Chuyên đề Hoàn thiện nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay vốn tại tổng công ty tài chính công nghiệp tàu thủy

- Chiến lược đào tạo, sử dụng và phát triển nhân lực. Thực tế và lý thuyết đều cho thấy rằng, con người là một nguồn lực quan trọng nhất trong một tổ chức. Vì thế, công ty cũng phải có kế hoạch phát triển nhân sự về: + Tăng cường đội ngũ nhân sự, bổ xung thêm các chuyên viên tư vấn dự án về các lĩnh vực kĩ thuật. + Tổ chức đào tạo những kiến thức cơ bản của ngành cho các cán bộ phân tích tài chính, giúp họ nắm bắt được những kiến thức chung nhất về kĩ thuật ngành để phục vụ nâng cao chất lượng công việc. + Tổ chức đào tạo nâng cao về các nghiệp vụ phân tích tài chính, cập nhật những phương pháp mới, những cách tiếp cận hiện đại của thế giới. + Tích cực phổ biến, cập nhật kịp thời các văn bản chính sách pháp luật của Nhà nước, các bộ ngành về : đầu tư, đấu thầu, xây dựng, thuế, chính sách lãi suất, tỷ giá, thương mại, đăng kiểm, qui hoạch + Đề xuất chính sách thuyên chuyển cán bộ nhằm nâng cao và trau dồi hơn nữa kiến thức cũng như kinh nghiệm của cán bộ công nhân viên trong phòng. Cụ thể, sau khi cán bộ phân tích tài chính dự án đã nắm bắt được hết nội dung công việc của phân tích dự án có thể được điều chuyển sang bộ phân tín dụng làm việc một thời gian. Trong thời gian này, trên cương vị là một cán bộ tín dụng thẩm định và đánh giá lại dự án đã được phân tích để đi tới quyết định cho vay, họ có thể phát hiện ra những sơ hở và sai xót trong quá trình phân tích tài chính, để từ đó có những điều chỉnh hợp lý.

doc90 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1729 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay vốn tại tổng công ty tài chính công nghiệp tàu thủy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được yêu cầu cũng như tiêu chuẩn của đơn vị thẩm định tài chính dự án. Công ty tốn quá nhiều chi phí không cần thiết trong quá trình lập dự án.Doanh số thu được từ hoạt động phân tích dự án là khoảng hơn 4 tỷ đồng trong đó chi phí bỏ ra tới 3,5 tỷ. Công ty vẫn chưa có khả năng đảm nhận một số dự án lớn và then chốt của ngành, hầu hết những dự án này đều do Công ty tư vấn đầu tư và xây dựng bộ giao thông vận tải đảm nhận. Điều đó thể hiện năng lực cũng như điều kiện của Công ty chưa đủ để đảm nhận những dự án lớn và phức tạp. Công ty mới chỉ dừng lại ở các dự án trong nội bộ ngành, chưa tiếp cận được với những dự án khác ngoài ngành cho dù là những dự án nhỏ. Điều này càng khẳng định chất lượng phân tích tài chính dự án của Công ty chưa thực sự tạo được uy tín trên thị trường. Dưới sự hỗ trợ đặc biệt của Chính phủ, hầu hết các dự án lớn của ngành đều được vay vốn ưu đãi của Quỹ hỗ trợ phát triển. Tuy nhiên một số dự án sau khi lập đã có nhiều quan điểm và cách tiếp cận không thống nhất với các nhà thẩm định của Quỹ. Chính sự không thống nhất này đã thể hiện chất lượng phân tích chưa thực sự cao, chưa đủ sức thuyết phục các nhà tài trợ. Sở dĩ chất lượng phân tích tài chính dự án ở Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ vẫn còn bị hạn chế là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong những nguyên nhân này, có cả nguyên nhân khách quan từ bên ngoài và nguyên nhân từ bản thân bên trong của Công ty. Trước tiên phải kể tới là những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía Công ty. Các nguyên nhân đó là : Quy trình phân tích tài chính còn thiếu xót và chưa mang tính khoa học, cụ thể ở các mặt như : + Đối với hệ thống bảng biểu: thứ tự các bảng biểu được phân tích trong dự án còn có sự sắp đặt tương đối lộn xộn, trình tự phân tích các chỉ tiêu còn chưa mang tính khoa học. Còn thiếu rất nhiều các bảng tính chi tiết cho từng chỉ tiêu nên đã gây rất nhiều khó khăn cho nhà thẩm định trong việc kiểm tra tính chính xác của các con số. Ví dụ : Kế hoach trả nợ cụ thể cho từng nguồn tài trợ, bảng tính khấu hao chi tiết cho từng loại tài sản cố định; bảng tính chi phí vốn trung bình của dự án, bảng tính toán riêng dòng lợi nhuận của dự án, bảng tính toán các khoản phải nộp cho Nhà nước qua từng năm… + Nhiều thông số sử dụng trong quá trình phân tích không có nguồn gốc, có nghĩa là chúng không được hình thành từ các công thức hay không được minh chứng bằng các phép tính toán. Người phân tích đưa các con số này vào chỉ với mục đích điều hoà các chỉ tiêu trong dự án. + Phương pháp tính toán : nhiều khi còn đơn giản hoá trong các khâu tính toán mà không bám sát với thực tế như : tính toán khấu hao tài sản cố định chỉ tính toán theo phương pháp đường thẳng, kế hoach trả nợ chủ yếu được tính theo phương pháp trả nợ gốc đều, lãi trả theo số dư, doanh thu hay chi phí của dự án thường tính toán theo mức bình quân qua các năm… + Đối với tính toán dòng tiền : Tất cả các dự án mà Công ty đang đảm nhận đều sử dụng phương pháp gián tiếp để tính toán dòng tiền ròng của dự án. Trong khi đó, nhiều dự án có thể sử dụng được phương pháp trực tiếp để tính toán một cách hợp lý hơn. + Thời gian hoàn vốn của dự án chưa được tính toán chính xác bởi đã bỏ qua giá trị thời gian của tiền. + Các chỉ tiêu về NPV, hay IRR sau khi tính toán chưa được mô hình hoá thành dạng đồ thị nhằm tăng tính thuyết phục của chỉ tiêu và tính chuyên nghiệp của phân tích tài chính. + Lợi tức kì vọng của chủ đầu tư khi đưa vào tính toán chi phí vốn trung bình thường được lấy trên cơ sở của các dự án trong quá khứ hoặc theo suy đoán cảm tính không cơ sở khoa học của người phân tích. + Một số dự án đã bỏ qua phần lợi tức kì vọng và cơ cấu vốn của chủ đầu tư trong phần tính toán chi phí vốn trung bình của dự án. + Các dự án hầu như được tính toán dòng tiền và NPV theo quan điểm của dự án. Có nghĩa là NCF năm 0 luôn là số tiền tổng mức đầu tư và lãi suất chiết khâú là chi phí vốn trung bình của tất cả các nguồn. Tiếp cận theo phương pháp này sẽ không thấy được hiệu quả trực tiếp của chủ đầu tư. + Hầu hết các dự án đều thiếu phần đánh giá rủi ro cho dù đây là một khâu rất quan trọng trong quá trình đánh giá hiệu quả tài chính. Hơn nữa, quy trình phân tích này đã bị ảnh hưởng theo mối lối mòn nhất định, các cán bộ phân tích tài chính dự án trong công ty vẫn bị lôi cuốn theo một quy trình phân tích dường như đã được mặc định từ trước. Bên cạnh đó, quá trình phân tích nhiều khi còn mang tính chất lắp ghép giữa các dự án. Vì thế, đôi khi đã làm giảm tính thuyết phục và tính đặc trưng của các dự án. Đội ngũ nhân sự của Công ty còn mỏng và thiếu kinh nghiệm + Đội ngũ nhân sự của Công ty còn tương đối mỏng, đặc biệt trong lĩnh vực dự án. Phòng tư vấn lập dự án của Công ty hiện tại chỉ có 6 người. Trong khi đó công tác thẩm định tài chính dự án không những đòi hỏi kiến thức rộng mà quan trọng là kinh nghiệm từng trải qua nhiều lần thẩm định các dự án. Cán bộ thẩm định chỉ có thể phân tích sâu một vài khía cạnh có liên quan đến dự án nên kết quả nhiều khi không chính xác. + Nhân sự của phòng chủ yếu chuyên sâu trong lĩnh vực Ngân hàng – Tài chính. Mặc dù điều này rất tốt cho việc đánh giá hiệu quả tài chính của dự án, song trong một dự án không chỉ có phần đánh giá tài chính, hơn nữa các phần trong dự án có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Phần phân tích tài chính không thể nào thực hiện tốt được nếu như các phần còn lại của dự án không được đánh giá và phân tích một cách kĩ lưỡng. Đặc biệt, đối với tất cả các dự án của ngành, đều là các dự án kinh tế – kĩ thuật có liên quan đến các ngành kĩ thuật như xây dựng, cơ khí đóng tàu, khai thác tàu biển...Vì thế, sự thiếu hụt nhân lực có kiến thức chuyên môn về kĩ thuật đã gây không ít ảnh hưởng tới chất lượng lập dự án nói chung và phân tích tài chính nói riêng. + Trình độ của cán bộ công nhân viên còn nhiều hạn chế bởi hầu hết họ đều là những cử nhân kinh tế mới tốt nghiệp, chưa có nhiều kinh nghiệm trong công việc. + Cách sắp xếp và bố trí nhân sự cũng đã ít nhiều ảnh hưởng tới chất lượng của hoạt động lập dự án. Các dự án của ngành hầu hết đều lã những dự án lớn và có thể được chia ra làm 3 mảng chính là : Dự án xây dựng và nâng cấp các Nhà máy phục vụ đóng mới, sửa chữa tàu; dự án khai thác tàu (chuyên chở vận tải hàng hoá trong nước và quốc tế); nhóm các dự án cơ khí, công nghiệp khác phục vụ cho công nghiệp đóng tàu như Công nghiệp cán nóng thép tấm đóng tàu, sản xuất khí nén, công nghiệp điện, nội thất tàu thuỷ…Việc mỗi người đều được phân công đảm nhận tất cả các lĩnh vực trên của ngành, không có sự chuyên môn hoá rõ ràng thể làm tăng được vốn kiến thức một cách toàn diện nhưng lại khó có thể tập trung tốt vào một lĩnh vực nhất định khi cần thiết phải làm việc độc lập. Điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho công việc nghiên cứu phân tích tài chính dự án còn nhiều hạn chế. Điều kiện cơ sở vật chất hiện tại của Công ty trang bị cho mỗi nhân viên chưa thể nào đáp ứng được nhu cầu của công việc. Hệ thống máy vi tính lạc hậu đã gây nhiều cản trở trong việc thu thập và xử lý thông tin thông tin, phân tích dữ liệu tài chính và lưu trữ kết quả. Công ty chưa hỗ trợ nhiều trong việc tìm kiếm những thông tin bổ ích, có thể sử dụng để làm tăng thêm tính thuyết phục và xác thực cho dự án. Sử dụng những thông tin sẵn có hoặc từ những nguồn không tin cậy sẽ làm giảm được chi phí nhưng những thông tin này có thể không chính xác hoặc không đảm bảo tính cập nhật làm giảm chất lượng của quá trình phân tích. Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan, cũng cần phải kể đến những nhân tố khách quan bên ngoài đã gây ra nhiều hạn chế trong hoạt động phân tích tài chính dự án. Đó là : Sự không ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường pháp lý. Các dự án thường phải đối mặt với những khó khăn này của nền kinh tế từ đó đã kéo theo sự ảnh hưởng tới các nội dung tài chính của dự án và trực tiếp gây ra những khó khăn nhất định cho người phân tích. + Hệ thống chính sách pháp luật cứng nhắc về đầu tư, quy chế đấu thầu, chính sách của Ngân hàng Nhà nước trong việc tài trợ vốn cho các dự án cũng đã gây cho chủ đầu tư nhiều khó khăn trong quá trình ra quyết định lựa chọn dự án. Các nhà tư vấn đầu tư (kể cả trong lĩnh vực tài chính) cũng không có nhiều sự lựa chọn và giải pháp cho khách hàng như các giải pháp về vốn, về chính sách thuế… + Chất lượng của các con số điều tra thống kê và nghiên cứu thị trường không chính xác. Các nhà phân tích dự án thường dựa trên những con số thống kê về giá cả, sản lượng, tốc độ tăng trưởng ngành…để làm cơ sở đưa ra những giả thiết trong quá trình phân tích. Nếu như những con số thông kê không được tính toán và thu thập tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng đánh giá hiệu quả tài chính. + Sự phát triển không ổn định của nền kinh tế đã gây ra những biến động lớn như tỷ giá hối đoái, lạm phát, biến động về lãi suất, biến động về giá cả…Trong khi đó tất cả những yếu tố trên đều được sử dụng trong phần tính toán và phân tích tài chính của dự án. Sự biến động quá lớn này sẽ kéo theo những thay đổi khó lường trong các chỉ tiêu tài chính. Khả năng xảy ra rủi ro của dự án rất khó xác định một cách chính xác. Cơ chế quản lý, điều hành trong lĩnh vực đầu tư của Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư còn nhiều thiếu xót như: + Một số dự án của các đơn vị thành viên mặc dù có tính hiệu quả rất thấp nhưng vẫn được Tổng công ty quyết định phê duyệt đầu tư. Điều này đã gây sức ép cho các cán bộ phân tích tài chính dự án phải cố gắng tìm cách hợp lý hoá các chỉ tiêu bằng mọi cách để làm cho dự án tăng cao tính hiệu quả với hy vọng thuyết phục các nhà tài trợ. Sự điều chỉnh này đã buộc các nhà đầu tư đôi khi phải tăng doanh thu hoặc giảm chi phí của dự án một cách không có cơ sở khoa học trong khi phân tích nhằm bảo đảm tính hiệu quả của dự án. + Các văn bản quy định về đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý tài chính, hệ thông kế toán ... của cấp mhà nước còn chồng chéo, chưa rõ ràng, chưa dẩy đủ, lại hay thay đổi gây khó khăn cho việc thẩm định. Việc định hướng, quy hoạch phát triển vùng, địa phương chưa ổn định, cụ thể cùng với sự can thiệp quá nhiều trong hoạt đông cho vay của các bộ, ngành, uỷ ban nhân dân các cấp đẵ làm giảm hiệu quả công tác thẩm định. + Các dự án của Tổng công ty sau khi phê duyệt thường không đủ năng lực thực hiện hoặc có phương án khác tốt hơn thay thế nên đôi khi xảy ra hiện tượng chuyển chủ đầu tư hay cùng chung chủ đầu tư hay một biện pháp khác là mở các gói thầu nhằm chia nhỏ một dự án lớn thành nhiều dự án con để thực hiện. Các hoạt động này đã làm tăng tính phức tạp của dự án lên rất nhiều.Đó thực sự là một trở ngại lớn cho các nhà phân tích khi triển khai đánh giá hiệu quả của dự án. Tính phức tạp của các dự án ngành Công nghiệp tàu thuỷ. Ngành công nghiệp tàu thuỷ là một ngành công nghiệp nặng. Nó có liên quan chặt chẽ tới rất nhiều các ngành công nghiệp khác như : luyện kim (chế tạo thép đóng tàu); cơ khí (chế tạo máy); xây dựng; khai thác (vận chuyển hàng hoá trong ngoài nước). Vì thế, hầu hết các dự án của ngành đều rất phức tạp. Đặc biệt trong nội dung phân kì vốn đầu tư, nghiên cứu thị trường, lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, khái toán vốn đầu tư, khấu hao tài sản cố định… Đòi hỏi người phân tích phải hết sức chi tiết, kỹ lưỡng. Vì thế công việc phân tích các dự án thuộc ngành này thường khó khăn hơn rất nhiều so với các dự án của ngành kinh tế khác. CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH CÔNG NGHIỆP TÀU THUỶ 3.1. Định hướng phát triển của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ trong thời gian tới 3.1.1. Chiến lược phát triển của Tập Đoàn Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ đến năm 2010 Trong các tờ trình trình Thủ tướng Chính phủ, Tập Đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam đã nêu rõ một số muc tiêu của quy hoạch phát triển như sau : Xây dựng, phát triển ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (bao gồm mạng lưới các nhà máy đóng, sửa chữa tàu thủy và công nghiệp phụ trợ) đáp ứng nhu Cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nước, củng cố an ninh, quốc phòng; đồng thời đáp ứng được yêu Cầu phát triển, đổi mới cơ cấu đội tàu quốc gia và có sản phẩm tàu thủy xuất khẩu ra nước ngoài. Phấn đấu đến năm 2010 đưa Việt Nam trở thành một quốc gia có nền công nghiệp tàu thuỷ phát triển vào loại trung bình tiên tiến trong khu vực. Từng bước nâng cao chất lượng đóng mới và sửa chữa tàu biển đồng thời chú trọng sản xuất các loại vật tư, thiết bị tàu thuỷ để tới năm 2010 đạt tỷ lệ nội địa hoá tới 60% đối với các sản phẩm tàu biển đóng mới. Nâng cao năng lực đóng mới, trong đó tập trung xây dựng mới một số nhà máy trọng điểm đóng và sửa chữa tàu lớn từ 30.000 đến 100.000 DWT, có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực. Tập trung phát triển và hoàn thiện cơ sở vật chất, đổi mới quá trình đào tạo - nghiên cứu thiết kế, phấn đấu đến năm 2010, ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam chủ động được về mặt kỹ thuật từ khâu thiết kế, đăng kiểm đến đóng mới đối với loại tàu chở hàng có trọng tải đến 50.000 DWT. Sau đây là một số nội dung cụ thể trong quy hoạch ngành tới năm 2020 : Các cơ sở đóng mới và sửa chữa Tàu thuỷ : Đến năm 2010 mạng lưới công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam có 36 nhà máy đóng và sửa chữa tàu, 6 cơ sở công nghiệp phục vụ và 8 nhà máy đóng, sửa chữa tàu quân đội, bảo đảm việc đóng và sửa chữa tàu thủy toàn quốc, trong đó các nhà máy thuộc Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam giữ vai trò chủ lực, nòng cốt trong quy hoạch; các nhà máy đóng, sửa chữa tàu thuộc các ngành khác và địa phương quản lý có chức năng chủ yếu là sửa chữa, đóng mới các tàu thủy sản, tàu khách, tàu công trình, các phương tiện thủy nội địa và tàu vận tải đến 3.500 DWT; mạng lưới các Nhà máy đóng tàu quân đội chủ yếu được cải tạo, nâng cấp trên cơ sở hiện có với chức năng chính là đóng mới, sửa chữa các tàu quân sự và kết hợp tham gia đóng tàu vận tải có trọng tải đến 10.000DWT. Đối với các ngành công nghiệp phục vụ đóng tàu, để đạt được mục tiêu tỷ lệ nội địa hóa 60% trong sản phẩm đóng mới tàu thủy, đến năm 2010 phát triển các khu công nghiệp phụ trợ cho ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam như sau: Xây dựng mới khu công nghiệp tàu thủy tại Cái Lân (Quảng Ninh): sản xuất thép tấm đóng tàu 250.000T/năm, sản xuất thép cường độ cao, đúc sản phẩm gang Cầu. Xây dựng mới khu công nghiệp tàu thuỷ tại An Hồng (Hải Phòng): lắp ráp động cơ diezen có công suất tới 6.000CV; chế tạo một số thiết bị chuyên dùng trong công nghiệp đóng tàu. Duy trì năng lực 2 cơ sở sản xuất của Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam tại thành phố Hải Phòng để sản xuất khí công nghiệp, vật liệu chống cháy nổ, sửa chữa, đóng mới container, phá dỡ tàu cũ và tái chế nguyên liệu sau phá dỡ sau năm 2010 sẽ di dời 2 cơ sở này ra khỏi khu vực thành phố. Sau năm 2010 sẽ xây dựng mới khu công nghiệp tàu thuỷ tại- Bình Chánh (thành phố Hồ Chí Minh) hoặc tại Long Sơn (Bà Rịa - Vũng Tàu) để lắp ráp động cơ diezen, sản xuất các trang thiết bị phục vụ đóng tàu. Lực lượng lao động và đào tạo: Dự kiến lực lượng lao động toàn ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam đến năm 2010 có khoảng 36.000 người, trong đó trình độ đại học và trên đại học chiếm 16%; trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật chiếm 74%; lao động đào tạo ngắn hạn, công nhân phổ thông chiếm 10%. Công tác nghiên cứu, thiết kế tàu thủy: Đầu tư Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho 2 trung tâm nghiên cứu thiết kế: Viện Khoa học công nghệ tàu thủy Hà Nội và Công ty Thiết kế công nghiệp giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh. Thông qua chương trình trọng điểm quốc gia, đầu tư nâng cấp hoàn thiện bể thử mô hình tàu thủy đạt tiêu chuẩn quốc tế tại Viện Khoa học công nghệ tàu thủy Hà Nội. Công tác đăng kiểm: Hoàn thiện hệ thống quy phạm đóng tàu để phù hợp với các yêu Cầu của Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, phấn đấu đổi mới và tăng cường công tác đăng kiểm để đến năm 2010, đăng kiểm Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức phân cấp tàu biển quốc tế IACS. Chỉ tiêu về năng lực sản xuất : Đóng mới hầu hết các phương tiện thủy nội địa, tàu công trình, tàu hải sản tàu biển trọng tải đến 15.000 DWT; phấn đấu đảm nhận 70 - 75% nhu Cầu đóng tàu hàng tổng hợp loại từ 20.000 DWT đến 50.000 DWT và tàu chở dầu thô 100.000 DWT, trong đó giai đoạn 2001 - 2005 tập trung đáp ứng chương trình đóng 32 tàu cho Tổng công ty Hàng hải Việt Nam và các chương trình đóng tàu của các Tổng công ty Nhà nước khác. Đến năm 2010, đạt tỷ lệ nội địa hoá tới 60% đối với các sản phẩm tàu biển đóng mới. Sửa chữa đồng bộ tất cả các cấp đội tàu quốc gia có trọng tải đến 100.000DWT tại các nhà máy đóng tàu trong nước và đến 400.000 DWT tại các nhà máy liên doanh với nước ngoài. Để đảm bảo tiến độ thực hiện, kế hoạch được chia ra làm các giai đoạn cụ thể : Giai đoạn thứ nhất từ năm 2002 đến 2005: Tập trung hoàn thiện cơ sở vật chất, đổi mới công nghệ của các nhà máy hiện có, trong đó ưu tiên các nhà máy: Hạ Long, Nam Triệu, Bến Kiền, Bạch Đằng, Phà Rừng, Công nghiệp tàu thuỷ Sài Gòn, Đóng tàu và Công nghiệp hàng hải Sài Gòn, theo hướng chuyên môn hóa cao để phấn đấu đóng các loại tàu: phương tiện thủy nội địa, tàu khách, tàu công trình, tàu thuỷ sản, tàu hàng tổng hợp, tàu container, tàu chở dầu trọng tải đến 12.000DWT; sửa chữa tàu đến 20.000DWT tại các nhà máy trong nước và sửa chữa tàu 400.000DWT tại các nhà máy liên doanh Hyundai - Vinashin. Chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ đóng mới tàu hàng tổng hợp tàu container có trọng tải từ 30.000DWT đến 50.000DWT, tàu chở dầu thô 100.000DWT. Liên kết với các ngành thép, cơ khí trong nước, liên doanh hợp tác với nước ngoài đầu tư xây dựng các khu công nghiệp phụ trợ để đến năm 2005 có thể sản xuất các loại thép tấm đóng tàu thông dụng, lắp ráp động cơ diezen đến 6.000CV cùng các trang thiết bị trên boong, thiết bị điện, điện tử, nghi khí hàng hải tại khu công nghiệp Cái Lân (Quảng Ninh) và An Hồng (Hải Phòng). Đầu tư , xây dựng hoàn chỉnh bể thử mô hình tàu thủy tại Viện Nghiên cứu khoa học công nghệ tàu thuỷ Hà Nội để phục vụ công tác thiết kế. Giai đoạn thứ hai từ năm 2006 đến năm 2010: Tập trung xây dựng có trọng điểm một số nhà máy mới tại các khu vực có tiềm năng như Dung Quất, Đồng Nai, Cà Mau, trong đó tại Dung Quất để đóng và sửa chữa tàu dầu đến 100.000 DWT; tại Đồng Nai để đóng và sửa chữa tàu hàng tổng hợp, tàu container đến 30.000 DWT; tại Cà Mau để đóng tàu phục vụ khai thác kinh tế biển phía Vịnh Thái Lan. Tiếp tục đầu tư mở rộng nhà máy đóng tàu thuộc Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Nam Triệu để đóng và sửa chữa tàu container: đến 50.000DWT. Mở rộng các khu công nghiệp phụ trợ để nâng dần tỷ lệ nội địa hóa lên 60% cho các sản phẩm đóng tàu trong nước. Giai đoạn sau năm 2010 đến 2020: Di chuyển dần một số nhà máy ở trung tâm đô thị khu vực Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng) ra các khu công nghiệp tập trung của thành phố. Tiếp tục mở rộng và đầu tư chiều sâu (bao gồm cả thiết bị nâng chuyển cỡ lớn để phục vụ đóng các tàu trọng tải từ 50.000 DWT đến 100.000 DWT); nâng cao trình độ công nghệ của các cơ sở đóng mới và sửa chữa phương tiện thuỷ đạt mức tiên tiến trong khu vực. Các giải pháp chủ yếu thực hiện phát triển ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam theo đúng lộ trình : Đầu tư chiều sâu 30 nhà máy hiện có để đồng bộ hóa cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ sẵn có, trong đó có 7 nhà máy ưu tiên đầu tư là: Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Nam Triệu, Nhà máy đóng tàu Hạ Long, Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng, Nhà máy sửa chữa tàu biển Phà Rừng, Nhà máy đóng tàu Bến Kiền, Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Sài Gòn, Công ty đóng tàu và công nghiệp hàng hải Sài Gòn. Hợp tác, liên doanh với nước ngoài để tiếp nhận công nghệ đóng tàu chở dầu 100.000DWT, lắp ráp, chế tạo động cơ, nghi khí hàng hải, trang thiết bị khác; đầu tư các thiết bị, phần mềm phục vụ công tác nghiên cứu - thiết kế tàu thủy. Phối hợp tốt hoạt động giữa Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam với các cơ sở đóng, sửa chữa tàu thuộc các ngành, địa phương, quân đội để đóng tàu đến 3.500DWT, sửa chữa tàu đến 10.000DWT, trong đó chú trọng tận dụng năng lực chuyên sâu của các đơn vị khác sản xuất nghi khí hàng hải, máy bơm, động cơ điện, thép hình và các phụ tùng, phụ kiện... phục vụ cho công tác đóng, sửa chữa tàu. Cơ chế, chính sách ưu đãi: các dự án đóng và sửa chữa tàu trong quy hoạch được hưởng các ưu đãi tại Quyết định số 17/2000/QĐ-TTG ngày 10 tháng 10 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách và cơ chế tài chính cho các dự án đóng tàu biển của ngành đóng tàu biển Việt Nam và các văn bản khác có liên quan theo nguyên tắc: “dự án đang hưởng cơ chế nào thì tiếp tục thực hiện theo cơ chế đó”. Để cụ thể hoá những mục tiêu cơ bản trong định hướng phát triển ngành CNTT Việt Nam trong thời gian tới, Tổng công ty CNTT Việt Nam đã xây dựng đề án phát triển và được Chính phủ phê duyệt tại quyết định 1420/QĐ - TTg ngày 02/11/2001 với những nội dung cơ bản sau : Xây dựng và phát triển Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam lớn mạnh, có trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại, trở thành nòng cốt của ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam. Tổng Công ty thực hiện chiến lược sản phẩm trọng điểm, sản phẩm mũi nhọn nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, trình độ quản lí đáp ứng yêu Cầu hội nhập và cạnh tranh quốc tế; Đóng mới được các tàu trọng tải dưới 50.000DWT, các tàu khách, tàu công trình, dịch vụ dầu khí, cứu hộ, tàu đánh cá xa bờ, tàu chế biến hải sản, tàu bảo đảm hàng hải, tàu đẩy trên sông và ven biển, tàu tuần tra, quân sự thông dụng... Sửa chữa đồng bộ tàu có trọng tải tới 50.000DWT Đến năm 2010 phấn đấu đạt 60% tỉ lệ nội địa hóa các sản phẩm, trong đó chú trọng chế tạo, lắp ráp được các vật tư thiết bị điện, vật liệu trang trí nội thất, xích neo, hộp số, nồi hơi, que hàn, sơn tàu thủy; lắp ráp và sản xuất động cơ diezen 3.000CV; sản xuất thép đóng tàu Về đầu tư phát triển: Nâng cấp mở rộng và đầu tư chiều sâu các nhà máy hiện có; tập trung đầu tư xây dựng một số cơ sở đóng và sửa chữa tàu biển tại các địa điểm thuận lợi, đồng thời nghiên cứu, xây dựng một số nhà máy vật tư, thiết bị tàu thủy...Hợp tác liên doanh với nước ngoài để đóng mới tàu dầu đến 100.000DWT, sửa chữa tàu 400.000DWT, cải tạo và lắp ráp được động cơ tàu thủy công suất lớn. 3.1.2. Định hướng phát triển Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Trong bối cảnh phát triển chung, Công ty tài chính với vai trò vô cùng quan trọng giữ vị trí chủ đạo trong công tác tài chính cho ngành Công nghiệp Tàu thuỷ cũng đã đề ra những phương hướng và mục tiêu sát thực, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn trong tương lai. Trong một kế hoạch ngắn hạn cho năm 2005, Công ty đã đề ra những mục tiêu sau : Tăng mức tổng sản luợng 2005 lên 920 tỷ Tăng tổng Doanh thu lên 55 tỷ Tăng tổng lợi nhuận: 2 tỷ Với một hướng đi dài hạn hơn, Công ty đã đặt mục tiêu đạt được tổng mức vốn điều lệ là 500 tỷ VNĐ vào năm 2010, đồng thời, Công ty cũng đã đặt ra những mục tiêu phấn đấu trở thành một tổ chức tín dụng chuyên nghiệp, triển khai mở rộng những sản phẩm mới, đặc biệt chú trọng phát triển các hoạt động tư vấn, trong đó có tư vấn lập dự án. Đối với riêng hoạt động tư vấn lập dự án trong đó bao gồm cả phân tích tài chính dự án, Công ty đã đưa ra những bước đi cụ thể : + Duy trì mối quan hệ với khách hàng hiện tại và các khách hàng khác trong Tổng công ty nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động tư vấn dự án + Từng bước mở rộng hoạt động tư vấn dự án cho một số khách hàng cùng ngành kinh tế – kĩ thuật ngoài Tổng công ty. + Tăng số lượng phân tích các dự án có quy mô lớn hơn nữa + Xúc tiến thực hiện lập các dự án có sự hợp tác của các tỏ chức nước ngoài + Nâng cao hơn nữa chất lượng và tính chuyên nghiệp của hoạt động tư vấn lập dự án nói chung và phân tích tài chính dự án nói riêng để sẵn sàng đón nhận những dự án được nhận tài trợ từ các tổ chức của nước ngoài, do yêu cầu của các nhà tài trợ đối với các dự án này rất cao. + Xúc tiến mở rộng sản phẩm mới về tư vấn quản lý dự án, tư vấn đầu thầu, tư vấn thu xếp vốn cho chủ đầu tư. Trước những kế hoạch phát triển mạnh mẽ của ngành nói chung và của Công ty nói riêng, hoạt động tư vấn dự án trong đó có phân tích tài chính dự án cần phải có những bước phát triển mới, chuẩn bị tinh thần tiếp nhận rất nhiều dự án trong tương lai. Trong những bước phát triển mới này, việc nâng cao chất lượng phân tích tài chính dự án là một trong những nội dung nòng cốt vừa củng cố những hoạt động hiện tại, vừa tạo đà cho những sự phát triển mới. Nhưng việc làm thế nào để nâng cao chất lượng của hoạt động này cũng đang đặt ra nhiều câu hỏi. Sau đây là một số đề xuất về giải pháp và kiến nghị. 3.2.2 Kiến nghị với chính phủ + Bổ xung và hoàn thiện hệ thống chính sách, văn bản pháp luật về đầu tư ví dụ như ban hành hoặc cụ thể hơn nữa các công thức chuẩn trong tính toán các chỉ tiêu, định mức trong đầu tư…Các quy định cụ thể cho từng nhòm ngành nghề trong nền kinh tế. + Kiến nghị điều chỉnh lại việc phân nhóm các dự án (nhóm A, B, C ) theo từng đặc điểm riêng của từng ngành. Ví dụ : Những dự án nhóm A của ngành xây dựng nên có tổng mức đầu tư khác với nhóm A của các ngành khác do giá trị xây dựng cơ sở vật chất là rất lớn. + Kìm chế lạm phát, ổn định giá cả thị trường một số loại hàng hoá chính như : Giá thép, giá ximăng, than, gỗ, vật liệu xây dựng, xăng dầu…Hầu hết các mặt hàng này đều là những nguyên liệu đầu vào chủ yếu cho quá trình sản xuất. Vậy nên, biện pháp này nhằm làm giảm những biến động lớn trong doanh thu và chi phí của dự án. Từ đó làm cho các kết luận trong phân tích tài chính có tính xác thực cao. + Ổn định thị trường tài chính nhằm giảm bớt những biến động về tỷ giả, lãi suất. + Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá chất lượng phân tích tài chính dự án để làm cơ sở tham chiếu cho các nhà phân tích. Đồng thời cũng làm chuẩn cho các nhà thẩm định khi tiến hành đánh giá dự án. + Tạo điều kiện hỗ trợ các dự án trong việc xin tài trợ nguồn vốn của các tổ chức nước ngoài. Đặc biệt, kiến nghị Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính tạo điều hỗ trợ huy động nguồn vốn để thực hiện các dự án bởi đối với một số khoản tín dụng của ngân hàng nước ngoài có sự yêu cầu bảo lãnh của Bộ Tài chính hoặc các ngân hàng thương mại quốc doanh. + Đề nghị chính phủ ,bộ tài chính hỗ trợ ,bảo lãnh trong một số hoạt động tớn dụng với cỏc NH ,tổ chức tài chớnh nứoc ngoài 3.3 Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án ở công ty tài chính công nghiệp Tàu Thuỷ Tháo gỡ và giải quyết những hạn chế trên sẽ là cần thiết và quan trọng nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng phân tích tài chính dự án. Mỗi tồn tại và những nguyên nhân gây ra tồn tại không phải là đơn lẻ và độc lập mà có mối liên hệ nhất định trong hoạt động lập dự án. Và do vậy, những giải pháp đưa ra dưới đây được xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan phát sinh từ nội tại của Công ty, cần được thực hiện một cách đồng bộ, và mỗi nhóm giải pháp đều một phần nào đó giải quyết những vấn đề còn tồn tại ở một khía cạnh và lĩnh vực nhất định, đồng thời nó cũng chính là những công cụ hữu ích nhằm nâng cao chất lượng phân tích tài chính dự án ở Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ. 3.3.1 Nâng cao nghiệp vụ thẩm định tài chính dự án đầu tư. Đây là giải pháp quan trọng và cần phải được ưu tiên hàng đầu. a. lựa chọn phương pháp thẩm định phù hợp Phương pháp thẩm dịnh nhì chung là vô cùng đa dang và nhiều phương pháp khác nhau nhưng sự vận dung phương pháp nào cho phù hợp cho từng dự án, từng nội dung cụ thể đòi hỏi trình độ của cán bộ thẩm định phải biêt kết hợp hài hòa giữa phương thức so sánh , đối chiếu, rồi chi tiết hay tổng quát cần phai bám sát vào các quy định của ngân hàng, nhà nước đã đề ra các chỉ tiêu tinh toán. Nếu công việc phức tạp có thể thành lập một nhóm công sự, cộng với sự giúp đỡ , tư vấn của các chuyên gia trong lĩnh vưc thẩm định và lĩnh vực đầu tư. b. Giải pháp về nội dung thẩm định. Đảm bảo nội dung thẩm định toàn diện và chính xác.Trong tờ trình thẩm định khách hàng , thẩm định khách hàng, yêu cầu mà ngân hàng đặt ra cho thấy nội dung của báo cáo là hết sức toàn diện và đòi hỏi tính chính xác. Vì vậy, khi cán bộ thẩm định tiến hành thẩm định một dự án,cần tuân thủ đầy đủ hướng dẫn của quy trình. Khi xem xét tờ trình thẩm định trưởng bộ phận tín dụng phải yêu thẩm định và báo cáo lại nếu như chưa đáp ứng yêu cầu đề ra. Tờ trình là kết quả của quá trình thẩm định là căn cứ quan trọng để xét duyệt cho vay.tờ trình đảm bảo về mặt nội dung và tính chính xác có thể làm căn cứ xét duyệt. Do đó việc thống nhất nội dung và hình thức thẩm định là điều bắt buộc. c. X©y dùng mét quy tr×nh ph©n tÝch tµi chÝnh dù ¸n theo tiªu chuÈn. Bản thân ở công ty từ trước tới nay vẫn chưa có một quy trình áp dụng chung trong phân tích tài chính dự án. Đề xuất xây dựng một quy trình phân tích khoa học, đảm bảo được những yêu cầu cơ bản trong phân tích và phù hợp với đặc điểm các dự án của ngành như sau : Dự tính tổng mức đầu tư tối ưu Nhà phân tích phải dự đoán được một cách chính xác nhu cầu vốn của dự án. Phân khai một cách rõ ràng vốn đầu tư cho phần xây lắp, phần thiết bị công nghệ, phần thiết kế nghiên cứu, kiểm tra khảo sát, tư vấn và một số chi phí khác. Đồng thời phải phân định rõ được các kì sử dụng vốn để có kế hoạch huy động một cách tối ưu, tránh tình trạng ứ đọng vốn và sử dụng vốn không hiệu quả. Ví dụ dự án đóng mới một con tàu có trọng tải lớn, dự tính thời gian là 18 tháng, nhà phân tích phải nêu rõ được tiến độ sử dụng vốn của chủ đầu tư được căn cứ trên tiến độ thi công của dự án. Trong 6 tháng đầu, sẽ hoàn thành được những công đoạn nào của con tàu với mức chi phí là bao nhiêu, 6 tháng tiếp theo sẽ sử dụng hết bao nhiêu vốn và 6 tháng cuối cùng chủ đầu tư sẽ phải sử dụng hết bao nhiêu vốn khi con tàu bước vào giai đoạn hoàn thiện. Nhà tài trợ sẽ căn cứ vào tiến độ sử dụng vốn mà tiến hành giải ngân một cách kịp thời. Phân tích nguồn vốn tài trợ cho dự án Các nguồn vốn tài trợ cho dự án phải được phân khai một cách rõ ràng. Đặc biệt đối với nhiều dự án lớn, sự tham gia hợp tác của nhiều bên, nguồn tài trợ cho dự án được huy động từ nhiều nguồn khác nhau với nhiều mức lãi suất khác nhau. Sau khi đã có một tổng mức đầu tư chính xác, nhà phân tích phải phân khai nguồn vốn cho chủ đầu tư. Những nguồn nào là vốn tự có, mức đầu tư là bao nhiêu? Số vốn huy động từ phát hành trái phiếu, số vốn vay thương mại của các ngân hàng thương mại trong nước, các ngân hàng nước ngoài, số vốn do ngân sách nhà nước cấp, số vốn vay ưu đãi của Quỹ hỗ trợ phát triển, có nghĩa là phân tích rõ cơ cấu nguồn vốn tài trợ cho dự án. Tất nhiên không phải dự án nào cũng sẽ có một cơ cấu vốn phức tạp như trên, có thể có nhiều dự án chỉ sử dụng vốn từ một hoặc hai nguồn khác nhau. Thậm chí đối với một số dự án, đòi hỏi nhà phân tích phải phân định rõ ràng những nguồn tài trợ nào sẽ được sử dụng cho phần công việc nào của dự án, bởi có một số nguồn vốn chỉ được phép tài trợ cho những hạng mục nhất định của dự án. Ví dụ đối với dự án xây dựng một khu công nghiệp thì chi phí cho việc xử lý chất thải, giải phóng mặt bằng và một số chi phí khác liên quan tới việc khắc phục môi trường sẽ được tài trợ bởi vốn ngân sách Nhà nước hoặc nguồn tài trợ từ ODA, phần công nghệ sẽ được tài trợ bởi các nhà đầu tư nước ngoài do các điều khoản trong hợp đồng EPC, phần xây dựng cơ bản, tiền lương nhân công và các chi phí còn lại sẽ được tài trợ bởi vốn vay ngân hàng thương mại trong nước và vốn chủ sở hữu…Việc phân chia rõ ràng các nguồn tài trợ sẽ giúp cho người thẩm định thấy rõ được cơ cấu nguồn của dự án và định hướng cho chủ đầu tư sử dụng các nguồn vốn một cách tối ưu. Trong tổng nguồn vốn tài trợ cho dự án, nhà phân tích cũng phải phân khai được các nguồn tài trợ cho tài sản cố định và tài sản lưu động ròng. Đây là một cơ sở quan trọng để tiến hành tính khấu hao tài sản và dòng thu hồi tài sản cho các năm sau của dự án. Một nội dung quan trọng trong phân tích nguồn vốn là xây dựng một dự toán vốn cho dự án, cơ sở để dự báo tổng mức đầu tư cho dự án có thể dựa trên hai phương pháp : phương pháp dự báo theo tỷ phần doanh thu và phương pháp dự toán tổng thể. Tuy nhiên, trên thực tế, người ta hay sử dụng phương pháp thứ hai hơn vì nó sẽ đưa ra được một cơ cấu vốn và mức dự toán hợp lý, ít sai lệch. - Tính toán lãi suất và xây dựng kế hoạch trả nợ Lãi suất là một yếu tố quan trọng của dự án. Nó không những liên quan tới nghĩa vụ hoàn trả của chủ đầu tư, quyền lợi của ngân hàng mà còn là cơ sở quyết định để tính toán NPV của dự án. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn thuần là việc tính toán lãi suất thì sẽ đơn giản hơn rất nhiều. Nhưng nhà phân tích với tư cách là người tư vấn tài chính cho chủ đầu tư phải lên các phương án trả nợ một cách hợp lý cho khách hàng, tuỳ thuộc vào điều kiện tài chính và hoàn cảnh cụ thể từng dự án. Có thể có nhiều phương án trả nợ như trả nợ gốc đều, lãi trả theo số dư; trả nợ theo niên kim cố định; lãi trả trước, gốc trả sau…Một phương án trả nợ tốt sẽ giúp chủ đầu tư tránh được khó khăn về vốn cũng như sức ép trả nợ trong những năm đầu của dự án. Song song với việc lựa chọn một phương án trả nợ thích hợp, nhà phân tích phải tính toán chi phí vốn trung bình cho dự án. Nếu như dự án có nhiều phương án tài trợ vốn thì rõ ràng một phương án tối ưu đối với chủ đầu tư sẽ là một phương án có WACC thấp nhất. Tính toán dòng thu của dự án Dòng thu hay còn được hiểu là dòng tiền vào của dự án bao gồm các khoản thu được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án hoặc các hoạt động khác; các khoản thu được từ bán, thanh lý tài sản; các khoản thu hồi tài sản lưu động ròng; các khoản được viện trợ v.v…Trong số những dòng thu vào này thì doanh thu của dự án đóng một vai trò quan trọng hơn cả. Nó chiếm tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu dòng vào của dự án và bản thân nó cũng là dòng tiền quyết định tới lợi nhuận thu được của dự án. Doanh thu thường được tính toán dựa trên số lượng hàng hoá sản xuất ra và đơn giá của chúng. Doanh thu của một dự án được dự tính tốt phải bảo đảm phân tích một cách kĩ lưỡng và chính xác những nhân tố hình thành nên doanh thu. Nhà phân tích đồng thời cũng phải dự tính được tính hiện thực của dự án. Ví dụ một dây chuyền công nghệ sản xuất mỳ tôm trong một vài năm đầu không thể nào vận hành với công suất 100% được, thậm chí trong suốt cả vòng đời của dự án, dây chuyền này chỉ hoạt động tốt nhất với công suất 90%. Nhà phân tích tài chính còn phải lường trước được sự biến động của giá cả và xu hướng thị trường tiêu thụ để có thể đưa ra một mức giá cả phù hợp cho sản phẩm, đặc biệt trong thời kì đầu mới đưa sản phẩm ra thị trường giá cả của sản phẩm không thể nào cao như mức kì vọng của chủ đầu tư được. Trong thực tế chúng ta thường gặp hầu hết các dự án có doanh thu biển đổi khác nhau qua các năm, vì thế không nên gán cho dự án một mức doanh thu trung bình đều đều qua các năm. Nhà phân tích càng tính toán được chính xác mức doanh thu qua các kì của dự án càng tốt. Nói tóm lại, người phân tích phải có được thông tin chính xác về vòng đời của sản phẩm, công suất hoạt động thực tế của dự án, sự biến động của giá và kế hoạch sản xuất kinh doanh của dự án. Dòng thu của dự án còn phải được tính toán lớn hơn dòng chi ở một mức độ nhất định để đảm bảo khả năng sinh lời và tính khả thi của dự án. Một dự án có chất lượng phân tích tài chính tốt không thể nào là một dự án có dòng thu < dòng chi được bởi nó không đạt được yêu cầu cơ bản của dự án đặt ra. Tính toán dòng chi của dự án Nói tới dòng chi hay dòng tiền ra của dự án chúng ta sẽ liên tưởng tới một tập hợp các chi phí phát sinh trong quá trình triển khai dự án. Các khoản chi phí này hoàn toàn khác hẳn với những khoản chi trong tổng mức đầu tư. Các khoản chi tiêu trong tổng mức đầu tư là các khoản chi phí nhằm hình thành nên tài sản cố định cho dự án hay còn gọi là chi đầu tư. Khoản chi này thường được thể hiện trong NCF0 của dự án. Các khoản chi phí là những khoản phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của dự án, hay còn gọi là chi phí vận hành dự án. Người phân tích tài chính phải tách biệt rõ giữa hai khoản chi tiêu này. Đồng thời người phân tích phải có trách nhiệm tổng hợp các khoản chi phí sản xuất kinh doanh. Trong một dự án, cho dù lớn hay nhỏ, đơn giản hay phức tạp thì tối thiểu các loại chi phí sau cần phải được tính toán trong quá trình phân tích : Chi phí cố định : Đây chính là những khoản đầu tư vào tài sản cố định của dự án, được khái toán vào trong phần tổng mức đầu tư; hoặc có thể là tiền thuê tài sản cố định, chi phí quảng cáo Marketing… Chi phí biến đổi : bao gồm có chi phí nguyên vật liệu, chi phí năng lưọng, chi phí quản lý, tiền lương… Chi phí khác gồm các khoản như dự phòng phí trong trường hợp giá cả nguyên vật liệu biến động, các khoản chi phí khác khó phân loại được vào trong chi phí cố định và chi phí biến đổi. Chi phí tài chính : bao gồm các khoản chi trả lãi vay đầu tư hàng kì, trả lãi vay vốn lưu động nếu có. Như vậy trong phần phân tích chi phí, tối thiểu nhà phân tích phải kê khai được đầy đủ các loại chi phí trên. Và cũng tương tự như dòng thu, một dự án có chất lượng phân tích không tốt khi mà các nhà phân tích tính toán dòng chi của dự án > dòng thu của nó. Đó là điều không thể chấp nhận được khi ra quyết định lựa chọn dự án. Một tiêu chí nữa để đánh giá đó là mức chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh phải dựa trên cơ sở hợp lý hoá với quá trình sản xuất thực tế của dự án. Việc tính toán sai lầm mức tiêu thụ nguyên vật liệu dễ dàng gây ra hiện tượng ứ đọng làm phát sinh chi phí bảo quản lưu kho không đáng có. Đồng thời trong khi phân tích cũng không nên dự tính chi phí cho các năm ở một mức bình quân cho cả vòng đời dự án. Người phân tích phải căn cứ vào chương trình sản xuất kinh doanh cụ thể để tính chính xác mức chi tiêu. Khấu hao tài sản cố định Khấu hao tài sản cố định không phải là một khoản chi phí hay doanh thu của dự án nhưng nó là một dòng ra của dự án khi tính toán dòng tiền. Khấu hao thường được cộng vào các khoản chi phí để tính toán giá thành sản phẩm. Nhà phân tích phải xác định được những yếu tố sau : Các tài sản tính khấu hao Số năm tính khấu hao tài sản cố định ( có thể khác nhau giữa các tài sản) Phương pháp tính khấu hao cho mỗi loại Tính toán dòng khấu hao cho từng năm cho từng loại khác nhau Thu hồi tài sản cố định sau khi đã hết thời gian khấu hao Đặc biệt đối với phương pháp tính khấu hao, người phân tích có thể giúp chủ đầu tư lựa chọn một phương pháp khấu hao hợp lý nếu như chủ đầu tư gặp phải sức ép lớn về vốn và trả nợ trong những năm đầu dự án. Tuy nhiên, thông thường thì người ta thường chọn phương pháp khấu hao theo đường thẳng để đơn giản hoá bớt quá trình phân tích. Tính toán các chỉ tiêu tài chính Như phần 1.2 đã trình bày về nội dung của các chỉ tiêu phân tích tài chính, để đảm bảo tốt chất lượng phân tích tài chính, nhà phân tích nhất thiết phải tính toán được NPV, IRR và số năm hoàn vốn của dự án. Tuy nhiên, đối với các dự án có nguồn tài trợ từ cả của ngân hàng và của chủ đầu tư thì người phân tích nên tính toán chỉ tiêu NPV và IRR cho cả hai chủ thể : NPV và IRR của chủ đầu tư tương ứng với lãi suất chiết khấu là chi phí vốn của chủ đầu tư và NPV, IRR của cả dự án tương ứng với lãi suất chiết khấu chi phí vốn trung bình của các nguồn tài trợ. Nếu như ở các phần trước, các dòng thu chi và chi phí vốn được tính toán chính xác thì trong phần tính toán chỉ tiêu, nhà phân tích chỉ việc áp dụng đúng công thức vào tính toán và đưa ra kết luận về hiệu quả tài chính của dự án. Đánh giá rủi ro của dự án Các hoạt động của dự án sẽ xảy ra trong tương lai và trong một thời gian dài, vì thế nó không thể không tránh khỏi những rủi ro nhất định. Trong khi đánh giá rủi ro của dự án, quan trọng nhất người phân tích phải đánh giá được xu hướng biến động của thị trường và tìm ra được một xác suất chính xác về sự thay đổi của thị trường. Điều này, buộc các nhà phân tích phải có được những con số thống kê trong quá khứ, các con số của ngành…để làm cơ sở đưa ra những giả thuyết của mình. Trong hai phương pháp đánh gí rủi ro của dự án, phương pháp phân tích tình huống và phân tích độ nhạy thì phân tích độ nhạy trên thực tế được sử dụng rộng rãi hơn. Trong quá trình đánh giá độ nhạy của dự án, các phần sau đây sẽ được đưa ra để phân tích : Sự biến động doanh thu của dự án. Doanh thu được cấu thành bởi hai yếu tố sản lượng và giá thành sản phẩm, vì thế, sự thay đổi về doanh thu so với phương án đã phân tích đưa ra có thể nguyên nhân do sự biến đổi về sản lượng ( tăng hoặc giảm công suất); sự biến động về giá thành sản phẩm; hay do cả hai nhân tố trên. Sự biến động về chi phí. Chủ yếu do sự biến động trong giá cả nguyên vật liệu đầu vào Thông thường, phân tích độ nhạy trong khoảng biến động ± 10% doanh thu và chi phí. Trong nhiều dự án, độ nhạy còn được đánh giá trên cơ sở sự thay đổi của tổng vốn đầu tư. Nhà phân tích có thể phân tích các phương án thay đổi của vốn đầu tư để xem xét sự thay đổi kéo theo của các chỉ tiêu tài chính. 3.3.2 Nâng cao năng lực thẩm định của công ty - Chiến lược đào tạo, sử dụng và phát triển nhân lực. Thực tế và lý thuyết đều cho thấy rằng, con người là một nguồn lực quan trọng nhất trong một tổ chức. Vì thế, công ty cũng phải có kế hoạch phát triển nhân sự về: + Tăng cường đội ngũ nhân sự, bổ xung thêm các chuyên viên tư vấn dự án về các lĩnh vực kĩ thuật. + Tổ chức đào tạo những kiến thức cơ bản của ngành cho các cán bộ phân tích tài chính, giúp họ nắm bắt được những kiến thức chung nhất về kĩ thuật ngành để phục vụ nâng cao chất lượng công việc. + Tổ chức đào tạo nâng cao về các nghiệp vụ phân tích tài chính, cập nhật những phương pháp mới, những cách tiếp cận hiện đại của thế giới. + Tích cực phổ biến, cập nhật kịp thời các văn bản chính sách pháp luật của Nhà nước, các bộ ngành về : đầu tư, đấu thầu, xây dựng, thuế, chính sách lãi suất, tỷ giá, thương mại, đăng kiểm, qui hoạch… + Đề xuất chính sách thuyên chuyển cán bộ nhằm nâng cao và trau dồi hơn nữa kiến thức cũng như kinh nghiệm của cán bộ công nhân viên trong phòng. Cụ thể, sau khi cán bộ phân tích tài chính dự án đã nắm bắt được hết nội dung công việc của phân tích dự án có thể được điều chuyển sang bộ phân tín dụng làm việc một thời gian. Trong thời gian này, trên cương vị là một cán bộ tín dụng thẩm định và đánh giá lại dự án đã được phân tích để đi tới quyết định cho vay, họ có thể phát hiện ra những sơ hở và sai xót trong quá trình phân tích tài chính, để từ đó có những điều chỉnh hợp lý. + Tổ chức các buổi hội thảo, trao đổi chuyên môn nghề nghiệp với các ngân hàng và tổ chức tín dụng có uy tín trong lĩnh vực tài chính dự án. - Chuyên môn hoá cách thức tổ chức và phân bổ công việc. Mặc dù hiện tại đội ngũ nhân sự vẫn còn mỏng, số lượng công việc chưa nhiều, song Công ty cũng cần phải phân công công việc cho từng người theo hình thức chuyên môn hoá nhằm phục vụ cho sự phát triển lớn mạnh sau này của hoạt động tư vấn lập dự án.Đề xuất chuyên môn hoá công việc có thể được phân theo hai loại sau : + Phân loại theo chiều dọc ngành: chuyên môn hoá theo cách giao nhiệm vụ cho mỗi người hoặc nhóm người cùng phụ trách một lĩnh vực sau : Lĩnh vực xây dựng và nâng cấp các nhà máy đóng mới sửa chữa tàu biển. Các dự án về đóng mới tàu biển Các dự án về sửa chữa tàu biển Các dự án về khai thác tàu biển : Ví dụ dự án đầu tư tàu hàng có trọng tải 6.500 DWT chở hàng đi theo tuyến Hải phòng – Jakatta. Các dự án phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ như công nghiệp thép tấm cán nóng, công nghiệp cơ khí chế tạo máy, công nghiệp khí nén, công nghiệp điện… Các dự án khác ngoài ngành. + Phân loại theo chiều ngang : Mỗi người hoặc một nhóm người sẽ phụ trách phân tích tài chính ứng với từng nội dung của báo cáo nghiên cứu khả thi : Khái toán phần xây lắp Khái toán phần thiết bị Chi phí tiền lương và nhân công Chi phí khác (trong đó có cả chi phí tài chính, dự phòng phí…) Phân khai các nguồn vốn Tính toán các chỉ tiêu tài chính Đánh giá rủi ro Tuy nhiên, lựa chọn phương án một với sự phân chia quản lý dự án theo chiều dọc sẽ tốt hơn. - Tổ chức lưu trữ thông tin một cách khoa học. Bản thân để hoàn thành một quyển báo cáo nghiên cứu khả thi phải huy động kiến thức từ rất nhiều ngành khoa học khác nhau, nghiên cứu các chính sách, quyết định có liên quan…Hơn nữa, để cho các dự án mang tính thuyết phục và khả thi cao, các con số thống kê cần phải được đưa vào phân tích. Vì thế vấn đề lưu trữ thông tin có khoa học sẽ khiến cho công việc trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn nhiều. Hơn thế nữa, việc lưu trữ và tổ chức tìm kiếm thông tin một cách khoa học sẽ giúp giảm chi phí vì phải bỏ nhiều tiền để mua thông tin của các chuyên gia. Đồng thời các kết quả phân tích được từ các dự án cũng phải được tổ chức lưu trữ một cách có khoa để làm tư liệu nghiên cứu cho các dự án sau hoặc các dự án tương tự. - Nâng cao điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình thu thập và xử lý thông tin hiệu quả. Trong nghiệp vụ thẩm định tài chính dự án việc tính toán rất khó khăn và phức tạp mà việc tính toán thủ công sẽ tốn nhiều thời gian công sức và nhiều khi không đem lại kết quả như mong muốn, nhưng với việc sử dụng các phần mền chuyên dụng sẽ khắc phục được những khó khăn trên. Cụ thể là hệ thống máy tính cá nhân cấu hình cao có thể xử lý được các phần mềm về kỹ thuật, xây dựng, tài chính, khai thác vận tải biển và khả năng truy cập thông tin trên mạng cao. 3.3.3 Giải pháp khác - Chiến lược thu hút khách hàng. Đây là một giải pháp mang tính chất bổ trợ, nó gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng phân tích tài chính dự án ở công ty bởi các nguyên nhân sau đây : + Tiếp nhận nhiều dự án sẽ làm cho các cán bộ phân tích có nhiều kinh nghiệm hơn. + Trong khi đánh giá hiệu quả đối với một số dự án nước ngoài hoặc các dự án được cấp hỗ trợ từ phía nước ngoài giúp cho người phân tích có thể tiếp cận được với những kiến thức mới và phong cách chuyên nghiệp. + Số lượng các dự án tăng lên đồng nghĩa với việc thu nhập cho cán bộ phân tích dự án cũng tăng lên, tạo ra được một động lực lớn để họ có thể làm việc hiệu quả hơn nữa. Sau đây là một số đề xuất cho chiến lược thu hút khách hàng dựa trên quan điểm Marketing : + Cạnh tranh về giá : Dựa trên những lợi thế sẵn có và nguồn lực hiện tại, Công ty có thể đưa ra mức phí tư vấn dự án xuống mức có thể cạnh tranh tốt với các công ty tư vấn tài chính khác. + Cạnh tranh về sản phẩm : Trên thực tế, các khách hàng ngoài gặp khó khăn về đánh giá phương án kinh doanh, họ còn gặp phải rất nhiều vướng mắc trong quá trình thu xếp vốn, quản lý xây dựng dự án, đấu thầu hay thậm chí là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Vì thế, một trong những chiến lược nhằm thu hút khách hàng là phải đa dạng hoá sản phẩm. Công việc phân tích tài chính dự án chỉ là một phần trong rất nhièu những công đoạn khác để khách hàng có thể thực hiện được dự án theo đúng ý tưởng của mình. Vì thế tư vấn nguồn vốn, thu xếp vốn, tổ chức đấu thầu, tư vấn quản lý dự án…. Nếu được gói gọn trong một dự án với khách hàng sẽ có thể thu hút được rất nhiều khách hàng đến với Công ty. Đồng thời, Công ty phải dần tiếp cận với những dự án ngoài ngành với mục đích mở rộng thị trường và nhân rộng uy tín. + Chiến dịch quảng cáo – PR : Tổ chức các hoạt động với mục đích khuếch trương sản phẩm như các buổi hội thảo và trao đổi kinh nghiệm với khách hàng hoặc ngân hàng; tổ chức triển lãm, giới thiệu về các dự án đã thực hiện do Công ty làm tư vấn… - Xúc tiến mở rộng thêm nhiều chi nhánh nữa của công ty tại các tỉnh và thành phố khác ngoài Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. Hiện tại, Công ty đã triển khai chi nhánh mới tại Hải Phòng. - Tăng cường các mối quan hệ, xây dựng mối liên kết với Hiệp hội DNVVN, các hiệp hội làng nghề, hiệp hội doanh nghiệp trẻ… nắm bắt thông tin về doanh nghiệp như tình hình sản xuất kinh doanh, nhu cầu về vốn, dịch vụ; đồng thời chuyển tải thông tin hoạt động của Ngân hàng No tới DNVVN, tạo mối liên hệ qua lại thường xuyên, xâm nhập lẫn nhau giữa công ty với DNVVN. Thông qua các Hiệp hội, công ty tham gia cung cấp các dịch vụ đào tạo đến các DNVVN, giúp cho việc tiếp cận vốn của các DNVVN thuận lợi với chi phí thấp. Mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức Quốc tế, tranh thủ khai thác các nguồn tài trợ cho DNVVN, giúp cho việc tiếp cận vốn của các DNVVN, tạo ra sự đa dạng hoá nguồn vốn, đặc biệt là trung dài hạn ngoại tệ đầu tư cho các dự án sản xuất hàng xuất khẩu. Mở rộng hợp tác, học tập kinh nghiệm về mô hình quản lý tín dụng, đầu tư cho DNVVN tại các TCTD trong khu vực và trên Thế giới tạo ra các cơ hội nhận tài trợ đào tạo, học hỏi kinh nghiệm, góp phần nâng cao kỹ năng đầu tư cho DNVVN. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Thẩm định .trường kinh tế quốc dân. 2. Báo cáo đánh giá về tổ chức hoạt động của loại hình Công ty Tài chính tại Việt Nam. Tài liệu hội thảo Tổng kết Luật các Tổ chức tín dụng – Loại hình Công ty Tài chính, Hà Nội 26/09/2002 3. Báo cáo Tổng kết hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ trong các năm 2001-2008. 4. Điều lệ tổ chức và hoạt động Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ. 5. Nguyễn Văn Bình, “Một số quy định liên quan đến hoạt động của Tổ chức Tín dụng phi ngân hàng trong Luật các tổ chức tín dụng cần được nghiên cứu, chỉnh sửa”, Tạp chí Ngân hàng, số chuyên đề năm 2003 6. ThS Trần Công Diệu: “Hoàn thiện và phát triển mô hình Công ty Tài chính ở Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng số 6 năm 2001. 7. Frederic S. Mishkin, bản dịch “Tiền tệ, ngân hàng và thị trường Tài chính” Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội 2001. 8. Lê Thị Hương, “Về hoạt động của Công ty Tài chính trong Tổng Công ty Nhà nước” , Tạp chí Ngân hàng – số 3 năm 2002. 9. PGS.TS Lưu Thị Hương (chủ biên) “Giáo trình Tài chính doanh nghiệp”, Nhà xuất bản Thống kê 2003. 10. PGS.TS Lưu Thị Hương (chủ biên) “Thẩm định Tài chính dự án”, Nhà xuất bản Tài chính, 2004. 11. ThS Hồ Kỳ Minh, “ Mô hình Công ty Tài chính trong các tập đoàn kinh doanh trên thế giới”, Tạp chí Tài chính số 12/2001. 12. Các luận văn tốt nghiệp các khoá trước. 13. TS Nguyễn Hữu Tài (chủ biên): “ Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ” Nhà xuất bản Thống kê, 2002. 15. Các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Công ty Tài chính, liên quan đến hoạt động của ngành Công nghiệp Tàu thuỷ… MỤC LỤC NHẬN XÉT CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP Hà nội , ngày …tháng … năm 2009

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21592.doc
Tài liệu liên quan