, người thụ hưởng bảo lãnh, đề xuất mức ký quỹ, các loại phí liên quan đến bảo lãnh, tài sản đảm bảo, các điều kiện khác có liên quan. Bước 3: Ra quyết định bảo lãnh và chọn hình thức phát hành bảo lãnh Thông thường, giám đốc là người được uỷ quyền ra quyết định bảo lãnh. sau khi xem xét và đánh giá báo cáo thẩm định, nếu giám đốc đồng ý bảo lãnh, giám đốc sẽ ghi rõ nội dung đồng ý bảo lãnh, các điều kiện kèm theo, ghi rõ ngày tháng, ký tên và trả hồ sơ về phòng bảo lãnh để thực hiện. Nếu giám đốc không đồng ý cũng ghi rõ nội dung, ký tên, ghi ngày tháng và trả hồ sơ về phòng bảo lãnh. Trường hợp tái thẩm định hoặc thẩm định thông qua hội đồng, giám đốc chi nhánh vẫn phải trình lên trung ương trước khi quyết định. Theo yêu cầu của khách hàng, ngân hàng sẽ chọn hình thức bảo lãnh phù hợp hoặc cũng có thể khách hàng lựa chọn hình thức bảo lãnh trước khi thông qua đơn xin bảo lãnh như đơn xin bảo lãnh tiền ứng trước, đơn xin bảo lãnh dự thầu... sau khi đã thống nhất, ngân hàng sẽ tiến hành bước tiếp theo Bước 4: Thực hiện quyết định bảo lãnh - Trong trường hợp ngân hàng từ chối bảo lãnh, cán bộ tín dụng sẽ gửi thông báo đã kiểm tra của trưởng phòng và chữ ký của giám đốc cho khách hàng, trong đó ghi rõ lý do từ chối và kèm theo hồ sơ trả lại khách hàng. - Trong trường hợp ngân hàng đồng ý bảo lãnh, cán bộ nghiệp vụ sẽ thảo hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng cầm cố hoặc thế chấp (nếu có), các giấy tờ kèm theo. Sau khi trưởng phòng duyệt ký các hợp đồng này được giám đốc ra quyết định bảo lãnh, ký tên, đóng dấu. Cán bộ sẽ gửi hồ sơ giấy tờ đến những đối tượng sau: + Khách hàng: hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng cầm cố thế chấp cùng biên bản thẩm định tài sản (nếu có). Sau khi khách hàng đã ký và đóng dấu, ngân hàng giữ lại một bản hợp đồng và tiến hành hạch toán + Người thụ hưởng: thư bảo lãnh + Bộ phận kế toán: phiếu ghi nợ - có sau khi hạch toán số dư bảo lãnh để bộ phận kế toán theo dõi ngoại bảng, biên bản định giá tài sản đảm bảo (nếu có). + Phòng bảo lãnh: tất cả hồ sơ giấy tờ có liên quan đến lưu giữ và bảo quản. + Hội đồng thẩm định (nếu thực hiện thẩm định) cán bộ phải sao hồ sơ cho các thành viên của hội đồng. Bước 5: Sau ký kết hợp đồng - Ngân hàng tiến hành thu phí của khách hàng theo phí quy định trong hợp đồng và chuyển hoá đơn thu phí cho bộ phận kế toán - Khi bên nhận bảo lãnh có điện hoặc văn bản yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh kèm theo các bằng chứng chứng minh khách hàng có vi phạm hợp đồng. Ngân hàng sẽ thẩm định, nếu không hợp lý, hợp lệ ngân hàng sẽ từ chối bằng văn bản hoặc điện nêu rõ lý do. nếu giấy tờ phù hợp ngân hàng sẽ thanh toán lập tức trong hai trường hợp: +Trích từ quỹ hoặc tài khoản tiền gửi để trả cho bên thụ hưởng bảo lãnh. + Nếu bên yêu cầu bảo lãnh không có khả năng trả nợ ngay hoặc chỉ trả được một phần, ngân hàng sẽ ghi nợ số tiền trả thay cho khách hàng và áp dụng mức lãi suất phạt dành cho nợ quá hạn thông thường là 150% đối với lãi suất ngắn hạn tại ngân hàng. Bước 6: Kết thúc bảo lãnh Sau khi khách hàng đã hoàn tất các nghĩa vụ theo hợp đồng bảo lãnh, ngân hàng bảo lãnh thông báo thanh lý hợp đồng bảo lãnh cho khách hàng. Đồng thời thông báo với các bộ phận có liên quan để xuất toán số dư bảo lãnh, giải toả tài khoản ký quỹ và tài sản bảo đảm bảo lãnh, xử lý các vấn đề có liên quan khác và tiến hành lưu giữ hồ sơ bảo lãnh của khách hàng 2.2.2. Tình hình bảo lãnh tại NHCT Sông Nhuệ Mặc dù mới được chuyển đổi thành chi nhánh cấp 1 trực thuộc NHCT Việt Nam được gần 1 năm nhưng NHCT Sông Nhuệ đã đạt được những bước tiến rõ rệt. Hoạt động kinh doanh của chi nhánh đang dần ổn định và có những sự tăng trưởng lạc quan. Nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng cũng không phải là một ngoại lệ. Với sự phát triển ấn tượng về doanh số trong năm vừa qua, bảo lãnh đã trở thành một dịch vụ quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Bên cạnh đó chất lượng của hoạt động bảo lãnh cũng ngày một cải thiện cải thiện và nâng cao. Hoạt động bảo lãnh đạt hiệu quả còn khiến uy tín, sức cạnh tranh của NHCT Sông Nhuệ trên thị trường được nâng lên, tác động tích cực đến những hoạt động khác của ngân hàng. Để minh chứng cho những nhận định trên, ta có thể phân tích cụ thể hoạt động bảo lãnh của NHCT Sông Nhuệ trong thời gian gần đây qua các bảng số liệu sau: Bảng 1: Bảng qui mô bảo lãnh tại Ngân hàng Công thương Sông Nhuệ Đơn vị: Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2004 +/- % 2005 +/- % 2006 +/- % Doanh số BL 28.441 9.500 -66.6 30.550 +320 Số món BL 92 35 65 Nguồn: Báo cáo hoạt động bảo lãnh NHCT Sông Nhuệ các năm Năm 2004 được đánh giá là một năm khá thành công của dịch vụ bảo lãnh tại NHCT Sông Nhuệ với doanh số lên tới 28.441 triệu đồng cho 92 món vay. Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng có được kết quả tốt như trên là vì trong năm 2004 nhu cầu đầu tư của nền kinh tế tăng mạnh, các doanh nghiệp ký kết nhiều hợp đồng, tham gia đấu thầu nhiều dự án dẫn tới nhu cầu bảo lãnh tăng cao. Sang năm 2005, doanh số bảo lãnh bất ngờ có sự sụt giảm đáng ngạc nhiên. Chỉ trong vòng 1 năm mà doanh số dịch vụ bảo lãnh tại NHCT Sông Nhuệ đã sụt giảm tới 66,6 %, chỉ đạt một con số khiêm tốn là 9.500 triệu đồng cho 35 món. Sở dĩ có sự sụt giảm đột ngột đó là vì: -Tình hình kinh tế thế giới năm 2005 có nhiều bất ổn, giá dầu và giá vàng liên tục thay đổi dẫn tới sự biến động của các đồng tiền chủ chốt. Bên cạnh đó, tình hình trong nước có nhiều khó khăn, dịch cúm gia cầm tái phát trên phạm vi rộng, sức ép lạm phát ở nhiều loại vật tư hàng hoá, khiến cho một số ngành sản xuất kinh doanh không đạt hiệu quả như dự tính và do vậy không đáp ứng được các điều kiện bảo lãnh của ngân hàng. -NHCT Sông Nhuệ vào thời điểm đó cũng bắt đầu thận trọng và khắt khe hơn trong việc đánh giá và lựa chọn doanh nghiệp đề nghị xin bảo lãnh, nhất là đối với các doanh nghiệp quốc doanh. Ngân hàng đã hạn chế và giảm dần hạn mức tín dụng với một số doanh nghiệp trong ngành giao thông vận tải và xây dựng. Trong khi đó, phạm vi khách hàng của Ngân hàng vẫn chưa được mở rộng và đa dạng hóa mà vẫn chủ yếu tập trung vào tổng công ty nhà nước. Tuy nhiên, sang tới năm 2006, dịch vụ bảo lãnh của NHCT Sông Nhuệ đã có bước tăng trưởng ngoạn mục, mức tăng trưởng lên tới 320% đưa doanh số bảo lãnh lên con số 30.550 triệu đồng . Vượt qua cả thành tích của năm 2004. Nguyên nhân dẫn tới sự phục hổi mạnh mẽ của dịch vụ bảo lãnh là do uy tín vủa ngân hàng ngày càng được khẳng định khi chuyển đổi thành chi nhánh cấp 1 và thu hút được nhiều khách hàng với những món bảo lãnh lớn. Ngân hàng đạt được thành quả như vậy không thể không nói tới sự cố gắng nỗ lực của mọi bộ phận trong chi nhánh nhằm đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh, hợp lý đến mức tối đa mức phí bảo lãnh, giữ gìn tốt mối quan hệ với khách hàng cũ cũng như khai thác được nhu cầu bảo lãnh của các khách hàng tiềm năng. Bên cạnh đó cũng phải kể đến sự phát triển ổn định của nền kinh tế nước nhà cũng như thế giới trong năm qua cũng đã góp phần đáng kể tạo nên một môi trường kinh doanh thuận lợi cho ngân hàng. Một thành công nữa cũng hết sức đáng ghi nhận, đó là trong ba năm qua, NHCT Sông Nhuệ không phải thực hiện nghĩa vụ tài chính thay khách hàng, nghĩa là không phải trả thay khách hàng cho một khoản bảo lãnh nào. Đó là kết quả của công tác thẩm định đúng đắn của các cán bộ tín dụng NHCT Sông Nhuệ. Vì thế, khách hàng của ngân hàng chủ yếu những doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, dự án đầu tư hiệu quả, đáp ứng đầy đủ điều kiện đảm bảo và có uy tín tốt trên thị trường. Bảng 2: Tình hình thực hiện bảo lãnh phân theo mục đích bảo lãnh. Đơn vị: Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Số món Số tiền % Số món Số tiền % Số món Số tiền % BL dự thầu 58 6285,5 21,1 14 1634,0 17,2 28 3971,5 13,0 BL thực hiện HĐ 19 9044,2 31,8 7 3325,0 35,0 14 10234,3 33,5 BL thanh toán 13 6370,4 22,4 8 4579,0 48,2 16 12831,0 42 BL tiền ứng trước 3 938,5 3,3 3 199,5 2,1 3 458,3 1,5 BL khác 7 6086.4 21,4 3 1890.5 19,9 4 3055,0 10 Tổng 92 28.441 100 35 9.500 100 65 30.550 100 Nguồn: Báo cáo hoạt động bảo lãnh NHCT Sông Nhuệ các năm Dựa vào bảng cơ cấu doanh số bảo lãnh phân theo mục đích ta có thể dễ dàng nhận thấy dịch vụ bảo lãnh tại NHCT Sông Nhuệ chỉ tập trung chủ yếu vào 3 loại hình chính là : bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng và bảo lãnh thanh toán. Ba loại bảo lãnh này chiếm trên 75% tổng doanh số bảo lãnh qua các năm. Trong khi đó, bảo lãnh ứng trước rất ít và còn lại là một số bảo lãnh khác như bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm, đồng bảo lãnh… Cơ cấu bảo lãnh của NHCT Sông Nhuệ có sự phân chia tương đối rõ rệt như trên là trong những năm gần đây có rất nhiều dự án lớn của chính phủ được mang ra đấu thầu, hơn nữa một quyết định mới của Chính Phủ yêu cầu những người tham gia đấu thầu đều phải có bảo lãnh dự thầu khiến cho doanh số của bảo lãnh dự thầu luôn chiếm một phần đáng kể trong tổng doanh số. Đó là 21,1% trong năm 2004, 17,2% năm 2005 và 13% vào năm 2006. Bên cạnh đó, bảo lãnh thực hiện hợp đồng cũng đóng một phần quan trọng trong cơ cấu bảo lãnh của ngân hàng. Đặc biệt là trong những năm gần đây, do hiệu ứng của toàn cầu hoá và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp có cơ hội tìm kiếm được nhiều hợp đồng thương mại trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Điều đó tất yếu làm gia tăng nhu cầu cho dịch vụ bảo lãnh thực hiện hợp đồng và thực tế đã chứng minh đúng như vậy. Tỷ trọng doanh số bảo lãnh thực hiện hợp đồng luôn tăng đều đặn trong 3 năm vừa qua. Năm 2004 là 31,8% (ứng với 9044,2 triệu đồng ), năm 2005 là 35% (3325,0 triệu đồng) còn năm 2006 là 33,5% (10234,3 triệu đồng ). Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu bảo lãnh của NHCT Sông Nhuệ trong 2 năm gần đây là loại hình Bảo lãnh thanh toán, đạt 48,2 % vào năm 2005 và 42% trong năm 2006. Mặc dù doanh số tuyệt đối có giảm vào năm 2005 ( từ 6370,4 triệu đồng của năm 2004 xuống 4579,0 triệu đồng trong năm 2005) nhưng đã tăng mạnh trở lại vào năm 2006 đạt mức 12831,0 triệu đồng . Bảng 3: Tình hình thực hiện bảo lãnh phân theo thời hạn bảo lãnh. Đơn vị: Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Số món Số tiền % Số món Số tiền % Số món Số tiền % BL ngắn hạn 87 24914,3 87,6 32 7932,5 83,5 63 24165,1 79,1 BL trung&dài hạn 5 3526,7 12,4 3 1567.5 16,5 4 6384,9 20,9 Tổng 92 28.441 100 35 9.500 100 65 30.550 100 Nguồn: Báo cáo hoạt động bảo lãnh NHCT Sông Nhuệ các năm Qua bảng số liệu trên ta nhận thấy rằng, dịch vụ bảo lãnh chủ của NHCT Sông Nhuệ chủ yếu tập trung vào loại hình bảo lãnh ngắn hạn. Sự mất cân đối về mặt kỳ hạn trong dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng là rất lớn. Năm 2004 bảo lãnh ngắn hạn chiếm 87,6% (tương đương 546,208 triệu đồng ), năm 2005 chiếm 83,5% (637,738 triệu đồng), và năm 2006 là 79,1% ( 24165,1 triệu đồng) . Có sự chênh lệch đó là do: bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ tuy đã được áp dụng ở Việt Nam từ hơn 10 năm nay nhưng vẫn còn tương đối mới mẻ không đối với các doanh nghiệp mà còn với chính cả các ngân hàng thương mại. Chính vì ít có kinh nghiệm trong hoạt động này nên đối với NHCT Sông Nhuệ dịch vụ bảo lãnh luôn hàm chứa khá nhiều rủi ro. Do vậy NHCT Sông Nhuệ nói riêng và các NHTM nói chung vẫn chủ yếu cung cấp loại hình bảo lãnh ngắn hạn cho doanh nghiệp nhằm hạn chể rủi ro và họ còn tương đối dè dặt trong việc thực hiện bảo lãnh dài hạn. Mặc dù vậy, loại hình bảo lãnh dài hạn đã liên tục có bước chuyển biến tích cực trong những năm vừa qua. Tỷ trọng bảo lãnh dài hạn trong cơ cấu doanh số bảo lãnh đã tăng đều đặn từ năm 2004 đến năm 2006 với các mức tăng là 4,1% và 4,4 % ( từ 12,4% năm 2004 lên 16,5% năm 2005 và 2006 là 20,9% ). Điều đó cho thấy rằng NHCT Sông Nhuệ đã bắt đầu quan tâm tới nhu cầu vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp và đáp ứng được phần nào các nhu cầu tiềm năng đó qua hoạt động bảo lãnh của mình. Bảng 4: Bảng kết cấu bảo lãnh phân theo đối tượng bảo lãnh Đơn vị: Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Số món Số tiền % Số món Số tiền % Số món Số tiền % DN quốc doanh 84 26791,4 94,2 26 8388,5 88,3 46 24776,1 81,1 DN ngoài QD 8 1649,6 5,8 9 1111,5 11,7 19 5773,9 18,9 Tổng 92 28.441 100 35 9.500 100 65 30.550 100 Nguồn: Báo cáo hoạt động bảo lãnh NHCT Sông Nhuệ các năm Khách hàng của Ngân hảng NHCT Sông Nhuệ chủ yếu là các tổng công ty, doanh nghiệp Nhà nước, ngoài ra còn có một số doanh nghiệp cổ phần, tư nhân. Do vậy, doanh số bảo lãnh qua các năm đối với doanh nghiệp quốc doanh đạt chiếm tỷ trọng cao, luôn chiếm trên 80% trong tổng doanh số trong 3 năm vừa qua. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên vì NHCT Sông Nhuệ là một ngân hàng quốc doanh và những DN nhà nước khi quan hệ giao dịch với ngân hàng luôn được nhưng ưu đãi nhất định. Đây cũng là một tình trạng chung của hầu hết các Ngân hàng thương mại Việt Nam, đặc biệt là các NHTM quốc doanh. Nguyên nhân của tình trạng nói trên không chỉ đến từ phía ngân hàng mà còn do chính các doanh nghiệp. Trong thời gian vừa qua có nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm ăn gian lận dẫn tới các vụ đổ vỡ như Epco Minh Phụng, Tân Trường Sanh… mà hậu quả không ai khác chính là các ngân hàng phải gánh chịu. Điều này gây ra sự mất lòng tin của các ngân hàng nói chung và NHCT Sông Nhuệ nói riêng với đối tượng khách hàng này. Các ngân hàng đều ý thức rằng quan hệ với doanh nghiệp quốc doanh ít nhất còn đuợc sự đảm bảo đằng sau của Nhà nước còn với doanh nghiệp ngoài quốc doanh độ rủi ro quá lớn. Vô hình trung, điều kiện bảo lãnh mà ngân hàng đặt ra cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng khắt khe hơn so doanh nghiệp Nhà nước. Và hệ quả là, doanh số bảo lãnh từ khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp nhà nước mặc dù nhu cầu của họ đối với loại hình dịch vụ tiên tiến này là không hề thua kém. Tuy vậy trong điểm hiện nay cũng như thời gian tới, có một xu hướng không thể đảo ngược đó là sự gia tăng của thành phần kinh tế tư nhân trong khi khối kinh tế quốc doanh sẽ bị thu hẹp lại. Nhận thức được điều này, thời gian gần đây NHCT Sông Nhuệ mặc dù vẫn xác định vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước nhưng sẵn sàng hỗ trợ cho mọi thành phần kinh tế phát triển, bằng việc mở rộng bảo lãnh đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với các điều kiện bảo lãnh thông thoáng hơn góp phần thúc đẩy sự phát triển đồng bộ, cân đối của nền kinh tế. Bảng 5: Tình hình bảo đảm của bên được bảo lãnh Đơn vị : Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Số món Số tiền % Số món Số tiền % Số món Số tiền % Có bảo đảm 26 6143,3 21,6 10 3182,5 33,5 20 11364,6 37,2 Không bảo đảm 66 22297,7 78,4 25 6317,5 66,5 45 19185,4 62,8 Tổng 92 28.441 100 35 9.500 100 65 30.550 100 Nguồn: Báo cáo hoạt động bảo lãnh NHCT Sông Nhuệ các năm Từ bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng phần lớn trong 3 năm qua ngân hàng ít khi yêu cầu các khách hàng của mình phải có hình thức đảm bảo khi cung cấp cho họ dịch vụ bảo lãnh. Tỷ trọng doanh số bảo lãnh không có hình thức đảm bảo luôn cao hơn gấp 2 lần loại có đảm bảo. Thực trạng như vậy không phải do NHCT Sông Nhuệ cố tình nới lỏng qui định về tài sản đảm bảo trong bảo lãnh để thu hút được nhiều khách hàng mà bởi vì, các khách hàng chính sử dụng dịch vụ bảo lãnh của NHCT Sông Nhuệ hầu hết đều là những khách hàng quen thuộc, đã từng giao dịch với ngân hàng trong thời gian dài. Họ đều là những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh, hoạt động có hiệu quả và rất uy tín khi quan hệ với ngân hàng. Do vậy với những đối tượng này NHCT Sông Nhuệ không nhất thiết phải sử dụng các hình thức đảm bảo để duy trì mối quan hệ với khách hàng trong khi đó ngân hàng vẫn bảo đảm được sự an toàn trong hoạt động của mình. Trong những năm gần đây NHCT Sông Nhuệ liên tục củng cố sự an toàn trong hoạt động kinh doanh của mình. Điều đó được thể hiện bằng việc tỷ lệ các khoản bảo lãnh có đảm bảo tăng liên tục trong 3 năm qua. Đây chính là một bước đi đúng đắn giúp ngân hàng lành mạnh hóa hợp đồng kinh doanh của mình để có được sự phát triển bền vững trong thời gian tới. Bảng 6: Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh Đơn vị: Triệu đồng Chi tiêu 2004 2005 2006 Doanh thu từ bảo lãnh 310,1 145,3 390,7 Tỷ lệ DTBL/DT dịch vụ (%) 24,2 15,6 22,8 Tỷ lệ DTBL/ Tổng DT (%) 2,1 1,4 2,3 Nguồn: Báo cáo hoạt động bảo lãnh NHCT Sông Nhuệ các năm Qua bảng trên cho thấy, doanh thu (phí thu được) từ dịch vụ bảo lãnh còn chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn trong tổng thu dịch vụ. Điều này cũng là dễ hiểu bởi vì các dịch vụ chủ yếu của ngân hàng như dịch vụ thanh toán, chuyển tiền là các dịch vụ truyền thống mang lại thu nhập dịch vụ chủ yếu, trong khi đó bảo lãnh mới chỉ được ngân hàng cũng như khách hàng quan tâm và sử dụng mấy năm gần đây. Tuy tỷ trọng phí thu được từ dịch vụ bảo lãnh so với doanh thu dịch vụ và tổng doanh thu là không lớn nhưng lại mang nhiều tín hiệu tích cực. Thứ nhất, doanh thu từ bảo lãnh sẽ làm tăng lệ thu từ dịch vụ trong doanh thu của ngân hàng. Giúp ngân hàng bớt phải lệ thuộc vào những loại hình kinh doanh truyền thống như cho vay,..Thực hiện tốt việc này sẽ giúp NHCT Sông Nhuệ dần chuyển mình sang mô hình kinh doanh của một ngân hàng thương mại hiện đại. Bên cạnh đó, việc tiến hành bảo lãnh không chỉ đem lại thu nhập cho ngân hàng mà còn giúp ngân hàng phát triển các hoạt động khác. Nhiều khách hàng được ngân hàng cung cấp dịch vụ bảo lãnh sẽ chuyển tiền thanh toán giao dịch qua tài khoản của họ tại ngân hàng, do vậy ngân hàng có thể huy động thêm nguồn tiền gửi lớn. 2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Công thương Sông Nhuệ 2.3.1. Những thành tựu đạt được Từ những phân tích trên đây, ta có thể thấy mặc dù mới được chuyển đổi từ chi nhánh cấp 2 lên thành chi nhánh cấp 1 song với định hướng đúng đắn với những nổ lực của cán bộ ngân hàng, hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh đã đạt được những kết quả nhất định. Hoạt động bảo lãnh giúp mở rộng mối quan hệ với khách hàng, nâng cao uy tín ngân hàng trên thị trường. Do đó, Ngân hàng ngày càng thu hút được nhiều khách hàng tới sử dụng dịch vụ của mình. Điều đó đã thể hiện vai trò ngày càng cao của dịch vụ bảo lãnh trong hoạt động của ngân hàng. Tính an toàn trong hoạt động bảo lãnh vẫn được đảm bảo. Mặc dù trong những năm qua dư nợ bảo lãnh giảm xuống, nhưng trong ba năm qua ngân hàng không phải thực hiện việc trả thay khách hàng, thực hiện nghĩa vụ tài chính thay khách hàng. Do vậy không để lại những khoản tín dụng bắt buộc và không gây ảnh hưởng kết quả kinh doanh của ngân hàng. NHCT Sông Nhuệ đã góp phần đáp ứng nhu cầu vốn của của các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp thêm một hình thức tài trợ vốn hiệu quả , hơn nữa lại còn có chức năng bồi hoàn và đôn đốc thực hiện hợp đồng. 2.3.3. Những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động bảo lãnh tại NHCT Sông Nhuệ Hiện nay nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp là rất lớn và đa dạng. Bên cạnh những hoạt động tín dụng truyền thống, hoạt động bảo lãnh cũng là một kênh tài trợ quan trọng cho các doanh nghiệp. Nhưng cho đến nay doanh số hoạt động bảo lãnh của NHCT Sông Nhuệ nói riêng và của hệ thống Ngân hàng nói chung còn thấp, chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu trong nền kinh tế. Mặc dù doanh thu từ hoạt động bảo lãnh vẫn đang có dấu hiệu tăng trưởng, song tốc độ tăng trưởng trong những năm qua không ổn định, có năm còn bị giảm sút nghiêm trọng. Thu nhập từ bảo lãnh còn thấp ,chiếm tỷ trọng nhỏ trong doanh thu dịch cũng như trong tổng doanh thu của ngân hàng. Mạng lưới kinh doanh và quy mô hoạt động của NHCT Sông Nhuệ còn hẹp. NHCT Sông Nhuệ thường chỉ thực hiện bảo lãnh đối với những đơn vị nằm trên địa bàn của khu vực mình, mặc dù có mở rộng ra bên ngoài nhưng chưa sâu sát và còn ít, chưa tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế của khu vực. Chất lượng công tác thẩm định tuy đã được cải thiện nhưng không phải không còn những bất cập và yếu kém. Phương pháp thẩm định đã cũ, việc thẩm định dự án phải dựa nhiều vào kinh nghiệm của cán bộ bảo lãnh, mà kinh nghiệm thì không thể tránh khỏi sai sót. Ngoài ra công nghệ mới đưa vào áp dụng trong nghiệp vụ bảo lãnh không thể tránh khỏi những bỡ ngỡ. Một số chương trình còn chưa hoàn thiện, chạy có lỗi gây ảnh hưởng đến công việc của cán bộ nghiệp vụ. Sự mất cân đối trong cơ cấu bảo lãnh. Những khoản bảo lãnh có giá trị lớn của ngân hàng tập trung chủ yếu ở nhóm khách hàng truyền thống, là những tổng công ty nhà nước lớn và có uy tín trên thị trường. Điều này, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng và đáp ứng được mục tiêu an toàn nhưng lại hạn chế khả năng mở rộng tìm kiếm và phát triển khách hàng của ngân hàng. Mặt khác, còn có sự mất cân đối giữa bảo lãnh ngắn hạn và bảo lãnh trung, dài hạn, bảo lãnh ngắn hạn chiếm tới xấp xỉ 90% tổng tất cả các loại bảo lãnh. Bên cạnh đó, hiện nay tại NHCT Sông Nhuệ ít khi thực hiện bảo lãnh nước ngoài và các loại hình bảo lãnh đều được thực hiện dưới hình thức phát hành thư bảo lãnh. Nguyên nhân là do những đối tượng khách hàng NHCT Sông Nhuệ ít khi có nhu cầu sử dụng bảo lãnh nước ngoài và Ngân hàng vẫn chưa có uy tín trên thị trường quốc tế. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc tuy đã được trang bị khá, song cũng cần phải được mở rộng thêm, đặc biệt là hệ thống nối mạng, giao dịch thanh toán với khách hàng có tốc độ đáp ứng nhanh quy mô hoạt động lớn. 2.3.4. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế 2.3.4.1. Nguyên nhân khách quan Môi trường kinh tế : Môi trường kinh tế trong ba năm qua có nhiều biến động phức tạp không chỉ trong nước mà còn trên thị trường quốc tế, Sự biến động của các đồng tiền mạnh, tình hình trong nước cũng gặp nhiều khó khăn; nạn dịch cúm gia cầm, thiên tai lũ lụt; giá cả leo thang …Bên cạnh đó là sự biến động về lãi suất, lạm phát và các chính sách về tỷ giá, tình hình cạnh tranh lãi suất nóng bỏng giữa các ngân hàng, đã ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của các thành phần kinh tế, trong đó có các doanh nghiệp ký hợp đồng bảo lãnh với ngân hàng mà đặc biệt là các doanh nghiệp xây dựng, giao thông với nhiều vụ việc bê bối bị phanh phui. Chính những lý do đó làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả của các dự án đầu tư bị giảm sút. Môi trường pháp lý: Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật cho nghiệp vụ bảo lãnh chưa hoàn chỉnh. Việt Nam chưa có luật dành riêng cho bảo lãnh. Vì vậy mà hoạt động bảo lãnh phải chịu sự điều chỉnh của các văn bản dưới luật mà các văn bản này phải thường xuyên thay đổi cho phù hợp với yêu cầu thực tế nên dẫn đến những bất cập trong việc thực thi. Chính sách, kế hoạch phát triển: Hiện nay tất cả các hoạt động tại chi nhánh đều thực hiện theo kế hoạch do NHCT Việt Nam đưa ra. Hoạt động bảo lãnh cũng không phải là một ngoại lệ, chỉ dựa trên những mục tiêu chiến lược chung và những chỉ tiêu do NHCT Việt Nam giao cho chi nhánh cho cả một giai đoạn, một thời kỳ. Với cách thức quản lý như vậy rất cứng nhắc, thiếu linh hoạt và không phát huy được tính tự chủ của chi nhánh. Nguyên nhân từ phía khách hàng : Trên thị trường có rất nhiều các doanh nghiệp muốn xin bảo lãnh của ngân hàng nhưng số doanh nghiệp có năng lực tài chính tốt, phương án sản xuất kinh doanh khả thi thì không nhiều. Điều đó tạo ra một áp lực lớn đối với ngân hàng khi thẩm định để ra quyết định có bảo lãnh hay không. 2.3.4.2. Nguyên nhân chủ quan Vốn tự có của ngân hàng còn nhỏ. Trong khi đó, điều kiện tổng dư nợ cho vay và bảo lãnh đối với một khách hàng là quy mô bảo lãnh thường phụ thuộc vào mức ủy quyền phán quyết của tổng giám đốc cho các giám đốc của các chi nhánh các cấp. Do vậy, khi khách hàng có nhu cầu đầu tư cho những dự án lớn thì ngân hàng không thể một mình đáp ứng nhu cầu bảo lãnh. Mà nếu chờ để được NHCT Việt Nam cho phép thì sẽ bị lỡ mất cơ hội kinh doanh của ngân hàng cũng như khách hàng. Vì thế, NHCT Sông Nhuệ sẽ phải dùng biện pháp mời các ngân hàng cùng tham gia đồng bảo lãnh. Mặc dù vậy, sự phối hợp giữa các ngân hàng không phải khi nào cũng được nhịp nhàng và thống nhất. Trên thực tế, mặc dù đa số cán bộ của NHCT Sông Nhuệ là có trình độ đại học trở lên và thường xuyên được đào tạo nhưng trình độ thẩm định dự án vẫn chưa cao, chưa đủ sức đáp ứng được hết những đòi hỏi khắt khe của thị trường. Trình độ ngoại ngữ, khả năng soạn thảo các điều khoản của bảo lãnh khi phát hành bảo lãnh còn chưa rõ ràng, chuẩn xác. Công tác Marketing để thu hút những khách hàng mới còn rất hạn chế. Ngân hàng chủ yếu thụ động chờ khách hàng tìm đến mình chứ chưa thực sự đưa ra được chiến lược Marketing cụ thể nhằm mở rộng phạm vi hoạt động nghiệp vụ bảo lãnh. CHƯƠNG 3 HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG SÔNG NHUỆ 3.1. Định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh Xuất phát từ hoạt động thực tế của ngân hàng cũng như nhu cầu của nền kinh tế, NHCT Sông Nhuệ đưa ra các định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh trong những năm tiếp theo như sau: Tuân thủ và thực hiện linh hoạt, có hiệu quả quy chế của Ngân hàng Nhà nước và NHCT Việt Nam trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Tăng doanh số bảo lãnh, từ đó tăng tỷ trọng thu từ hoạt động bảo lãnh trong tổng thu từ hoạt động dịch vụ của ngân hàng nhằm đạt tốc độ tăng trưởng phí dịch vụ trên 30% so với năm trước. Đa dạng hoá và mở rộng loại hình bảo lãnh, không ngừng củng cố và năng cao chất lượng bảo lãnh đã có, tiếp tục triển khai thêm một số loại hình bảo lãnh mới. Nhanh chóng hiện đại hoá hoạt động bảo lãnh. Thực hiện tố công tác marketing nhằm thu hút khách hàng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu bảo lãnh ngày càng tăng, gắn hoạt động bảo lãnh với các dịch vụ kèm theo để bán hàng trọn gói. Nâng cao trình độ các bộ, kể cả trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ bằng việc đào tạo, bồi dưỡng kinh nghiệm thực tế. Bố trí sắp xếp cán bộ nghiệp vụ theo tiêu chuẩn chức danh và năng lực nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả nhất. Đảm bảo an toàn trong hoạt động bảo lãnh nhằm hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra. Trên cơ sở những định hướng đã đề ra thì NHCT Sông Nhuệ cần có những giải pháp để tổ chức và thực hiện. 3.2. Một số biện pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh ở NHCT Sông Nhuệ 3.2.1. Nâng cao công tác điều hành và hoạch định chiến lược phát triển bảo lãnh Công tác điều hành và hoạch định chiến lược đóng một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của ngân hàng nói chung cũng như hoạt động bảo lãnh nói riêng. Bởi vậy, ngân hàng phải xây dựng cho mình một chiến lược phát triển và điều hành chung hợp lý, từ đó đưa chương trình mở rộng và phát triển bảo lãnh cụ thể, bám sát được tình hình phát triển kinh tế và phát huy được tiềm năng và thế mạnh của ngân hàng. Trong kế hoạch mở rộng bảo lãnh, ngân hàng cần đưa ra được các mục tiêu có tính thực tế cao, phù hợp với khả năng và tiềm năng của ngân hàng, đồng thời phải đề xuất những biện pháp có tính khả thi để đạt được các mục tiêu trên. Kế hoạch phát triển bảo lãnh phải phù hợp và có sự gắn bó, phối hợp chặt chẽ với với mục tiêu phát triển kinh doanh của ngân hàng để đạt được kết quả cao nhất. Bên cạnh đó, công tác điều hành ngân hàng cũng cần được chú trọng để duy trì sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, đảm bảo cho hoạt động bảo lãnh được thực hiện một cách chặt chẽ và thống nhất. Đi đôi với việc nâng cao công tác điều hành và hoạch định chính sách, cán bộ ngân hàng cần làm tốt việc phân tích và dự báo xu hướng phát triển của nền kinh tế. Đánh giá kịp thời tiềm lực tài chính, khả năng trả nợ và nắm bắt được những nhu cầu phát sinh của khách hàng hiện tại cũng như nhu cầu bảo lãnh của đối tượng khách hàng tiềm năng. Từ đó cán bộ ngân hàng mới có thể đưa ra được những kế hoạch phát triển đúng đắn, thích hợp cho từng thời kỳ, giúp cho hoạt động bảo lãnh của ngân hàng đạt được hiệu quả cao nhất. 3.2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định Khi ngân hàng chấp nhận bảo lãnh cho doanh nghiệp nghĩa là ngân hàng đã chấp nhận rủi ro. Vì vậy, để hạn chế rủi ro cho ngân hàng cán bộ bảo lãnh cần phải thẩm định dự án một cách cẩn thận và kĩ càng trước khi trình phê duyệt nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động bảo lãnh. Trên thực tế, việc thẩm định hồ sơ xin bảo lãnh của doanh nghiệp còn thiếu chặt chẽ vì các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá hiệu quả kinh tế và năng lực tài chính của khách hàng chưa không thật rõ ràng và chưa có tính tiêu biểu. Mặt khác việc thẩm định còn mang tính hình thức đối với một số khách hàng quen thuộc nhằm gìn giữ mối quan hệ. Để công tác thẩm định được tiến hành theo đúng quy trình và đảm bảo chính xác, NHCT Sông Nhuệ nên phân định rõ chức năng, phân công trách nhiệm cụ thể cho từng bộ phận, cán bộ tín dụng. Một mặt tiến hành thẩm định trên hồ sơ mà doanh nghiệp đệ trình, mặt khác cần phải có cán bộ đi thực tế, tìm hiểu và xác định năng lực thực sự của doanh nghiệp. Công tác thẩm định rất phức tạp, đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Đối với những dự án vượt quá khả năng và phạm vi của Ngân hàng thì cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của cơ quan có liên quan để cùng tiến hành thẩm định. Bên cạnh đó, khi sử dụng dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng doanh nghiệp thường chỉ muốn kí quỹ một phần, còn lại dùng tài sản đảm bảo để thế chấp. Vì vậy, cán bộ thẩm định phải là những người có kinh nghiệm, xác đinh được đúng giá trị của tài sản cũng như đánh giá được những hao mòn vô hình, hao mòn hữu hình có thể xảy ra đối với tài sản đó. Có như vậy, ngân hàng mới có thể ngày càng nâng cao chất lượng công tác thẩm định, đảm bảo phương châm an toàn và hiệu quả trong hoạt động bảo lãnh. 3.2.3. Thường xuyên thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát NHCT Sông Nhuệ cần tăng cường công tác kiểm soát đối với việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh trong ngân hàng nhằm thẩm tra việc chấp hành các quy định cũng như phát hiện các tồn tại thiếu sót để từ đó kịp thời có những điều chỉnh phù hợp. Ngoài hoạt động kiểm soát nội bộ thì ngân hàng cũng không thể xem nhẹ việc giám sát thực trạng sử dụng vốn của doanh nghiệp. Sau khi chấp nhận bảo lãnh, cán bộ ngân hàng cần xuống kiểm tra định kì hoặc đột xuất nhằm đảm bảo rằng việc sử dụng vốn của doanh nghiệp là đúng mục đích. Trường hợp phát hiện ra khách hàng sử dụng vốn sai mục đích thì ngân hàng phải có biện pháp xử lí kịp thời, thu hồi lại nợ để trả cho bên cho vay, đồng thời có biện pháp xử lí thích đáng đối với doanh nghiệp. Trong quá trình giám sát việc sử dụng vốn của doanh nghiệp, Ngân hàng cũng có thể tư vấn cho khách hàng cách sử dụng vốn có hiệu quả hơn, đồng thời giúp doanh nghiệp giải quyết những khó khăn phát sinh. Điều đó sẽ làm cho mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng càng trở nên mật thiết và hoạt động bảo lãnh diễn ra thuận lợi hơn. 3.2.4.Tăng tính cạnh tranh và hấp dẫn cho hoạt động bảo lãnh Đây là việc nâng cao hoạt động marketing của ngân hàng, phát triển một cáhc đồng bộ chính sách khách hàng, chính sách sản phẩm, chính sách phí… với tính thống nhất cao, thúc đẩy hoạt động bảo lãnh được mở rộng và phát triển. Đối với một ngân hàng mới được chuyển đổi, lại không có vị trí giao dịch thuận tiện như NHCT Sông Nhuệ thì việc sử dụng các biện pháp marketing nhằm tăng tính cạnh tranh và sức hấp dẫn cho ngân hàng là hết sức cần thiết. Để ứng dụng được một cách có hiệu quả thì chi nhánh cần phải thực hiện các hoạt động sau: Cần thực thi chính sách khách hàng một cách hợp lý. Theo lộ trình từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, khi mà sự cạnh tranh trở nên ngày càng gay gắt thì khách hàng đã thực sự trở thành điều kiện sống còn cho sự tồn tại của bất cứ doanh nghiệp nào. Khách hàng luôn được xác định là định hướng trung tâm cho các hoạt động của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, để có thể phát triền hoạt động bảo lãnh, NHCT Sông Nhuệ phải xây dựng cho mình một nền tảng khách hàng vững chắc. NHCT Sông Nhuệ cần thường xuyên phát triển hoạt động nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng để nâng cao chất lượng phục vụ. Giúp cho khách hàng luôn đạt được sự hài lòng cao nhất khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Bên cạnh đó ngân hàng cũng cần thường xuyên tìm hiểu, nghiên cứu về các chính sách, hoạt động đối thủ cạnh tranh để có được những phản ứng, điều chỉnh phù hợp. Ngân hàng cần liên tục đánh giá thực trạng khách hàng, mức độ quan hệ của khách hàng đối với ngân hàng mình. Tiến hành phân loại khách hàng theo các tiêu chí khác nhau như: đặc điểm tổ chức của khách hàng, loại hình dịch vụ hay sử dụng.. Trong đó, cần xây dựng các chỉ tiêu về tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh. Từ đó, giúp ngân hàng có được chính sách phù hợp với từng nhóm khách hàng cụ thể nhằm duy trì một mối quan hệ tốt đẹp, đồng thời có cơ sở mở rộng và phát triển khách hàng mới. Đa dạng hóa sản phẩm trong hoạt động bảo lãnh. Để mở rộng hoạt động bảo lãnh, ngân hàng không những phải làm tốt công chăm sóc khách hàng mà còn phải chú trọng phát triển và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ bảo lãnh. Muốn bắt kịp được xu thế phát triển của nền kinh tế thì bên cạnh việc thực hiện tốt những loại hình bảo lãnh truyền thống ngân hàng cần phải mở rộng một số loại hình bảo lãnh mới mà ở Việt Nam hiện nay chưa có như bảo lãnh thuế quan, bảo lãnh chứng khoán … Cần đổi mới, cải tiến quy trình và các thủ tục bảo lãnh theo hướng ngày một khoa học, logic hơn nhưng phải đơn giản và rõ ràng nhằm đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu bảo lãnh của khách hàng. Thực thi chính sách phí linh hoạt và cạnh tranh. Giá cả của hoạt động bảo lãnh chính là mức phí bảo lãnh. Mức phí này ít nhất phải đảm bảo bù đắp được chi phí và mức độ rủi ro cho ngân hàng khi thực hiện bảo lãnh cho khách hàng, đồng thời đủ hấp dẫn và có tính cạnh tranh để thu hút cũng được khách hàng. Tuy nhiên ngân hàng cũng cần phải có sự linh hoạt trong việc tính phí đối với từng đối tượng khách hàng cụ thể: Đối với những khách hàng truyền thống, quan hệ thường xuyên với ngân hàng thì ngân hàng nên có mức phí ưu đãi để tạo mối quan hệ lâu dài. Trong khi đó, với những khách hàng quan hệ giao dịch lần đầu cũng có thể có mức phí ưu đãi để thu hút, lôi kéo khách hàng và để giảm thiểu rủi ro thì có thể yêu cầu cao hơn về mức ký quỹ hoặc tài sản thế chấp… Tóm lại, ngân hàng nên so sánh, cân nhắc mức phí tại ngân hàng mình với mức phí bảo lãnh của các các ngân hàng thương mại khác để đưa ra được một chính sách phí hợp lý, đủ sức cạnh tranh trên phân đoạn thị trường đã lựa chọn. Đa dạng hóa tài sản đảm bảo Tài sản đảm bảo trong bảo lãnh ngân hàng đóng vai trò giúp ngân hàng giảm thiểu tổn thất trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ tài chính thay khách hàng mà khách hàng không có khả năng bồi chi trả lại cho ngân hàng. Các hình thức bảo đảm trong bảo lãnh gồm: ký quỹ, thế chấp, cầm cố và bảo lãnh của bên thứ ba. Hầu hết các khách hàng đều mong muốn được ký quý ỏ mức thấp nhất có thể. Về phía mình, ngân hàng không nên quá thận trọng yêu cầu khách hàng ký quỹ 100% vì sẽ gây ứ đọng vốn của doanh nghiệp, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc kinh doanh. Ngân hàng nên xác định mức ký quỹ hợp lý, dựa trên cơ sở phân tích độ rủi ro của dự án, năng lực tài chính và mức độ tín nhiệm khách hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cần kiểm tra kĩ lưỡng đối với các tài sản được thế chấp cầm cố về vấn đề sở hữu, giấy tờ, tránh những vấn đề bất cập xảy đên khi có rủi ro phải phát mại tài sản như: tài sản không thuộc sở hữu của người được bảo lãnh, tài sản thuộc sở hữu nhà nước không được phát mại… 3.2.5. Tăng cường công tác đào tạo và tổ chức cán bộ Nguồn nhân lực luôn là yếu tố hàng đầu đối ngành Ngân hàng- một ngành cung cấp các sản phẩm thuộc dịch vụ tài chính luôn có nhưng yêu cầu khắt khe về trình độ chất xám của nhân viên. Để có được một đội ngũ nhân viên có đầy đủ phẩm chất đạo đức cũng như trình độ nghiệp vụ, kinh nghiệm và khả năng tiếp cận công nghệ mới NHCT Sông Nhuệ nên làm tốt các công tác sau: Thứ nhất, cần xuất phát từ các định hướng, mục tiêu kinh doanh trong những năm tới để xác định chiến lược phát triển nguồn nhân lực, có kế hoạch đào tạo cụ thể . Thứ hai, cần đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ nhân viên, phân loại theo các cấp độ khác nhau. Việc đánh giá này sẽ giúp ngân hàng đào tạo sát đúng đối tượng, đúng trình độ mỗi nghiệp vụ và có hiệu quả hơn. Thứ ba, hoạt động đào tạo được tiến hành bằng nhiều hình thức và là một quá trình đòi hỏi sự tham gia tích cực của tất cả các cấp lãnh đạo, cán bộ nhân viên trong ngân hàng cũng như sự phối hợp chặt chẽ và chia sẻ trách nhiêm giữa các tổ chức, các cấp lãnh đạo đơn vị thành viên. Các hình thức đào tạo đó có thể là trong nước hay tranh thủ sự tài trợ của ngân hàng nước ngoài, các tổ chức quốc tế. Ngân hàng cũng có thể trực tiếp tự đào tạo. Ngân hàng cũng cần có các chính sách khuyến học, tạo niềm say mê học tập thường xuyên trong cán bộ nhân viên. Đồng thời có các chính sách đãi ngộ thỏa đáng. Thực hiện các phong trào thi đua định kỳ, đột xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác trên các nghiệp vụ. Ngân hàng cần thực hiện tốt công tác tuyển dụng và thu hút nhân tài cũng như giữ các cán bộ nhân viên giỏi, cần hỗ trợ các nhân viên mới hoà nhập với môi trường làm việc. 3.2.6. Tiếp tục hiện đại hoá ngân hàng NHCT Sông Nhuệ nên áp dụng các quy trình công nghệ mới hỗ trợ cho hoạt động bảo lãnh nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung. Đặc biệt là công nghệ thông tin ngân hàng, nhằm cung cấp cho cán bộ bảo lãnh những nguồn thông tin cập nhật, đầy đủ và chính xác . Qua đó giúp cán bộ bảo lãnh có thể thẩm định khách hàng một cách nhanh chóng, chuẩn xác và đưa ra quyết định bảo lãnh đúng đắn. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần quan tâm đến cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật nhằm nâng cao hình ảnh của ngân hàng và tăng tiện ích cho khách hàng. Trên đây là một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động bảo lãnh tại NHCT Sông Nhuệ . Tuy nhiên, bên cạnh nỗ lực của ngân hàng, cần phải có sự quan tâm và hỗ trợ từ hệ thống NHCT Việt Nam, từ Chính phủ và NHNN. Sau đây là phần kiến nghị để khắc phục những khó khăn từ môi trường pháp lý và kinh tế. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị đối với Ngân hàng công thương Việt Nam. NHCT Sông Nhuệ là chi nhánh cấp 1 trực thuộc NHCT Việt Nam , chịu sự chỉ đạo và tuân theo những quy định do NHCT Việt Nam ban hành. Để hoạt động bảo lãnh tại NHCT Sông Nhuệ diễn ra thuận lợi, NHCT Việt Nam nên quan tâm đến các vấn đề sau: Thứ nhất, NHCT Việt Nam nên giao cho NHCT Sông Nhuệ mức ủy quyền phán quyết hợp lý. Qua đó, tạo điều kiện cho NHCT Sông Nhuệ có thể chủ động đáp ứng những nhu cầu của khách hàng trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các điều kiện mà NHCT Việt Nam qui định. Đồng thời điều này cũng giúp tăng cường uy tín và tiềm lực tài chính cho bản thân NHCT Sông Nhuệ. Thứ hai, NHCT Việt Nam nên đưa ra những chỉ tiêu chương trình phát triển cho NHCT Sông Nhuệ trong những năm tới một cách đúng đắn thống nhất phù hợp với quy mô tiềm năng của Chi nhánh. Đơn giản hoá các thủ tục và tạo tính chủ động nhất định trong việc thực hiện kế hoạch cũng như công tác lãnh đạo tại Chi nhánh. Thứ ba, nên quan tâm đầu tư đúng mức cho công tác hiện đại hoá toàn bộ hệ thống, ứng dụng công nghệ hiện đại, thực hiện mối liên kết chặt chẽ giữa các chi nhánh, qua đó dễ dàng cho việc truyền tin và cập nhật thông tin khi cần thiết, tạo ra sự hỗ trợ kịp thời giữa các chi nhánh khi có vấn đề xảy ra. Thứ tư, NHCT Việt Nam có thể thường xuyên tổ chức lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tín dụng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phổ biến, hướng dẫn những quy định, đồng thời tạo điều kiện cho các chi nhánh có điều kiện trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau 3.3.2.Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà Nước NHNN là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp chịu trách nhiệm giám sát hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, NHNN nên thực thi một số các biện pháp sau: Thứ nhất, ban hành các quy định, thông tư hướng dẫn cụ thể việc thực hiện quy chế bảo lãnh và cách thức thực hiện những loại bảo lãnh mới như: bảo lãnh thuế quan, bảo lãnh hối phiếu, đặc biệt là bảo lãnh phát hành chứng khoán. Bởi vì như hiện nay, khi thị trường chứng khoán đang đang thực sự bùng nổ thì việc nhu cầu cổ phần hóa cũng như phát hành chứng khoán là rất cao. Bên cạnh đó, NHNN cần cải tiến thủ tục, quy trình bảo lãnh theo hướng đơn giản hoá nhưng vẫn đảm bảo an toàn cho hoạt động bảo lãnh. Thứ hai, NHNN nên hỗ trợ các ngân hàng thương mại về mặt thông tin, nâng cao tầm hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng (ICC), đảm bảo cung cấp thông tin chính xác và cập nhật. Hiện nay ICC thuộc NHNN là nơi tập trung các nguồn thông tin rất phong phú và đa dạng đồng thời cũng tập trung một đội ngũ những chuyên gia phân tích và xử lý thông tin tín dụng hàng đầu. Song hiệu quả đạt được trong việc cung cấp thông tin cho các NHTM vẫn chưa cao. Nguyên nhân có thể một phần là do những thông tin này chưa thực sự thiết thực đối với các NHTM, một phần khác là do cách thức bán thông tin này chưa thực sự hợp lý. Thứ ba, NHNN phải thường xuyên thanh tra, kiểm tra hoạt động của NHTM nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng, phát hiện kịp thời những tồn tại và sai sót để có biện pháp xử lí, chấn chỉnh kịp thời. Muốn vậy, NHNN cần phải chú trọng đến trình độ nghiệp vụ cũng như phẩm chất đạo đức của cán bộ thanh tra. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là NHNN can thiệp quá sâu vào hoạt động của NHTM, gây cản trở tiêu cực tới hoạt động của Ngân hàng. NHNN cần kết hợp hài hòa giữa giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ. Thứ tư, NHNN cần hỗ trợ về chuyên môn cho các NHTM bằng cách tổ chức thường xuyên những buổi tập huấn nghiệp vụ, để giữa các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước có dịp gặp gỡ để trao đổi kinh nghiệm. Đồng thời NHNN cũng cần phải nghiên cứu và trả lời một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời các vướng mắc, kiến nghị của NHTM. 3.3.3. Kiến nghị đối với Chính phủ Thứ nhất, Chính phủ cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo lập một hành lang pháp lý rõ ràng, chặt chẽ và thuận lợi cho hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Cho đến nay, ở nước ta chưa có một bộ luật nào dành riêng cho hoạt động bảo lãnh. Trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, bảo lãnh chỉ được đề cập đến trong một số văn bản dưới luật của NHNN. Trong hoạt động của mình , các NHTM quốc doanh vừa phải chấp hành luật Doanh nghiệp Nhà nước vừa phải tuân thủ luật các Tổ chức tín dụng. Chúng ta cần xây dựng một đạo luật về bảo lãnh đồng bộ và thống nhất với các luật trên để tránh tình trạng quá chung chung như hiện nay dẫn đến khó thực hiện, khó xử lý và có khi bị lợi dụng những kẽ hở của pháp luật để phát sinh tiêu cực . Luật bảo lãnh cần có những quy định hướng dẫn cụ thể về thủ tục thực hiện cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch của bảo lãnh, giải quyết những tranh chấp phát sinh. Thứ hai, chính phủ cần ổn định môi trường chính trị xã hội và môi trường kinh tế vĩ mô, xây dựng cơ chế thị trường đồng bộ, hoàn chỉnh hệ thống tiền tệ, tín dụng và giá cả. Môi trường kinh tế phát triển ổn định, lành mạnh sẽ là động lực thúc đẩy hoạt động tiền tệ- ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng. Bất ổn về kinh tế chính trị xã hội luôn đem lại những rủi ro bất khả kháng đối với ngân hàng và doanh nghiệp, làm giảm chất lượng của họat động bảo lãnh. Thứ ba, chính phủ phải xây dựng một sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa các ngân hàng trong kinh doanh, phân chia rõ ràng giữa hoạt động kinh doanh và hoạt động chính sách hỗ trợ của các ngân hàng thương mại để giảm bớt rủi ro cho ngân hàng. Thứ tư, công khai hoá các thông tin tài chính, báo cáo tài chính, tạo ra một môi trường kinh doanh trong sáng, lành mạnh không chỉ trong hệ thống doanh nghiệp mà còn trong hệ thống ngân hàng thương mại. Kết luận Trong thời gian thực tập, đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu về hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Sông Nhuệ, tôi đã nhận thức được vai trò của hoạt động bảo lãnh và tầm quan trọng của việc hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh đối với hệ thống ngân hàng cũng như nền kinh tế nước ta hiện nay. Bảo lãnh không chỉ mang lại doanh thu cho ngân hàng mà còn góp phần nâng cao uy tín của NHCT Sông Nhuệ và phát triển hơn nữa hoạt động kinh tế đối ngoại của ngân hàng. Trong các năm vừa qua NHCT Sông Nhuệ với khả năng và sự nỗ lực của mình đã đạt được những thành công đáng ghi nhận trong hoạt động bảo lãnh. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt động này cũng gặp phải không ít những khó khăn và hạn chế. Do vậy, việc phân tích và đánh giá một cách khách quan về thực trạng hoạt động bảo lãnh tại NHCT Sông Nhuệ là một việc làm hết sức cần thiết. Bài viết trên đã đưa ra được phần nào thực trạng hoạt động bảo lãnh và một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại NHCT Sông Nhuệ . Hy vọng rằng đây sẽ là những giải pháp phù hợp và có tính khả thi cao giúp ngân hàng có thể đạt được mục tiêu phát triển của mình. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian nghiên cứu và khả năng tìm hiểu lý luận và thực tiễn của bản thân nên bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót cần phải bổ sung. Vì vậy em rất mong nhận được các ý kiến phê bình, đóng góp của thầy cô và độc giả để chuyên đề được hoàn thiện hơn nữa. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn PGS.TS Lê Đức Lữ - Giảng viên khoa Ngân hàng – Tài chính trường ĐH KTQD và sự giúp đỡ của ban giám đốc và các cô chú phòng Khách hàng - NHCT Sông Nhuệ đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ------------------ Các báo cáo tổng kết của NHCT Sông Nhuệ năm 2004, 2005, 2006. Các quyết định về hướng dẫn thực hiện quy chế bảo lãnh ngân hàng. Giáo trình Ngân hàng thương mại- TS. Phan Thị Thu Hà- Nhà xuất bản Thống kê,2006. Bảo lãnh ngân hàng và tín dụng dự phòng- Lê Uyên- Nhà xuất bản Thống kê,1997. Bảo lãnh tín dụng dự phòng và những điều luật áp dụng- Nguyễn Trọng Thuỳ- Nhà xuất bản Thống kê, 2000. Các luận văn của khoá 43, 44 về phát triển chất lượng hoạt động bảo lãnh. Luật các Ngân hàng Thương mại và tổ chức tín dụng- Nhà xuất bản chính trị Quốc gia. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32120.doc
Tài liệu liên quan