Chuyên đề Hoạt động truyền thông với việc thu hút đầu tư trong lĩnh vực dệt may vào các khu công nghiệp tại Thái Bình

Tóm lại, ngành dệt may Việt Nam nói chung và ngành dệt may tỉnh Thái Bình nói riêng trong thời gian qua đã có bước tăng trưởng vượt bậc với nhiều thành tựu, đặc biệt là sự gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu trên thị trường thế giới. Những thành tựu mà ngành đạt được góp phần thúc đẩy tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp và một phần làm cho sự tăng trưởng GDP của đất nước. Tuy nhiên, trong thời kỳ hiện nay, khó khăn của ngành dệt may gặp phải là không nhỏ: dỡ bỏ hạn ngạch dệt may đối với những nước trong tổ chức WTO mà Việt Nam là thành viên chính thức . Vì vậy, để đứng vững và phát triển được trước khó khăn đó, ngành dệt may Việt Nam cũng như ngành dệt may của tỉnh Thái Bình đặt ra một yêu cầu cấp bách, đó là tăng cường đầu tư và thu hút đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất của ngành. Cho đến nay, tình hình đầu tư và thu hút đầu tư trong ngành dệt may đã có những chuyển biến đáng kể, nhưng bên cạnh đó còn tồn tại những vấn đề chưa giải quyết được. Do đó, trong thời gian tới, ngành sẽ có những giải pháp đầu tư phát triển tích cực hơn nữa để giải quyết những khó khăn đó, tăng khả năng phát triển sản xuất, cạnh tranh trên thị trường thế giới.

doc63 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1682 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoạt động truyền thông với việc thu hút đầu tư trong lĩnh vực dệt may vào các khu công nghiệp tại Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iển kinh tế trên địa bàn tỉnh thuộc lĩnh vực do phòng phụ trách. 3.Nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội, các chương trình dự án phát triển kinh tế- xã hội thuộc các lĩnh vực do phòng phụ trách. 4.Tham gia triển khai kế hoạch và theo dõi tình hình thực hiện của cơ sở, tổng hợp báo cáo định kỳ và đột xuất, gửi phòng Tổng hợp- Quy hoạch để tổng hợp báo các Bộ, ngành liên quan và Uỷ ban Nhân dân tỉnh. 5.Phối hợp với phòng Thẩm định – XDCB tham mưu cho lãnh đạo Sở, thẩmđịnh các dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực do phòng phụ trách. Thẩm định các dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực do phòng phụ trách. Thẩm định các dự án chuyên môn ngành không thuộc vốn ngân sách tập trung. 6. Thực hiện các nhiệm vụ khác do lãnh đạo cơ quan giao. +Nhiệm vụ, quyền hạn của các phòng ban khác: 1.Phòng tổng hợp – Quy hoạch có các nhiệm vụ sau: - Tổng hợp, xây dựng các kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn về định hướng phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Đề xuất các chủ trương, cơ chế, chính sách, biện pháp, những cân đối chủ yếu của các thời kì kế hoạch về phát triển kinh tế xã hội. - Dự thảo chiến lược kinh tế xã hội và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội trong phạm vi toàn tỉnh. Hướng dẫn các cấp, các ngành xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế ngành và các địa phương, quản lý và theo dõi tình hình thực hiện quy hoạch kinh tế xẫ hội. Tham gia cùng với các phòng ngành xây dựng kế hoạch dài hạn – trung hạn và ngắn hạn về phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. - Giúp lãnh đạo Sở tổ chức hội nghị triển khai, hướng dẫn các cấp, các ngành trong tỉnh xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội dài hạn và hàng năm của ngành và địa phương. - Xử lý, tổng hợp và dự thảo các báo cáo về kế hoạch kinh tế xã hội, tình hình thực hiện kế hoạch, báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh và Bộ Kế hoạch và Đầu tư theo quy định. Giúp ban Giám đốc chuẩn bị chương trình công tác, nội dung giao ban định kỳ trong năm. - Chịu trách nhiệm tổng hợp kế hoạch tài chính ngân sách, khoa học- công nghệ, an ninh quốc phòng, làm đầu mối và tổng hợp các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình mục tiêu trên địa bàn tỉnh. - Thực hiện các nhiệm vụ khác do lãnh đạo giao 2.Phòng Thẩm định và XDCB có các nhiệm vụ : - Là đầu mối tiếp nhận hồ sơ dự án đầu tư trong nước ( vốn ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng do ngân sách Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước). Chủ trì phối hợp với các phòng ngành có liên quan, tham mưu cho lãnh đạo SỞ tổ chức thẩm định các dự án đầu tư theo phân cấp của Nhà nước, trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh quyết định. - Hướng dẫn nghiệp vụ quản lý đầu tư XDCB, xây dựng và tổng hợp kế hoạch đầu tư XDCB của các cấp, các ngành trong tỉnh, tổng hợp qua các phòng ngành báo cáo lãnh đạo cơ quan, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định. - Tổ chức triển khai và theo dõi thực hiện kế hoạch đầu tư xây dựn cơ bản - Theo dõi , tổng hợp các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, tổng hợp báo cáo theo quy định gửi phòng Tổng hợp để tổng hợp báo cáo chung. - Tiếp nhận, thẩm định, tham mưu cho lãnh đạo Sở trình UBND tỉnh phê duyệt kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời thầu và kết quả đấu thầu. Báo các tình hình đấu thầu của địa phương với Bộ Kế hoạch và Đầu tư theo quy định. - Thực hiện các nhiệm vụ công tác khác do lãnh đạo sở phân công. 3. Phòng Đăng ký kinh doanh có các nhiệm vụ công tác sau: - Hướng dẫn thủ tục, tiếp nhận và thẩm định hồ sơ, cấp và thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. - Trực tiếp kiểm tra hoặc đề nghị cơ quan Nhà nước có thầm quyền kiểm tra Doanh nghiệp theo những nội dung trong bộ hồ sơ đăng ký kinh doanh được quy định tại điểm 4, điều 116 Luật doanh nghiệp. Tham gia cùng các phòng ngành trong việc xây dựng sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, chuyển đổi đăng ký HTX và tổ chức hoạt động của liên hiệp HTX theo cácc nghị định của chính phủ, tham gia việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. - Tiếp nhận hồ sơ, tham mưu cho lãnh đạo Sở trình bày Uỷ ban Nhân dân tỉnh để cấp giấy ưu đãi và khiến nại của các doanh nghiệp về việc đăng kí kinh doanh, đề xuất báo cáo lãnh đạo cơ quan và Uỷ ban nhân dân tỉnh giải quyết theo thẩm quyền. - Đô đốc doanh nghiệp thực hiện thep chế độ báo cáo theo quy đụnh của Luật doanh nghiệp. Tổng hợp và gửi báo cáo định kỳ về tình hình đăng ký kinh doanh với Bộ và Uỷ ban nhân dân tỉnh theo quy định. 4. Phòng Kinh tế đối ngoại – thương mại Ngoài các nhiệm vụ chung của sở Kế hoạch và đầu tư, phòng còn có nhiệm vụ tiếp nhận hồ sơ, tổ chức thẩm định các dự án thuộc nguồn vốn ODA, FDI, NGO.Giúp Giám đốc Sở thực hiện quản lý Nhà nước về quản lý, sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển trực tiếp ( ODA) và viên trợ phi Chính phủ ( NGO) theo quyết định số 785/1998/ QĐ- UB và quyết định số 252/2001/QD-UB của Uỷ ban nhân dân tỉnh về quản lý hoạt động đầu tư trưc tiếp nước ngoài tại Thái Bình. 5.Phòng Hành chính tổ chức có các nhiệm sau: - Tham mưu cho cơ quan thực hiện công tác tổ chức – cán bộ, thực hiện quy chế làm việc , quy chế thực hiện dân chỉ trong hoạt động của cơ quan. Thực hiện chế độ sơ kết , tổng kết hàng năm. Tham gia xây dựng bộ máy kế hoạch và đầu tư của các ngành, huyện thị. - Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, theo dõi thi đua trong cơ quan và toàn ngành đầu tư trong tỉnh - Thực hiện công tác hành chính quản trị của cơ quan, bao gồm các mặt công tác: + Văn thư, lưư trữu hồ sơ và tài liệu , đánh máy , in, sao tài liệu, quản lý vận hành hệ thống máy tính trong cơ qua. + Thường trực bảo vệ cơ quan + Công tác kế toán tài vụ + Mua sắm, sửa chữa , quản lý tài sản và phương tiện làm việc, phục vụ các nhu cầu công tác và sinh hoạt trong cơ quan. II-Thực trạng thu hút đầu tư trong lĩnh vực dệt may 1-Vai trò và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam 1.2-Vai trò Ngành sản xuất các sản phẩm dệt may ở nước ta là một trong những ngành nghề có truyền thống lâu đời nhất, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển xã hội người Việt.Xã hội càng phát triển, khoa học công nghệ đạt đến khả năng giải quyết được các vấn đề khó khăn của sản xuất làm cho công nghiệp dệt may cũng ngày một hoàn thiện hơn và nhờ đó, phục vụ đời sống con người tốt hơn. Sự phát triển của công nghiệp dệt may Việt nam bắt đầu từ khu công nghiệp dệt Nam Định được thành lập năm 1889. Cho đến nay , ngành dệt may đã chứng tỏ là một ngành công nghiệp mũi nhọn, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Thứ nhất, ngành công nghiệp dệt may có vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Nó có tác động lớn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn cho quốc gia. Dệt may phát triển kéo theo sự phát triển của hàng loạt các ngành trong đó phải kể tới ngành nông nghiệp như việc trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm….., ngành công nghiệp hoá dầu chế biến nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, công nghiệp chế tạo, giải quyết được vấn đề việc làm cho hàng loạt lao động ….. Thứ hai, ngành dệt may là ngành có kim ngạch xuất khẩu cao. Đến nay, hàng may Việt nam đã xuất khẩu đến hơn 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, chủ yếu là Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU.Từ đó vừa có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa thu được nguồn ngoại tệ đáng kể. Với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 24,8%/năm, ngành vươn lên đứng vị trí thứ hai về kim ngạch xuất khẩu, sau ngành dầu khí. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 3,63 tỷ $, tăng nhanh so với năm 2005 và chiếm tỷ trọng hơn 18% trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu đã đạt kỷ lục 4,36 tỷ $. Thứ ba, ngành dệt may còn có vai trò quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho đông đảo lao động. Lực lượng lao động trong ngành dệt may chiếm khoảng 25% lực lượng lao động công nghiệp. Ngoài việc tạo công ăn việc làm cho chính lao động trong ngành, dệt may còn góp phần giải quyết việc làm cho ngành phụ trợ, như những nông dân trông bông, trồng dâu nuôi tằm…. Thứ tư, dệt may là một phân ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, nó cung cấp sản phẩm thiết yếu cho xã hội. Ngành có nhiệm vụ đáp ứng cho nhu cầu mặc- một trong hai nhu cầu thiết yếu của đời sống con người, mà con người là chủ thể của xã hội do đó chức năng của ngành dệt may có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế-xã hội. 1.3-Đặc điểm Thứ nhất, ngành công nghiệp may là ngành mà sản phẩm của nó có vòng đời ngắn. Sản phẩm được sản xuất ra để phục vụ con người, mà con người lại có có độ tuổi, nhu cầu, sở thích khác nhau nên sản phẩm dệt may cũng phải thay đổi để phù hợp với người sử dụng. Mỗi độ tuổi, giới tính lại có nhu cầu khác nhau về may mặc. Ngoài ra, sản phẩm dệt may còn chịu ảnh hưởng của yếu tố thời vụ: theo từng mùa, từng năm, yếu tố thời trang của từng giai đoạn nhất định. Đặc điểm này đòi hỏi nhà sản xuất phải nắm bắt nhu cầu, quan tâm đến thiết kế, thay đổi mẫu mã để phát triển được sản xuất, kinh doanh của mình. Thứ hai, công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp mà sản phẩm của nó thường được bảo hộ cao. Việc bảo hộ này được thực hiện thông qua các hạn ngạch nhập khẩu, nguyên tắc nhãn hàng hoá, xuất xứ, chính sách xuất nhập khẩu…..Sự bảo hộ này không chỉ có ở các nước trực tiếp tham gia xuất khẩu hàng dệt may mà còn ở các nước lớn khác bởi họ muốn khống chế và chi phối các nước đang phát triển này. Do đó, nước nào muốn tham gia vào xuất khẩu hàng dệt may phải quan tâm dến chính sách nhà nước, luật quốc tế, để có đối sách cho phù hợp. Thứ ba, khác với ngành công nghiệp khác đòi hỏi nhiều máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại do đó sử dụng ít lao động, ngành dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn. Do yêu cầu của việc sản xuất trong ngành dệt may không đòi hỏi công nghệ, may móc hiện đại, phức tạp do đó cần nhiều lao động, trong đó lao động giản đơn là chính. Thứ tư, công nghiệp dệt may là ngành có sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu cho con người, là sản phẩm không thể thay thế được. Con người có hai nhu cầu cơ bản đó là ăn và mặc, thì ngành dệt may đáp ứng nhu cầu mặc của con người. Con người không thể không mặc gì, không thể thay quần áo bằng những thứ khác, mà chỉ có thể thay thế vải này bằng vải loại vải khác, quần thành váy mà thôi. 2-Thực trạng thu hút đầu tư vào ngành dệt may 2.1-Tại Việt Nam 2.1.1-Thu hút đầu tư vế vốn: Hiện nay, hoạt động đầu tư và thu hút đầu tư bằng nguồn vốn trong nước của doanh nghiệp ngành dệt may đã mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, như giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu. Do đó, nhà nước có định hướng, chính sách khuyến khích đầu tư vào ngành dệt may. Các doanh nghiệp dệt may quốc doanh được cấp vốn ban đầu, đồng thời được cấp 30% vốn lưu động định mức theo kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm. Nguồn vốn trong nhân dân hiện nay còn rất lớn, các doanh nghiệp có khả năng có thể huy động vốn bằng cổ phiếu, trái phiếu. Mặt khác nhiều doanh nghiệp năng động, đã huy động được các nguồn vốn khác, như vốn vay ở ngân hàng, vốn vay nước ngoài, liên doanh, hợp tác... để mở rộng quy mô sản xuất như May 10, May Nhà Bè, May Việt Tiến... Theo thống kê của hiệp hội dệt may Việt Nam, trong 4 năm 2006-2007, riêng Vinatex đầu tư 8000 tỷ đồng, trong đó gần 70% là đầu tư vào ngành dệt. Hiệp hội dệt may Việt Nam đang kiến nghị chính phủ tập trung nguồn tín dụng khoảng 15 000 tỷ đồng hỗ trợ cho ngành dệt may phát triển từ 2008-2010. Đồng thời, các ngân hàng giảm lãi suất cho vay, các tổ chức tín dụng nước ngoài sẵn sàng cho Việt Nam vay khi có ngân hàng ngoại thương bảo lãnh. Vì vậy, tạo thuận lợi cho việc thu hút cho ngành dệt may. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn trong tình trạng thiếu vốn, nhất là vốn đầu tư dài hạn. Tình trạng thiếu vốn này thể hiện ở cả 2 mặt: vốn lưu động và vốn đầu tư để đổi mới công nghệ và thiết bị. Một số doanh nghiệp cần vốn ngay do đó phải đi vay và chịu lãi suất cao, thời gian trả nợ ngắn. Lãi vay không kịp trả đưa đến tình trạng nợ lớn, nguy cơ phá sản cao. Lãi suất ngân hàng hiện nay tuy đã giảm nhiều so với trước nhưng tỷ trọng cho vay trong và dài hạn quá thấp nên các doanh nghiệp không có điều kiện để vay vốn đầu tư chiều sâu. Vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong sản xuất của ngành dệt may. Nó chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng vốn đầu tư vào ngành dệt may hiện nay. Tính đến nay, có khoảng 180 dự án sợi- dệt- nhuộm- đan len- may mặc có hiệu lực với số vốn đăng ký đạt gần 1,85 tỷ $, trong đó đã có 130 dự án đi vào hoạt động. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm trên 30 % giá trị sản lượng hàng dệt và trên 25 % giá trị sản lượng hàng may mặc của cả nước. Dòng vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành dệt may trong thời gian qua đã thực sự có tác động tích cực và có vai trò quan trọng trong chiến lược đầu tư và thu hút đầu tư để phát triển ngành dệt may Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư được thu hút từ nước ngoài đã mang lại cho ngành dệt may Việt Nam một lượng vốn đầu tư rất lớn, khoảng 42 % trong tổng số vốn đầu tư toàn ngành dệt may trong thời gian qua. Lượng vốn này đã góp phần giải quyết khó khăn của doanh nghiệp dệt may Việt Nam, là nguồn vốn bổ sung đáng kể khi nguồn vốn trong nước chưa huy động hết. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may Việt Nam Năm Số dự án Tổng số vốn(triệu $) Bình quân 1dự án (Triệu $) 2003 46 89,018 1,872 2004 73 135,83 1,86 2005 148 237,78 1,606 2006 145 268,23 1,85 2007 21 73,0738 3,479 Đến nay, có khoảng 25 quốc gia đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam, chủ yếu là Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan.... với dự án quy mô vừa và nhỏ. Đài Loan là nước đầu tư lớn nhất với số vốn 1388,88 tr $ trong đó 53 dự án dệt, tương ứng 1189, 51 tr$; 92 dự án may tương ứng 199,37tr $. Song song với việc thu hút lượng vốn đầu tư nước ngoài, một lượng lớn tài sản thiết bị kỹ thuật và nguồn lực đáng kể được đưa vào hoạt động cho mục tiêu phát triển của ngành dệt may một cách có hiệu quả. Việc đổi mới trang thiết bị, máy móc công nghệ có được là nhờ sự góp vốn đầu tư của nhiều tập đoàn dệt may trên thế giới: Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản...Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp vai trò quan trọng trong sản xuất công nghiệp nói chung, dệt vải chiếm 33,5 % tổng giá trị sản xuất công nghiệp của ngành. 2.1.2-Thu hút đầu tư vào tài sản cố định hữu hình: Hoạt động đầu tư và thu hút đầu tư vào thiết bị công nghệ có vai trò rất quan trọng trong sản xuất của các ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành dệt may. Tuy ngành dệt may được phát triển sớm nhưng nếu không có khả năng đầu tư và thu hút đầu tư để đổi mới công nghệ thì không có khả năng phát triển sản xuất sản phẩm chất lượng cao, tốn kém về chi phí sản xuất, không tạo được sản phẩm đa dạng. Công nghệ mới góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, phục vụ tốt hơn nhu cầu ngày một gia tăng của con người. Ngược lại, sự tiến bộ khoa học công nghệ tạo sản phẩm mới kích thích làm phát triển nhu cầu tiêu dùng dẫn đến thúc đẩy trở lại ngành dệt may phát triển. Đổi mới thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thực sự được đặt ra và thực hiện một cách mạnh mẽ trong quá trình công nghiệp hoá. Hiện nay, công nghệ này đã có những cải thiện đáng kể, nhiều công đoạn của quá trình sản xuất đã đạt được trình độ công nghệ ở các nước tiên tiến. Trong những năm qua, với lượng vốn đầu tư thu hút nhiều, ngành dệt may Việt Nam đã tập trung đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ cho ngành dệt may. Vốn đầu tư thiết bị trong tổng vốn đầu tư của Vinatex giai đoạn 2003-2008 Đơn vị: Tỷ đồng 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng vốn đầu tư 2066,8 3157 2111,8 1245,3 1514,6 Vốn thiết bị 1126 1774 1036 598 709,59 Tỷ lệ(%) 54,48 56,19 48,89 48,02 46,85 Qua kết quả khảo sát 2006 về “ đổi mới thiết bị công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam” ta có thực trang trình độ công nghệ của công nghiệp dệt may như sau: * Thiết bị công nghệ kéo sợi: Hiện nay, toàn ngành có khoảng 1050000 cọc kéo sợi và số cọc đã sử dụng trên 20 năm chiếm 44,67 %; số cọc sợi đã sử dụng từ 10 – 20 năm chiếm 36,62 %; số cọc sợi đã sử dụng dưới 10 năm chiếm 8,6 %. Nhìn chung, công nghệ kéo sợi chưa đạt yêu cầu về chất lượng, công ty sợi được trang bị máy móc hiện đại nhất cũng mới chỉ đạt khoảng 50 %. Công nghệ kéo sợi OE là công nghệ phổ biến nhất cũng mới chỉ đạt xấp xỉ 5 % sản lượng kéo sợi. *Thiết bị công nghệ dệt thoi: Tỷ lệ máy dệt mới được trang bị chỉ chiếm khoảng 15 % toàn ngành có khoảng 14 nghìn máy dệt vải, 450 máy dệt kim. Số máy dệt thoi kiểu cũ khổ hẹp chiếm tới 80%. Hầu hết các doanh nghiệp mới kéo được sợi có chỉ số 50, một số ít làm được sợi 60 và sợi để sản xuất mảnh vải có chất lượng cao nhưng chỉ số 80 – 100 thì chưa làm được *Thiệt bị công nghệ in nhuộm: Chất lượng sản phẩm không chỉ phụ thuộc vào thiết bị mà còn phụ thuộc vào công nghệ bao gồm hoá chất, thuốc nhuộm, quy trình công nghệ. Hiện nay, các xí nghiệp in nhuộm có năng lực sản xuất khoảng 600 tr m/ năm nhưng năng suất rất thấp. Tỷ lệ nhuộm đúng ngay từ mẻ đầu thường là 45 – 50%, cơ sở tốt nhất là 75% trong khi đó tỷ lệ này ở nước khác là 90%. Tỷ lệ nhuộm lại do sai màu chiếm 15-25%, cơ sở làm tốt nhất cũng chỉ đạt 6-7%, ở nước ngoài là 1-4%. *Thiết bị công nghệ may: Hiện nay toàn ngành có khoảng 190 nghìn máy may. Trên cả nước, ngành may đã đổi mới được 90% máy móc thiết bị, trong đó có các loại máy có chất lượng cao, tự động hoá. Song hiện nay thiết bị ở các khâu trên dây chuyền công nghệ có trình độ công nghệ rất chênh lệch nhau. Ở khâu may và hoàn tất sản phẩm sử dụng thiết bị mới và hiện đại, còn ở khâu chuẩn bị sản xuất, khâu cắt thì vẫn sử dụng lao động thủ công, năng suất thấp. Bên cạnh đó, còn tồn tại sự chênh lệch về trình độ công nghệ của các doanh nghiệp dệt may, như là: sự chênh lệch trình độ công nghệ của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhau, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cao, còn ở doanh nghiệp nhà nước và ngoài nhà nước rất thấp. Chênh lệch về trình độ công nghệ giữa doanh nghiệp dệt và doanh nghiệp may, doanh nghiệp dệt chỉ có 15% máy mới, còn doanh nghiệp may xuất khẩu đã được thay toàn bộ thiết bị hiện đại. Hơn nữa, trình độ công nghệ sản xuất của ngành dệt may vẫn đang lạc hậu so với các nước trên thế giới, sản lượng sản phẩm xuất khẩu hạn chế, đạt khoảng 400 tr sản phẩm, trong khi đó ở Trung Quốc là 10 tỷ, Inđô là 3 tỷ, Thái Lan là 2,5 tỷ sản phẩm. Vốn đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ còn thiếu, đầu tư mang tính chất bổ sung thay thế là chính, chứ chưa quan tâm đến đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư sản xuất chủng loại mặt hàng mới. Nhiều doanh nghiệp đầu tư lớn song lại chưa huy động hết thiết bị mới đầu tư vào sản xuất, đặc biệt là dây truyền dệt, nhuộm. Đầu tư còn chưa đồng bộ và chưa phù hợp với xu hướng hiện nay của thị trường. Hiệu quả sản xuất của ngành may mặc chịu ành hưởng của nhiều nhân tố như thị trường đầu ra, đầu vào, môi trường thể chế pháp luật…. trong đó, một trong những yếu tố đầu vào có ý nghĩa quyết định đó là nguyên liệu thượng nguồn hay còn gọi là nguồn nguyên phụ liệu. Nguyên liệu thượng nguồn cho ngành may mặc, bao gồm những loại sản phẩm trung gian có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất sản phấm cuối cùng của may măc, một số sản phẩm chủ yếu như: sợi, vải, chỉ may, bao bì đóng gói, nhãn mác… cũng có thể hiểu một cách tương đối là sản xuất nguyên phụ liệu may mặc chính là ngành sản xuất phụ trợ của may mặc. Trong thời gian qua, ngành dệt may đã chú trọng đến đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu và đạt được một số kết quả như: sản lượng bông cung cấp phát triển, chất lượng tốt hơn, các nguyên phu liệu khác cũng đáp ứng tốt hơn. Tuy nhiên, theo thống kê hiện nay ngành may mặc Việt Nam, nguồn nguyên phụ liệu trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành. Hàng năm, phải nhập từ nước ngoài chiếm đến 70%, điều này ành hưởng lớn đến hiệu quả của ngành may mặc Việt Nam. Nhập khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt may Việt Nam Mặt hàng Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 Sợi dệt Nghìn tấn 273 210,7 265 217,3 231 Bông Nghìn tấn 90,4 98 97 91,7 138 Nguyên phụ liệu dệt may Triệu $ 1422 1589 1711 2035,6 2216 Tính đến nay, ngành may mặc và các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ may mặc có số vốn đầu tư đăng ký đạt 1,85 tỷ $, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm trên 30% giá trị sản lượng hàng dệt và 25% giá trị sản lượng may mặc. Bên cạnh đó, cây bông có vai trò quan trọng, là nguồn nguyên liệu của ngành dệt may. Ta sử dụng bông sản xuất trong nước sẽ chủ động được nguyên liệu, tiết kiệm ngoại tệ, cân băng kim ngạch XNK và khai thác tiềm năng đất đai lao động nhiều vùng trong cả nước. Trong giai đoan 2005 – 2008, ngành dệt may đã thực hiện 10 dự án phát triển trồng và chế biến bông, sản lượng bông tăng hàng năm 12- 15%, diện tích tăng từ 11- 17%, năng suất bình quân hàng năm đạt khoảng gần1 tấn/ha. Tuy vậy, thực tế hiện nay diện tích và năng suất trồng bông của Việt Nam mới chỉ đáp ứng được từ 10- 15% nhu cầu nguyên liệu của ngành dệt may, còn lại vẫn nhập khẩu là chủ yếu. Hàng năm, chúng ta vẫn phải bỏ khoảng 100 tr $ để nhập khẩu từ 50- 60 tấn bông xơ, chiếm 90% số lượng bông xơ sử dụng. Chính việc nhập khẩu này đã hạn chế khả năng phát triển của công nghiệp dệt. Doanh nghiệp không chủ động được nguồn nguyên phụ liệu và thời gian đáp ứng nhanh yêu cầu khách hàng từ đó ảnh hưởng đến kết quả sản xuất. Ngoài ra, tơ tằm cũng là nguyên liệu quan trọng trong ngành dệt may. Trong những năm gần đây nghề trồng dâu nuôi tằm đã được nhà nước quan tâm đầu tư phát triển. Diện tích trồng dâu có xu hướng tăng lên, đến 2000, diện tích trồng dâu lên đến 40000 ha. Bên cạnh đó, cũng tập trung vào trồng đay để sản xuất đay tơ. Hàng năm sản lượng đay đạt 20000 tấn. Một số dự án phát triển sản xuất tơ sợi nhân tạo và tổng hợp cho công nghệ dệt được xây dựng và thực hiện. Tổng sản lượng sợi đã gia tăng, tính riêng tổng công ty dệt may Việt Nam đã đạt 90000 tấn. 2.1.3-Thu hút đầu tư vào tài sản vô hình: Theo đánh giá của chuyên gia quốc tế Việt Nam thành lập khá ổn định sự có mặt của mình trong thị trường hàng dệt may toàn cầu, ngành công nghiệp dệt may của Việt Nam đã có sức cạnh tranh. Sản phẩm dệt may Việt Nam đã tạo được sự tin cậy của các nhà bán lẻ quốc tế được biết đến khá nhiều trên thị trường quốc tế. Một số thương hiệu quen thuộc đã gây được uy tín như: may 10, may Việt Tiến, gấm Thái Tuấn, dệt kim Đông Xuân, sơ mi An Phước. Vài năm trở lại đây, một số doanh nghiệp dệt may đầu tư vào công tác tiếp thị, quảng bá sản phẩm hiệu quả đã sản xuất được nhiều sản phẩm mang thương hiệu của chính mình và từng bước đẩy lùi hàng ngoại như: công ty thời trang Việt với nhãn hiệu NinoMaxx, đưa ra sản phầm trên vải jeans, kaki, lylen… thích hợp cho giới trẻ năng động ; gấm Thái Tuấn với vải lụa mềm, hoạ tiết độc đáo hợp cho trang phục mang đậm nét văn hoá; may Việt Tiến với sản phẩm sơ mi, quần âu… đa dạng mẫu mã chiếm lĩnh thị trường khá đông đảo. Gần đây các doanh nghiệp đã quan tâm đến nghiên cứu, thu thập và phân tích thông tin thị trường như: tổ chức xây dựng các bộ phận nghiên cứu phát triển của phòng Marketing, xây dựng chương trình quảng cáo khuyến mãi, mở rộng hội nghị khách hàng, tham dự hội trợ trong nước, quốc tế. Tuy nhiên,sản phẩm may tiêu thụ nội địa phần lớn dựa vào mẫu mốt nước ngoài. Công tác nghiên cứu thiết kế mẫu thời trang còn thiếu. Các sản phẩm thời trang trên sàn diễn không được nhiều người thực tế sử dụng. Một số hàng thời trang cho trẻ em và phụ nữ còn ở mức cóp nhặt cải biển từ mẫu mã của Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc mà chưa có nhà thiết kế chuyên nghiệp. Ngành dệt may đến nay chưa hình thành được các trung tâm thiết kế mẫu mốt, tình hình tiêu thụ sản phẩm dệt may chất lượng cao mang nhãn mác của doanh nghiệp Việt Nam còn quá ít do đó không tạo được uy tín cho khách hàng, chưa xây dựng được hình ành doanh nghiệp trên thị trường. Bên cạnh đó, thương hiệu dệt may Việt Nam vẫn còn quá ít. Doanh nghiệp Việt Nam thiếu ý thức về đăng ký bản quyền bảo hộ thương hiệu, thường bị động trong việc bảo vệ thương hiệu khi xâm nhập thị trường nước ngoài. Chính vì vậy doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường bị mất thương hiệu do sự thiếu cẩn trọng trong nghiên cứu thị trường và đối tác nước ngoài. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam xuất khẩu chưa có thương hiệu riêng về hàng hoá của mình theo thống kê có 70% giá trị xuất khẩu là sản phẩm gia công và mang nhãn hiệu hàng hoá của bên đặt hàng, 30% mang nhãn hiệu hàng hoá của nhà sản xuất trong nước hoặc mua quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá của nước ngoài. Chính vì vậy, một số nhãn hiệu nổi tiếng của Việt Nam như: may Nhà Bè, may Thành Công, dệt kim Hà Nội không được Mỹ, Nhật, EU biết đến. Mặt khác doanh nghiệp Việt Nam sau khi bị đánh cắp thương hiệu thường lúng túng trong việc giành lại quyền sở hữu thương hiệu của mình, như vừa qua công ty Việt Tiến bị chiếm dụng thương hiệu ở Mỹ Theo số lượng thống kê, đến nay có khoảng 1,6 tr lao động làm việc tại các cơ sở, nhà máy dệt may trong cả nước. Số lao động này chiếm khoảng 25% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực công nghiệp. Nhưng nhìn chung, khả năng sản xuất, phát triển của ngành dệt may còn có những hạn chế như: còn thiếu cán bộ có trình độ quản lý, chuyên ngành… do đó đòi hỏi cần tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Hiện nay, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của ngành đã được quan tâm. Các trường đại học đã có chuyên ngành đào tạo riêng như: Trường đại học Mỹ thuật công nghiệp, Khoa công nghệ dệt may của Trường đại học Bách Khoa, chuyên ngành thời trang của Viện đại học Mở. Ngoài ra, các công nhân kỹ thuật cũng được đào tạo trong các trường dạy nghề ở Gia Lâm. Các địa phương cũng có trường dạy nghề tại chỗ, trường hướng nghiệp. Theo số liệu năm 2206, tổng công ty dệt may Việt Nam đã triển khai được 24 lớp đào tạo, 699 học viên, 126 cán bộ được tập huấn quản trị chiến lược. Về vấn đề tiền lương cho người lao động trong ngành dệt may đã được gia tăng. Thu nhập cho người công nhân hiện nay khá ổn định so với trước. Do đó, đời sống người lao động làm trong ngành dần được cải thiện hơn. Đây cũng chính là điểm mạnh thu hút lao động vào ngành dệt may trong giai đoạn hiện nay.Trong đó, thu nhập của lao động ngành may cao hơn so với ngành dệt. Nhưng hiện nay, do ngành dệt đã được chú ý đầu tư nên khoảng cách này sẽ ngày càng có xu hướng giảm. Bên cạnh đó, tình hình đầu tư vào ngành dệt may hiện nay còn tồn tại một số vấn đề bất cập: Nhân công trong ngành dệt may ít được qua đào tạo và đào tạo lại, thường khoá đào tạo được tiến hành ngắn, trong 2 đến 3 tháng nội dung, mục tiêu đào tạo còn chậm đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Tay nghề của công nhân chưa cao, chưa đồng bộ, phù hợp với máy móc thiết bị do đó dẫn tới năng suất lao động, chất lượng sản phẩm thấp. Theo Vinatex, ngành dệt may Việt Nam hiện nay chỉ có 0,4% kỹ su công nghệ, 1,9% đạt trình độ trung cấp. Ngành sử dụng lao động nhiều, tỷ lệ ở mức cao ( 72 - 77%) nên khi doanh nghiệp không co việc làm, không tiêu thụ sản phẩm dẫn tới nghỉ việc tràn lan, gây ảnh hưởng đến các vấn đề về xã hội, tệ nạn gia tăng. Cơ sở vật chất, vốn tự có còn thấp, giải quyết chế độ phúc lợi còn chưa tốt. Thu nhập của công nhân dệt may dù phát triển nhưng còn thấp. Vì đó ảnh hưởng đến sức khoẻ, năng suất lao động, đời sống của công nhân. Từ đó ảnh hưởng đến phát triển sản xuất ngành dệt may. Trong vòng 20 đến 30 năm nữa, Việt Nam vẫn là nước có nguồn lao động dồi dào và rẻ, đây là cơ sở để dòng đầu tư nước ngoài từ các nước phát triển và các nước NICs đầu tư mạnh vào ngành dệt may Việt Nam nhằm tận dụng lợi thế về sức lao động. Do đó đầu tư phát triển vào nguồn nhân lực trong ngành dệt may cần được chú trọng để nâng cao sản xuất của ngành. 2.2-Tại Thái Bình Theo thống kê của Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Thái Bình, đến nay ngành dệt- may tỉnh này đã đầu tư ít nhất là 560 tỷ VND cho phát triển sản xuất, thu hút trên 30.000 lao động - chiếm trên 30% lao động công nghiệp toàn tỉnh. Hàng dệt - may của Thái Bình được xuất khẩu chủ yếu sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Mỹ và các nước Đông Âu. Kim ngạch XK của ngành dệt - may năm 2004 đạt 71,2 triệu USD (trong đó: may 49,3 triệu USD; dệt 21,9 triệu USD); năm 2005 ước đạt 80 - 83 triệu USD, chiếm trên 90% kim ngạch XK toàn tỉnh. Đi đầu trong những DN truyền thống, phải kể đến Cty XNK (UNIMEX) Thái Bình. Theo đánh giá của ông Phạm Văn Ca - PGĐ Sở TM - DL Thái Bình, Cty UNIMEX Thái Bìnhluôn dẫn đầu về kim ngạch XNK toàn tỉnh trong nhiều năm qua. Năm 2004, kim ngạch XNK của Cty XNK Thái Bình đạt 40 triệu USD, chiếm gần 35% kim ngạch XNK toàn tỉnh - góp phần tích cực vào quá trình phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong tỉnh. Đầu tư vào ngành dệt - may trong nước tại tỉnh Thái Bình, còn có Cty LD may Hưng Nhân (liên doanh giữa Cty may Đức Giang và UBND tỉnh Thái Bình) và TCty may 10... Hiện Cty LD Hưng Nhân có 2 cơ sở sản xuất tại Thái Bình với tổng vốn đầu tư 52 tỷ VND. Năm 2004, doanh thu của Hưng Nhân đạt 48 tỷ VND, trong đó XK sang các thị trường Mỹ, Nhật Bản... đạt 45,6 tỷ VND Gần đây, có thêm 6 dự án trong tổng số 15 dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng may mặc của Thái Bình với quy mô đầu tư lớn, trình độ công nghệ cao. Đứng thứ nhất về vốn là Cty TNHH Ivory Việt Nam (Hàn Quốc) đầu tư tại huyện Vũ Thư, Thái Bình với 3,3 triệu USD. DN FDI này có quy mô công suất 3,6 triệu sản phẩm may mặc/ năm. Hiện Cty này đã đi vào hoạt động từ tháng 7/2001; thu hút 1.800 lao động; 7 tháng năm 2005 đạt giá trị xuất khẩu trên 7,3 triệu USD vàđang triển khai mở rộng sản xuất - kinh doanh. Cty may Lan Lan (Nhật Bản) tại KCN Phúc Khánh có quy mô 2,5 triệu sản phẩm/năm, vốn đầu tư đăng ký là 1,9 triệu USD. Hiện Cty này đã đi vào hoạt động từ tháng 4 năm 2001, thu hút gần 500 lao động; 7 tháng năm 2005 đạt giá trị xuất khẩu trên 500.000 USD ; đang triển khai mở rộng quy mô sản xuất. Kế đến là Cty TNHH Poong Shin Vina (Hàn Quốc) đầu tư tại KCN Phúc Khánh có quy mô 600.000 sản phẩm may xuất khẩu/năm; tổng vốn đầu tư đăng ký 1,04 triệu USD. Cty này đã bước vào hoạt động từ tháng 6/ 2004, thu hút gần 500 lao động, tổng kim ngạch xuất khẩu 7 tháng năm 2005 ước đạt 3,2 triệu USD. Hiện Cty này đang mở rộng quy mô lên 2 triệu sản phẩm/năm.... Hiện nay, ngành dệt - may Thái Bình đang tiếp tục đầu tư chiều sâu để nhanh chóng hoà nhập và thích ứng với các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật... III-Những đánh giá chung Đến nay, ngành dệt may đã chứng tỏ là một ngành công nghiệp mũi nhọn, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đặc biêt trong một vài năm trở lại đây đã có sự phát triển vượt bậc cả về chất lượng sản phẩm tốt không ngừng nâng cao cũng như thị trường sản phẩm liên tục được mở rộng cả trong nước và quốc tế. Nhưng bên cạnh đó cũng còn những khó khăn cản trở trong hiện tại và tương lai của ngành dệt may Việt Nam nói chung và ngành dệt may Thái Bình nói riêng đó là: Hiện nay, dệt may Việt Nam còn nhập nguyên liệu nhiều với giá rất cao, do đó cần đầu tư phát triển vùng nguyên liệu trong nước đáp ứng nhu cầu sản xuất của ngành. Về vốn thì lãi suất ngân hàng hiện nay tuy đã giảm nhiều so với trước nhưng tỷ trọng cho vay trong và dài hạn quá thấp nên các doanh nghiệp không có điều kiện để vay vốn đầu tư chiều sâu.Mặt khác vốn đầu tư nước ngoài vào các khu vực chưa hợp lý do đó tạo ra sự chênh lệch thu nhập của công nhân dệt may giữa các khu vực và chưa khai thác hết tiềm năng về lao động, lợi thế của ngành dệt may. Bên cạnh đó hiệu quả sử dụng vốn nước ngoài chưa cao và không đồng đều. Hình thức liên doanh giảm đi đáng kể, chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ 16,44 % Về Trang thiết bị và công nghệ thì vốn đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ còn thiếu, đầu tư mang tính chất bổ sung thay thế là chính, chứ chưa quan tâm đến đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư sản xuất chủng loại mặt hàng mới. Nhiều doanh nghiệp đầu tư lớn song lại chưa huy động hết thiết bị mới đầu tư vào sản xuất, đặc biệt là dây truyền dệt, nhuộm. Đầu tư còn chưa đồng bộ và chưa phù hợp với xu hướng hiện nay của thị trường. Từ thực trạng trên cho thấy, đòi hỏi các doanh nghiệp ngành dệt may cần tập trung đầu tư hơn nữa cho thiết bị, công nghệ để có thể sản xuất ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu khắt khe của thị trường trong nước cũng như thế giới. Bên cạnh đó, tình hình đầu tư phát triển vùng nguyên vật liêu, phụ liệu cho ngành dệt may còn gặp nhiều khó khăn. Nghề trồng dâu nuôi tằm được sản xuất ở quy mô nhỏ, phân tán do đó năng suất chưa cao, kỹ thuật còn chưa hiện đại nên sản lượng, chất lượng tơ chưa cao. Sản xuất đay tơ gần đây có xu hướng giảm sút. Trong khi đó Nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ việc trồng trọt, sản xuất nguyên liệu cho ngành dệt may. Các nhà sản xuất chưa lấy chất lượng đặt lên hàng đầu cho quá trình sản xuất. Ngoài ra, thương hiệu dệt may Việt Nam vẫn còn quá ít. Doanh nghiệp Việt Nam thiếu ý thức về đăng ký bản quyền bảo hộ thương hiệu, thường bị động trong việc bảo vệ thương hiệu khi xâm nhập thị trường nước ngoài. Chính vì vậy doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường bị mất thương hiệu do sự thiếu cẩn trọng trong nghiên cứu thị trường và đối tác nước ngoài. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam xuất khẩu chưa có thương hiệu riêng về hàng hoá của mình theo thống kê có 70% giá trị xuất khẩu là sản phẩm gia công và mang nhãn hiệu hàng hoá của bên đặt hàng, 30% mang nhãn hiệu hàng hoá của nhà sản xuất trong nước hoặc mua quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá của nước ngoài. Chính vì vậy, một số nhãn hiệu nổi tiếng của Việt Nam như: may Nhà Bè, may Thành Công, dệt kim Hà Nội không được Mỹ, Nhật, EU biết đến. Mặt khác doanh nghiệp Việt Nam sau khi bị đánh cắp thương hiệu thường lúng túng trong việc giành lại quyền sở hữu thương hiệu của mình, như vụ việc công ty Việt Tiến bị chiếm dụng thương hiệu ở Mỹ. Về nguồn lao động nhân công trong ngành dệt may ít được qua đào tạo và đào tạo lại, thường khoá đào tạo được tiến hành ngắn, trong 2 đến 3 tháng nội dung, mục tiêu đào tạo còn chậm đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Tay nghề của công nhân chưa cao, chưa đồng bộ, phù hợp với máy móc thiết bị do đó dẫn tới năng suất lao động, chất lượng sản phẩm thấp. Theo Vinatex, ngành dệt may Việt Nam hiện nay chỉ có 0,4% kỹ su công nghệ, 1,9% đạt trình độ trung cấp.Ngành dệt may sử dụng lao động nhiều, tỷ lệ ở mức cao ( 72 - 77%) nên khi doanh nghiệp không có việc làm, không tiêu thụ sản phẩm dẫn tới nghỉ việc tràn lan, gây ảnh hưởng đến các vấn đề về xã hội, tệ nạn gia tăng. Cơ sở vật chất, vốn tự có còn thấp, giải quyết chế độ phúc lợi còn chưa tốt. Thu nhập của công nhân dệt may dù phát triển nhưng còn thấp. Vì đó ảnh hưởng đến sức khoẻ, năng suất lao động, đời sống của công nhân. Từ đó ảnh hưởng đến phát triển sản xuất ngành dệt may. CHƯƠNG III -HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRONG LĨNH VỰC DỆT MAY I-Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam 1- Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam trong thời gian tới: Nhìn sang các nước khu vực Đông Nam Á như: Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc ta thấy ngành công nghiệp dệt – may đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ công nghiệp hoá. Tiềm năng của ngành này ở Việt Nam còn rất lớn, chưa khai thác hết. Để phát huy tiềm năng đó và nắm bắt thời cơ phát triển, ngành dệt may cần có chiến lược và kế hoạch cụ thể trong thời gian tới. Trong quyết định số 55/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ngày 23/04/2001 phê duyệt chiến lược tăng tốc ngành dệt may đã chỉ rõ nhiệm vụ trong những năm tới. Chiến lược tăng tốc nhằm giải quyết việc làm, phát triển ngành dệt may và nâng cao kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt-may Việt Nam. Về cơ cấu thị trường xuất khẩu, dự kiến đến năm 2010, ba thị trường xuất khẩu chính là: Hoa Kỳ chiếm 50-55 %, EU chiếm 25-27% và Nhật Bản chiếm 12-15% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Một số mục tiêu cơ bản mà ngành dệt-may đang hướng tới Chỉ tiêu Đơn vị 2005 2010 - Kim ngạch xuất khẩu +May +Dệt -Sản lượng +Vải lụa thành phẩm +Sản lượng dệt kim +Sản lượng may -Sử dụng lao động -Tỷ lệ nội địa hoá Triệu $ Triệu $ Triệu $ Triệu m Triệu sp Triệu sp 1000 người % 5800 5000 800 1330 150 780 3000 50 9000 8000 1000 2000 210 1200 4000 75 Về vốn đầu tư, tổng vốn đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 khoảng 3000 tỷ đồng, trong đó tổng công ty dệt may Việt Nam cần 9500 tỷ đồng. Như vậy, để ngành dệt may Việt Nam có thể phát huy tốt vai trò của mình, triển khai đồng bộ và hiệu quả những chương trình hoạt động, tiếp tục phát triển mục tiêu toàn ngành đã đề ra vào những năm 2010 cần có một số giải pháp cụ thể về thu hút vốn đầu tư. 2-Giải pháp thu hút vốn đầu tư cho ngành dệt may: Năm 2010 toàn ngành dệt may cần 4,8 tỷ USD để đầu tư cho dự án mới do đó cần kêu gọi từ các nguồn vốn, bao gồm: vốn trong nước và vốn nước ngoài. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định đối với việc phát triển ngành dệt may. Nó có thể có được từ nhiều nguồn khác nhau. Trong doanh nghiệp, có thể thu hút vốn từ việc tích luỹ của doanh nghiệp, được hình thành từ khoản khấu hao để lại hay từ tiết kiệm chi tiêu. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể huy động bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu, huy động từ tiền của cán bộ, công nhân viên. Trong dân cư, ngoài việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu, một biện pháp cũng được coi là hữu hiệu trong giai đoạn hiện nay, đó là cổ phần hoá doanh nghiệp. Công tác này được thực hiện từ doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, sau đó đến toàn bộ doanh nghiệp may và một số doanh nghiệp dệt. Trong quá trình cổ phần hoá, ta cần chú ý, kết hợp hài hoà giữa lợi ích doanh nghiệp với lợi ích người lao động và lợi ích của toàn xã hội. Như vậy, mới đảm bảo được việc thu hút vốn một cách có hiệu quả. Đối với nhà nước, cần có các chính sách đầu tư vốn ưu đãi hơn cho doanh nghiệp như: bổ sung vốn lưu động bằng ngân sách, được giữ lại lợi nhuận sau thuế để đầu tư phát triển, ngân hàng nới lỏng điều kiện cho vay và hạ lãi suất phù hợp với tốc độ tăng giá. Bên cạnh đó còn có nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài để thu hút được nguồn vốn này, ta cần có những biện pháp gọi vốn như: chủ động xây dựng các dự án đầu tư kêu gọi từ phía nước ngoài, nâng cao kết cấu hạ tầng cơ sở kỹ thuật. Đặc biệt đối với ngành dệt may thì đường giao thông là quan trọng do đó cần được chú ý để thu hút được vốn từ bên ngoài. Đồng thời, ta cần phải giảm giá thuê đất, miễn hẳn thuế đất, giảm thuế đối với công trình đầu tư công nghệ, đầu tư phát triển vùng nguyên liệu. Từ đó, mới có thể thu hút được doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, làm tăng cường vốn đầu tư cho ngành dệt may. II-Một số đề xuất để tăng cường hoạt động thu hút đầu tư trong lĩnh vực dệt may tại các khu công nghiệp Thái Bình. 1-Đánh giá chung: Chính quyền tỉnh Thái Bình đóng một vai trò rất quan trọng đối với việc thu hút các khách hàng địa phương (mà ở đây chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp nước ngoài trong đó đặc biệt chú trọng đến các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh các hàng về dệt may) nhằm đưa tỉnh Thái Bình thành một tỉnh có nền công nghiệp-dịch vụ phát triển, tăng tỷ trọng công nghiệp đặc biệt là công nghiệp nhẹ về dệt may, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Hiện tại các nhà đầu tư nhìn thấy rằng: -Thái Bình là một tỉnh có kinh tế chậm phát triển, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, hiệu quả kinh tế chưa cao. -Nông nghiệp chưa chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, sản xuất còn phân tán nhỏ lẻ, năng suất, chất lượng hàng hóa, tính cạnh tranh yếu. -Công nghiệp chiếm tỷ trọng thấp trong nền kinh tế, cơ sở công nghiệp còn nhỏ bé, kỹ thuật công nghệ, máy móc. Thiết bị phần lớn ở trình độ thấp, vốn ít, sản phẩm chất lượng còn hạn chế. -Các hoạt động dịch vụ du lịch chưa phát triển. -Chất lượng nguồn nhân lực, vị trí địa lý thuận lợi khá tốt là một trong những điểm mạnh cần duy trì và phát triển. -Một trong những nguyên nhân dẫn đến thu hút đầu tư nói chung và đầu tư vào ngành công nghiệp dệt may nói riêng còn hạn chế là do các yếu tố lựa chọn của nhà đầu tư như: Môi trường đầu tư,…chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư. -Nhiều nhà đầu tư còn phàn nàn về tình trạng thiếu thông tin chậm cập nhật qua các kênh (trong đó có kênh thông tin điện tử và các hội nghị xúc tiến đầu tư xứng tầm đang được các địa phương trên cả nước khai thác hiệu quả). -Nhận thức về hội nhập kinh tế ở nhiều cơ quan hành chình nhà nước cũng như các doanh nghiệp còn hạn chế, dẫn đến cải cách thủ tục hành chính còn chậm, tỉnh chưa có đội ngũ làm công tác tư vấn đầu tư đủ mạnh để đáp ứng yêu cầu. Do không có nguồn vốn cho công tác chuẩn bị đầu tư (thuê tư vấn, lập dự án,…) nên nhiều cơ hội bị bỏ lỡ. -Hiện tỉnh đang rất cần có dự án xử lý nước thải vì có rất nhiều các nhà đầu tư chuyển hạng mục đầu tư đi địa phương khác do tỉnh không đáp ứng được yêu cầu quan trọng này của nhà đầu tư nêu ra. -Ngoài ra, do điều kiện kinh tế nên tỉnh Thái Bình khó khăn về nguồn vốn đối ứng trong các dự án ODA dẫn đến giải ngân chậm, hạn chế phát huy hiệu quả của các dự án. Đến đây có thể thấy để xác lập và duy trì các mối quan hệ chặt chẽ giữa các nguồn lực và các mục tiêu phát triển với các cơ hội đầu tư đặc biệt là các dự án đầu tư vào lĩnh vực dệt may thì tỉnh Thái Bình nói chung và Sở kế hoạch đầu tư nói riêng đã đưa ra một số hoạt động Marketing Mix địa phương để thực hiện chiến lược đề ra. 2-Marketing Mix địa phương 2.1-Về vị trí địa lý, địa điểm (Place): Với lợi thế nổi trội là một tỉnh thuần nông, nên tỉnh thái Bình có một quỹ đất khá lớn để phát triển cơ sở hạ tầng, để thu hút đầu tư. Đi liền vói nó là các chính sách khuyến khích thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp của tỉnh như: Hỗ trợ nhà đầu tư 50% kinh phí giải phóng, san lấp mặt bằng, giá cho thuê đất ưu đãi theo khung giá thấp nhất do Chính phủ qui định. Đây là một điều rất lợi cho các nhà đầu tư trong ngành dệt may vì với yếu tố này thì mặt bằng nhà xưởng (tối cần thiết cho dệt may) đã được thỏa mãn tốt. 2.2-Cung địa phương (Chính sách sản phẩm của địa phương) (Product): *Điều kiện tự nhiên: -Vị trí thuận lợi, tiếp giáp với các tỉnh thành có nền kinh tế, văn hóa phát triển như Hải Phòng. Đặc biệt là tiếp giáp với Nam Định là tỉnh có bề dày kinh nghiệm về công nghiệp dệt tạo điều kiện học hỏi về sản xuất cũng như kinh doanh sản phẩm dệt. -Diện tích đất canh tác lớn là điều kiện tối ưu để phát triển các vùng nguyên liệu cho ngành dệt may. -Đường bờ biển dài, có cảng biển nước sâu tạo điều kiện cho việc giao lưu thông thương tiêu thụ sản phẩm cũng như xuất khẩu *Nền văn hóa có từ rất lâu đời, cùng với sự phát triển của nhiều loại hình nghệ thuật dân gian như múa rối nước, hát chèo,…là cơ sở để thu hút các nhà nghiên cứu, bảo tồn, phát triển văn hóa. Đồng thời cũng thu hút sụ quan tâm của khách du lịch bao gồm các nhà đầu tư và công chúng. *Mặt khác sự ưu đãi về thuế và hỗ trợ doanh nghiệp về đào tọa lao động, thủ tục hành chính nhanh gọn theo cơ chế “một cửa”: Cấp giấy phép đầu tư cho các dự án FDI trong thời hạn 2-3 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ họp lệ, xác nhận đăng ký nhân sự doanh nghiệp trong vòng 48h,… Tất cả những điều đó đang nói lên môi trường đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư trong lĩnh vực dệt may. 2.3-Danh mục các hoạt động của chình quyền địa phương (Power): Chính quyền địa phương có vai trò rất quan trọng đối với việc thu hút khách hàng địa phương. Đó chính là vai trò chủ thể trong hoạt động marketing địa phương. Hoạt động của chính quyền địa phương vừa mang tính chất cung ứng dịch vụ cho khách hàng, vừa mang tính chất của một yếu tố thu hút khách hàng của địa phương. Các hoạt động của chính quyền tỉnh Thái Bình nói chung và Sở kế hoạch đầu tư nói riêng luôn hướng tới việc tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, tạo việc làm, tạo điểm đến cho du khách và tạo lợi thế xuất khẩu hàng hóa. Sau đây là một số chính sách và hoạt động của Sở kế hoạch đầu tư để thu hút đầu tư đặc biệt là đầu tư trong lĩnh vực dệt may tại các khu công nghiệp: -Cơ chế chính sách thu hút đầu tư phải thực hiện thông thoáng. -Công tác xúc tiến kêu gọi đầu tư phải tập trung vào một đầu mối. -Mở thêm các khu công nghiệp Gia Lễ, Ngã Ba Đọ,…quy mô mỗi khu công nghiệp là khoảng 100ha. -Tập trung vốn hoàn chỉnh đầu tư hạ tầng kỹ thuật, kêu gọi đầu tư lấp đầy các khu công nghiệp Phúc Khánh, Nguyễn Đức Cảnh, Cầu Nghìn,…và các khu công nghiệp mới. -Mỗi huyện và thành phố phải đầu tư hoàn chỉnh hạ tầng từ 2 cụm công nghiệp tập trung trở lên để thu hút đầu tư từ bên ngoài và từ 2 đến 3 cụm công nghiệp làng nghề để thu hút đầu tư tại chỗ với nguồn vốn tự có của nhân dân. Phấn đấu đến năm 2010 toàn tỉnh có 285 làng nghề, bình quân mỗi xã có 1 làng nghề đạt tiêu chuẩn. -Thông qua cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư cho Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam và đầu tư chế biến nông sản thực phẩm tại Thái Bình để năm 2006 Tổng công ty tàu thủy Viietj Nam bắt đầu đầu tư 1 đến 2 cụm công nghiệp đóng tàu tại Vũ Thư và Thái Thụy và thu hút một số dự án đầu tư chế biến nông sản thực phẩm xuất khẩu, đây là lĩnh vực cần tập trung. -Tạo môi trường thông thoáng cho các nhà đầu tư về vay vốn tại các ngân hàng thương mại và quỹ hỗ trợ phát triển. -Đề nghị Chính phủ, Bộ công nghiệp, Tổng công ty dầu khí Việt nam thăm dò, khai thác, mở vỉa, hỗ trợ Thái bình nguồn khí đốt để mở rộng sản xuất công nghiệp ở khu công nghiệp Tiền hải. -Hoàn chỉnh sớm nâng cấp mở rộng quốc lộ 39, đường vành đai ven biển để tạo điều kiện thu hút đầu tư vào tỉnh. 2.4-Giá cả và không gian địa phương (Price): Mặc dù có khá nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên cũng như nhân công nhưng chi phí thuê mặt bằng, chi phí thuê nhân công, thuế suất,… ở tỉnh Thái Bình là thấp so với một số tỉnh, thành có nhiều nét tương đồng như: Nam Định,… Do nền kinh tế chưa thật sự phát triển, mức sống của người dân ở mức trung bình nên giá sinh hoạt, giá bất động sản, giá giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe, giải trí,…cũng còn thấp, và chất lượng cũng không được cao. Đối với thị trường xuất khẩu: Giá hàng hóa sản xuất thấp, chi phí nhập hàng, lắp ráp tại địa phương thấp chính là một trong những yếu tố để hàng hóa xuất khẩu của tỉnh có sức tiêu thụ mạnh trong đó đặc biệt là hàng dệt may. 2.5-Khuếch trương địa phương (Promotion): Hoạt động khuếch trương thương hiệu tỉnh Thái bình trong những năm qua chưa được chú trọng đúng mức. Ngoài việc tham gia vào chương trình khuếch trương thương hiệu quốc gia:”Việt Nam-Vẻ đẹp tiềm ẩn”, thì tỉnh chưa có (chưa tổ chức) được nhiều sự kiện có tiếng vang, gây chú ý tới công chúng. Việc triển khai hệ thống thông tin giới thiệu về tỉnh, các hình ảnh quảng bá,…còn nhiều bất cập. Do vậy, hình ảnh địa phương chưa được định vị rõ trong tâm trí khách hàng. Đây là điểm yếu của tỉnh cần được nhanh chóng khắc phục. Thương hiệu địa phương cần được xây dựng là:”Thái Bình là điểm đến, điểm hẹn của các nhà đầu tư và du lịch”. Khẳng định Thái Bình là địa phương có nguồn nhân lực dồi dào, là nơi đầu tư đáng tin cậy, tiềm năng phát triển lớn,… 2.6-Công chúng (Những người quyết định của địa phương)(Public): Có thể nhận xét rằng tình hình chính trị, xã hội tại tỉnh Thái Bình nhìn chung là khá ổn định. Người dân ở đây sống khá cởi mở, hiếu khách, nhiệt tình, và còn mang đậm nét chân quê chăm chỉ, cần cù,…là điều khiến cho bất kì du khách nao khi đến đây đếu có cảm giác hài long, thoải mái vì sự than thiện này. Đối với các nhà đầu tư thì nguồn lao động dồi dào, tiếp thu tốt, khéo léo, chăm chỉ,.. rất thích hợp cho ngành dệt may. Hoạt động, hành vi của những người lãnh đạo trong Tỉnh, của các nhóm công chúng được xem như một công cụ marketing về hình ảnh của tỉnh qua đó có gây tác động tích cực đến khả năng thu hút khách hàng địa phương. KẾT LUẬN Tóm lại, ngành dệt may Việt Nam nói chung và ngành dệt may tỉnh Thái Bình nói riêng trong thời gian qua đã có bước tăng trưởng vượt bậc với nhiều thành tựu, đặc biệt là sự gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu trên thị trường thế giới. Những thành tựu mà ngành đạt được góp phần thúc đẩy tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp và một phần làm cho sự tăng trưởng GDP của đất nước. Tuy nhiên, trong thời kỳ hiện nay, khó khăn của ngành dệt may gặp phải là không nhỏ: dỡ bỏ hạn ngạch dệt may đối với những nước trong tổ chức WTO mà Việt Nam là thành viên chính thức…. Vì vậy, để đứng vững và phát triển được trước khó khăn đó, ngành dệt may Việt Nam cũng như ngành dệt may của tỉnh Thái Bình đặt ra một yêu cầu cấp bách, đó là tăng cường đầu tư và thu hút đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất của ngành. Cho đến nay, tình hình đầu tư và thu hút đầu tư trong ngành dệt may đã có những chuyển biến đáng kể, nhưng bên cạnh đó còn tồn tại những vấn đề chưa giải quyết được. Do đó, trong thời gian tới, ngành sẽ có những giải pháp đầu tư phát triển tích cực hơn nữa để giải quyết những khó khăn đó, tăng khả năng phát triển sản xuất, cạnh tranh trên thị trường thế giới. Qua đây em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động truyền thông thu hút đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam nói chung và tại tỉnh Thái Bình nói. Điều này nhằm mục đích bổ xung một phần những vấn đề còn thiếu sót trong việc thu hút đầu tư vào ngành dệt may, nó góp phần đảm bảo sự tồn tại và phát triển vững mạnh của ngành dệt may. Mặt khác, nó còn giúp cho ngành dệt may Việt Nam mở rộng thị trường và khẳng định vị thế của mình trên thị trường thế giới Cuối cùng, do thời gian nghiên cứu có hạn và có nhiều vấn đề phát sinh trong quá trình tìm hiểu, vì thế đề tài nghiên cứu của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy, em rất mong được sự xem xét, góp ý của các thầy cô giáo để chuyên đề thực tập của em được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô giáo trong Khoa Marketing trường ĐH KTQD đã tận tình dạy bảo em trong thời gian qua, em xin cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo – TS. Vũ Huy Thông đã giúp đỡ em hoàn thành bài chuyên đề thực tập này. Đồng thời, em cũng xin cảm ơn các cô chú, các anh chị trong phòng kế hoạch kinh doanh của Sở kế hoạch đầu tư tinh Thái Bình đã nhiệt tình hướng, dẫn chỉ bảo em trong thời gian thực tập tốt nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Quản trị Marketing Philip Kotler 2. Giáo trình Marketing căn bản Trg.ĐH KTQD 3. Giáo trình Kinh tế đầu tư NXB Thống kê,2003 4. Tài liệu Marketing địa phương Khoa Mar ĐH KTQD 4. Tạp chí Thị trường-Giá cả 2003->2007 5. Tạp chí Kinh tế và Phát triển 2003->2007 6. Một số trang web trên mạng internet. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12044.doc
Tài liệu liên quan