Chuyên đề Mở rộng và nâng cao chất lượng trong hoạt động kinh doanh ngoại hối tại Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội

Chuyên đề”mở rộng và nâng cao chất lượng trong hoạt động kinh doanh ngoại hối tại NHTMCPQD” được trình bày trng 3 chương với những nội dung cơ bản sau: Báo các đã tập trung vào việc nghiên cứu về thị trường ngoại hối và các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối tại NHTMCPQD cũng như trong hệ thống NHTM nói chung trước xu thế mở cửa của nền kinh tế nước ta hiện nay.Qua khái niệm,đặc điểm,quá trình hình thành và phát triển,đã nói lên một cách khái quát nhất về bức tranh của thị trường ngoại hối.Một trong những nội dung cơ bản của chương I được tập trung trình bày nội dung các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối mà hiện nay được thực hiện ở hầu hết các thị trường phát triển đó là:Nghiệp vụ kinh doanh giao ngay,nghiệp vụ kinh doanh kỳ hạn,nghiệp vụ kinh doanh hoán đổi,nghiệp vụ kinh doanh quyền chọn và nghiệp vụ tương lai

doc77 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1627 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mở rộng và nâng cao chất lượng trong hoạt động kinh doanh ngoại hối tại Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iến hành kiểm tra và duyệt bán ngoại tệ trên cơ sở tỷ giá bán và nguồn ngoại tệ của ngân hàng mình. Ví dụ:Ngày 10/4/2008,công ty dược phẩm TW1 thuộc tổng công ty dươc phẩm VN làm đơn gửi sở giao dịch ngân hàng quân đội xin mua 10000 USD để thanh toán cho công ty dược Sanofi Singapore theo hợp đồng số 61 CPC No 1/07(Q4) ngày 12/12/2007.Ngoài đơn xin mua ngoại tệ còn có: -Hợp đồng 061 CPC No.1/07 (Q4) ngày 12/12/2007 -Hóa đơn thương mại ngày 29/2/2008 -Tờ khai hải quan hàng hóa xuất nhập khẩu Sau khi kiểm tra,xét thấy mọi thủ tục đều hợp lệ,ngân hàng đồng ý bán và ghi”duyệt bán với số tiền 10000USD” trên tờ đơn xin mua ngoại tệ với tỷ giá VND/USD=16.119,00.Số tiền VND mà khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng là 161190000VND.Số tiền này ghi nợ tài khoản của công ty dược phẩm TW 1 tại sở giao dịch ngân hàng quân đội (theo ủy nhiệm chi số 11 lập ra ngày 10/5/2008 của công ty dược phẩm TW1) 2.2.1.4.Thực trạng kinh doanh trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Sau khi có quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành quy chế giao dịch hối đoái,hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối đã trở nên sôi nổi hơn nhiều so với các năm trước đó Hiện nay các thành viên tham gia hoạt động trên Interbank VN chủ yếu là các NHTM và NHNN.Nhu cầu mua bán trên Interbank chủ yếu xuất phát từ nhu cầu của khách hàng không được các NHTM đáp ứng.Hoặc nhu cầu của khách hàng đã được đáp ứng,nhưng các NHTM không muốn bị rủi ro bởi trạng thái ngoại hối thì NHTM phải tìm cách cân bằng trạng thái ngoại hối thông qua nghiệp vụ giao ngay trên thị trường này.Như vậy,ở một góc độ nào đó về lĩnh vực dịch vụ thì NHTM là người cung cấp dịch vụ đắc lực cho khách hàng của mình,song đứng trên góc độ quản lý rủi ro thì NHTM cũng là người biết kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất,tránh được rủi ro trạng thái ngoại hối và thu được lợi nhuận cho ngân hàng.Trên thị trường Interbank,ngoài các NHTM,NHNN cũng tham gia mua bán với NHTM với vai trò là người mua bán cuối cùng. Doanh số mua bán giao ngay của thị trường ngoại hối: Đơn vị:1000 USD Năm Doanh số mua Doanh số bán Tổng doanh số mua bán Tỷ lệ tăng(%) 2003 2004 2005 2006 2007 6541,2 6937,6 9141,4 10373,3 14372,6 6838,2 6974,5 9246,2 10398,5 14805,1 13379,4 13912,1 18387,7 20771,8 29177,7 100,0 103,98 137,43 155.25 218,07 Với số liệu tại bảng trên cho ta thấy,doanh số mua bán ngoại tệ giao ngay của thị trường VN đều tăng qua các năm.Lấy năm 2003 làm năm mốc,năm 2004 tăng 103.98%,năm 2005 tăng 137,43% năm 2006 tăng lên 155,25%,năm 2007 là 218,07%.Doanh số mua bán ngoại tệ tăng đều theo các năm cho thấy một tín hiệu khả quan tích cực về hoạt động kinh doanh ngoại hối trên thị trường VN Doanh số mua bán tăng lên qua các năm,đặc biệt vào năm 2007,thị trường ngoại tệ khá ổn định,lượng cung ngoại tệ trên thị trường dồi dào,tỷ giá ổn định,tỷ lệ kết hối theo quy định là 80%,có doanh nghiệp xuất khẩu bán 100% ngoại tệ thu được cho ngân hàng.Lượng tiền gửi bằng ngoại tệ của một số khách hàng vào các ngân hàng thương mại ngày càng tăng,trong khi đó nhu cầu mua ngoại tệ của nhiều khách hàng khác lại không được đáp ứng. Đối với ngân hàng quân đội,số lượng ngoại tệ giao dịch trong năm 2007 tăng 68% so với năm 2006,trong đó doanh số mua trong nước tăng 73% và doanh số bán tăng 70%.Doanh số mua bán với nước ngoài năm 2007 so với năm 2006 tăng 45%.Những kết quả đạt được nêu trên đã chứng minh cho một tiềm năng rất lớn trong lĩnh vực kinh doanh ngoại hối mà ngân hàng đã đang và sẽ tiếp tục phát huy. 2.2.2.Nghiệp vụ kinh doanh kỳ hạn Khác với nghiệp vụ kinh doanh giao ngay,nghiệp vụ kinh doanh kỳ hạn sử dụng trên thị trường ngoại hối nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro đối với các nhà xuất nhập khẩu,ngoài ra nghiệp vụ này còn có thể được sử dụng trong kinh doanh chênh lệch lãi suất và đầu cơ đối với các NHTM.Để thực hiện được nghiệp vụ này thì điều quan trọng là phải xác định được tỷ giá kỳ hạn,đồng thời phải ký kết hợp đồng giữa khách hàng với ngân hàng và vấn đề thực hiện hợp đồng đã được thỏa thuận.Những vấn đề cơ bản của giao dịch kỳ hạn trong thời gian qua tại NHQD bao gồm những nội dung sau: 2.2.2.1.Xác định tỷ giá kỳ hạn Thực tiễn cho thấy,các giao dịch kỳ hạn hầu như mới phát triển vào giữa năm 1998 tại VN tức là sau khi có quyết định số 16 và 17/1998/QD-NHNN7 ngày 10/1/1998 của thống đốc NHNN quy định về việc ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ kỳ hạn,hoán đổi của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động giao dịch hối đoái kỳ hạn,hoán đổi.Qua nhiều lần bổ sung và sửa đổi mang tính pháp lý,ngày 25/2/1999 thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 64/1999/QD-NHNN7 về việc công bố tỷ giá hố đoái của đồng VN với các ngoại tệ.Quyết định số 65/1999/QD-NHNN7 về việc quy định nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ.Sự ra đời của hai quyết định này đánh dấu một bước biến chuyển về chất trong việc điều hành tỷ giá tại VN.Theo quyết định 65/1999,tỷ giá kỳ hạn tại điều 2 được xác định theo nguyên tắc sau: a/ Đối với giao dịch giữa đồng VN và USD,tối đa không được vượt quá mức trần tỷ giá giao ngay(tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN công bố cộng 0.1%)cộng với mức gia tăng cho phép(tỷ lệ phần trăm mức trần của tỷ giá giao ngay)quy định đối với kỳ hạn 30 ngày là 0.58% và kỳ hạn từ ngày thứ 165 đến dưới 180 là 3.5% b/ Đối với giao dịch liên quan tới ngoại tệ khác:Do tổng giám đốc (giám đốc)các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định.Thời hạn giao dịch tối đa là 6 tháng. Sau một thời gian áp dụng khoản 1 điều 2 quyết định 65/1999 được thay thế bằng điều 1 quyết định số 289/2000/QD-NHNN7,về việc thay đổi tỷ lệ gia tăng vào mức trần tỷ giá giao ngay,cụ thể là: Đối với giao dịch giữa đồng VN và đô la Mỹ,mức tỷ lệ áp dụng cho từng kỳ hạn cụ thể tối đa không được vượt quá trần của tỷ giá giao ngay áp dụng tại thời điểm ký kết hợp đồng kỳ hạn,hoán đổi(tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN công bố cộng 0.1%) cộng với mức gia tăng cho phép(tỷ lệ phần trăm của mức trần tỷ giá giao ngay(quy định tối thiểu 0.2% của trần tỷ giá giao ngay đối với kỳ hạn 30 ngày và tối đa 1.5% của trần tỷ giá giao ngay đối với kỳ hạn 180 ngày” 2.2.2.2.Lượng hóa về độ lệch giữa tỷ giá kỳ hạn theo các thông số thị trường và theo các quy định của NHNN Các thông số thị trường ngày 5/2/2001: -Tỷ giá bình quân trên Interbank VN ngày 5/2/2001: E(VND/USD)=14.1520 - Lãi suất 6 tháng VND 4.8%-10.2% - Lãi suất 6 tháng USD 4.95%- 7.5% Tỷ giá kỳ hạn tính theo quy định của NHNN: Theo quyết định 289/2000 thì tỷ giá bán giao ngay tối đa của MB là:14520(1+0.001)=14534.5 VND/USD và tỷ giá bán kỳ hạn 6 tháng=14534.5(1+0.015)=14.752 Tỷ giá kỳ hạn theo các thông số của thị trường: Từ công thức tính tỷ giá kỳ hạn: F0=S0+ Trong đó: F0:Tỷ giá bán kỳ hạn 180 ngày S0:Tỷ giá bán kỳ hạn giao ngay RT0:Lãi suất cho vay VND RCB:Lãi suất huy động USD Về nguyên tắc,khi MB đồng ý bán kỳ hạn cho khách hàng của mình,MB chỉ hưởng phí dịch vụ từ khách hàng,do vậy MB phải tránh rủi ro về tỷ giá và rủi ro về lãi suất khi cung cấp hợp đồng kỳ hạn cho khách hàng.Do vậy MB buộc phải thực hiện một số giao dịch liên quan đến thị trường liên ngân hàng,quy trình thực hiện các giao dịch đó như sau: *Tại thời điểm ký hợp đồng giao dịch: Bước 1:Xác định tỷ giá bán VND/USD kỳ hạn 180 ngày Bước 2: Ký hợp đồng bán kỳ hạn USD cho khách hàng theo tỷ giá mà MB đã xác định được trong bước 1 *Tại thời điểm đáo hạn: Bước 3:Thực hiện hợp đồng,tức là khách hàng giao VND cho MB và MB giao USD cho khách hàng Bước 1 được thực hiện cụ thể như sau: Thứ nhất:MB mua giao ngay USD theo tỷ giá giao ngay của thị trường 1USD=14.534,5VND tức là 14.520x1.001. (sở dĩ MB mua giao ngay là vì ký hợp đồng bán USD kỳ hạn 180 ngày với khách hàng thì trạng thái USD sẽ bị âm,do vậy MB phải mua ngay USD để cân bằng trạng thái).Trạng thái USD được cân bằng nhưng lại phát sinh luồng tiền ròng USD trên tài khoản.Do vậy: Thứ hai:Đi gửi(cho vay) USD kỳ hạn 180 ngày trên thị trường liên ngân hàng theo lãi suất 4.95% (MB gửi số tiền vay được trên Interbank vì số tiền này chỉ được giao cho khách hàng sau 180 ngày chứ không phải ngay ngày ký kết hợp đồng) Thứ ba:Đi vay VND với lãi suất 10.2% (vì mua giao ngay USD bằng VND làm cho trạng thái VND bị âm,buộc MB phải đi vay trên thị trường tiền tệ với lãi suất 10.2%,số tiền này sẽ được hoàn trả bởi tiền của khách hàng khi đáo hạn,tức là khách hàng giao VND cho MB và nhận lại USD) Vì lãi suất tiền gửi của USD là 4.95% thấp hơn lãi suất đi vay VND cho nên trên thị trường tiền tệ,ngân hàng bị lỗ 5.25%.Khoản lỗ này được tính bằng VND theo công thức sau: P=S=14.534,5. =372.31 VND Như vậy,MB bị lỗ trên thị trường tiền tệ mỗi USD là 372.31 VND,cho nên trên thị trường ngoại hối,tỷ giá bán kỳ hạn của ngân hàng(ở mức hòa vốn) phải là tỷ giá giao ngay cộng với 372.31(điểm gia tăng).Tỷ giá bán kỳ hạn của MB phải là: F(VND/USD)=14534.5+372.3=14906.8 Tại thời điểm đáo hạn,việc giao nhân tiền được tiến hành giữa ngân hàng và khách hàng bằng cách ghi nợ và ghi có vào hai tài khoản nội và ngoại tệ tại ngân hàng. Trong việc xác định tỷ giá kỳ hạn cho khách hàng thì phí dịch vụ của ngân hàng chưa hề được kết cấu vào tỷ giá kỳ hạn,nên ngân hàng chưa có lãi.Tuy nhiên,nhìn một cách tổng quát,thì quá trình giao dịch kỳ hạn cho khách hàng,ngân hàng cũng sẽ không lãi và không bị lỗ.Điều này có thể được chứng minh như sau: Trên thị trường tiền tệ,ngân hàng lỗ 1 USD là 372.3 VND Trên thị trường ngoại hối,ngân hàng lãi 1 USD là 372.3 VND Qua kết quả tính toán cho thấy,tỷ giá hoàn vốn phải là 14906.8 VND trên 1 USD chứ không phải là 14752 như đã tính theo quyết định 289/2000,nếu MB áp dụng tỷ giá 14752 VND/USD thì MB phải chịu lỗ một khoản 154.8 VND cho mỗi USD Trở lại với quyết định 65/1999 Tỷ giá kỳ hạn 6 tháng=14534.5(1+0.035)=15043.2 VND Kết quả đã chỉ ra rằng tỷ giá tính theo QD/65 cao hơn so với tỷ giá tính theo lãi suất thị trường là 136.6 VND nghĩa là khách hàng là người mua với giá bị đắt so với giá thị trường.Khoản tăng thêm này sẽ làm tăng chi phí cho khách hàng 2.2.2.3.Thực trạng về giao dịch kỳ hạn trong thời gian qua: Thực trạng về giao dịch kỳ hạn trong thời gian qua như thế nào,qua bảng dưới đây chúng ta có thể thấy rõ hơn về doanh số giao dịch của nghiệp vụ này từ năm 2005 đến năm 2007: Đơn vị:triệu USD Năm Tổng doanh số mua bán Doanh số mua bán kỳ hạn Tỷ lệ % giao dịch kỳ hạn so với tổng số 2005 1300 148.4 11.41 2006 1850 223.8 12.09 2007 3100 661.6 21.34 Tổng 6250 1034 16.54 Qua bảng trên cho thấy doanh số mua bán kỳ hạn so với tổng doanh số giao dịch chiếm tỷ trọng 11.41% năm 2005, 12.09% năm 2006 và 21.34% năm 2007 và bình quân năm là 16.54% Như vậy doanh số giao dịch tăng dần qua các năm nhưng không đáng kể,nếu năm 2005 tỷ trọng giao dịch kỳ hạn là 11.41% thì đến năm 2007 chỉ tăng lên 21.34% Đặc biệt,tỷ trọng mua kỳ hạn thấp hơn so với tỷ trọng bán kỳ hạn Đơn vị:triệu USD Năm Tổng doanh số mua bán kỳ hạn Mua kỳ hạn Bán kỳ hạn Tổng % Tổng % 2005 148.4 56.392 38 92.008 62 2006 223.8 87.50 39.1 136.3 60.9 2007 661.6 160.107 24.2 501.492 75.8 Tổng 1039.2 303.99 29.73 735.201 70.27 Những nguyên nhân làm cho tỷ trọng giao dịch kỳ hạn thấp: Thứ nhất:Do yếu tố tỷ giá thị trường luôn biến động tăng do vậy tâm lý khách hàng muốn mua kỳ hạn để phòng ngừa tỷ giá tăng trong tương lai.Bên cạnh đó,thị trường VN luôn rơi vào tình trạng khan hiếm ngoại tệ dẫn đến việc khách hàng muốn giao dịch kỳ hạn với ngân hàng thi chủ yếu là mua kỳ hạn nhiều hơn bán kỳ hạn.Đó là nguyên nhân tại sao tỷ trọng bán kỳ hạn của ngân hàng luôn cao hơn tỷ giá mua kỳ hạn. Thứ hai:Mặc dù tỷ trọng giao dịch kỳ hạn tăng năm 2007 so với năm 2005 song so với giao dịch giao ngay lại quá bé,bới vì tỷ giá kỳ hạn áp dụng với khách hàng luôn bị cao hơn bởi tỷ lệ gia tăng được cộng vào mức trần tỷ giá giao ngay theo quyết định 65/1998/NHNN7,cho nên giao dịch này thực chất là không hấp dẫn đối với khách hàng.Mặt khách,giao dịch kỳ hạn là một trong những nghiệp vụ còn mới ở trên thị trường VN,nhiều khách hàng còn chưa nhận thức được nghiệp vụ này có tác dụng như thế nào tới việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá Thứ ba:Lãi suất tiền gửi USD liên tục tăng so với lãi suất VND nên các doanh nghiệp chuyển sang gửi USD để lấy lãi suất cao hơn dẫn đến cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối giảm trong khi cầu ngoại tệ lại tăng lên Thứ tư:Giao dịch kỳ hạn phát triển chưa mạnh là do yếu tố tỷ giá kỳ hạn được xác định trên cơ sở tỷ giá giao ngay,trong khi đó việc mua bán giao ngay không phải lúc nào cũng diễn ra một cách trôi chảy.Nói cách khách,thị trường ngoại hối kỳ hạn phát triển một phần là nhờ vào thị trường giao ngay,trong khi đó thị trường giao ngay luôn mất cân bằng,tức là cầu lúc nào cũng lớn hơn cung,tức là người có ngoại tệ thì không muốn bán cho ngân hàng còn người muốn mua thì không mua được Từ những phân tích trên cho thấy,tỷ giá giao ngay và lãi suất là hai bộ phận cấu thành nên tỷ giá kỳ hạn.Tại VN,tỷ giá kỳ hạn là kết quả của tỷ giá giao ngay và mức trần cho phép của các kỳ hạn giao dịch,khi tỷ giá giao ngay tăng và mức trần kỳ hạn tăng thì tỷ giá kỳ hạn cũng tăng,điều đó làm cho khách hàng không thích thú với nghiệp vụ này. 2.2.3.Các nghiệp vụ giao dịch khác Trong thời gian vừa qua,NHTMCPQD đã tiến hành triển khai thêm nghiệp vụ quyền chọn và hoán đổi,song do tâm lý khách hàng còn chưa ý thức được việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng các nghiệp vụ phái sinh của ngân hàng,do đó các nghiệp vụ này vẫn trong giai đoạn giới thiệu và tìm kiếm khách hàng,dự kiến trong thời gian tới ngân hàng sẽ tích cực triển khai mạnh mẽ hơn nữa nghiệp vụ này tới khách hàng để nhằm góp phần giúp các doanh nghiệp tránh các rủi ro về tỷ giá một cách có hiệu quả cũng như góp phần làm tăng doanh số và chất lượng dịch vụ của ngân hàng. 2.3.Đánh giá chung 2.3.1.Những kết quả đạt được -Sau một thời gian ngắn kể từ khi thực hiện chính sách kinh tế mở,thị trường ngoại hối VN cũng đã ra đời đáp ứng cho nhu cầu đang ngày càng phát triển của hoạt động thanh toán quốc tế và hoạt động đầu tư quốc tế.Từ một thị trường sơ khai ban đầu là trung tâm giao dịch ngoại tệ thì nay chúng ta đã có một thị trường ngoại hối có tổ chức cao hơn,mang tính thị trường hơn,đó là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng,tại đây,hàng ngày NHNN công bố tỷ giá mang tính cung cầu hơn so với trước đây để làm cơ sở cho hoạt động mua bán ngoại tệ của các NHTM -Trong nhiều năm áp dụng chế độ tỷ giá cố định mang tính kém linh hoạt,thì nay chế độ tỷ giá đã có thay đổi căn bản,từ một chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá từ trước những năm 1989,nay đã chuyển sang chế độ một tỷ giá,đó là chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước.Mặc dù nhiều cuộc khủng hoảng bên ngoài tác động ảnh hưởng tới tốc độ phát triển kinh tế trong nước,song dưới sự chỉ đạo sát sao của thủ tướng chính phủ hoạt động của ngân hàng đã gặt hái được nhiều thành công đáng kể trong việc điều hành chính sách tiền tệ -Bản chất của tỷ giá mà NHNN công bố hàng ngày hiện nay trên các phương tiện thông tin đại chúng là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng,là tỷ giá được xác định trên cơ sở cung cầu ngoại tệ,đây là tỷ giá làm cơ sở cho các NHTM xác định mua bán của mình trong hoạt động kinh doanh ngoại hối -Trong quá trình đổi mới nền kinh tế,hoạt động của ngân hàng đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ,nhiều sản phẩm mới của ngân hàng đã ra đời,kèm theo đó là hành lang pháp lý cũng được khai thông mở đường cho các sản phẩm mới của NH có điều kiện phát huy được những mặt tích cực của mình.Ngân hàng đã phá bỏ thói quen chỉ tập trung vào một số nghiệp vụ truyền thống của mình như thanh toán và tín dụng nội địa,thực hiện phương trâm một ngân hàng đa năng trong mọi lĩnh vực đối nội và đối ngoại,các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối đã dần dần đi vào hoạt động một cách có hiệu quả,lúc đầu đơn thuần là nghiệp vụ mua bán giao ngay,nhưng hiện nay các nghiệp vụ kinh doanh hoán đổi và kỳ hạn đã đi vào thực tế và ngày càng có chiều sâu,doanh số mua bán ngoại tệ được cải thiện và tăng dần qua các năm. Những kết quả đạt được trên đây cho thấy một tín hiệu hết sức khả quan của thị trường ngoại hối VN nói chung và hoạt động kinh doanh ngoại hối tại MB nói riêng,các hoạt động kinh doanh ngoại hối ngày càng phát triển cả về chất và lượng thôngqua việc đa dạng hóa các loại ngoại tệ cũng như các loại hình giao dịch,đây cũng chính là tín hiệu tốt trong quá trình nền kinh tế VN hội nhập dần với nền kinh tế toàn cầu. Bên cạnh những kết quả đạt được,trong hoạt động kinh doanh ngoại hối nói chung và kinh doanh ngoại tệ nói chung còn có một số tồn tại mang tính khách quan. 2.3.2.Những vấn đề còn tồn tại -Hệ thống văn bản pháp lý chưa được điều chỉnh và xử lý kịp thời để tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh ngoại hối được thực hiện một cách trôi chảy,đó là những quy định trong quy chế giao dịch hối đoái,trong quy định trạng thái ngoại tệ của NHNN -Tổ chức hoạt động kinh doanh ngoại hối chủ yếu được thực hiện tại hội sở chính,đó là đầu mối của cả hệ thống ngân hàng trong việc liên kết thị trường ngoại hối trong nước với thị trường ngoại hối nước ngoài,song mô hình tổ chức kinh doanh còn chưa được mở rộng nhằm đáp ứng cho nhu cầu giao dịch về ngoại hối ngày càng tăng trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang hoạt động ngày càng sâu rộng với nền kinh tế thế giới. -Doanh số mua bán ngoại tệ hàng năm có tăng nhưng không mạnh,trong đó doanh số bán ra của ngân hàng luôn luôn cao hơn doanh số mua vào,là yếu tố thúc đẩy việc tăng tỷ giá,biểu hiện sự mất cân đối cung cầu trên thị trường dẫn đến kết cục xấu là nền kinh tế có thể bị đô la hóa. -Trong các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối thì nghiệp vụ kinh doanh giao ngay luôn cao,giao dịch kỳ hạn và hoán đổ không đáng kể. -Muốn cho việc kinh doanh ngoại hối phát triển,trước hết cần có môi trườn kinh doanh thuận lợi.Song thực tế,tại VN,thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động hết sức yếu ớt,tỷ trọng giao dịch trên thị trường này quá nhỏ bé. -Các thị trường nội tệ,ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường mở hoạt động chưa đồng bộ,nhiều khi hoạt động của mỗi thị trường lại mang tính độc lập,không có sự phối hợp,do đó,nhiều khi thị trường này hoạt động tốt nhưng thị trườn kia lại hoạt động yếu kém và ngược lại,dẫn đến cho dù có sự cố gắng từ một thị trường nà đó thì cũng đều trở nên vô nghĩa. -Ngân hàng trung ương trên thị trường ngoại hối chưa phát huy được vai trò là người mua bán cuối cùng.Cho nên nhiều lúc cầu về ngoại tệ tăng của các NHTM không được đáp ứng kịp thời cũng là nguyên nhân gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh ngoại hối -Mặc dù tỷ giá được xác định trong quan hê cung cầu trên thị trường ngoại hối,nhưng chưa sát với thị trường.Bên cạnh đó,các biên độ quy định trong tỷ giá giao dịch bình quân trên Interbank và tỷ giá kỳ hạn còn mang tính cứng nhắc,không linh hoạt theo thời gian,trong khi đó các biến số thị trường như tỷ giá giao ngay và lãi suất thì thay đổi liên tục -Việc công bố tỷ giá VND/USD của NHNN trên thị trường ngoại hối hiện nay là độc lập USD và các ngoại tệ khác,vì vậy khi USD lên hoăjc giảm giá so với các đồng tiền khách thì hầu như không ảnh hưởng lên tỷ giá VND/USD,điều này khiếncho thị trường thiên về sử dụng nhiều USD mà bỏ qua sự quan tâm về yếu tố rủi ro hối đoái. -Tỷ lệ % cộng vào tỷ giá giao ngay để hình thành tỷ giá kỳ hạn chưa phù hợp với các biến số tỷ giá và lãi suất của thị trường.Do đó tỷ giá kỳ hạn chỉ đi theo một chiều tăng làm cho người mua rơi vào tình trạng bị mua đắt. -Tỷ giá như thực trạng hiện nay có thể kích thích và tác động mạnh tới hoạt động đầu cơ trục lợi của nhiều thành phần kinh tế và như vậy sẽ ảnh hưởng tới quá trình hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại hối. CHƯƠNG III:NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM MỞ RỘNG VÀ HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI NHTMCPQD 3.1.Những quan điểm mang tính định hướng chủ yếu trong hoạt động kinh doanh ngoại hối tại NHTM 3.1.1. Mục tiêu về chính sách tiền tệ của NHNN đến năm 2010 Một là,hoàn thiện cơ chế lãi suất đồng nội tệ và ngoại tệ theo hướng tự do hóa có sự điều hành gián tiếp của nhà nước thông qua lãi suất định hướng của NHNN(lãi suất chiết khấu,lãi suất cơ bản) Hai là,hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng vừa linh hoạt trong ngắn hạn,vừa ổn định trong dài hạn,khuyến khích xuất khẩu,góp phần ổn định thị trường tiền tệ đặc biệt là thị trường vốn Ba là,hoàn thiện hệ thống thị trường tiền tệ thứ cấp,đặc biệt thị trường liên ngân hàng cả nội tệ và ngoại tệ,phát triển các công cụ tài chính của thị trường này như forward,option,future,nhằm tránh rủi ro về tỷ giá Bốn là,xây dựng và hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở,phát triển một số trung tâm giao dịch cho các nghiệp vụ này,coi đây là một trong các công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ giúp ngân hàng nhà nước điều tiếp kịp thời và có hiệu quả lượng tiền cung ứng phù hợp với yêu cầu kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ Năm là,hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hóa các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn đồng thời xây dựng hệ thống biện pháp kiểm soát chu chuyển vốn quốc tế,đặc biệt là vốn ngắn hạn,kiểm soát nợ nước ngoài.Kiểm soát tiến tới xóa bỏ sử dụng ngoại tệ trong thanh toán và tiết kiệm trong nội địa,tiến dần tới việc trên lãnh thổ Việt Nam chỉ thanh toán và tiết kiệm bằng tiền đồng. Sáu là,kiểm soát,hạn chế tiến dần tới việc chấm dứt tình trạng đôla hóa trên cơ sở nâng cao vị thế đồng nội tệ,đa dạng hóa các công cụ tài chính,các hình thức đầu tư,phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt kết hợp với các biện pháp quản lý ngoại hối nói trên. 3.1.2.Định hướng hoạt động kinh doanh ngoại hối của NHTM Có thể thấy hoạt động kinh doanh ngoại hối ở nước ta trong những năm tới phải đối mặt với những khó khăn,thách thức lớn,đòi hỏi phải có những cố gắng vượt bậc để có thể tồn tại và đứng vững trong cạnh tranh.Tuy nhiên,trong hoạt động kinh doanh của mình,đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh ngoại hối,đòi hỏi ngân hàng phải có những quan điểm định hướng đúng đắn với những tư tưởng xuyên suốt sau đây: -Hoạt động kinh doanh ngoại hối phải dựa trên nền tảng kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Dựa trên quan điểm này,đòi hỏi ngân hàng trong quá trình xây dựng chiến lược kinh doanh phải tuân thủ theo chiến lược,mục tiêu xuyên suốt của đảng và nhà nước đã hoạch định nhằm xây dựng kinh tế thị trường nhà nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa. -Phải biết kết hợp hài hòa giữa thị trường ngoại hối với các thị trường khác,tạo ra mối liên hệ chặt chẽ,bổ xung cho nhau giữa các thị trường,giúp duy trì nền kinh tế vĩ mô lành mạnh,tạo nền tảng phát huy tối đa nguồn nội lực và ngoại lực,thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững.Muốn làm được như vậy thì hoạt động kinh doanh của NHTM trong lĩnh vực ngoại hối phải có tác dụng như cái van điều chỉnh nguồn vốn ngoại tệ căn cứ vào nhu cầu ngoại tệ thực tế và khả năng hấp thụ của nền kinh tế. -Phải biết kết hợp hài hòa giữa lợi ích của ngân hàng và khách hàng trong hoạt động kinh doanh.Để thực hiện được điều này đòi hỏi NHTM phải có quan điểm mở rộng mạng lưới khách hàng thông qua việc mở rộng và nâng cao hiệu quả cũng như chất lượng trong kinh doanh,gắn bó chặt chẽ lợi ích của mình với lợi ích của khách hàng.Trong điều kiện kinh tế thị trường theo hướng mở thì các NHTM phải tăng cường hỗ trợ các hoạt động ngoại thương thông qua việc đa dạng hóa các nghiệp vụ tài trợ cho khách hàng,qua đó thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển. -Hoạt động kinh doanh ngoại hối có nhiều điểm không giống với một số hoạt động kinh doanh khác đó là thị trường mở có tính toàn cầu.Vì vậy hoạt động của các NHTM trong lĩnh vực này ngoài mục đích cung cấp dịch vụ cho khách hàng trong và ngoài nước,các ngân hàng còn phải tự kinh doanh cho mình để kiếm lời.Cho nên ngân hàng phải có quan điểm đa dạng hóa các nghiệp vụ dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. -Hoạt động kinh doanh ngoại hối luôn chứa đựng rủi ro,do vậy ngân hàng cần duy trì trạng thái ngoại hối ở mức có thể kiểm soát được. 3.2.Một số giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng trong hoạt động kinh doanh ngoại hối tại NHTMCPQD Đối với bất kỳ thị trường nào,dù là thị trường hàng hóa hay thị trường tiền tệ thì việc đa dạng hóa cũng như nâng cao chất lượng của các sản phẩm là mục tiêu vô cùng cần thiết.Với thị trường ngoại hối,mục tiêu mở rộng và nâng cao chất lượng trong hoạt động kinh doanh ngoại hối không chỉ tập trung mở rộng các nghiệp vụ mới mà còn mở rộng quy mô hoạt động,đó là tăng doanh số giao dịch,nâng cao chất lượng dịch vụ,mở rộng thị trường kinh doanh,khai thác triệt để nguồn ngoại tệ trôi nổi ngoài thị trường…Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên,đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp,trước hết các giải pháp đó phải xuất phát từ chính ngân hàng,sau đó là các biện pháp hỗ trợ của NHNN,đồng thời nhà nước cũng cần tạo ra cho các ngân hàng một môi trường pháp lý thuận lợi,mang tính chất vĩ mô thì mới tạo ra được những giải pháp mang tính đồng bộ. Mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại hối có nhiều ý nghĩa,không phải chỉ cho riêng ngân hàng mà còn cho khách hàng và cho toàn xã hội nói chung,cụ thể là: Thứ nhất,nhằm tạo điều kiện thỏa mãn nhu cầu ngoại tệ cho khách hàng một cách kịp thời,thông qua đó tăng uy tín của khách hàng trong nước đối với các đối tác trên thị trường nước ngoài. Thứ hai,tạo điều kiện cho thị trường thanh khoản hơn. Thứ ba,mang lại những lợi ích thiết thực cho khách hàng bằng những hợp đồng phòng ngừa rủi ro hiệu quả nhất. Thứ tư,về phía ngân hàng,tăng thu nhập,tăng vị thế trên thị trường trong môi trường cạnh tranh của quy luật thị trường. Thứ năm,đối với xã hội,góp phần tăng thu nhập cho toàn xã hội,qua đó thúc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. 3.2.1.Giải pháp đối với ngân hàng Thứ nhất:hoàn thiện các nghiệp vụ kinh doanh giao ngay,kỳ hạn và hoán đổi Để hoàn thiện các nghiệp vụ kinh doanh giao ngay,kỳ hạn và hoán đổi,yêu cầu đặt ra đối với ngân hàng là cần nắm vững quy trình,nội dung,kỹ thuật các nghiệp vụ kinh doanh,trong đó chú trọng từ việc xác định,thông báo hay niêm yết tỷ giá,thủ tục giao dịch và việc thực hiện hợp đồng ở ngày giá trị. Về việc xác định tỷ giá spot và forward: đối với tỷ giá spot:Hàng ngày tỷ giá VND/USD được xác định dựa trên quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối,tỷ giá VND và các ngoại tệ khác được xác định theo tỷ giá chéo trong đó USD đóng vai trò là đồng tiền trung gian.Các tỷ giá VND/ ngoại tệ được xác định ngay từ đầu giờ buổi sáng của mỗi ngày làm việc nhưng thực tế thì các tỷ giá này lại áp dụng cho cả ngày,ít khi thay đổi.Trong khi đó,các đồng tiền trên thế giới biến động từng phút,thậm chí từng giây,thì không có lý do gì tỷ giá VND lạ không thay đổi theo.Vì vậy tỷ giá spot VND/ngoại tệ được áp dụng trong ngày cũng cần phải điều chỉnh một cách linh hoạt để có thể phù hợp với sự biến động của các đồng tiền khác trên thế giới. Như vậy,khi đáp ứng nhu cầu mua bán cho khách hàng,các giao dịch viên không chỉ căn cứ vào tỷ giá niêm yết đầu ngày tại ngân hàng mình mà còn căn cứ vào tỷ giá giao dịch của đồng tiền đó trên thị trường quốc tế tại thời điểm giao dịch để đưa ra một tỷ giá hợp lý cho khách hàng.Ví dụ: trước sự kiện ngày 11/9,tại New York,tỷ giá spot S(DEM/USD)=2,0000/10.Trong khi đó,tại Việt Nam,tỷ giá Spot S(VND/USD)=14500/50 =>Tỷ giá chéo S(VND/DEM)=(7246-7275).Ngay sau đó,tỷ giá giao ngay S(DEM/USD)=1,9850/60 thì tỷ giá VND/DEM phải là7301-7329,qua tỷ giá này,USD mất giá so với DEM là 0.05% thì VND sẽ mất giá so với DEM là 0.39% Qua ví dụ trên ta có thể đưa ra kết luận:tỷ giá spot không thể cố định được xác định trong cả ngày giao dịch mà biến đổi theo quan hệ cung cầu của thị trường.Vì đại bộ phận các đồng tiền yết tỷ giá với USD,do vậy khi giá của USD thay đổi so với các đồng tiền khác thì giá của VND so với các đồng tiền khác cũng thay đổi Đối với tỷ giá kỳ hạn:Theo lý thuyết,tỷ giá kỳ hạn(F) được xác định trên cơ sở của tỷ giá giao ngay(S) và điểm kỳ hạn(P) trong đó (P) được xác định trên cơ sở chênh lệch lãi suất của hai đồng tiền trong hợp đồng mua bán kỳ hạn.Tại Việt Nam,(F) là kết quả của tỷ giá giao ngay với tỷ lệ mức trần cho phép của NHNN đối với giao dịch kỳ hạn.Trong tương lai, để tiến tới một tỷ giá kỳ hạn phù hợp với tỷ giá thị trường,cần phải dựa vào lãi suất thị trường của ngoại tệ và lãi suất của VND. Tỷ giá kỳ hạn được xác định đúng và sát với thị trường sẽ có tác dụng: -Đối với khách hàng:Kích thích tăng giao dịch với ngân hàng để phòng ngừa rủi ro biến động tỷ giá và đảm bảo an toàn về ngoại hối -Đối với ngân hàng:Có điều kiện để hoàn thiện nghiệp vụ giao dịch ngoại hối kỳ hạn,đồng thời góp phần phát triển nhanh thị trường ngoại hối Về thủ tục giao dịch: Trên thế giới,một số nước có đồng tiền tự do chuyển đổi và không áp dụng chế độ quản lý ngoại hối một cách nghiêm ngặt,việc mua bán ngoại tệ hoàn toàn tự do nên thủ tục mua bán hết sức đơn giản.Trong khi đó tại Việt Nam,do đồng tiền chúng ta chưa có khả năng chuyển đổi,cán cân thương mại luôn luôn bội chi.Để hạn chế về căng thẳng cầu ngoại tệ trên thị trường,mỗi khoản thanh toán hàng nhập khẩu bằng ngoại tệ cần có sự kiểm soát chặt chẽ các chứng từ có liên quan trước khi quyết định bán ngoại tệ cho khách hàng để thanh toán cho khách hàng nước ngoài. Đối với nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn và hoán đổi: mục đích chính của hợp đồng kỳ hạn và hoán đổi là phòng chống rủi ro tỷ giá.Bởi vì trong cơ chế thị trường,tỷ giá là yếu tố nhạy cảm với nhiều biến cố,do đó nó luôn biến động khôn lường.Với một chính sách tỷ giá với biên độ hẹp như hiện nay,không tạo ra môi trường thuận lợi để phát triển các nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi.Điều này nói lên rằng định hướng trong chính sách quản lý tỷ giá của NHNN phải nới lỏng biên độ để xác định các tỷ giá kỳ hạn và hoán đổi cho các NHTM nhằm tạo ra sự cạnh tranh giữa các ngân hàng,có như vậy mới phản ánh đúng thực tế của mối quan hệ cung cầu trên thị trường. Thứ hai: Phải tiến hành phát triển nghiệp vụ quyền chọn Nghiệp vụ quyền chọn và tương lai là 2 nghiệp vụ được áp dụng tại nhiều nơi trên thế giới,trong đó có Mỹ,Úc,Anh và một số nước khác.Song, nghiệp vụ này đối với các NHTM của VN lại hoàn toàn mới mẻ và sẽ có những khó khăn nhất định trong quá trình nghiên cứu vận dụng vào VN.Nghiệp vụ quyền chọn rất có ý nghĩa trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá và thực hiện đầu cơ đối với các khách hàng là các công ty xuất nhập khẩu,tuy nhiên để giành được quyền chọn thì người mua quyền phải chi ra một khoản phí nhất định cho người bán quyền. Điều kiện thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ của NH: *Trước hết NHNN cho phép các NHTM thực hiện nghiệp vụ quyền chọn,đây là nghiệp vụ khó khăn và phức tạp nên đòi hỏi các ngân hàng phải thực hiện từng bước từ đơn giản cho tới phức tạp,cụ thể là: -Đầu tiên,chỉ thực hiện nghiệp vụ quyền chọn đối với đồng VN và USD,sau một thời gian áp dụng có thể mở rộng sang một số ngoại tệ khác với VND,khi thị trường VN đã phát triển cao hơn thì mới thực hiện nghiệp vụ quyền chọn giữa ngoại tệ với ngoại tệ. -Thời gian đầu chỉ thực hiện nghiệp vụ quyền chọn qua quầy(OTC),về sau,khi thị trường ngoại hối phát triển thì có thể tổ chức trên sở giao dịch như tại các nước phát triển đang áp dụng. -Áp dụng quyền chọn theo kiểu châu Âu,nghĩa là việc thực hiện nghiệp vụ quyền chọn chỉ xảy ra tại thời điểm hợp đồng đến hạn.Vì hợp đồng quyền chọn theo kiểu Mỹ cho phép thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tại bất cứ thời điểm nào trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng,do vậy mang nặng tính đầu cơ và chưa phù hợp với nước ta trong thời gian đầu. -Thời hạn hợp đồng quyền chọn ở nước ta trong giai đoạn đầu nên trong vòng 3 tháng là hợp lý nhất.Khi nào thị trường phát triển thì thời hạn sẽ do ngân hàng và khách hàng tự quyết định. *Việc áp dụng nghiệp vụ quyền chọn tại nhiều nước trên thế giới là bài học kinh nghiệm cho Việt Nam sớm đưa nghiệp vụ này vào áp dụng trong thực tế của các NHTM. *Ngân hàng nhà nước cũng đã đặt nhiệm vụ mục tiêu đến năm 2010 là”hoàn thiện hệ thống thị trường tiền tệ thứ cấp,đặc biệt là thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng”.”Phát triển các công cụ tài chính của thị trường này(các công cụ kỳ hạn,quyền chọn và tương lai)nhằm mục đích tránh rủi ro về tỷ giá”.Đây là định hướng có tính chiến lược của NHNN,là điều kiện để các NHTM có dịp ứng dụng các nghiệp vụ này. *Kiến thức mới về ngoại hối tuy khó nhưng không có nghĩa là chúng ta không thể tiếp cận được.Hơn thế nữa,trong điều kiện hội nhập và mở cửa như hiện nay,chúng ta có nhiều cơ hội thuận lợi trong việc trao đổi các thông tin,hơn nữa,con người VN vốn rất thông minh và nhạy bén. Thứ ba:Khai thác triệt để các nguồn ngoại tệ Thu hút khách hàng có nguồn ngoại tệ: Lượng ngoại tệ mà ngân hàng có thể thu hút được có từ nhiều nguồn khác nhau: -Nguồn thu xuất khẩu hàng hóa dịch vụ -Tiền mặt của cư dân là người cư trú và không cư trú,kiều hối… -Ngoại tệ thu được của các chi nhánh trong cùng hệ thống ngân hàng và từ các ngân hàng khác ngoài hệ thống Mỗi nguồn vốn ngoại tệ có một đặc điểm riêng do vậy để khai thác hiệu quả các nguồn vốn này thì phải có chính sách hợp lý cho từng nguồn vốn như chính sách tỷ giá,lãi suất.. -Nguồn ngoại tệ từ các đơn vị xuất khẩu là một trong những nguồn ngoại tệ lớn nhất cung cấp cho thị trường ngoại hối.Theo quy chế hiện hành(quyết định số 61/2001/QD-Ttg ngày 24/4/2001) của chính phủ về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức và thông tư số 05/2001/TT-NHNN hướng dẫn thi hành quyết định 61/2001/QD-Ttg,đối với nguồn thu từ giao dịch vãng lai,người cư trú là tổ chức phải bán ngay cho các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ 40%,số còn lại được phép sử dụng vào mục đích khác của mình như gửi vào ngân hàng để hưởng lãi suất.Tuy nhiên,ngân hàng có thể mua với tỷ lệ cao hơn mà không có sự áp đặt hay gò bó nào đối với khách hàng khi lãi suất ngoại tệ không còn đủ hấp dẫn,bên cạnh đó tỷ giá mua của ngân hàng lại phù hợp với tỷ giá của thị trường.Khách hàng bán ngoại tệ cho ngân hàng dễ dàng thì ngân hàng cũng cần tạo điều kiện cho khách hàng mua ngoại tệ từ ngân hàng mình một cách thuận lợi khi họ có nhu cầu thực sự,có như vậy mới giảm được tình trạng găm giữ ngoại tệ trong dân chúng và các tổ chức kinh tế hoạt động trên lĩnh vực xuất nhập khẩu,đồng thời góp phần giảm bớt căng thẳng cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.Mua bán ngoại tệ sôi động trên thị trường sẽ làm cho sự vận động của thị trường càng trở nên trơn chu hơn,tiếp sức cho nền kinh tế phát triển vững mạnh hơn. Đối với nguồn kiều hối:Đây là nguồn ngoại tệ thu về không nhỏ hàng năm,vì vậy,việc nguồn kiều hối này có trở thành nguồn cung ngoại tệ cho thị trường ngoại hối hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giá trị đồng Việt Nam so với ngoại tệ,lãi suất và tỷ giá tại thời điểm nhận…Tuy nhiên,trong lúc đồng tiền VN chưa thực sự hấp dẫn đối với người gửi tiền một cách thực sự thì chính sách kiều hối cũng cần phải linh hoạt,những biện pháp hành chính cần phải được dỡ bỏ nhưng không phải là một sớm một chiều mà nên có sự kết hợp khéo léo giữa biện pháp hành chính và tuyên truyền,giáo dục để người dân nâng cao trình độ nhận thức,biết quý trọng giá trị của các sản phẩm trong nước làm ra,qua đó củng cố và nâng cao giá trị của đồng tiền Việt Nam. Xây dựng chính sách khách hàng chính sách khách hàng chiếm một vị trí quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh ngoại hối nói riêng của ngân hàng.Vì vậy,xây dựng một chính sách khách hàng hợp lý có ý nghĩa quyết định tới hướng đi của một ngân hàng.Chính sách khách hàng là sự kết hợp của nhiều mối quan hệ chặt chẽ với nhau: -Tăng cường hoạt động marketing ngân hàng Hoạt động này còn mới mẻ do đó để có uy tín đối với khách hàng,đòi hỏi ngân hàng phải mất nhiều thời gian, công sức,đặc biệt là những nghiệp vụ mới,ngân hàng phải thông qua nhiều cách để khách hàng có thể tiếp cận tốt hơn như quảng cáo,tổ chức hội nghị khách hàng hoặc tiếp xúc trực tiếp với khách hàng để tuyên truyền,giải thích…Đối với những quy chế về ngoại hối,thường xuyên được bổ xung,sửa đổi,vì vậy,ngân hàng cần phải có biện pháp thông báo kịp thời để khách hàng nắm vững và thực hiện đúng. -Cần có chính sách giá cả hấp dẫn đối với khách hàng Trong môi trường cạnh tranh hiện nay,chính sách giá cả cho khách hàng cần phải được áp dụng một cách linh hoạt,phù hợp trên cơ sở cân đối chi phí,lợi nhuận,thị phần và các mục tiêu khác mà ngân hàng đặt ra.Giá cả trong mua bán ngoại tệ là tỷ giá,vì vậy,tỷ giá không nên quá cứng nhắc,gò bó mà cần linh hoạt và phù hợp với cung,cầu ngoại tệ trên thị trường,đồng thời đảm bảo kinh doanh có lãi cho ngân hàng. -Xây dựng phong cách làm việc giao tiếp với khách hàng văm minh,lịch sự,chu đáo Phong cách dịch vụ văn minh,lịch sự và tận tình với khách hàng là một nghệ thuật nhằm tăng thị phần khách hàng trên thị trường ngoại hối.Bên cạnh đó,trong quan hệ với khách hàng,nhân viên cần làm việc với trách nhiệm cao,không nên để xảy ra những lầm lẫn hay sai lầm đáng tiếc Thứ tư:cần có các giải pháp về quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối NHTM thường giao cho phòng kinh doanh ngoại tệ thực hiện hai chức năng: Một là,mua bán để phục vụ yêu cầu của khách hàng,đồng thời cũng để cân bằng trạng thái ngoại hối Hai là,phòng kinh doanh ngoại tệ thực hiện quản lý tài sản của ngân hàng dưới dạng tiền gửi của ngân hàng hay các chứng từ có giá một cách có hiệu quả.Tài sản”có” bằng ngoại tệ của ngân hàng có một phần nằm tại NHTW,NHTM trong nước và một phần nằm tại các ngân hàng khác ở nước ngoài Tuy nhiên,trong quá trình thực hiện,nhiều khó khăn đến với ngân hàng làm cho việc kinh doanh ngoại tệ diễn ra không thuận lợi,nguyên nhân chủ yếu là: -Cách xác định trạng thái ngoại hối hiện nay chưa khoa học,chưa đảm bảo chính xác.Nhu cầu mua bán ngoại tệ có lúc vượt xa giới hạn trạng thái ngoại hối mà ngân hàng nhà nước quy định -Hầu như chưa có một tiêu thức nào đánh giá cụ thể hiệu quả của hoạt động kinh doanh ngoại hối.Chưa giao hạn mứckinh doanh cụ thể cho từng giao dịch viên,như vậy chưa kích thích được họ nâng cao trách nhiệm trong nhiệm vụ kinh doanh của mình -Thị trường liên ngân hàng hoạt động kém hiệu quả,sự can thiệp mua bán của NHTW không đáng kể và không kịp thời dẫn đến thiếu chỗ dựa cho các NHTM -Công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái(các hợp đồng kỳ hạn,hoán đổi..) giữa khách hàng với ngân hàng,giữa ngân hàng với các NHTM khác chưa được phát huy do yếu tố tỷ giá kỳ hạn chưa hợp lý và thị trường nội tệ liên ngân hàng chưa phát triển.Các NHTM luôn gặp khó khăn trong việc vay vốn cả nội tệ và ngoại tệ trên thị trường -Kiến thức hiểu biết của các doanh nghiệp về phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái còn thấp cho nên họ không sẵn sàng tham gia bảo hiểm bằng các hợp đồng mua bán kỳ hạn và hoán đổi,điều này một phần là do ngân hàng chưa có được một chiến lược marketing tới các khách hàng một cách có hiệu quả Trên cơ sở những tồn tại nêu trên,các giải pháp được đặt ra đó là: -Ngân hàng cần phát huy vai trò kiểm soát nội bộ về giao dịch ngoại hối để tránh những thua lỗ không đáng có xảy ra. -Phát huy vai trò tích cực của mình với tư cách là một thành viên tham gia thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng để phát triển các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. -Tuyên truyền,quảng bá những kiến thức mới về các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ cũng như công dụng của từng nghiệp vụ tới từng doanh nghiệp để họ có ý thức hơn trong việc phòng tránh những rủi ro do tỷ giá đem lại,đồng thời cũng làm cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ được mở rộng và dần đi vào chiều sâu. 3.2.2.Giải pháp đối với NHNN Thứ nhất:Về cơ chế điều hành tỷ giá Quan điểm hoàn thiện tỷ giá hối đoái trên cơ sở các nguyên tắc điều hành tỷ giá được nêu trong nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ tư và lần thứ sáu khóa VIII trong đó:”Điều hành tỷ giá linh hoạt theo cung cầu,phù hợp với sức mua thực tế của đồng Việt Nam,trên cơ sở đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và chủ động xử lý hiệu quả tỷ giá hối đoái”.Đại hội đảng lần thứ IX một lần nữa khẳng định:”Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng vừa linh hoạt trong ngắn hạn,vừa ổn định trong dài hạn,khuyến khích xuất khẩu,góp phần ổn định thị trường tiền tệ và thị trường vốn”. Quán triệt quan điểm nêu trên,cơ chế điều hành tỷ giá của VN tiếp tục được hoàn thiện bằng việc ra đời hai quyết định số 64 và 65/1999 của thống đốc NHNN ban hành ngày 26/2/1999.Thông qua hai quyết định này cho thấy xu hướng tự do hóa rõ rệt hơn tỷ giá hối đoái có sự điều tiết của nhà nước,từ đó có thể đưa ra các giải pháp cơ bản trong việc điều hành cơ chế tỷ giá như sau: Cần phải hướng về một tỷ giá cân bằng trên cơ sở quan hệ cung cầu Cũng như một số thị trường khác,để thị trường ngoại hối hoạt động một cách có hiệu quả với doanh số giao dịch lớn,có độ thanh khoản cao và chi phí giao dịch thấp,thì tỷ giá phải được hình thành một cách khách quan theo quy luật cung cầu,nghĩa là tỷ giá áp dụng trong kinh doanh ngoại hối phải là tỷ giá của thị trường,tức là tỷ giá mà tại đó quan hệ cung cầu cân bằng.Nếu như tỷ giá thực tế quá cao hay quá thấp so với tỷ giá cân bằng đều trở thành yếu tố kìm hãm doanh số giao dịch,kích thích đầu cơ,là nguyên nhân hình thành và phát triển thị trường ngoại hối tự do Nếu thị trường ở trạng thái cầu lớn hơn cung thì thị trường rơi vào trạng thái khan hiếm hàng hóa và không tránh khỏi hiện tượng mua tranh bán ép,từ đó làm cho thị trường hoạt động kém hiệu quả,bởi vì doanh số mua bán trên thị trường có tổ chức sẽ giảm xuống.Tỷ giá thấp cùng với doanh số mua bán giảm sẽ kìm hãm sự phát triển của ngoại thương và khiến cho nguồn lực của xã hội phân bổ một cách kém hiệu quả.Thực tế cho thấy tỷ giá chính thức của đồng VN luôn thấp hơn tỷ giá cân bằng,tức là đồng tiền VN luôn được định giá cao,cầu ngoại tệ cao hơn cung ngoại tệ.Khi cung ngoại tệ thấp hơn cầu ngoại tệ sẽ buộc những người chưa được đáp ứng về thị trường ngoại tệ phải tìm đến thị trường tự do với giá thị trường cao hơn giá của NHTW yết giá,điều này nói lên rằng nguyên nhân phát triển thị trường tự do là do quy định tỷ giá giao dịch thấp hơn tỷ giá cân bằng của thị trường. Như vậy thì trên thị trường ngoại hối sẽ tạo ra cơ chế hai tỷ giá,những người có nhu cầu ngoại tệ nếu muốn mua được ngoại tệ với”giá phân phối,hay giá tay trong”nhưng vì ngoại tệ khan hiếm nên họ buộc phải”xếp hàng” chờ phân phối và cấp phép.Đây chính là môi trường thuận lợi để các hành vi như hách dịch,cửa quyền,nhận hối lộ,làm việc cửa sau..phát triển mạnh. -Do cơ chế điều hành tỷ giá làm cho môi trường kinh doanh không binh đẳng. -Do tỷ giá ở thị trường tự do cao hơn so với tỷ giá ở thị trường chính thức,điều này khiến cho một số cán bộ lợi dụng để ăn chênh lệch tỷ giá. -Do ngoại tệ không được tập trung hoàn toàn vào hệ thống ngân hàng,do đó thị trường tự do là nơi tiếp tay cho những kẻ buôn lậu trốn thuế,làm ăn phi pháp và gây khó khăn cho NHNN trong việc điều hành chính sách tiền tệ Từ phân tích trên cho thấy giải pháp lâu dài cho việc phát triển thị trường ngoại hối VN và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối là phải hướng tới một tỷ giá thị trường,linh hoạt,và tỷ giá phải là sản phẩm của quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.Tuy nhiên,trong hoàn cảnh VN hiện nay,việc thả nổi tỷ giá ngay lập tức sẽ gây ra những hiệu ứng “sốc” khốc liệt cho nền kinh tế và có thể ảnh hưởng bất lợi tới việc ổn định hệ thống chính trị xã hội.Do vậy,để có một tỷ giá sát với tỷ giá thị trường thì NHNN phải thường xuyên điều chỉnh biên độ. Điều chỉnh biên độ thường xuyên: trong khi tỷ giá do NHNN công bố vẫn có một độ lệch nhất định đối với tỷ giá thị trường,do vậy để có một tỷ giá linh hoạt và phù hợp với tỷ giá thị trường,NHNN cần có biện pháp linh hoạt nhằm điều chỉnh và công bố tỷ giá linh hoạt hơn,trước mắt mở rộng biên độ ra từ 0.1 đến 0.5%.Điều này sẽ có tác dụng,một là,tạo điều kiện để các NHTM yết tỷ giá cạnh tranh,thứ hai là nhằm thăm dò mức độ khách quan của tỷ giá,sau đó có thể nới rộng biên độ giao động của tỷ giá ở mức cao hơn. Về lâu dài,NHNN nên chuyển hướng sang việc sử dụng lãi suất để điều hành tỷ giá. Thứ hai: Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại hối VN -Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ra đời ngày 20/9/1994 theo quyết định số 203/QD/NHN13 của thống đốc ngân hàng nhà nước.Cho đến này,TTLNH vẫn mang tính chất là một thị trường sơ khai,khối lượng giao dịch quá nhỏ.Để hoàn thiện thị trường ngoại hối VN,trước hết cần phải chấn chỉnh lại hệ thống ngân hàng và tạo điều kiện tốt cho các thành viên tham gia thị trường ngoại hối.Các nghiệp vụ kinh doanh giao ngay,kỳ hạn và hoán đổi cần được áp dụng nghiêm túc giữa các ngân hàng thương mại với nhau cũng như giữa các NHTM với NHNN.Phòng deling room của NHNN trung ương cần được hoàn thiện và nối mạng với các NHTM,mở rộng thị trường ngoại hối để các đối tượng như doanh nghiệp,các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia giao dịch. -Là một bộ phận của thị trường tiền tệ,TTNTLNH phải được hoạt động thông suốt,liên tục không bị giới hạn bởi không gian và thời gian để tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động mua bán ngoại tệ,qua đó tạo điều kiện thanh toán ngoại tệ cho các doanh nghiệp một cách nhanh chóng.Tổng kết và đánh giá bộ máy tổ chức của thị trường,đánh giá vai trò của các thành viên tham gia thị trường trong từng thời gian,đúc rút kinh nghiệm đối với từng chủ thể tham gia thị trường,gắn trách nhiệm,quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên tham gia thị trường,mở rộng các đối tượng tham gia nhằm xây dựng một thị trường liên ngân hàng hoàn chỉnh. -Bất kì một giao dịch ngoại hối nào liên quan đến thời hạn và đồng nội tệ trong nước thì đều phải sử dụng đến 2 thị trường,đó là thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ.Thị trường ngoại hối thực hiện hợp đồng mua bán,còn thị trường tiền tệ thực hiện hợp đồng tín dụng(đi vay và cho vay).Ví dụ:Một ngân hàng thương mại mua USD bằng VND kỳ hạn 3 tháng,để phòng ngừa rủi ro,NHTM ngoài tỷ giá giao ngay S(VND/USD) còn phải thực hiện vay USD và cho vay VND trên thị trường tiền tệ.Như vậy,muốn hoàn thiện hai thị trường này trước hết phải hoàn thiện các quy chế về kinh doanh ngoại hối,quy chế vay và cho vay đối với nội tệ và ngoại tệ,hoàn thiện chính sách lãi suất theo xu hướng lãi suất thả nổi có điều tiết.Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng sẽ phát triển khi thị trường nội tệ liên ngân hàng hoạt động có hiệu quả. -Tăng dự trữ ngoại tệ của nhà nước và tập trung quỹ dự trữ ngoại tệ vào một đầu mối là NHNN:Ngoại tệ của kho bạc nhà nước có được cũng cần phải bán ngay cho NHNN,khi cần thì mua lại,có như vậy khả năng can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mới có thể khả quan. Việc hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cần thỏa mãn các tiêu chí sau: -Hoàn thiện quy chế tổ chức hoạt động của thị trường -Hoàn thiện tổ chức phòng giao dịch dealing room và nối mạng với các NH thành viên. -Mở rộng đối tượng tham gia thị trường để tạo đà cho việc hoàn thiện các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống:Kinh doanh giao ngay,kì hạn và hoán đổi,đồng thời phát triển thêm nghiệp vụ quyền chọn. -Điều chỉnh lại tỷ lệ (%) cộng vào mức trần tỷ giá giao ngay trong giao dịch kỳ hạn,hoán đổi đối với các NHTM,tiến dần tới việc bãi bỏ tỷ lệ này,thay vào đó là việc áp dụng lãi suất thị trường để xác định tỷ giá kỳ hạn nhằm thu hút đông đảo mọi người tham gia vào thị trường kỳ hạn. KẾT LUẬN Chuyên đề”mở rộng và nâng cao chất lượng trong hoạt động kinh doanh ngoại hối tại NHTMCPQD” được trình bày trng 3 chương với những nội dung cơ bản sau: Báo các đã tập trung vào việc nghiên cứu về thị trường ngoại hối và các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối tại NHTMCPQD cũng như trong hệ thống NHTM nói chung trước xu thế mở cửa của nền kinh tế nước ta hiện nay.Qua khái niệm,đặc điểm,quá trình hình thành và phát triển,đã nói lên một cách khái quát nhất về bức tranh của thị trường ngoại hối.Một trong những nội dung cơ bản của chương I được tập trung trình bày nội dung các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối mà hiện nay được thực hiện ở hầu hết các thị trường phát triển đó là:Nghiệp vụ kinh doanh giao ngay,nghiệp vụ kinh doanh kỳ hạn,nghiệp vụ kinh doanh hoán đổi,nghiệp vụ kinh doanh quyền chọn và nghiệp vụ tương lai Trên cơ sở những lý luận chung đã được trình bày trong chương I,báo cáo đã giới thiệu về thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại hối tại NHTMCPQD.Hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NHTM nói chung và MB nói riêng luôn gắn liền với cơ chế tỷ giá trong những năm qua đã có được những kết quả hết sức đáng khích lệ,tuy nhiên vẫn không tránh khỏi những hạn chế mang tính chủ quan cũng như khách quan của cơ quan chủ quản cũng như cơ chế điều hành của NHNN như hành lang pháp lý,cơ chế thực hiện.. Cùng với việc phát triển các dịch vụ thanh toán quốc tế và đầu tư quốc tế,nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối cũng sẽ có những đóng góp không nhỏ cho quá trình thực hiện mục tiêu kinh tế giai đoạn 2001-2010,trong đó mục tiêu của toàn ngành ngân hàng nói chung và MB nói riêng nhằm đẩy nhanh tiến trình hội nhập của kinh tế VN cũng như hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng trong khu vực và trên toàn thế giới.Trong hoạt động kinh doanh ngoại hối nói chung và các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ nói riêng,giải pháp mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối là thực sự cần thiết đối với các NHTM.Những giải pháp nêu ra dựa trên những tồn tại cụ thể cần khắc phục trong suốt quá trình hoạt động của hoạt động kinh doanh ngoại hối trong thời gian qua,đồng thời cũng dựa trên chiến lược phát triển ngân hàng từ nay đến năm 2010.Với nhận thức còn hạn chế,khả năng nghiên cứu và thời gian hạn chế chắc chắn báo cáo thực tập không tránh khỏi những thiếu sót,Kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô để báo cáo của em được hoàn thiện hơn. Em xin trân trọng cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.”Tạp chí thông tin khoa học ngân hàng”,bàn về rủi ro và biện pháp phòng tránh rủi ro trong kinh doanh ngoại hối,số 11.1999 2.Nguyễn Văn Tiến,Nguyễn Thị Chiến(2000)”tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng”,Ký hiệu tỷ giá-lý thuyết và thực tiễn,số 5(9+10) 3.PGS.TS.Đinh Trọng Thịnh,giáo trình tài chính quốc tế 4.PGS.TS.Nguyễn Văn Tiến,thị trường ngoại hối và các giao dịch kinh doanh ngoại hối

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33028.doc
Tài liệu liên quan