Chuyên đề Hoàn thiện thẩm định khía cạnh tài chính của dự án vay vốn tại chi nhánh Ngân Hàng HABUBANK Hoàng Quốc Việt: Thực trạng và giải pháp

Thông tin nó là căn cứ quan trọng để thẩm định dự án, do đó nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin sẽ gúp phần hoàn thiện nghiệp vụ thẩm định. Nguồn thông tin càng chính xác và phong phú thì kết quả thẩm định càng có độ chính xác cao. Do đó NHTM HABUBANK một mặt cần gia tăng các nguồn cung cấp thông tin, mặt khác cần tìm cách thu thập và xử lý thông tin một cách có hiệu quả Đối với những thông tin mà liên quan dự án của doanh nghiệp, cán bộ thẩm định hay cán bộ tín dụng không chỉ căn cứ vào các tài liệu khách hàng gửi đến, mà phải trực tiếp phỏng vấn người đại diện giao dịch của doanh nghiệp để chất vấn các thông tin không chính xác. Đồng thời phải kết hợp với việc tham quan khảo sát cơ sở sản xuất, văn phòng, nhà xưởng nhằm điều tra năng lực sản xuất và quản lý của doanh nghiệp. Cán bộ thẩm định có thể tham khảo các thông tin từ bạn hàng, đối tác, các nhà cung cấp của doanh nghiệp, để đánh giá được tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thanh toán cũng như khả năng cung cấp đầu vào và tiêu thụ đầu ra của dự án. Ngoài ra ,các nguồn thông tin cần thiết có thể được thu thập từ trung tâm phòng ngừa rủi ro thuộc Ngân Hàng Nhà Nước, từ các tổ chức tín dụng, mà ngân hàng có quan hệ, từ các cơ quan quản lý kinh tế, các chuyên gia kinh tế kỹ thuật, các thông tin đa dạng từ sách báo, tài liệu chuyên ngành có liên quan

doc88 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện thẩm định khía cạnh tài chính của dự án vay vốn tại chi nhánh Ngân Hàng HABUBANK Hoàng Quốc Việt: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lưu Động 1,776,215 717,070 706,506 669,789 703,119 Khấu hao 1,023,263 1,023,263 1,023,263 504,480 504,480 Lãi vay 180,234 144,187 96,125 48,062 12,016 Dòng tiền hoạt động 936,675 2,655,643 2,718,012 2,961,037 2,647,690 Đầu tư ban đầu Dòng tiền dự án (6,740,136) 1,225,120 1.287,489 1,530,514 1,217,167 Năm 2007 2008 2009 2010 2011 Lợi nhuận sau thuế 2,834,314 3,309,159 3,309,159 3,309,159 3,309,159 Tăng giảm vốn lưu động 684,459 0 0 0 0 Khấu hao 504,480 504,480 504,480 504,480 504,480 Lãi vay 0 0 0 0 0 Dòng tiền hoạt động 3,129,181 3,813,639 3,813,639 3,813,639 3,813,639 Đầu tư ban đầu Dòng tiền dự án 1,698,658 2,383,116 2,383,116 2,383,116 2,383,116 Bảng 2.8 Bảng cân đối kế toán của Toàn Lực (Nguồn Báo cáo thẩm định của HABUBANK Đơn vị tính 1000 VNĐ) Bảng cân đối kế toán Năm 31/3/2002 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 A)Tài Sản 1)Tài Sản lưu động Tiền mặt 555,951 1,633,402 3,606,343 5,695,483 8,081,478 10,725,324 Hàng tồn kho 2,005,142 2,909,761 3,488,562 4,073,050 4,620,821 5,201,922 Nợ phải thu của KH 1,624,703 1,889,333 2,286,700 2,667,817 3,048,933 3,430,050 Tổng Tài Sản lưu động 4,185,796 6,432,496 9,381,606 12,436,351 15,751,233 19,357,296 2)Tài Sản cố định Nguyên giá MMTB 1,556,351 7,559,648 7,559,648 7,559,648 6,003,298 6,003,298 Khấu hao lũy kế 41,503 1,023,263 2,046,527 3,069,790 2,017,920 2,522,400 Giỏ trị còn lại 1,514,848 6,536,384 5,513,121 4,489,858 3,985,373 3,480,898 Tổng Tài Sản 12,968,880 14,894,727 16,926,208 19,736,611 22,838,193 B)Nguồn Vốn Nợ ngắn hạn 2,320,142 2,689,312 2,948,410 3,207,509 3,466,607 3,725,706 Vay chủ sở hữu 1,393,819 1,393,819 1,393,819 1,393,819 1,393,819 1,393,819 Nợ phải trả 2,189,908 1,295,493 1,554,591 1,813,690 2,072,788 2,331,887 Nợ dài hạn đến hạn trả 144,187 89,259 34,330 ________ ________ Vay dài hạn 1,471,356 987,770 504,184 ------------- ------------- Vốn góp mới 4,977,795 Nguồn vốn kinh doanh 1,200,000 1,200,000 6,177,795 6,177,795 6,177,795 6,177,795 Thu nhập không chia lũy kế 2,486,230 4,691,493 7,002,390 10,092,208 12,934,692 Vốn chủ sở hữu 8,664,026 10,869,288 13,180,185 16,270,003 19,112,487 Tổng Nguồn Vốn 12,968,880 14,894,727 16,926,208 19,736,611 22,838,193 Bảng 2.9: Bảng Tóm tắt dự kiến kết quả doanh thu (Nguồn Báo cáo thẩm định tài chính của HABUBANK) Đơn vị tính 1000 VNĐ Năm 31/12/02 31/12/03 31/12/04 31/12/05 31/12/06 1)Khả năng thanh toán ngắn hạn 2.3918 3.1605 3.877 4.543 5.195 2)Khả năng thanh toán nhanh 1.309 2.19 2.6077 3.211 3.794 3) Hệ số nợ hay Tổng số nợ/Tổng tài sản 32.08 % 26.42 % 21.92 % 17.56 % 16.31 % 4)Doanh thu/Tổng tài sản 1.748 1.842 1.891 1.853 1.80 5)Lợi nhuận/Doanh thu(%) 6.7 % 8.8 % 8.59 % 10.05 % 10.15 % 6)Lợi nhuận trước thuế/Tổng tài sản(%) 11.78% 14.80% 16.25% 18.63% 18.70% 7)Lợi nhuận trước thuế/Vốn chủ sở hữu(%) 17.6% 20.28% 20.87% 22.61% 21.87% Khả năng thanh toán ngắn hạn là thể hiện mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn và khoản nợ ngắn hạn.Ta thấy khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của Công ty Cổ phần Toàn Lực ngày càng tăng nghĩa mức độ đảm bảo của TSLĐ với khoản nợ ngắn hạn là ngày càng có điều kiện để đảm bảo,khả năng rủi ro là ngày càng ít đi. +Khả năng thanh toán nhanh là việc Toàn Lực có khả năng huy động các tài sản có khả năng chuyển đổi thành tiền để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.Qua các năm từ 2004-2008 thì khả năng Công ty Toàn Lực chuyển đổi tài sản thành tiền là ngày càng tăng lên +Hệ số nợ phản ánh cứ sử dụng một đồng vốn thì có bao nhiêu đồng vay nợ.Các chủ nợ thông thường thích tỷ lệ nhỏ vì nó sẽ đảm bảo tính an toàn cao cho dự án vay,ta thấy rằng hệ số nợ của Công ty Toàn Lực ngày càng thấp và độ an toàn của nó giảm qua các năm nên ta chấp nhận được từ 32.08% giảm dần và cũn 16.31% và do đó dự án an toàn Nếu như năm 2002 nếu cứ bình quân sử dụng một đồng vốn thì phải cần 0.3208 đ đi vay thì đến năm 2006 1 đ vốn thì chỉ càn 0.1631 đ đi vay thôi,đó là thể hiện tính an toàn của của doanh nghiệp tránh khả năng vỡ nợ +Doanh thu/Tổng tài sản : Phản ánh rằng 1 đ Tài sản thì tạo ra bao đ doanh thu .Qua bảng trên ta thấy tỷ lệ tăng nhưng không đáng kể ,nhưng nó tạo sự ổn định cho doanh nghiệp .Từ 1.748 lên 1.8 rõ ràng Toàn Lực đã cho thấy sự ổn định trong phát triển kinh doanh +Lợi nhuận/Doanh thu:Phản ánh rằng cứ một đồng doanh thu thì tạo ra bao đồng lợi nhuận.Từ năm 2002 cứ 1 đ doanh thu thì chỉ tạo ra 0.067 đ lợi nhuận thì nó đó tăng dần qua các năm và đến năm 2006 đó là 0.1015tức là 1 đ doanh thu thì tạo ra 0.1015 đ lợi nhuận .Qua đó ta thấy rằng tỷ lệ lợi nhuận đó tăng dần qua các năm và nó đó khẳng định rằng Toàn Lực đó hoạt động có hiệu quả và thực sự sử dụng vốn có hiệu quả +Lợi nhuận trước thuế/Tổng tài sản và Lợi nhuận trước thuế/Vốn chủ sở hữu:Phản ánh rằng 1 đ Tổng tài sản (1 đ vốn chủ sở hứu) đó tạo ra bao đ Lợi nhuận trước thuế.Qua các năm ta thấy rằng tỷ lên trên đó tăng dần qua các năm .Nó đó thể hiện rằng Tổng tài sản hay nguồn vốn đó được sủ dụng tốt hơn qua các năm.Thẩm định các chỉ tiêu tài chính của Dự án Với bảng trên thì IRR tính được là 23% Bảng 3.1 Bảng phân tích độ nhạy 2 chiều IRR =23% 23% 0.95 0.90 0.85 0.80 0.75 0.95 7% -4% #DIV/0! #DIV/0! #DIV/0! 0.90 1% #NUM! #DIV/0! #DIV/0! #NUM! 0.85 -4% #DIV/0! #DIV/0! #DIV/0! #DIV/0! 0.80 #NUM! #DIV/0! #DIV/0! #DIV/0! #DIV/0! 0.75 #DIV/0! #DIV/0! #DIV/0! #DIV/0! #DIV/0! Hàng và cột thể hiện sự thay đổi của chi phí lãi vay Kết luận của phòng đầu tư thẩm định dự án Trên cơ sở thẩm định cơ sở pháp lý, tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính và bản nghiên cứu khả thi cho việc vay, đầu tư vào việc mở rộng xưởng sản xuất để phục vụ việc kinh doanh của Công ty Cổ phần Toàn Lục, Phòng cho rằng việc cho vay đối với dự án nhà máy sản xuất da và các sản phẩm giả da có những điểm thuận lợi và khó khăn như sau + Báo cáo tài chính của Toàn Lực cho thấy, các chỉ số về khả năng trả nợ (DSCR) luôn ở mức trên 1,5, thậm chí vào năm cuối của dự án con số này lên đến 6,05. Tỷ lệ thanh toán hiện hành ở mức thấp nhất là 2,39 vào năm 2002 và tăng dần lên đến 5,20 vào năm 2005. Tỷ lệ thanh toán nhanh cũng đạt chỉ tiêu > 1 trong tất các các năm của dự án. Tỷ lệ lãi gộp/doanh thu luôn ở mức bằng và cao hơn 14,50%. Tỷ lệ lợi nhuận trước thuế/ tổng doanh thu luôn ở mức cao hơn 6,74%. Tỷ lệ nợ phải thu trên tổng doanh thu ở mức ổn định 8,33%. IRR = 23% NPV = 2,941,939.68 Về khía cạnh thẩm định tài chính của dự án thì ta thấy hiệu quả và cho vay.Công ty đạt được các kết quả khả quan về tài chính CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THẨM ĐỊNH TẠI CHI NHÁNH NHTM CP HABUBANK VÀ MỘT SỐ GIẢP PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG 2.1Đánh giá công tác thẩm định tại NHTM CP HABUBANK cúng như chi nhánh Hoàng Quốc Việt Năm 2008, mặc dù nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn nhất định do ảnh hưởng suy giảm của kinh tế toàn cầu với sự kiện các công ty đồng loạt bị phá sản ở Mĩ dẫn đến sự suy thoái của nền kinh tế Nhật Bản, EU, các dòng lưu chuyển vốn và hàng hoá và hoạt động đầu tư đều tăng trưởng chậm. Điều đó cho thấy khả năng tăng trưởng thấp của kinh tế Việt Nam năm 2008, song hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động của Phòng Phát triển kinh doanh nói riêng vẫn phát triển tốt và cà Ngân hàng HABUBANK nói chung cũng tốt Nhìn chung, hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân Hàng HABUBANK năm 2008 rất thành công. Mà trong sự phát triển của hoạt động tín dụng, không thể không kể đến hoạt động cho vay theo dự án. Nền kinh tế càng đi lên, thì có nghĩa càng có nhiều dự án ra đời, điều đó cũng đồng nghĩa với việc cho vay theo dự án ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Năm 2008 có rất nhiều chương trình cho vay các dự án trọng điểm của Nhà nước, như vậy, sự thành công của hoạt động tín dụng trung và dài hạn cũng là sự thành công của hoạt động cho vay theo dự án. Điều đó có nghĩa là phải kể đến sự đóng góp một phần không nhỏ của thẩm định tài chính dự án. Hay thành công nổi bật nhất của hoạt động thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính nói riêng tại Ngân Hàng HABUBANK trong năm vừa qua đã góp phần vào mở rộng các hoạt động cho vay, nâng cao doanh số cho vay cũng như chất lượng tín dụng, giảm bớt nợ quá hạn và rủi ro tín dụng. Điều đó cũng có nghĩa là chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Ngân Hàng HABUBANK ngày càng được nâng cao. Ngân hang, ngày càng có được những dự án có chất lượng, mang lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Tóm lại, hoạt động thẩm định dự án tại Ngân Hàng HABUBANK trong năm qua đã đạt được những kết qủa rất đáng khích lệ. Điều đó biểu hiện cụ thể như sau: Thứ nhất- các yếu tố như kế hoạch vốn, nguồn tài trợ hay dòng tiền và các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính dự án được xác định một cách khoa học, toàn diện. Ngoài ra trong việc đánh giá các chỉ tiêu tài chính Ngân hàng cũng đã xử lý theo quy tắc giá trị thời gian của tiền giảm dần Thứ hai, dự án được thẩm định có tính đến các nhân tố ảnh hưởng của môi trường xã hội cả yếu tố chủ quan và khách quan. Từ đó, Ngân hang hay chi nhánh có thể dự kiến được những rủi ro , những biến động biến động bất lợi như về nguyên giá, về thị hiếu của người tiêu dùng, về chính sách chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, về đối thủ cạnh tranh, về hạn ngạch…và tìm cách hạn chế những rủi ro này. Thứ ba, dự án được ngân hàng thẩm định ,trong một thời gian ngắn với chi phí thấp nhất cho chủ đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi, để chủ đầu tư có thể đưa dự án đi vào hoạt động, đây là nhân tố có tác động tích cực đến thành công của dự án khi dự án đi vào hoạt động. Có được những kết quả như vậy, là nhờ Ngân hàng đã có những bước cải thiện đáng kể trong công tác thẩm định. Điều đó có được là các nhân tố sau: + Đội ngũ cán bộ có trình độ: Ngân Hàng HABUBANK có một đội ngũ cán bộ thẩm định có phẩm chất đạo đức tốt, am hiểu về kiến thức chuyên môn, về kinh tế thị trường, tài chính, ngân hàng đặc biệt là kiến thức về thẩm định tài chính dự án và tình hình đầu tư tại Việt Nam. Điều đó, đã giúp cho việc phân tích dự án được thực hiện một cách toàn diện trên nhiều phương diện, giúp nâng cao chất lượng thẩm định dự án. + Thực hiện tốt việc phân cấp thẩm định; Việc phân cấp thẩm định theo hạn mức tín dụng của Ngân Hàng HABUBANK là khá hợp lý. Ngân hàng đã tiến hành phân cấp trong việc tổ chức thẩm định giữa các chi nhánh và trung ương. Ngân hàng đưa ra mức phán quyết cho vay tối đa của chi nhánh dựa trên cơ sở là đặc điểm của từng kinh doanh của từng chi nhánh, như khả năng về vốn, về trình độ, về kinh nghiệm trong hoạt động tín dụng và đặc điểm địa phương. Các chi nhánh,được quyền ra quyết định trong hạn mức phán quyết về tín dụng đã được quy định của mình. Khi vượt mức quyền phán quyết.Chi nhánh vẫn tiến hành thẩm định dự án, và chỉ khi dự án có khả thi mới gửi lên Hội sở chính. Điều đó ,đã giảm bớt được công việc cho Hội sở chính và tiết kiệm thời gian và công sức cho cán bộ thẩm định trên Hội sở chính. Còn đối với các dự án phức tạp lại có nhu cầu về vốn đầu tư lớn, khi thông qua quyết định tài trợ phải được sự thông qua của Hội đồng Tín dụng. Ngân hàng quy định quy trình cho vay phải theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập, và phân định rõ trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Điều này đã làm cho trách nhiệm thẩm định của các bộ phận này được nâng cao, tạo sức mạnh tập thể , loại bỏ được rủi ro đạo đức của cán bộ ngân hàng. + Quy trình, nội dung thẩm định toàn diện Ngân Hàng HABUBANK đã xây dựng thống nhất một quy trình thẩm định từ Hội đồng quản trị tới các Chi nhánh. Hoạt động có định hướng, có chuẩn mực rõ ràng, chất lượng hoạt động thẩm định được nâng cao. Trong quy chế cho vay, Ngân hàng đã quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận thẩm định, tái thẩm định. Quá trình thẩm định được tiến hành theo mẫu thống nhất, với các bước cụ thể và rõ ràng. + Ngoài ra, Ngân Hàng HABUBANK còn có một hệ thống trang thiết bị thông tin hiện đại, luôn đi đầu trong việc đầu tư đổi mới, và nâng cao chất lượng cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động tác nghiệp nói chung và hoạt thẩm định tài chính dự án nói riêng. Trên đây là những đánh giá sơ bộ về những thành tựu đáng khích lệ của hoạt động thẩm định tài chính dự án tại Ngân Hàng HABUBANK trong năm vừa qua. Tuy nhiên, ngoài những mặt đã đạt được đó thì muốn nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định, Ngân hàng cần phải khắc phục được những hạn chế đang phải đối mặt. 2.1.1.Hạn chế của công tác thẩm định tại HABUBANK cũng như là chi nhánh Hoàng Quốc Việt Nhìn chung, hoạt động thẩm định tài chính dự án tại Ngân Hàng HABUBANK tương đối tốt. Tuy nhiên, cái gì cũng có tính hai mặt của nó,không thể hoàn hảo được. Hay nói cách khác, bên cạnh những kết quả đạt được ở trên thì vẫn còn một số hạn chế trong công tác thẩm định, cụ thể và biểu hiện như sau: Thứ nhất: Kết quả hoạt động thẩm định mang lại chưa tương xứng với tiềm năng của Ngân hàng, và còn có những dự án không hiệu quả đi vào hoạt động,còn những dự án mà thẩm định chưa kĩ càng. Trên thực tế, có nhiều dự án không khả thi, phương án sản xuất kinh doanh, phương án trả nợ không tốt, nhưng Ngân hàng vẫn cho vay vì dự án có tài sản thế chấp lớn. Thứ hai: Nhiều dự án rất khả thi, có đầy đủ điều kiện là một dự án sẽ hoạt động rất hiệu quả nhưng lại không đủ tài sản thế chấp, và lại thêm chủ dự án là những công ty tư nhân hay công ty TNHH nên Ngân hàng không dám cho vay. Bởi vì khi xảy ra rủi ro, đặc biệt là với chủ dự án là công ty TNHH thì Ngân hàng rất khó thu hồi vốn đã cho vay và không có người thay thế chịu trách nhiệm về khoản vay đó.Vì vậy mà dẫn đến hoạt động thẩm định nhiều khi đã bỏ qua rất nhiều dự án tốt, hứa hẹn đem lại lợi nhuận cao cho Ngân hang nhưng vì sợ rủi ro nên Ngân hàng đã không dám cho vay Tất cả những hạn chế trên không thể quy kết trách nhiệm một cách đơn giản được. Mà để hiểu được lý do tại sao lại tồn tại, tại sao lại chưa sử lý được những hạn chế đó thì chúng ta phải tìm hiểu rõ nguyên nhân của những hạn chế đó. Đồng thời cũng từ việc hiểu rõ hạn chế và nguyên nhân của vấn đề thì mới tìm ra được hướng đi đúng. Vì vậy, trước khi có những giải pháp khắc phục khó khăn, phải tìm hiểu rõ nguyên nhân từ hai góc độ chủ quan và khách quan. 2.1.2.Nguyên nhân của tình trạng trên *Nguyên nhân chủ quan Nguyên nhân chủ quan, là các nguyên nhân thuộc về các nhân tố nội tại của Ngân Hàng HABUBANK, do đó hoàn toàn có thể kiểm soát được. Thứ nhất:Đó là sự thiếu hụt thông tin Trong công tác thẩm định tài chính dự án, thì thông tin là một trong những nhân tố có tính chất quyết định. Vậy mà theo tình trạng hiện nay thì thông tin hạn chế cả về số lẫn chất lượng đó là thực trạng rất báo động Khi thẩm định, thông tin được lấy từ nhiều nguồn khác nhau,và nhiều người cung cấp. Nguồn thông tin từ bên ngoài, phục vụ cho công tác thẩm định, quyết định cho vay hiện đều do chính khách hàng cung cấp hoặc từ một số các nguồn khác như báo chí, đài. Việc mua thông tin tổ chức theo dõi phân tích và dự báo theo mặt hàng, ngành hàng và lĩnh vực kinh tế hầu như chưa thực hiện, kể cả tại Hội sở Trung ương. Vì vậy nên việc thẩm định cho vay gặp khó khăn, chất lượng thẩm định phần nào bị hạn chế. Còn nguồn thông tin nội bộ, thì hết sức quan trọng để phục vụ cho công tác quản lý. Tuy vậy, do chất lượng các loại báo cáo không cao, tỷ lệ sai lệch với thực tế nhiều khi khá lớn vì vậy ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng điều hành quản lý. Ngoài ra, thực tế cho thấy, việc cho vay và quản lý khoản vay hiện được tiến hành khá độc lập bởi riêng phòng tín dụng. Sự chia sẻ thông tin, và phối kết hợp giữa các phòng với nhau còn yếu (nhất là tại các chi nhánh lớn). Thứ hai: Quy trình, nội dung thẩm định chưa chặt chẽ Quy trình thẩm định tuy đã được thống nhất trong toàn ngành Ngân hàng những vẫn còn có những hạn chế cần phải khắc phục. - Thẩm định dòng vào và dòng ra còn chưa sát với thực tế. Trong các dự án, khi tính toán doanh thu và chi phí, Ngân hàng thường dựa vào mức công suất dự kiến và giá bán dự kiến sau khi tham khảo tình hình tiêu thụ sản phẩm cùng loại, định hướng phát triển của ngành, dự báo nhu cầu thị trường. Vì vậy, trên thực tế đó không thể nói là Ngân hàng HABUBANK đã có một kết quả dự tính chính xác được, nhất là trong nền kinh tế thị trường tình hình luôn biến động khó lường trước. Ngoài ra, còn phải nói tới cách tính khấu hao của dự án. Ngân hang HABUBANK dự tính giá trị thu hồi cuối cùng của dự án sau đó được trừ khỏi phần giá trị ban đầu rồi chia cho số năm để có thể có được mức khấu hao hàng năm. Như vậy, đó là thiếu tính chính xác và tính hợp lý. Từ sự thiếu chính xác trong cách tính doanh thu- chi phí và khấu hao nói trên dẫn đến ảnh hưởng đến các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án.Nó làm cho chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án không cao. - Thẩm định luồng tiền đã không tuân thủ một cách triệt để giá trị thời gian của tiền. - Việc đưa ra chỉ tiêu tài chính tiêu chuẩn là rất khó thực hiện vì Ngân hang HABUBANK chưa xây dựng được một hệ thống các chỉ tiêu tiêu chuẩn đối với từng ngành nghề. Vì vậy khi Ngân hàng đánh giá chỉ tiêu tài chính chỉ là trên góc độ tương đối. Ngoài ra việc tính các chỉ tiêu tài chính, vẫn luôn luôn tồn tại những nhược điểm đã nêu ở phần trước - Phân tích độ nhạy của dự án còn mang nặng tính chủ quan củan người thẩm định Thứ ba: Trình độ thẩm định dự án tại nhiều chi nhánh chưa cao Tình hình chung cho thấy tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng trung dài hạn có xu hướng tăng cao tại tất cả các chi nhánh trong năm 2008. Trong khi đó, do chưa được trang bị đầy đủ kiến thức và chưa nhiều kinh nghiệm, nên nhìn chung lực lượng cán bộ tín dụng ( nhất là tại các chi nhánh nhỏ) chưa đủ năng lực thẩm định các dự án,các cán bộ còn trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm. Đặc biệt đối với các dự án có qui mô lớn, tính chất kỹ thuật phức tạp. Trên đây, là những nguyên nhân chủ quan có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng thẩm định tài chính dự án.Vì vậy việc xác định các nguyên nhân chủ quan là điều kiện cần nhưng chưa đủ, phải xác định được các nguyên nhân khách quan của những hạn chế trên * Nguyên nhân khách quan Nguyên nhân khách quan, là những nguyên nhân xuất phát từ điều kiện bên ngoài, những yếu tố khách quan từ môi trường do đó tự bản thân Ngân hàng không thể điều chỉnh được, Ngân hàng phải tìm cách thích nghi và hạn chế được phần nào mà thôi. Nhóm nguyên nhân khách quan này bao gồm Hệ thống thông tin giữa các Ngân hang thương mại chưa phát triển Nhìn chung là chất lượng thẩm định dự án trong nghành Ngân hàng chưa cao, nhất là khi chưa có sự phối hợp, hỗ trợ chặt chẽ giữa Ngân hàng Nhà nước với các ngân hàng thương mại cũng như giữa các ngân hàng thương mại với nhau trong việc cung cấp thông tin trong hoạt động thẩm định dự án ở từng ngành,nghề từng lĩnh vực cụ thể. Trung tâm thông tin tín dụng trực thuộc Vụ Tín dụng Ngân hàng Nhà nước tuy đã ra đời vài năm nay ,nhưng cũng chưa thực hiện được đầy đủ vai trò của mình trong việc hỗ trợ các ngân hàng. Điều này cũng góp phần vào việc làm giảm chất lượng thẩm định tài chính dự án của các Ngân hàng nói chung và Ngân Hàng HABUBANK nói riêng. Hệ thống văn bản pháp luật còn nhiều bất cập, chưa đầy đủ và đồng bộ Hoạt động thẩm định nói riêng và hoạt động tín dụng nói chung, liên quan rất chặt chẽ với các quy định của pháp luật trên nhiều khía cạnh khác nhau, mà hiện nay các văn bản quy phạm pháp luật cũng như thong tư hướng dẫn về hoạt động tín dụng đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nên còn nhiều bất cập, chồng chéo, chưa đầy đủ, thiếu tính ổn định và thủ tục còn rườm rà. Điều đó đã làm cho công tác thẩm định của Ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Trong tình hình hiện nay, mặc dù đã có nhiều cố gắng song các cơ chế, chính sách về quản lý đầu tư viư mô về tính công khai trong hoạt động của các doanh nghiệp, về các quy định trong hoạt động tín dụng,còn rất yếu nên đã gây trở ngại cho hoạt động thẩm định. Ngoài ra, công tác thẩm định dự án cũng đang gặp một số khó khăn về chính sách trong thực hiện cho vay, đặc biệt là vấn đề bảo đảm tiền vay. Tình trạng thiếu trung thực và năng lực hạn chế của các chủ đầu tư Và nguyên nhân thứ hai từ phía chủ đầu tư là kiến thức của khách hàng xin tài trợ về quản lý kinh doanh, về pháp luật còn thấp, trình độ lập dự án còn yếu dẫn tới dự án thiếu chính xác, thiếu căn cứ khoa học, đã gây nên không ít khó khăn cho công tác thẩm định dự án nói chung và công tác thẩm định tài chính dự án nói riêng. Vì vậy, chất lượng thẩm định tài chính dự án cũng bị ảnh hưởng không ít thì nhiều Ngoài ra, có những dự án khả thi nhưng do năng lực điều hành sản xuất kinh doanh của chủ đầu tư kém.Việc sử dụng vốn vay sai mục đích dẫn đến hậu quả là dự án khả thi nhưng khi thực hiện lại không thành công hay thu hồi vốn chậm. Và cũng có trường hợp chủ dự án là giám đốc các công ty tư nhân, công ty TNHH gặp tai nạn bất ngờ, lại không có người thay thế chịu trách nhiệm thì mặc dù dự án có khả thi như thế nào, Ngân hàng vẫn phải chịu rủi ro đó. Đồng thời chất lượng thẩm định dự án bị ảnh hưởng. Điều này cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc Ngân hàng ngại cho vay đối với các thành phần này. Và vì vậy, nhiều khi Ngân hàng đã bỏ lỡ rất nhiều dự án có chất lượng tốt vì sợ rủi ro. Nhìn chung, tại thời điểm hiện tại hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động thẩm định dự án nói riêng có nhiều thuận lợi hơn là khó khăn do những lợi thế hiện tại của Ngân Hàng HABUBANK về lãi suất, vốn, công nghệ. Môi trường thuận lợi ở chỗ còn nhiều đoạn khách hàng tốt mà Ngân Hàng HABUBANK có thể hướng sang được với những thế mạnh vốn có của mình. Tuy nhiên, để Ngân Hàng HABUBANK trở thành một trong những ngân hàng có tầm cỡ trong khu vực, và trên thế giới cần phải khắc phục hơn nữa những hạn chế trong hoạt động của Ngân hàng nói chung, và hoạt động thẩm định tài chính dự án nói riêng. 2,2 Định hướng thẩm định Dự án vay vốn tại NHTM HABUBANK nhằm hoàn thiện công tác thẩm định khía cạnh tài chính của dự án Các giải pháp về nội dung và phương pháp thẩm định * Đối với nội dung thẩm định khách hàng vay vốn Việc đánh giá, các thông tin về khách hàng vay vốn là một việc không đơn giản, bởi không phải lúc nào tình hình tài chính của các doanh nghiệp cũng được công khai,bởi vì thong tin tài chính của các doanh nghiệp bao giờ cũng phải giữ kín. Do vậy trước mắt, ngân hàng cần yêu cầu các báo cáo tài chính của doanh nghiệp nộp lên phải được kiểm toán thì mới có thể yên tâm được. Bên cạnh đó ngân hàng cũng nên tăng cường thiết lập mối quan hệ với các cơ quan chức năng, nhằm có những đánh gía đầy đủ hơn về doanh nghiệp và để đảm bảo an toàn cho mình Để đưa ra những kết luận chính xác hơn về tình hình của doanh nghiệp, ngân hang HABUBANK cũng nên áp dụng các phương pháp khác nhau trong phân tích tài chính doanh nghiệp như: phương pháp phân tích tỷ lệ hoặc phương pháp đối chiếu logic với thực tế hiện nay số lượng các chỉ tiêu dùng để đánh giá chưa nhiều * Đối với nội thẩm định phương diện kỹ thuật Cán bộ thẩm định, cần quan tâm hơn đến phân tích khía cạnh kỹ thuật của dự án. Thực chất là họ rất khó có thể làm tốt được điều này, bởi lẽ ngân hàng hiện nay, chưa có nhiều cán bộ có chuyên môn cả về nghiệp vụ lẫn kỹ thuật, đa số họ đều tốt nghiệp từ các trường khối kinh tế, trình độ nhận biết cũng như khả năng thu thập thông tin là có hạn.Nói chung ,là thẩm định về kĩ thuật không học qua rất khó nắm bắt. Các chỉ tiêu của Chính phủ, của Bộ ngành liên quan chưa đầy đủ, chưa phù hợp với tình hình hiện tại của nền kinh tế. Ngân hàng cũng chưa có một hệ thống chỉ tiêu về kinh tế- kỹ thuật chuẩn phục vụ cho công tác thẩm định dự án. Do đó, để trợ giúp cho cán bộ thẩm định đánh giá kỹ thuật, ngân hàng cần sớm nghiên cứu ban hành những chỉ tiêu kỹ thuật cơ bản phù hợp với từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể .Nó như là các tiêu chuẩn về công nghệ, máy móc, thiết bị được sử dụng,) làm cơ sở để cán bộ thẩm định tham chiếu Trong trường hợp những dự án quá phức tạp khó khăn, ngân hàng nên thuê các chuyên gia có chuyên môn phù hợp thẩm định nội dung kỹ thuật nhằm rút ngắn thời gian thẩm định * Đối với nội dung phân tích thị trường Cán bộ thẩm định cần phân tích sâu hơn về phương diện thị trường của dự án, những đánh giá về tình hình cung- cầu thị trường, về khả năng tiêu thụ của sản phẩm cần được định tính toán, định lượng một cách cụ thể, chứ không nên đánh giá chung chung theo cảm tính,theo nhận xét mà mình cảm thấy. Ngân hàng HABUBANK cũng cần áp dụng các phương pháp hiện đại trong phân tích và dự báo cung- cầu sản phẩm. Hiện có nhiều phương pháp dự báo cung- cầu đó được nghiên cứu áp dụng và ứng dụng cao trong thực tế , như phương pháp ngoại suy thống kê, phương pháp định mức, phương pháp hệ số co giãn, cán bộ thẩm định có thể căn cứ vào số lượng và chất lượng thông tin thu thập được mà lựa chọn phương pháp tính cho phù hợp với yêu cầu mà mình cần, hoặc kết hợp sử dụng nhiều phương pháp nhằm làm tăng tính chính xác cho các kết quả dự báo Ngoài ra, trong quá trình thẩm định cần lưu ý tới các yếu tố khác như: khả năng thay đổi thị hiếu tiêu dùng, những thay đổi trong chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước,biến động trên thị trường quốc tế hay của nước xuất khẩu vì chúng có thể ảnh hưởng đến đầu ra của dự án,đó là điều nên quan tâm. * Đối với nội dung thẩm định phương diện tài chính Thứ nhất, khi thẩm định tổng vốn đầu tư, ngân hàng HABUBANK cần có quy định cụ thể về các nội dung trong tổng vốn đầu tư của một dự án như: vốn đầu tư cố định, vốn đầu tư lưu động, vốn dự phòng để đề phòng trường hợp bất trắc, vốn đầu tư bù đắp các chi phí bởi theo ý kiến của nhiều cán bộ thẩm định có kinh nghiệm thì tổng vốn đầu tư của dự án khi trình lên ngân hàng thường thấp hơn thực tế, lý do là vì dự án khi đi vào thực hiện đầu tư có thể phát sinh nhiều hạng mục chi phí mới hoặc do chủ đầu tư cố tình làm giảm tổng vốn đầu tư để dễ xin vay vốn hơn ,đó là điều mà ngân hang nên cẩn thận Mặt khác, nếu dự án đầu tư được tài trợ từ nhiều nguồn khác nhau như vốn vay vốn tài trợ, cán bộ thẩm định nên kiểm tra kỹ tính xác thực của từng nguồn vốn, nhất là các cam kết bỏ vốn của các cơ quan tài trợ cả về mặt số lượng và tiến độ, tránh để xảy ra tình trạng thiếu vốn dẫn đến làm chậm tiến độ thi công của công trình Thứ hai, khi tiến hành thẩm định các yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh của dự án như; lãi vay vốn lưu động, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí thuê đất, thuê chuyên gia tư vấn.Ngân hàng HABUBANK cần có sự tham khảo các quy trình của Bộ tài chính, của Ngân hang Trung ương của cơ quan chủ quản của doanh nghiệp, so sánh với chi phí sản xuất của sản phẩm tương tự trên thị trường, không nên chấp thuận hay mặc nhiên theo sự tính toán của chủ đầu tư hoặc tuỳ ý quyết định. Nếu là dự án mở rộng hoặc dự án mới của doanh nghiệp đó hoạt động trong ngành đó, cán bộ thẩm định có thể lấy các chỉ tiêu cũ làm cơ sở so sánh với dự án của mình. Nếu là các dự án mới hoàn toàn thì các chỉ tiêu của những dự án tương tự cũng là những tham khảo tốt. Đối với chi phí khấu hao,vì nó là chi phí trừu tượng nên ngân hàng cần kiểm tra đối chiếu với các văn bản quản lý kinh tế mới nhất của Nhà nước nhằm đảm bảo tính, hợp pháp, chính xác trong tính toán. Ngân hàng cần xem xét mức khấu hao cho phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động của dự án, của từng loại hình doanh nghiệp tránh tình trạng các doanh nghiệp áp dụng mức khấu hao nhanh để giảm nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước,không được cao quá so với quy định. Nếu doanh nghiệp tính sai quy định của Bộ tài chính thì HABUBANK cần tính toán lại và có ý kiến với doanh nghiệp về mức tính sai đó. Đồng thời ngân hàng HABUBANK phải đặt chi phí này trong mối quan hệ với khả năng tiêu thụ của sản phẩm, với tính khả thi của dự án vì khấu hao là một nguồn trả nợ cho ngân hàng, nó không phải nguồn có sẵn hiển nhiên, do đó nó có thể là con số vô nghĩa nếu dự án không khả thi, sản phẩm của dự án không tiêu thụ được,và hơn nữa khấu hao chỉ là con số trừu tượng mà thôi Thứ tư, cần chú ý đến các khoản thu hồi lại giá trị thanh lí khi xác định dòng tiền của dự án và cẩn thận để ý. Thứ năm, là khi tính toán các chỉ tiêu NPV, IRR, T là các chỉ tiêu thường gặp trong các dự án đầu tư của ngân hàng, tuy nhiên khi sử dụng chúng phải quan tâm đến giá trị thời gian của tiền, nếu không chúng sẽ không phản ánh đầy đủ ý nghĩa.Vì tiền luôn giảm dần theo thời gian. Mặt khác, cùng với các chỉ tiêu NPV, IRR, T, ngân hàng cũng nên đưa các chỉ tiêu khác vào tính toán như chỉ tiêu điểm hoà vốn, lợi ích- chi phí, năng lực của doanh nghiệp,bộ máy tổ chức hội đồng quản trị những chỉ tiêu này sẽ bổ sung cho nhau giúp cán bộ thẩm định có một cái nhìn toàn diện hơn về dự án,về công ty mà mình thẩm định để tiến hành cho vay. Thứ sáu, ngân hàng nên đưa ra một phương pháp tính tỷ suất chiết khấu thích hợp,phù hợp với mình. Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính trên là cơ sở quan trọng để đánh giá tính khả thi của mỗi dự án đầu tư và là căn cứ cho các quyết định tài trợ vốn của ngân hàng. Tuy vậy, để các chỉ tiêu này phản ánh đầy đủ bản chất của chúng thì việc lựa chọn một tỷ suất chiết khấu thích hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng và ỵ nghĩa để tiến hành thẩm định dự án chính xác.Một dự án, có thể được tài trợ vốn từ nhiều nguồn khác nhau, ở những thời điểm khác nhau và với mức lãi suất khác nhau. Do đó tỷ suất chiết khấu phải phản ánh được tổng chi phí cơ hội của tất cả các nguồn vốn đó và tỷ suất chiết khấu còn để xem so sánh với IRR sau này Hiện có nhiều phương pháp tính tỷ suất chiết khấu khác nhau, cán bộ thẩm định hay cán bộ tín dụng nên lựa chọn và áp dụng sao cho phù hợp với từng loại dự án, chứ không nên chỉ sử dụng lãi suất ngân hàng làm lãi suất chiết khấu như hiện nay,nó làm cho việc thẩm định không chính xác. Bên cạnh đó Ngân hang HABUBANK cũng nên áp dụng mức lãi suất chiết khấu được điều chỉnh theo các năm để phản ánh các tác động của môi trường tới dự án như lạm phát, trượt giá,biến động khác… Thứ bảy, phân tích độ nhạy chưa được quan tâm đúng mức khi xem xét các dự án * Về xác định thời hạn trả nợ, phương thức trả nợ Cách xác định thời hạn trả nợ, mức thu nợ, cách thức thu nợ cả gốc và lãi, phải phù hợp với năng lực sản xuất của khách hàng và tiến độ thực hiện của dự án. Hiện nay ngân hàng thường tiến hành thu đều từng kỳ hay thu lũy kế với mong muốn thu công nợ càng nhanh càng tốt cho ngân hàng. Tuy nhiên trong thời gian đầu các máy móc thiết bị chạy chưa hết công suất, sản phẩm sản xuất ra ở giai đoạn thăm dò thị trường nên sản phẩm còn ít. Do đó, nếu ngân hàng yêu cầu mức trả nợ cao từ đầu sẽ làm cho dự án chưa đủ khả năng trả, ảnh hưởng đến sản xuất của doanh nghiệp Ngân hàng không nên tiến hành chia đều khoản thu gốc cho các kỳ luỹ thoái mà nên căn cứ vào dòng tiền của dự án đồng thời tiến hành thu nợ gốc tăng dần theo thời gian, như vậy sẽ phù hợp với quá trình vận hành kết quả đầu tư. Việc thu lãi cũng cần được tính toán sao cho phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tránh tình trạng các doanh nghiệp phải vay vốn ngắn hạn để trả lãi ngân hàng * Đối với nội dung phân tích độ an toàn của dự án thông qua phân tích rủi ro Nội dung này, cho đến nay hầu như vẫn chưa được cán bộ thẩm định hay cán bộ tín dụng nào đề cập đến trong các báo cáo thẩm định của ngân hàng, đây là một khiếm khuyết rất lớn mà ngân hàng cần sớm khắc phục. Bởi phân tích rủi ro có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác thẩm định dự án của doanh nghiệp xin vay vốn. Nó giúp cho cán bộ thẩm định có cái nhìn tổng quan hơn, đầy đủ hơn,khái quát và đặt dự án vào trong một sự vận động thực tế của nó, từ đó giúp ngân hàng giảm thiểu những tổn thất , rủi ro có thể dự báo trước , Do vậy, trong thời gian tới ngân hàng nên coi việc phân tách và quản lý rủi ro là điều kiện cần thiết khi xem xét thẩm định dự án. Trước mắt, Ngân hang HABUBANK có thể nghiên cứu áp dụng ngay phương pháp phân tích độ nhạy và phân tích theo kịch bản. Cũng trong tương lai, khi ngân hàng đó có hệ cơ sở dữ liệu phong phú, các máy tính và phần mềm hiện đại, có thể áp dụng thêm phương pháp phân tích theo kịch bản. Giải pháp về mặt tổ chức điều hành Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong công tác thẩm định dự án của Ngân hàng HABUBANK thời gian qua là chưa có sự chuyên môn hoá trong khâu tổ chức thẩm định. Do đó trong thời gian tới ngân hàng cần có phòng thẩm định riêng, có nhiệm vụ chuyên trách thẩm định các dự án trung và dài hạn, có sự độc lập với phòng tín dụng và quản lý nợ vay để không cho việc chồng chéo lên nhau. Việc tổ chức bố trí như vậy sẽ giúp cho mỗi cán bộ thẩm định giảm bớt khối lượng công việc, tạo điều kiện cho họ chuyên tâm hơn vào công việc, đồng thời có thời gian để trau dồi thêm nghiệp vụ cho bản thân cũng như kiến thức sau này để làm những việc lớn hơn. Ngân hàng cũng lưu ý tuyển chọn thêm các cán bộ có kinh nghiệm về thẩm định kinh tế-kỹ thuật dự án và nên tuyển chọn từ các trường kỹ thuật. Mặt khác ngân hàng HABUBANK nên quy định chi tiết hơn về trách nhiệm cũng như quyền lợi của cá nhân các cán bộ thẩm định. Đồng thời cần thường xuyên rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, bổ sung cán bộ còn thiếu cho các chi nhánh, thuyên chuyển các cán bộ không đủ khả năng đi làm việc khác Ngân hang, cũng nên tạo lập một cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn trong quá trình thẩm định giữa các bộ phận trong ngân hàng nhằm nâng hiệu quả công việc. Phòng thẩm định cần phối hợp chặt chẽ với phòng khách hàng, phòng thu hồi nợ, phòng tài sản để thu thập được các thông tin chính xác về khách hàng, về dự án vay vốn Giải pháp về đội ngũ cán bộ Thực tế ,đã cho thấy con người luôn là yếu tố trung tâm, có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Chính con người đã quyết định sự thu thập thông tin, sử dụng các phương pháp để xử lý và đưa ra quyết định cuối cùng. Do đó ,để nâng cao chất lượng thẩm định dự án thỡ trước tiên ngân hàng cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ về mọi mặt: nhận thức, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, đạo đức nghề nghiệp * Tuyển chọn nhân sự đầu vào có chất lượng cao Trong thời gian qua, đa số đội ngũ nhân viên được tuyển chọn vào HABUBANK đều có trỡnh độ chuyên môn tương đối cao, tuy nhiên trong thời gian tới ngân hàng nên chú ý tiếp tục thực hiện công tác bổ sung, tuyển mới những người có năng lực thực sự vào làm việc để Ngân hang ngày càng mạnh. Cán bộ được tuyển chọn cần có sự kết hợp hài hoà giữa năng lực chuyên và tư cách đạo đức. Sau khi tuyển dụng, ngân hàng cần phổ biến để mỗi cán bộ, đều nắm bắt được các mục tiêu, các quy định của ngân hàng cũng như các quy định của luật pháp có liên quan, đồng thời cần được hướng dẫn, đào tạo chuyên sâu cho họ về công việc sẽ được giao Ngân hàng ,cũng cần có các chính sách thu hút nhân tài, vào làm việc lâu dài hoặc mời làm cố vấn hoặc làm cộng tác viên cho các hoạt động của mình * Đào tạo, trao đổi chuyên môn Trong quá trình thẩm định dự án, cán bộ thẩm định luôn có xu hướng coi trọng phương diện tài chính hơn các phương diện khác. Điều này, phần lớn là do những kiến thức mà họ được trang bị ở trường Đại học còn hạn chế, thông thường họ mới chỉ biết về mặt tài chính dự án, còn việc nghiên cứu thị trường, đánh giá thị trường, đánh giá hiệu quả dự án, các vấn đề liên quan đến kỹ thuật thì ít được đề cập, do đó việc họ lựa chọn phương án tài chính là căn cứ chủ yếu để thẩm định cũng là điều có thể hiểu được,và bởi vì theo họ thì chỉ cần lợi nhuận là được rồi ,không cần quan tâm đến các vấn đề khác nữa. Tuy nhiên, đòi hỏi về mặt chất lượng thẩm định đó dẫn đến sự khập khiễng giữa lý thuyết và thực tế. Bởi vì trong thực tế, quá trình thẩm định đòi hỏi mỗi cán bộ thẩm định phải có kiến thức tổng hợp tương đối cao về: pháp luật, kinh tế, công nghệ- kỹ thuật, thông tin thị trường, thanh toán quốc tế do đó hoàn thiện công tác thẩm định dự án trước hết ngân hàng cần từng bước nâng cao trình độ của các cán bộ thẩm định Ngân hàng nên mở các lớp đào tạo, tổ chức các buổi hội thảo, mời các chuyên gia về nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm với các ngân hàng bạn, tìm nguồn tài liệu cho cán bộ tham khảo để họ nâng cao kiến thức của mình. Bên cạnh khuyến khích động viên cán bộ tự trau dồi kiến thức, ngân hàng có thể cử những nhân viên có đủ năng lực đi đào tạo ở nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định, từ đó giúp cán bộ có điều kiện học hỏi, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ,qua việc học tập nước ngoài giúp họ có những kiến thức mới hơn giúp họ và Ngân hang sau này. Lưu ý là để công tác đào tạo đạt được kết quả cao thì quá trình đào tạo này phải được diễn ra thường xuyên và có hệ thống * Giáo dục về nhận thức, tư cách đạo đức NHTM HABUBANK cần thường xuyên giáo dục về ý thức, đạo đức và kỷ luật nghề nghiệp cho các cán bộ,nhân viên của mình để họ nhận thức được vai trò và ý nghĩa to lớn của công tác thẩm định dự án, đồng thời có ý thức tự giác, trung thực và tinh thần trách nhiệm cao hơn với việc mình làm. Ngân hàng cũng nên có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với nhân viên, kịp thời khen thưởng về vật chất lẫn tinh thần đối với các cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, đồng thời phát hiện ra những biểu hiện sa sút về đạo đức để kịp thời uốn nắn,xử lí nhắc nhở hay kiểm điểm. Xử lý nghiêm minh đối với các cán bộ có hành vi tiêu cực, vô tình hay cố ý làm trái các quy định chung dẫn đến những thiệt hại cho ngân hang và cho khách hàng. Việc làm tốt công tác thẩm định, không chỉ phụ thuộc vào bản thân mỗi cán bộ thẩm định mà cũng phải có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên của ngân hang,Hội đồng quản trị. Do vậy ngân hàng cũng phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát, lựa chọn và đào tạo các cán bộ thanh tra có năng lực, có phẩm chất tốt và có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng,không bị thái độ ỷ lại hay ỳ ,không chịu vận động. Giải pháp về thông tin Thông tin nó là căn cứ quan trọng để thẩm định dự án, do đó nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin sẽ gúp phần hoàn thiện nghiệp vụ thẩm định. Nguồn thông tin càng chính xác và phong phú thì kết quả thẩm định càng có độ chính xác cao. Do đó NHTM HABUBANK một mặt cần gia tăng các nguồn cung cấp thông tin, mặt khác cần tìm cách thu thập và xử lý thông tin một cách có hiệu quả Đối với những thông tin mà liên quan dự án của doanh nghiệp, cán bộ thẩm định hay cán bộ tín dụng không chỉ căn cứ vào các tài liệu khách hàng gửi đến, mà phải trực tiếp phỏng vấn người đại diện giao dịch của doanh nghiệp để chất vấn các thông tin không chính xác. Đồng thời phải kết hợp với việc tham quan khảo sát cơ sở sản xuất, văn phòng, nhà xưởng nhằm điều tra năng lực sản xuất và quản lý của doanh nghiệp. Cán bộ thẩm định có thể tham khảo các thông tin từ bạn hàng, đối tác, các nhà cung cấp của doanh nghiệp, để đánh giá được tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thanh toán cũng như khả năng cung cấp đầu vào và tiêu thụ đầu ra của dự án. Ngoài ra ,các nguồn thông tin cần thiết có thể được thu thập từ trung tâm phòng ngừa rủi ro thuộc Ngân Hàng Nhà Nước, từ các tổ chức tín dụng, mà ngân hàng có quan hệ, từ các cơ quan quản lý kinh tế, các chuyên gia kinh tế kỹ thuật, các thông tin đa dạng từ sách báo, tài liệu chuyên ngành có liên quan Tuy nhiên, việc thu thập các nguồn thông tin trên nhiều khi khá khó khăn do phạm vi thu thập rộng, đòi hỏi tốn kém về thời gian và chi phí, các kênh cung cấp thông tin không đầy đủ và khó tiếp cận, trong khi cán bộ thẩm định bị giới hạn về thời gian và giới hạn về sức lực của con người. Do đó các cán bộ thẩm định cần lưu ý thường xuyên thu thập và lưu trữ thông tin một cách khoa học,trật tự và có ý thức. Cán bộ thẩm định cần cập nhật các quy định của nhà nước liên quan đến lĩnh vực đầu tư ( như : quy chế đấu thầu, quy định về tổng dự toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản, về chế độ tài chính đối với từng loại hình doanh nghiệp), các thông tin về thị trường giá cả. Đồng thời tiến hành lưu trữ toàn bộ các thông tin vào máy tính để dễ dàng quản lý thay vì lưu trữ dưới dạng văn bản như hiện nay.Hiện nay là NHTM HABUBANK đã tiến hành đầu tư vào máy móc khá nhiều Mặt khác, để hoàn thiện hệ thống thu thập và xử lý thông tin nhằm phục vụ cho công tác thẩm định có hiệu quả hơn, ngân hàng nên thiết lập một trung tâm thông tin riêng. Trung tâm này có nhiệm vụ chuyên nghiên cứu thu thập, lưu trữ và cung cấp thông tin cho phòng thẩm định, hỗ trợ cho các cán bộ thẩm định trong việc tìm kiếm các thông tin cần thiết, giảm bớt thời gian ra quyết định. Ngân hàng cũng cần sớm xây dựng một hệ cơ sở dữ liệu riêng cho mình ,để có thể phục vụ tốt cho quá trình thu thập thong tin. Giải pháp về trang thiết bị Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế hiện đại nói chung, và cả những đòi hỏi của ngành ngân hàng nói riêng, HABUBANK cần tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị phục vụ cho công tác thẩm định sao cho mỗi cán bộ đều được trang bị một máy vi tính và toàn bộ hệ thống được nối mạng LAN cũng như mạng ADSL Có thể nói, thẩm định dự án là một công việc khá phức tạp, khối lượng công việc lớn đòi hỏi nhiều thời gian và công sức của cán bộ thẩm định. Bởi vậy, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại trong công tác thẩm định là rất cần thiết, có thể giúp cho mỗi cán bộ thẩm định tiết kiệm được nhiều thời gian và sức lực,nó giải phóng sức lao động của con người và làm cho họ lao động hiệu quả hơn. Do đó, trong tương lai ngân hàng cần đẩy mạnh ứng dụng các phần mềm trong phân tích, dự báo như Crustal Ball kết hợp với Excell hoặc đặt thiết kế một chương trình hỗ trợ nghiệp vụ thẩm định từ các công ty trong và ngoài nước Các giải pháp khác Ngân hàng HABUBANK nên lập ra quỹ thẩm định, bởi thẩm định dự án là một công việc phức tạp, không phải một sớm một chiều mà giải quyết được. Để công tác thẩm định đạt được hiệu quả cao, ngân hàng phải tổ chức gặp gỡ khách hàng, thường xuyên xuống cơ sở để kiểm tra giám sát đôn đốc mọi người. Thẩm định nó không chỉ khống chế ở một số giai đoạn kiểm tra trước mà cả trong và sau này khi cho vay. Như vậy, quá trình này diễn ra liên tục, gắn liền với quá trình sản xuất kinh doanh và phát triển của doanh nghiệp. Từ thực tế này, HABUBANK nên có một quỹ thẩm định riêng nhằm giảm bớt những khó khăn về chi phí cho các cán bộ thẩm định, đồng thời nó cũng góp phần đào tạo cán bộ, tăng cường trang bị cơ sở vật chất, ứng dụng tin học trong quá trình thẩm định,tạo điều kiện làm việc tốt hơn. 2.3 .Một số kiến nghị 2.3.1.Với nhà nước và các Bộ ngành có liên quan Thứ nhất, Nhà nước cần công bố rộng rãi quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế xã hội theo ngành, vùng lãnh thổ và theo từng thời kỳ phát triển .Những quy hoạch này sẽ giúp cho các ngân hàng thương mại, có cơ sở để bố trí kế hoạch tín dụng để vừa đảm bảo được nhu cầu vốn đầu tư của doanh nghiệp phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, vừa đảm bảo về mặt lợi ích cho các ngân hàng và xã hội. Thứ hai nhà nước phải không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và các cơ chế chính sách của mình. Nhà nước, cần phải đưa ra các chính sách phát triển kinh tế hợp lý hợp tình, tránh những đột biến xuất hiện làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng nói chung và các ngân hàng nói riêng, gây thiệt hại cho ngân hàng, chủ đầu tư và toàn thể nền kinh tế cũng như là của nhà nước Hoàn thiện hệ thống pháp luật cho hoạt động của ngân hàng nói chung và quy chế thẩm định dự án đầu tư nói riêng. Nhà nước , cần khẩn trương hoàn thiện cơ chế chính sách, và hệ thống các văn bản pháp chế nhằm có đủ các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện luật ngân hàng, đảm bảo cho các ngân hàng hoạt động hiệu quả, năng động và an toàn Chính phủ , cũng cần sửa đổi pháp lệnh hợp đồng kinh tế, điều chỉnh một số vấn đề có liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng và những vấn đề phát sinh do chưa có quy định cụ thể Chính phủ, cũng cần có văn bản hướng dẫn cụ thể trách nhiệm của các bên với kết quả thẩm định trong nội dung dự án, quy định từng bước về từng bước mở rộng quyền và trách nhiệm thẩm định đối với những đối tượng thường xuyên liên quan đến lập và thẩm định dự án như Ngân hàng, Bộ thương mại, Bộ Kế hoạch đầu tư,Bộ tài chính… Thứ ba, nhà nước cần có quy định buộc các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán kế toán, tạo điều kiện cho các ngân hàng trong việc kiểm tra, giám sát tình hình của doanh nghiệp, qua đó có thể phòng ngừa rủi ro. Mặt khác, cần đẩy mạnh hoạt động của kiểm toán nhà nước và kiểm tóan độc lập trong nền kinh tế, đặc biệt là kiểm toán độc lập vì đây là nơi cung cấp thông tin cho công tác thẩm định tương đối chính xác. Để nâng cao hoạt động của kiểm toán, trước hết cần có sự thống nhất giữa các công ty kiểm toán Việt Nam, tiêu chuẩn hoá các chuẩn mực kiểm toán sao cho phù hợp với những chuẩn mực quốc tế. Đặc biệt, quốc hội nên có quy định các báo cáo tài chính, phải được xác nhận bởi của cơ quan kiểm toán Thứ tư, nhà nước cần đẩy mạnh các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và thực sự cần thiết, tạo điều kiện cho đầu tư có trọng điểm và đem lại hiệu quả cao. Cần đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, để nâng cao tính trách nhiệm, tự chủ và chất lượng quản lý các doanh nghiệp Nhà nước Thứ năm, các Bộ chủ quản như Bộ công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, tổng cục thống kê cần phối hợp trong việc thẩm định và phê duyệt các dự án. Bên cạnh đó, các Bộ cần hệ thống hoá thông tin liên quan đến lĩnh vực mà mình quản lý, đồng thời hàng năm công bố công khai các thông tin này để các ngân hàng thương mại cũng như chủ đầu tư dễ dàng thu thập thông tin 2.3.2. Với ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại khác Hệ thống ngân hang, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và đặc biệt trước sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Để đẩy mạnh việc sắp xếp, kiện toàn và củng cố lại các ngân hàng này theo hướng phát triển, an toàn và ổn định thì vai trò chủ đạo của ngân hàng nhà nước là rất cần thiết. Do đó, ngân hàng nhà nước cần có những chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy hoạt động của các ngân hàng nói chung và nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư nói riêng Ngân hàng nhà nước, cần ban hành nội dung quy trình thẩm định dự án thống nhất trên cơ sở thẩm định dự án của các cơ quan khoa học, Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ xây dựng, Bộ khoa học công nghệ ,của các ngân hàng sao cho phù hợp với điều kiện nước ta, đồng thời hoà nhập với thông lệ quốc tế Ngân hang, nhà nước cần tăng cường hỗ trợ về chuyên môn nghiệp vụ cho các ngân hàng bằng cách tổ chức các lớp huấn luyện đào tạo nghiệp vụ cho các cán bộ ngành, cần chú trọng kỹ năng thực hành bằng phầm mềm thẩm định trên máy tính với các ví dụ thực tiễn. Hàng năm Ngân hàng nhà nước, nên tổ chức các hội nghị tổng kết đầu tư của các ngân hàng thương mại vào từng lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và góp phần định hướng đầu tư trong thời gian tới Nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro, và trung tâm tín dụng ngân hàng để cung cấp các nguồn thông tin hữu ích, đồng thời đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng nhà nước, nên mở rộng phạm vi cung cấp thông tin của trung tâm tín dụng (CIC), đồng thời cung cấp thêm các thông tin kinh tế- kỹ thuật có liên quan cho công tác thẩm định Công tác thanh tra giám sát cần được đẩy mạnh nhằm kịp thời phát hiện những sai sót trong công tác tín dụng nhất là công tác thẩm định để hạn chế những rủi ro Ngoài ra các ngân hàng thương mại, cũng cần tăng cường sự hợp tác trong việc thu thập và xử lý thông tin, trao đổi kinh nghiệm để phục vụ cho công tác thẩm định dự án. Bởi vì mỗi ngân hang, đều có những thế mạnh riêng nên sự hợp tác này rất có ý nghĩa, nhất là đối với các dự án đồng tài trợ 2.3.3.Kiến nghị với chủ đầu tư Để tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc thẩm định dự án, trước hết các doanh nghiệp nên chọn lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh phù hợp với khả năng tài chính và năng lực quản lý của mình,không nên quá ôm đồm những việc qúa khó Các dự án đầu tư xin vay vốn cần đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về tính hợp pháp, phù hợp với quy hoạch phát triển của từng ngành từng vùng để ngân hàng không phải mất thời gian, và chi phí để thẩm định những dự án không được phép hoạt động. Khi xem xét, để đi đến quyết định đầu tư cần nghiên cứu kỹ về các khía cạnh thị trường, kỹ thuật, tài chính. Các chủ đầu tư cần nhận thức đúng vai trò của công tác thẩm định dự án, trước khi ra quyết định đầu tư để có những dự án thực sự có hiệu quả, tránh coi việc lập dự án chỉ là hình thức để xin vay Các luận chứng kinh tế kỹ thuật, các báo cáo tài chính và hồ sơ tài liệu có liên quan được gửi lên ngân hàng cần đảm bảo tính trung thực, chính xác để kết quả thẩm định được chính xác. Muốn vậy các chủ đầu tư cần có sự hợp tác cao với ngân hàng. Các chủ doanh nghiệp cần biết rằng, khi công tác thẩm định được tiến hành tốt, ngân hàng ra được những quyết định đúng đắn thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đầu tư của doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Như vậy cả ngân hàng và doanh nghiệp đều có lợi cả 2 bên .Chúng ta nên thực thi 2.3.4. Với HABUBANK Thường xuyên điều các đoàn kiểm tra giám sát hỗ trợ hoạt động thẩm định tại ngân hàng, cử các cán bộ thẩm định có kinh nghiệm và lâu năm, các chuyên gia thuộc trung tâm đào tạo của HABUBANK đến tham tán và đóng góp xây dựng ý kiến cho công tác thẩm định tại ngân hàng. Mặt khác ngân hàng cũng cần có chính sách khen thưởng đãi ngộ xứng đáng với các cán bộ thẩm định .Khen thưởng cho họ để họ có thể làm việc tốt hơn Bên cạnh đó ngân hàng cũng cần tích cực tổ chức các hội nghị tổng kết kinh nghiệm thẩm định, các hội thi cán bộ thẩm định giỏi nghiệp vụ toàn ngân hàng nhằm tăng cường sự hiểu biết và phối hợp giữa các chi nhánh và các đơn vị trực thuộc Ngân hàng HABUBANK không nên ngồi một chỗ mà nên chủ động tìm kiếm các dự án đầu tư có hiệu quả để cho vay, chủ động tiếp cận tìm hiểu nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp, từ đó tư vấn cho doanh nghiệp có phương hướng đầu tư có hiệu quả căn cứ vào định hướng của nhà nước và kế hoạch cho vay của ngân hàng. HABUBANK cũng thẩm định luôn tư cách pháp lý và tình hình tài chính doanh nghiệp. Việc cải tiến như vậy sẽ tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả HABUBANK và doanh nghiệp trong việc thẩm định

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21665.doc
Tài liệu liên quan